Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

"Việc đốt vàng mã "người âm" có nhận được không" ?

Tiến sĩ-KTS-Tổng Giám đốc trung tâm UIA nghiên cứu tiềm năng con người và Tác giả
                                                                              
Giao lưu với “người âm” ở Trung tâm tiềm năng con người ở  số 1 Đông Tác, Kim Liên, Hà Nội do Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) tổ chức.

   Hàng tuần  có hàng trăm gia đình đến để cầu siêu và giao lưu với người thân đã mất và kết quả giao lưu thành công rất cao.

    Qua phỏng vấn:  Tiến sỹ Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA chia sẻ về ý nghĩa việc giao lưu và cách thức cầu siêu tại đây.

+Dân gian thường hay dùng từ "gọi hồn"để nói về việc mời "người âm" về nói chuyện với người dương, còn tại đây dùng từ "giao lưu". Vậy, tính chất giữa "gọi hồn" và "giao lưu" có gì giống và khác nhau không?

Nhìn hình thức có thể cũng không khác nhau nhiều, có chăng sự khác nhau nằm ở văn hoá ứng xử của người sống đối với người thân đã khuất.

Nhiều gia đình đến giao lưu không thành công là vì họ chỉ muốn "gọi" người thân đã mất về chỉ để hỏi, để cầu lợi cho mình, (hỏi làm ăn thế nào cho phát tài, để xin được phù hộ đủ thứ… ). Việc giao tiếp với "cõi âm" như vậy là hình thức giao tiếp không lịch sự.

Các cụ ta có câu: "Âm dương đồng nhất lý". Do đó, muốn cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên… đã mất về "gặp" chúng ta với tâm trạng vui vẻ, thì chúng ta phải thể hiện tính nhân văn trong văn hoá giao tiếp. Theo đó, ta phải giải mã được những thông điệp của thế giới bên kia, nghe được ý nguyện của người đã mất: Họ muốn gì, cần gì để mình đáp ứng, thậm chí chúng ta có thể học và tiến hành chữa bệnh cho người âm nếu như chúng ta thành tâm hồi hướng công đức và phát nguyện.

+Vậy, chúng ta phải làm thế nào để đáp ứng được ý nguyện của người thân ở thế giới bên kia?

Việc thể hiện văn hoá giao lưu với thế giới tâm linh là phải phát nguyện làm việc tốt không chỉ cho mình mà còn cho cả "người âm". Theo đó, phải phát nguyện, hồi hướng cho hương linh để những linh hồn nào vẫn còn nhiều phiền não, khổ đau… sẽ thoát khỏi đau khổ. Những trạng thái khổ đau, phiền não đó đa phần do tác động rất mạnh mẽ của xúc cảm trong giây phút cận tử nghiệp (giây phút hấp hối) mà thần thức đã mang theo.

Việc mời hương linh liệt sỹ và người thân đã mất về giao lưu cũng giống như việc mình mời người thân từ nước ngoài về, thì mình phải làm thủ tục cấp visa, hộ chiếu cho họ. Tương tự, với người thân ở "cõi âm", chúng ta phải biết chắc rằng, người thân của chúng ta không bị nhốt trong cảnh giới địa ngục, ngã quỷ… thì họ mới về giao lưu với ta được. Cách để làm các thủ tục cấp "visa" cho người thân ở cõi âm, chính là làm những việc công đức, dâng công đức đó cho người thân, nhờ đó mà công đức của họ được tăng trưởng, thoát khỏi địa ngục khổ đau và phiền não thì họ mới có thể dễ dàng về giao lưu với chúng ta.

+Tthường khuyên các gia đình muốn giao lưu thành công thì nên thực hiện nghi thức cầu siêu trước. Vì sao chúng ta nên thực hiện cầu siêu trước khi giao lưu?

Rất nhiều gia đình đã tham gia và phản ánh lại với chúng tôi, rằng có trường hợp thực hiện giao lưu nhưng chưa cầu siêu thì người thân về không nói được, hoặc còn mang theo những đau khổ, phiền não, nhưng sau khi cầu siêu, thì các hương linh trở về giao lưu với người thân với tâm trạng hoan hỉ hơn rất nhiều.

Ngoài ra, không chỉ những gia đình có ý định giao lưu với người thân, mà ngay cả không giao lưu thì chúng ta cũng nên cầu siêu ít nhất mỗi năm 1 lần cho người thân đã mất để họ được an lạc, tránh được những cảnh giới khổ đau, phiền não.

