Xem Phong thủy-Tử vi ở Hà Nội
NHẬN TƯ VẤN: Xem phong thủy Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng:Chọn hướng tốt. Phòng làm việc; phòng khách; bếp; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Xem tuổi Xây dựng nhà , sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Âm trạch mồ mả tư vấn xem hướng đặt mộ hợp phong thủy, tư vấn đặt mộ trong nghĩa trang. Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới,ngày ăn hỏi. Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.Xem Tử vi để biết vận mệnh cuộc đời; dự báo ngày cưới; dự báo tang ma; dự báo công danh, sự nghiệp, thăng quan, tiến chức.Các đại, tiểu vận trong cuộc đời...Điện thoại: 036.439.6238
Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015
Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015
Nghi thức siêu độ cho thân nhân trong 49 ngày
Lời Nói Đầu
Việc mất đi một người thân
là một việc đau buồn, đôi khi khiến cho
người ở lại vật vã, khóc hận, kêu gào.Người xa lìa trần thế lại mang quá nhiều
vướng mắc lúc ra đi: nào là nghiệp chướng bề bề chưa thanh toán dứt, nào là
sân hận ngập trời không
tiêu tan được, nào là những ẩn tình chưa kịp giải bày v.v…Nói tóm lại, từ người
ra đi cho đến người ở lại, tất cả đều bị
chi phối bởi một chữ
“CHẾT.”Nếu chết là hết thì không có gì đáng nói! hưng khổ thay, thân xác chết
nhưng linh hồn không chết, và vì linh hồn không chết nên tất cả những vướng mắc
mà linh hồn lôi kéo theo, đã gây tạo sự phiền toái, sự vướng bận, trói buộcbước
chân của linh hồn, khiến cho không thể nào cất bước dễ dàng trên con đường tìm
chỗ thác sanh.Do ở cái
chết của người
mình yêu quý,
người mình tha thiết, người ở lại bắt buộc phải suy tư, để
tìm ra cách gởi gắm cho hết tâm tình của mình, lòng thương yêu dạt dào
của mình đến cho người quá
cố.Vong linh sau khi bỏ thân xác rồi, sẽ trở nên cô đơn, cảm thấy bơ vơ, lạc
lõng, rất cần… rất cần có Ai đó để giúp đỡ,
để chỉ dẫn và nhất là làm
cách nào để tháo gỡ những vướng mắc, buộc ràng, làm chùng bước tiến tới của
vong linh.Người ở lại biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng cách giúp cho người
đã ra đi về bên kia thế giới, được nhẹ nhàng
cất bước;
phải biến tình
thương thành sức
mạnh để đẩy vong linh đi đến nơi đến chốn.Vong linh
cần được siêu độ.Thân nhân cần phải hành trì việc siêu độ.
Quyển sách: 49 Ngày Siệu Độ
Cho Thân Nhân: Nghi Thức
và Giảng Giải đáp ứng được
nhu cầu cho cả đôi bên - người sống lẫn người chết.Việc siêu độ đòi hỏi người
chủ lễ, đem công năng tu tập của mình cộng với một tấm chân tình, thành tâm
thành ý hướng dẫn và giúp đỡ cho vong linh tu tập trong 49 ngày, để vong linh
buông bỏ được gánh nặng trên vai mình, trí huệ bừng sáng, nhận ra được hướng đi
của mình, vong linh nhẹ nhàng cất bước. Nếu người chủ lễ chưa từng biết tu tập,
nhưng có được một tấm chân tình thật kiên cố, một tình yêu thương dạt dào, một ước