+Vì sao việc cầu siêu lại có thể có tác dụng đến như vậy?

Cầu siêu có nghĩa là cầu nguyện cho linh hồn người đã mất được siêu thoát.

Tuy nhiên, để việc cầu siêu được thực hiện đúng chánh pháp, chúng ta không phải đến đây để cầu xin suông, nhớ ơn suông, mà nguyện làm một điều gì đó để tri ơn các liệt sỹ đã hy sinh vì đất nước, tri ơn cửu huyền thất tổ, cha mẹ, người thân đã mất…

Việc tri ơn không đơn thuần là việc trả ơn bằng vật chất, tiền bạc, mà trả ơn bằng việc tu học giáo lý Phật pháp. Cách chúng ta làm chính là dựa trên việc bản thân chúng ta phải nhất tâm tu học, để những linh hồn đi theo chúng ta họ cũng noi theo chúng ta để tu học và họ sẽ thấu hiểu được giáo lý, thoát khỏi những cảnh giới phiền não, đau khổ như ngã quỷ, địa ngục…

Với những người còn sống, việc học Chánh pháp chính là một việc nghĩa cử với tổ tiên, những người đã mất trong gia đình mình. Bởi vì, hương linh người âm đến đây là họ đi theo người nhà họ đến. Các linh hồn đã mất, họ không còn thân thể nữa nên cũng rất khó tự đọc kinh sách nhà Phật để giác ngộ được, mà họ phải nghe người nhà đọc, cảm ứng theo cảm xúc, suy nghĩ của những người sống… Theo đó, người âm đi theo chúng ta, chúng ta học cái gì thì họ học theo cái đó, mình nguyện điều gì thì họ cũng cảm ứng theo ta y như vậy…

Ngoài hương linh của những người thân đi theo chúng ta đến Pháp hội để cầu siêu, thậm chí còn có cả những hương linh của những người có liên quan đến chúng ta từ trong kiếp quá khứ, họ đi theo ta để báo ơn hoặc đòi nợ. Khi họ đến Pháp hội, có thể những thần thức đang oán hận chúng ta họ cũng sẽ được nghe Phật pháp và giác ngộ, nhờ đó mà ta và họ sẽ hoá giải được hận thù, cả 2 đều sẽ được an lạc hơn.

Theo đó, để những thần thức này có thể dễ dàng giác ngộ, chúng ta không chỉ sẽ phải sám hối, nhận hết những lỗi lầm trong quá khứ, mà còn phải phát nguyện làm những việc công đức để chuộc lại tất cả những lỗi lầm đã qua.

Khi các thần thức đã ra khỏi được các phiền não, thì tự họ sẽ không còn buồn phiền, không còn cần những thứ phù phiếm của trần gian như việc cúng vàng, cúng mã…Có nghĩa là, chúng ta đã hướng cho họ có được một tư duy sáng suốt, thấu hiểu được Chánh pháp, để họ được siêu thoát sang được những cảnh giới tốt đẹp hơn.

Nhân dân ta vẫn có câu: "Cho con cá không bằng cho phương pháp câu". Đối với những người con hiếu, cháu thảo thì việc tri ân các anh hùng liệt sỹ, tri ân gia tiên , ông bà cha mẹ, cách tốt nhất là đưa thần thức (hay còn gọi là hương linh) của họ về cảnh giới an lạc. Khi đã ở cảnh giới an lạc, họ sẽ không cần vàng mã, tiền giả, đồ giả… mà chúng ta gửi nữa. Bởi vì thực chất, ở 2 cõi giới khác nhau, các hệ quy chiếu khác nhau sẽ có vận tốc khác nhau nên không thể dùng chung một loại phương tiện, và càng không thể "chi tiêu" đồng tiền do hệ quy chiếu khác in ra. Có chăng là, tất cả các hệ quy chiếu , tất cả các cõi giới đều chịu chung sự vận hành của luật Nhân - Quả, và cùng "tiêu" chung một loại "tiền", đó là Công Đức Lực.

Đương nhiên, muốn thực hiện được những mục tiêu kể trên, chúng ta phải tổ chức Pháp hội cầu siêu đúng chánh pháp, nghĩa là phải xuất phát từ lòng từ bi, hỷ xả, hiếu thảo, bài trí pháp đàn trang nghiêm thanh tịnh. Chúng ta không nên bày những đồ hàng mã, tiền giả, không cúng những đồ sát sinh, không được bày vẽ tốn kém, và đặc biệt là trong nghi lễ phải đọc tụng những bài kinh giúp cho thần thức được giác ngộ.