nguyện vững chắc, một lòng tin tuyệt đối về việc mình làm, tất cả những điều đó
sẽ tạo nên một Tâm Lực mạnh mẽ, giúp cho người chủ lễ hoàn tất việc siêu độ cho
vong linh thân nhân của mình, một cách viên mãn và thành công.Người chủ lễ còn
sơ cơ, mới bước vào làm quen với Đạo, đem hết Tâm Lực của mình để vào việc siêu
độ cho thân nhân quá cố, công việc này là một “Ngòi Nổ,” đẩy mạnh bước tiến của
mình trên đường tu tập. Nếu người chủ lễ đã từng tu tập, nhờ vào việc siêu độ
cho vong linh, xem như đã gây tạo một công đức vô lượng vô biên, hồi hướng một
phần công đức này đến cho vong linh, để làm hành trang đủ đầy trên đường thác
sanh.Mặc dù người
thân của mình đã vĩnh
viễn ra đi, nhưng
mình vẫn có thể chăm sóc được cho người đó qua những cách thức tu tập, và
chuyển cái trí huệ, cái công đức TU của
mình đến cho người mình
thương mến qua
sự HỒI HƯỚNG, tạo nên một phương
tiện rất là vững chắc, tốt đẹp cho người thương của mình ở bên kia thế giới, được
ung dung tự tại mà ra đi.Vì vậy, đây là điều vô cùng lợi lạc cho cả đôi bên.Cho
nên, người còn trên dương thế, phải hiểu thật tận tường ý nghĩa của những lời
giải thích ở trong quyển sách này, vì vai trò của người chủ lễ vô cùng quan
trọng, trong việc chỉ dẫn đường cho vong linh đi đến nơi đến chốn.Muốn tỏ
lòng thương yêu,
nhớ nhung người
thân của mình đã khuất bóng,
không có gì hơn là TU TẬP và HỒI HƯỚNG công đức đó cho người thân của mình.Đó
là một cách duy nhất và chỉ một cách đó mà thôi.Vì tính cách lợi lạc cho người
sống lẫn người chết, quyển sách này được giảng giải rất tỉ mỉ và súc tích. Để
có thể nắm vững mọi vấn đề, giúp công việc siêu độ được hoàn tất mỹ mãn, không
thiếu sót, cần phải nên đọc đi đọc lại nhiều lần quyển sách để thâm nhập. Khi
có việc cần phải sử dụng, sẽ tránh được sự lúng túng và thiếu sót.Trong thời
gian có “HỮU SỰ,” nếu không có cơ hội đọc qua trướcquyển sách Siêu Độ này, người
đảm nhận vai trò chủ lễ, nên dành thời gian tối thiểu là một ngày trọnđể đọc
thật kỹ lưỡng quyển sách này. Tóm tắt lại những công việc cần phải làm, phải
chuẩn bị cho chính bản thân người chủ lễ, cho vong linh, cho bàn thờ, cho phần
Nghi Thức và việc giảng Pháp.Nên nhớ rằng: 49 ngày là thời gian “ĐẶC ÂN” để
giúp vong linh hoán chuyển cảnh giới. Chậm lại việc siêu độ trong 1 hay 2 ngày để
nghiên cứu thật kỹ cách thức siêu độ, sau đó thì nổ lực để siêu độ cho vong
linh trong một đường hướng đúng, đạt tới sự thành công; việc này vẫn tốt đẹp hơn
là làm trong sự vội vàng, hối hả, thiếu sót, vừa mất thì giờ mà cũng không đem
lại kết quả tốt đẹp. Vong cần được siêu thoát và chỉ có được 49 ngày “Nóng
Bỏng” để tu tập, để xoay chuyển tình thế. Sau 49 ngày thì khó lòng giúp đỡ cho
vong linh lắm. Vong linh sẽ rơi vào tình trạng không siêu thoát, sẽ gặp muôn điều
sầu khổ, rất uổng … rất uổng!!
Duyên Khởi
Việc siêu độ cho vong linh
không phải là việc làm mới mẻ. Từ hằng bao lâu nay, công việc siêu độ trong 49
ngày cho vong linh vẫn có, và vẫn còn hành trì cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên,
công việc làm này đã được thực hiện gần như cho lấy có, cho rồi việc. Có bao
giờ người chủ lễ đặt câu hỏi:
“Vong linh này đã siêu
thoát chưa?”Nếu có sự cảm nhận rằng vong chưa siêu thoát, thì việc trước tiên
phải hỏi rằng:“Việc hành trì nghi thức có đủ đầy hay không? Vong linh này đã vướng
mắc gì khi lìa đời? Làm sao để giúp cho vong linh tháo gỡ những vướng mắc đó?”Siêu
độ cho vong linh là cốt ý muốn giúp cho vong linh siêu thoát, nhẹ nhàng cất bước
tìm đường thác sanh. Nhưng khi làm công việc này, người chủ lễ lại tỏ ra rất
thờ ơ, không để một chút tâm thành, cốt yếu là làm sao cho lẹ, cho xong.Người
làm việc siêu độ với một sự thản nhiên, không có một chút tình cảm trìu mến,
không có một sự chắt chiu, sẽ không giúp được gì cho vong linh cả. Vì vậy, số
vong linh
không siêu thoát càng ngày
càng đông.Cõi Ta Bà ngày nay đang gặp nạn:
Đó là Vong tràn ngập lên dương
thế!Quy luật của Cõi Âm cũng rất chặt chẽ, trên nguyên tắc, vong linh không được
phép tràn ngập lên dương thế.Tuy nhiên, ngày nay, số người trên dương thế bị
dựa nhập rất nhiều. Có vô số trường hợp đáng tiếc xảy ra; có những tai nạn mới
thoạt nhìn thì cho đó là tai nạn thông thường, nhưng khi dùng trí huệ để phân
tích và phán đoán, thì rõ
ràng tai nạn xảy ra là do
sự dựa nhập. Những người bị dựa nhập gây nên việc đáng tiếc nhưng sau đó, đã tỏ
ra không biết rằng chính mình đã gây tạo điều không hay.Còn có những trường
hợp, người bị hôn mê sau nhiều ngày
tháng, khi chợt tỉnh lại,
bỗng đâm ra thông minh, khởi sắc hơn so với trước khi bị hôn mê.Cũng có khi
tỉnh lại mà nói bằng một ngôn ngữ khác, cũng
có trường hợp tỏ ra rất
ngu đần, không còn nhanh nhẹn, lanh lợi như xưa, v.v…Còn rất nhiều trường hợp
khác nữa, xảy ra không phải chỉ
ở một nơi, mà hầu như trên
toàn thế giới. Vì không siêu
thoát, nên vong
linh không nhận
ra được hướng đi đúng với nghiệp
lực của mình. Cũng vì không siêu thoát, nên vong không thể nào nhận được sự
giúp đỡ của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong việc tìm người đúng duyên của mình để
thác sanh. Do đó, vong cứ ùa tràn lên dương thế và tự đi tìm, gây nên muôn điều
phiền phức cho người trên dương thế.Bên cạnh đó, vong lang thang cũng rất
nhiều, số thân nhân nhìn thấy trong giấc mộng, những người thân quá cố đã lâu,
quần áo tả tơi, đói khát cũng không phải là ít đâu!Thật ra, vong lang thang là
vong bị đọa trong địa ngục của chính họ:địa ngục lang thang.Khi còn thấy thân
nhân quá cố nhiều lần trong giấc mộng, điều đó có nghĩa là thân nhân không siêu
thoát, dù rằng đã qua đời từ lâu, 30 năm hay 60 năm, thậm chí 100 năm về trước;
đã không siêu thoát, thì dù mất đã bao lâu, cũng vẫn là không siêu thoát.Thân
nhân là những người duy nhất có thể nối kết được sợi dây tình cảm giữa vong
linh và thân nhân. Vì vậy, việc siêu độ cho vong linh, muốn đem đến một kết quả
tốt đẹp, thì chỉ có thể do thân nhân đảm nhận mà thôi.Vong linh chỉ có được vỏn
vẹn 49 ngày tu tập, thể hiện sự thành tâm sám hối, cải sửa của mình để vứt bỏ
xuống gánh nặng mình mang trên vai, tìm cầu một sự nhẹ nhàng, sáng suốt, mà cất
bước tìm đường thác sanh.
Chỉ có thân nhân mới có
thể đem hết sức mình, nổ lực cùng với vong linh tu tập, nhẫn nại, trì chí, dẫn
dắt, giúp vong linh sáng trí lên, nhận ra điều sai trái mình đã làm để ăn năn,
sám hối, và thần thức chân thành rung động.Đối
với những vong
linh còn đang
bị đọa đày nơi chốn Tam Đồ: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, sự
giúp đỡ của thân nhân cũng không kém phần quan trọng.