Tại số 1 Đông Tác – Kim Liên – Hà Nội là địa điểm tổ chức thực hiện đề tài khoa học cấp Nhà Nước, đó là chương trình khảo nghiệm khoa học về các khă năng đặc biệt (do sự điều hành trực tiếp của 3 cơ quan là Liên hiệp Khoa học UIA, Viện khoa học Hình sự Bộ Công An, Trung tâm bảo trợ Văn hoá kỹ thuật truyến thống.)

"Việc đốt vàng mã "người âm" có nhận được không" ?

Do Tổng Giám đốc –Tiến sĩ – Kiến Trúc sư  Vũ Thế Khanh (Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu cấp Nhà Nước về các khả năng đặc biệt) với chuyên mục: "việc đốt vàng mã "người âm" có nhận được không" ? Thông qua cuộc giao lưu giữa: Một gia đình thân nhân liệt sĩ và Liệt sĩ là một vị tướng quân đội.

Trong  tất cả các cuộc giao lưu thì đồ  cúng cho liệt sỹ và gia tiên đều là đồ chay thanh tịnh, không cúng đồ sát sinh, không cúng đồ mã, tiền giả.

Theo ông Vũ Thế Khanh: “Đốt vàng mã không phải là động thái tín ngưỡng thuần tuý mà chính là thước đo mức độ giác ngộ của Văn hoá Tâm linh – Nó là thành tố thuộc cặp phạm trù của tâm thức: mê tín và chánh tín.

Trước hết, phải nói đến sự nhận thức về cái chết sẽ dẫn đến việc ứng xử đối với người đã chết: trình độ nhận thức càng kém thì càng dễ đi vào con đường mê tín và hoang tưởng. Mỗi một dân tộc, mỗi nền văn hoá đều có cách lý giải khác nhau về cái chết, điều đó quyết định đến các hành vi ứng xử đối với thân nhân đã chết. Thời xa xưa, vua chết có thể còn bắt cận thần hoặc lính hầu chết theo, chồng chết còn bắt vợ chết theo và như vậy mới là "phải đạo", thậm chí còn "yểm" cả người đang sống là gái đồng trinh để làm "thần giữ của"…

Có những dân tộc thiểu số, khi người thân mất đi thì họ chia của cho người chết, của cải có thể được chôn theo hoặc đem ra treo ở mả theo phương thức: "Của đồng chia ba, của nhà chia đôi". Dần dần những hình thức "chia chác" ấy được chuyển thể sang đồ mã và đương nhiên tiền mã cũng không phải là ngoại lệ.

Nhưng phong tục đốt vàng mã ở nước ta xuất phát từ đâu, và từ bao giờ? Khó ai có thể trả lời chính xác được thời điểm xuất hiện phong tục đốt vàng mã, nhưng căn cứ vào các giai thoại lịch sử thì tục lệ đốt vàng mã tại Trung Quốc có trước Việt Nam.

ông giải thích về  "người âm" có thích đồ mã không và biếu vàng mã thì họ có nhận được không?

 thông qua hàng ngàn các ca khảo nghiệm, giao lưu với người đã khuất, chúng tôi phát hiện ra một điều vô cùng thú vị là: Khi hỏi đốt vàng mã, người âm có nhận được không? thật giật mình khi được nghe họ trả lời: Nhận được !!! . Theo thống kê của chúng tôi, số "người âm" trả lời "nhận được" lại có xác suất rất cao, chiếm từ 60 đến 70% các ca được khảo nghiệm.

Sau đây  ông Vũ Thế Khanh  kể lại một câu chuyện điển hình đặc sắc về giao lưu tâm linh để hỏi về việc đốt vàng mã. Ca trắc nghiệm này đã được quay phim và trở thành kinh điển của việc khảo nghiệm:

"Vào ngày 9/9/2009, mới 8 giờ 15 phút, cả phòng giao lưu áp vong tại số 1 Đông Tác - Kim Liên - Hà Nội đã náo nhiệt vì có một vị tướng về "nhập" vào cô cháu gái của mình. Cô này mới tốt nghiệp du học ở Uc về, ngày thường nói năng nhỏ nhẹ, vốn chưa biết thế giới tâm linh nên hôm nay muốn đến "Thực mục sở thị". Gia đình vị tướng này đến giao lưu tương đối đông, cả con cháu có đến 10 người, có hai người con đã lên cấp tá trong quân đội và xin đề nghị cơ quan không để lộ tên của vị tướng trên phương tiện thông tin – và đương nhiên Ban khảo nghiệm hoàn toàn đồng ý.