Các vong linh này trông
ngóng từng ngày, từng giờ, cốt nhục thâm tình của mình trên dương thế, giúp cho
họ thoát được sự đọa đày.Trong
chiều hướng giúp đỡ cho
vong linh vừa
mới mất (còn trong thời hạn 49
ngày), hay đã mất từ lâu, mà thân nhân còn nghi ngờ là chưa siêu thoát, quyển
sách 49 Ngày
Siêu Độ Cho Thân Nhân:
Nghi Thức và Giảng Giảiđược dày công biên soạn, hầu tiếp tay cùng thân nhân của
người quá cố, tự mình siêu độ cho vong linh thâm tình của mình, bằng với tất cả
tấm chân tình, bằng một tình thương dạt
dào của người còn trên dương
thế đối với người bên kia thế giới.Việc giải thích, cắt nghĩa, chỉ dẫn cho vong
linh phải chậm rãi, gọn gàng, không dài dòng để vong có thể lãnh hội và
thâm nhập dễ
dàng. Do đó,
từ ngữ được
sử dụng trong quyển sách này cũng theo chiều hướng đó,
dùng những lời
giản dị, dễ hiểu, ít danh
từ Hán-Việt, rất lợi lạc cho cả vong linh lẫn người chủ lễ. Một đứa bé vừa mới
chào đời, được nâng niu, chăm sóc như thế nào, thì Thần Thức của một thân xác
vừa mới lìa đời cũng phải được chắt chiu, trìu mến, thương yêu y như thế. Đứa
bé được nuôi nấng, dạy dỗ cho nên người. Thần Thức được dẫn dắt, chỉ dạy để tìm
được đường thác sanh.Chu kỳSanh Tử, Tử Sanh, không ai tránh khỏi. Cho nên, việc
siêu độ sẽ không trừ một ai cả, lần lượt kẻ trước, người sau. Ai cũng cầu mong
cho mình được siêu thoát, xin hãy biến sự cầu mong này thành sức mạnh, đẩy Tâm
Lực vững chắc
của mình,
trong việc giúp
cho người đi trước, được
ung dung tự tại trên đúng cảnh giới mình lựa chọn.Xin hãy
nhớ rằng: Nghi
thức dù hay
cách mấy mà việc
hành trì không với một tâm thành, không với một tấm lòng
tha thiết, đầy sự hững hờ,
thì kết quả vẫn không trọn vẹn, không tốt đẹp được.
Xin đem Công Đức của Pháp
Sự này hồi hướng cho khắp Pháp Giới Chúng Sanh:Người sống tìm được muôn điều
lợi lạc, hưởng trọn vẹn sự An Bình qua công năng tu tập. Người đã xa lìa trần
thế, được sự nồng nàn thương yêu của
thâm tình ruột thịt Siêu Độ,
để nhẹ nhàng cất bước.
Nam Mô A Di Đà Phật tác đại
chứng minh!
Thần Thức Là Gì?
Một con người bằng xương
bằng thịt, có cử động, nói năng được, nói tóm lại là một người sống, thì chia
thành 02 phần rõ rệt:
1. Một phần là thân xác của mình
2. Và một phần là linh hồn của mình
Linh hồn đó ở trong một
thân xác.
Nói Về Thân Xác
Nếu để linh hồn qua một
bên (chỉ đề cập đến thân xác thôi) thì thân xác đó vẫn cử động được, vẫn di
chuyển, vẫn hoạt động được, nhưng giống như một người máy.Tức là làm mà không
biết mình làm, chỉ làm mà thôi. Cũng ăn, cũng uống, cũng ngủ, tất cả mọi thứ đều
làm được với thân xác, chỉ thân xác mà thôi. Mắt, tai, mũi, lưỡi … thân xác đều
có, nhưng:
Mắt nhìn thấy sự vật
thì chỉ biết rằng Nhìn và Thấy,
vậy thôi!
Tai nghe được tiếng động,
biết được có tiếng động,
vậy thôi!
Mũi ngửi được, biết
rằng có mùi, chỉ ngửi, vậy thôi!
Lưỡi nếm được, biết
rằng có một cái vị, nhưng chỉ
biết được bao nhiêu đó mà
thôi .
Tay
sờ vào một vật gì thì chỉ biết hành động sờ nhưng không phân định được.
Tóm lại là, với ngũ căn
thì đều nhận biết nhưng không rõ chi tiết.
Tuy nhiên, nếu thân xác đó
có được một linh hồn ở bên trong của thân xác, thì chính linh hồn đó mới tạo ra
những cái thức. Khi đó, ngũ căn không
chỉ đơn thuần
là thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó. Tất
cả những hành động của ngũ
căn đều có sự diễn tả rất
là chi tiết. Những chi tiết có được là từ ở những cái THỨC do Linh Hồn tạo
nên.Thấy như thế
nào, thấy cái
gì, màu sắc như thế
nào và những chi tiết của việc
thấy ra làm sao? Tất cả những gì có liên quan đến cái thấy thì sẽ giúp cho chữ
thấy được mở rộng ra, càng chi tiết hơn.
Nhận biết rằng có một cái
mùi bay ngang qua lỗ mũi của mình, nhờ có linh hồn cho cái Tỉ thức mà mình biết
được rằng đó là mùi thơm hay mùi hôi, mùi của một loại hoa, một loại cỏ, hay là
mùi của một con vật, và cái mùi đó đã
tạo nên một cảm giác ra
làm sao? Lần lượt ngũ căn đều nhận được từ ở Linh Hồn những cái THỨC gọi chung
là NGŨ THỨC, dự phần vào việc giúp
cho ngũ căn cảm nhận mọi
sự vật chung quanh mình một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn và tinh tế hơn. Bên
cạnh ngũ căn được sự tăng cường của NGŨ THỨC, còn có
những THỨC khác
mà tầm quan
trọng cũng rất đáng kể, đó là MẠC NA THỨC và A LẠI DA
THỨC.
Giữa Ngũ Thức, Mạc Na Thức
và A Lại Da Thức có một thức trung gian, đó là Ý THỨC. Sự phân định và thẩm định
một cách rõ ràng của những cái Thức của Ngũ Căn đều phải qua Ý Thức.Đơn cử một
thí dụ như sau: một người nhìn thấy một cảnh đẹp, nhờ có Nhãn Thức mà người đó
sẽ hiểu được các chi
tiết trong cái cảnh mà
mình nhìn thấy. Nhưng bên cạnh đó, nhờ có Ý Thức, người đó sẽ thấy rằng khung
cảnh này nó nên thơ như thế nào, nó làm cho lòng tôi bồi hồi ra sao, nó làm cho
những kỷ niệm xa xưa sống lại với tôi như thế nào? Làm cho tôi nhớ lại những gì
đã xảy ra, làm cho tôi liên tưởng đến một hình ảnh khác... Tất cả những gì tôi
liên tưởng, tôi nghĩ đến, hay tôi bồi hồi trước một khung cảnh đẹp, đều là do ở
tác động của Nhãn Thức tăng cường thêm sự trợ lực của Ý Thức. Và cái Ý Thức
quan trọng vô cùng, nó lại liên quan đến cái Tâm và cái Tánh.Nếu một người có
Tâm từ bi, Tâm hỷ xả thì khi đứng trước một cảnh vật hữu tình, tâm người đó
rung động, chan chứa
những hình ảnh tốt đẹp về
những cái gì mà người đó muốn đem ra để ban phát cho chúng sanh. Tâm rung động đó
là một tâm rung động tốt. Cái tâm rung động tốt đó sẽ giúp cho cái Ý Thức nảy
sinh ra những tư tưởng tốt đẹp là làm sao xoa dịu được nỗi đau của kẻ khác.Cho
nên cái Ý Thức dính liền với cái Tâm rất nhiều và nó cũng dính chặt với cái
Tánh. Nếu là một người có bản tánh thích chia sẻ, thích sự dịu dàng, thích ban
phát, bố thí, thì trước một khung cảnh hữu tình, người đó sẽ tức cảnh sanh tình
xướng lên những vần thơ biểu lộ hết tâm tư của mình, sự chắt chiu, lo lắng của
mình đối với những người kém may mắn, kém phước lành hơn mình.Nhưng nếu
cũng trong một
khung cảnh đó,
cái Ý Thức được khởi lên từ ở một người có một cái
Tâm không lành lại cộng thêm một cái Tánh không lành thì mọi chuyện sẽ quay ngược
trở lại và sẽ không thể nào có được những lời thơ êm nhẹ, ca ngợi một tình thương
yêu đối với chúng sanh. Vì vậy, tất cả những cái Thức mà mình có được chính là
từ ở Linh Hồn.Nên nhớ rằng: thân xác bị già nua, bị hủy hoại, nhưng Linh Hồn
thì không.Trước khi thân xác chấm dứt sự sống, Linh Hồn vì ở trong thân xác đó,
nên đã nhận biết được sự lão hóa, sự hủy hoại
từ từ của thân xác, nên đã
có sự chuẩn bị, sắp xếp để rời thân xác.Coi như cái áo này đã cũ rồi, cần phải đi
tìm chiếc áo mới khác tốt đẹp hơn. Và khi linh hồn rời khỏi xác thân, tất cả
các Thức đều bị hủy diệt.Tại sao?Vì những Thức đó là những thức giả tạm, không
vĩnh viễn, xem như là phương tiện cho những bộ phận của thể xác mà thôi. Kể cả
Mạc Na Thức cũng không được xem là một thức vĩnh viễn. Duy nhất được xem là
vĩnh viễn, chính là A Lại Da Thức và thức này đảm nhận công việc của một ngăn
chứa. Chứa cái gì?