Vị tướng này nhập vào cô cháu gái, cười ha hả, mà giọng nói rất to, trầm hùng, lại pha chút khôi hài của vị tướng quân quen "ăn to nói lớn" nơi chiến trận.

Anh con trai (quân hàm Thượng Tá) hỏi:

- Con đốt tiền biếu cho ba, ba có nhận được không?

- Nhận được!

- Con đốt quần áo biếu cho ba, ba có nhận được không?

- Nhận được !

- Con đốt ô tô biếu ba, ba có nhận được không?

- Ô tô hả, mi đốt cả 2 lần tao đều nhận được cả !!!

       Cả gia đình mừng mừng tủi tủi vì không những được giao lưu trực tiếp với cha mình (tính tình giọng nói vẫn thế) mà ba còn nhận được quà biếu của con cháu nữa

Đột nhiên vị tướng chuyển sang giọng trang nghiêm và khôi hài:

- Nhưng mà bọn mi đã hại tao !

- Sao hả ba ?

- Khi nhận được ô tô, khoái chí quá, tao đẩy ra đường chạy thử thì khởi động mãi mà máy không nổ!

- Hoá ra không có xăng (cả gia đình cười). Chềnh hềnh ra đường mãi, nên công an đến toét còi bắt nộp phạt vì "cản trở giao thông". Loay hoay và lóng ngóng mãi mà không đánh xe vào rìa đường được, công an lại hỏi: "xin cho kiểm tra bằng lái", tao làm gì có bằng lái, và lại phải nộp phạt lần thứ 2. (cả gia đình lại cười). Chưa hết đâu, khi bọn mi gửi ô tô lần thứ 2, tao chán quá chả thèm đi nhận, thì tháng sau tao lại nhận được một "trát" bắt nộp tiền "phạt phí lưu kho lưu bãi". (cả gia đình lại cười như nắc nẻ). Vị tướng quân nói tiếp:

- Như vậy vẫn còn may đấy, nếu tao mà đi từ Sài Gòn bằng chiếc ô tô bọn mi biếu thì 3 ngày nữa chưa chắc ra được Hà Nội, vậy thì hôm nay giao lưu làm sao được đây?,

- Thế ba đi mây về gió à?

- Nhanh hơn cả đi mây về gió ! Chỉ cần nghĩ về đâu là đến đó liền. Nhưng bọn mi có thực lòng biếu ô tô cho tao không?

- Chúng con thật lòng mà ba

- Chiếc ô tô thứ 2 khá cầu kỳ, bọn mi mua 700 ngàn đồng ở Hàng Mã đúng không?

- Vâng, sao ba biết tường tận như thế!

- Thì lúc đó tao đang đứng cạnh đó mà . Nếu bọn mi có lòng hiếu thảo, thì hãy mua cho tao một chiếc ô tô thật khoảng 700 triệu thôi mà.

- Nhưng ba có cần đi ô tô của trần gian đâu

- Thì tao tặng cho các đồng đội của tao trong hội cựu chiến binh để họ chở nhau đi chơi, được không?

Mấy người con gãi đầu gãi tai tỏ ra lúng túng, vị tướng quân lại cười ha hả và nói:

- Ô tô thật sao không biếu, mà chỉ biếu Ô tô giấy 700 ngàn đồng thôi, lại còn cứ khấn "ba phù hộ cho con thăng chức ba nhé ", ô tô giấy mà thay cho lòng hiếu thảo được à?

Vị tướng quân lại nói tiếp:

- Bọn mi khi đi may quân phục có đo không?

- Phải đo đến 3 lần chứ ba

- Thế sao bọn mi mua quần áo mã mà chẳng đo gì cả, biết "người âm" gầy hay béo, cao hay thấp mà mua? Mặc không vừa thì vứt bãi rác à ?

- Con nghĩ là sẽ có phép biến hoá mà ba

- Đã có phép biến hoá thì cớ sao phải mua đồ giấy để đốt đi cho phí, sao không mua đồ thật, rồi đặt lên cúng, tao vẫn chứng nhận được mà, sau đó đem quần áo ấy tặng cho các đồng đội của tao, nói rằng "ba cháu gửi biếu các bác" thì có hơn không?