Chứa thuần những sự việc
quan trọng, không quan trọng thì không chứa!
Việc không
quan trọng thì
tạm thời chứa
trong Mạc Na Thức,
khi linh hồn đã rời
khỏi thân xác
rồi thì Mạc Na
Thức cũng bị hủy diệt.Vì Sao?
Vì tất cả những thứ mà Mạc
Na Thức chứa lại cũng là giả tạm, nếu so với cái giả tạm của Lục Thức thì cái
giả tạm của Mạc Na Thức có tính cách kéo dài hơn. Để chi? Để chờ đợi, chờ đợi
coi có sự chuyển hóa hay không?Sự chuyển hóa đó từ ở đâu? Chính là ở cái Tâm.
Một người trước kia có một tâm không lành, nhưng sau một thời gian tu tập, nghe
Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp và nhận xét
rằng mình đã
làm chuyện sai,
cho nên hoán
chuyển tâm mình để trở nên tốt đẹp hơn. Khi trở nên tốt đẹp hơn, điều đó
là vĩnh viễn, được Mạc Na Thức ghi nhận. Và Mạc Na Thức sẽ giữ đó cho đến ngày
người đó lìa đời, nếu tâm người đó vẫn trước sau như một, sau khi đã chuyển hóa
rồi mà không có gì thay đổi cả, thì Mạc Na Thức trước khi bị hủy diệt, sẽ
chuyển cái sự việc tốt đẹp đó vào trong A Lại Da Thức, xem như là một điểm son
cho người đó.Nếu một người luôn sân hận, có nhiều tánh xấu, thường làm những
chuyện sai trái, Mạc Na Thức sẽ tích tụ không sót một điều nào cả. Cho nên cần
ghi nhớ: mình có thể che dấu được kẻ khác, chớ không thể nào che dấu chính bản
thân mình. Chính bản thân mình là cái gì?Chính là cái Mạc Na Thức đó! Một tư tưởng
vừa khởi lên, chưa được chuyển đạt thành lời, Mạc Na Thức tức khắc ghi nhận
liền. Và nếu
không được sửa đổi cho
tới ngày
nhắm mắt, tất cả mọi thứ
sẽ trở thành vĩnh viễn và sẽ được chuyển vào trong A Lại Da Thức có thứ tự lớp
lang.Trước khi linh hồn rời khỏi thân xác, những cái gì thuộc về vĩnh viễn thì
Mạc Na Thức chuyển vào trong A Lại Da
Thức. Những cái gì có tính
cách tạm bợ thì bỏ ra ngoài, không kể tính. Tất cả các thức: Lục thức lẫn Mạc
Na Thức đều bị hủy diệt. Linh hồn ra đi chỉ mang theo A Lại Da Thức mà
thôi.Chính cái linh hồn đó, khi còn trong một thân xác sống động thì gọi là NGƯỜI.
Nhưng khi người đó không còn hơi thở nữa thì gọi là VONG. Linh hồn vì không còn
thân xác nữa để trụ vào, cho nên được gọi một cách đúng nghĩa là Thần Thức.Danh
từ Thần Thức nói lên sự linh hoạt, mầu nhiệm không thể bàn luận cho cùng của
Linh Hồn, chớ không phải là vì linh hồn có thần thông quảng đại gì cả. Cái linh
hồn đó mang cái A Lại Da Thức đi theo mình. Nếu trong A Lại Da Thức chứa toàn
là điều sân hận, chứa toàn là những điều quấy trá, chứa toàn những điều đau thương,
điều đó nói lên cái gì? Nói
lên rằng: người đó khi còn sống đã gieo nhân không lành. Chứa sân hận cũng là
gieo Nhân không lành, chứa đau khổ cũng gieo Nhân không lành, chứa những điều
quấy trá cũng là gieo Nhân không lành.Tất cả mọi thứ sẽ theo nghiệp lực mà người
đó đã tạo ra và được hành xử theo luật Nhân Quả. Người đó tạo nghiệp không lành
với một kẻ khác, nhưng
muốn tạo nghiệp với kẻ
khác thì, điều trước tiên là người đó đã gieo nhân không lành với kẻ khác đó,
khi vòng nghiệp lực đã đóng lại rồi, thì cốt tủy của vòng nghiệp lực là một sự
tác động của Nhân và Quả.Cho nên tất cả nghiệp lực đều dính chặt vào Nhân và
Quả. Thần thức đó bị vướng mắc, chính là vướng mắc ở cái Nhân và Quả. Giải
quyết những vướng mắc của thần thức là giải thích cho thần thức hiểu rằng: tôi đã
làm điều không hay, không phải,
chẳng qua là
vì tôi đã
gieo Nhân không
lành, bây giờ Quả không lành lại đến
với tôi. Vì Quả tôi nhận được không
lành cho nên
tôi bị vướng
mắc, chính vì
vậy mà vong không thể siêu thoát được!
Cho nên, siêu độ cho vong là vạch rõ cho vong hiểu rằng: cái A Lại Da Thức mà
vong đã mang theo chứa toàn là Nhân xấu, ngày giờ này giúp cho vong có một trí
huệ, trí
huệ đó ví như một ngọn đèn,
giúp vong lựa lọc lại những cái Nhân mà mình đã mang theo. Điều thú vị là khi đã
trở thành một cái vong rồi (mà phải
nhớ rằng là vong trong vòng
49 ngày chớ không phải vong sau 49 ngày), thần thức mới nhận chân ra được rằng:
từ bấy lâu nay cái túi A Lại Da Thức của tôi đã chứa quá nhiều những hạt lép,
hạt không tốt, hạt hư thúi. Ngày giờ này nó làm cho tôi nặng nề, khó khăn cất bước.Bây
giờ tôi phải làm sao?Chính người chủ lễ phải giúp cho vong có được chút trí huệ
để phân định được: hột nào tốt, hột nào xấu. Sau khi lựa lọc lại những cái nhân
mà mình đã mang theo thì, với sự giúp đỡ của người chủ lễ, thần thức đó đã nhìn
thấy được một sự không cân bằng của cán cân. Thời gian 49 ngày là thời gian đặc
ân, để giúp cho vong làm sao chuyển hóa được những cái nhân không lành của
mình, thành ra
những cái nhân
lành. Và nếu
biết tu tập trong
49 ngày thì
sự chuyển hóa sẽ dễ
dàng, chừng đó, vong sẽ nhẹ nhàng để cất bước.
Đó là lý do vì sao bắt
buộc phải dùng nghi thức Sám Hối, để giúp cho vong nhẹ nhàng hơn trong thời
gian 49 ngày. Sám hối là một hành động để diễn tả, để nói lên rằng tôi ăn năn,
tôi hối hận, tôi tiếc hối vì tôi đã tạo nên những cái nhân không lành.Vong phải
biết rõ vì sao mà mình lại có quá nhiều cái nhân
không lành? Và nhờ có sám
hối, mà vong mới hoán chuyển được
những cái nhân
không lành, thành
những cái nhân lành. Mà một cái vong ra đi với nhiều
cái nhân lành thì đâu có gì là cực nhọc, đâu có gì là nặng nề nữa đâu.