- Vâng chúng con xin làm theo lời ba

- Lại còn cái vụ tiền mã nữa. Có 4 lý do mà không nên mua đồ mã: thứ nhất là các nguyên liệu làm tiền mã, đồ mã đều từ các thứ vật liệu dễ cháy, bẩn thỉu, tanh hôi. Thứ hai là khi gia công, đàn bà con gái, chó mèo nhảy qua nhảy lại còn gì là thanh tịnh. Thứ ba là: bọn mi đi lấy tiền ngân hàng, có đếm không? đếm đến 3 lần ấy chứ. Nhưng khi đi mua tiền mã, có đứa nào đếm không? chẳng bao giờ chứ gì! (cả gia đình sững sờ). Nhưng nếu có đếm thì chẳng bao giờ đủ đâu. Như vây trong tư duy của bọn làm tiền mã, hàng mã đã chứa đầy tư tưởng đại khái và giả dối rồi, sự giả dối và bất tịnh này đã tàng trữ trong đồ cúng. Thế mà lại nheo nhẻo khấn rằng "chúng con lòng thành dâng lên tịnh tài tịnh vật" hay sao? Thanh tịnh cái nỗi gì!. Thứ tư là: "thống đốc ngân hàng" của thế giớ tâm linh đâu có cho phép lưu hành đồng tiền do các cõi giới khác in hộ? đồng tiền phải có mệnh giá chứ, có thể chế nào mà lại chấp nhận cho hàng ngàn hàng vạn hãng in tiền không? Rồi ai cũng tự in thì tiền có giá trị gì không?...Vậy nên, nếu các con có cúng thì hãy cúng tiền thật, sau đó mang số tiền đó nhân danh ba mà giúp đỡ đồng đội của ba thì đó mới là cúng thật....

Thông qua câu chuyện trên Phỏng vấn tiếp ông Vũ Thế Khanh:

+ Câu  chuyện ly kỳ quá, thưa TS cần phải ứng xử với thế giới tâm linh thế nào?

ông Vũ Thế Khanh: tặng, biếu, kính dâng…một vật gì cho người khác, ngoài cái ý nghiã "nhận được" ra thì còn vấn đề quan trọng hơn là "có dùng được không". Nếu cho người ta cái mà người ta không dùng được, chẳng những mình chẳng có công đức gì mà còn mắc cái tội "biến nhà người ta thành bãi rác nhà mình"

+Đốt vàng mã cúng ở chùa có phải là đúng với giáo lý nhà Phật không, thưa TS?

ông Vũ Thế Khanh:  Đạo Phật là đạo giác ngộ, giải thoát, không chấp nhận việc cúng kính giả dối, không chấp nhận việc đốt vàng mã, tiền giả. Các bậc tu hành chánh đạo vẫn đang duy trì được sự trang nghiêm thanh tịnh, không cho phép đốt vàng mã, không cho phép cúng đồ mặn tại chùa.

      Tuy nhiên, thực tế hiện nay có một số chùa vẫn duy trì việc xem săm, bói quẻ, cúng sao giải hạn, đốt vàng mã…Đã đi tu Phật thì chắc hẳn các vị trụ trì chùa đó cũng chẳng tin việc đốt vàng mã đâu, nhưng vì pháp phương tiện, muốn giữ chân các đệ tử nên đành chiều lòng phụ hoạ theo tập tục của chúng sinh, nếu không mở ra dịch vụ ấy thì chùa mình sẽ ít đệ tử… Cũng có thể các vị ấy sẽ có cách giáo hoá dần dần về sau chăng !!!

+ Một số người cho rằng vì thương ông bà tổ tiên thiếu thốn nên đốt vàng mã để tỏ lòng hiếu thảo và đó là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, điều này nên lý giải thế nào?

ông Vũ Thế Khanh:   Đốt vàng mã chỉ là hành vi chứ chưa phải là gốc của tín ngưỡng. Nếu vì lòng hiếu thảo thì hãy làm những gì đem lại cảnh giới an lạc đích thực cho hương linh liệt sỹ và hương linh ông bà cha mẹ, chứ không nên dâng những thứ mà họ không dùng được, thậm chí những đồ giả mà đem dâng lại càng làm cho họ tham lam hơn, sân hận hơn, và mê muội hơn.

+ Theo ông , lễ cúng như thế nào là phù hợp nhất với thuần phong mỹ tục ở Việt Nam

ông Vũ Thế Khanh:    Hãy thắp lên nén hương từ lòng hiếu thảo, và làm những điều thiện theo công đức Ba La Mật (nghĩa là thi ân bất cầu báo) để hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ, có như vậy họ mới được trở về cảnh giới an lành”.

(Ngô Lê Lợi-tháng 2/2012 )