Để phân định được những
cái Nhân nào lành, những cái Nhân
nào không lành,
vong bắt buộc
phải có được
một chút trí huệ. Có trí huệ như đeo ngọn đèn ở trước trán, đi tới là có
ngọn đèn soi sáng rồi, do đó mà biết được đường nào mình sẽ phải đi.Có một điều
rất là lý thú và rất là lợi lạc mà ít ai để ý đến. Siêu độ cho vong, chỉ có 3
con đường để lựa chọn: hoặc về
Cõi Người, hoặc về Cõi
Trời, hoặc về Cõi Phật.Không có trường hợp “rơi” xuống Tam Đồ! Dù người đó khi
hắt hơi, có những dấu hiệu bị đọa vào Tam Đồ, nhưng trong vòng 49 ngày, nếu
thân nhân ra sức giúp cho vong linh tu tập, thì việc hoán chuyển từ Tam Đồ lên
Cõi Người sẽ rất là dễ dàng, không khó khăn; nhưng, quá 49 ngày rồi thì người
có dấu hiệu bị đọa Tam đồ phải theo đúng Tam Đồ mà đi, nếu không được siêu độ.
Vì vậy, 49 ngày là thời
gian đặc ân, thời gian để
hoán chuyển cảnh giới nếu được siêu độ đúng cách.
Nếu thân nhân không lợi
dụng thời gian đặc ân này để làm bất kỳđiều gì cho vong linh hết, thì rất uổng,
rất uổng! Gần như đa số những người thân của vong linh, có lẽ vì tánh lơ là,
không để ý, xem việc chết, sống là lẽ thường,
cho nên
rất ít ai
chịu quan tâm đến việc
siêu thoát của vong linh. Vong linh có an ổn ra đi chăng?
Hay còn lang thang, vất vưởng trong địa ngục đọa đày? Vong linh có đau khổ chăng?
Có tìm được một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc chăng?Hầu hết chúng sanh nghĩ
rằng, chôn xuống một thi hài là xong chuyện! Không bao giờ nghĩ rằng, trong cái
thân xác được chôn xuống đó, còn có cái linh hồn. Và chính cái linh hồn đó mới điều
khiển được thân xác, nếu không có linh hồn thì không thể điều khiển cái thân
xác được. Dù cái thân
xác đó có đẹp cách mấy, có
tốt cách mấy thì cũng vẫn là một đống thịt mà thôi!Cho nên, cái linh hồn đó
không biến mất khi thân xác đã tan rã, mà linh hồn đó có phận sự đi tìm một
thân xác mới. Cái linh hồn đó không bao giờ bị hủy hoại, chỉ có thể bị đọa đày,
nhưng không tan biến. Vì vậy mà phải giúp cho cái linh hồn được tốt đẹp, vì cái
linh hồn có được tốt đẹp, thì thân xác mang linh hồn đó mới thật sự tốt đẹp được.Còn
nếu như một linh hồn có quá nhiều nặng nề, không tốt, thì cái thân xác sau này
ở trên dương thế chứa đựng cái linh hồn quá xấu xí, cũng sẽ trở thành xấu xí.
Phải hiểu rõ được điều đó để thấy rằng, càng làm cho linh hồn tốt đẹp nhiều
chừng nào, thì người trên dương thế sẽ được hoán chuyển, sẽ được sửa đổi một
cách tốt đẹp. Cho nên giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho một số đông chúng
sanh trong tương lai được tốt đẹp hơn. Một linh hồn biết tu tập, hiểu biết điều
phải trái, có trí huệ thì dù tiến vào một thân xác nào, thì thân xác đó cũng
khởi sắc, và ảnh hưởng tốt đẹp cho những người chung quanh.Còn một điều rất thú
vị: đó là một sự gạn lọc! Gạn lọc để tất cả những cái gì không tốt đẹp sẽ được để
qua một bên và làm cho nó trở nên tốt đẹp. Còn những cái gì đã tốt đẹp rồi thì
giúp cho nó càng ngày càng thăng hoa. Tới một lúc nào đó, Cõi Ta Bà sẽ có vô số
người tốt đẹp.
Tại Sao Nên Siêu Độ Cho Thân Nhân Ở Tại Nhà?
Tại sao thân nhân nên làm
việc siêu độ cho vong linh tại nhà trong 49 ngày, mà không ký linh (gửi) cho
chùa chiền?Thông thường, việc ký linh vào chùa là vì những lý do sau đây:
1. Thân nhân hay sợ hãi, nhất là có rất nhiều người
sợ ma, không dám để hình của hương linh ở nhà, vì thấy rằng đi ra đi vào cứ
nhìn thấy hình của người mới mất, có cảm tưởng rằng người đó đang phảng phất đâu
đây, cho
nên cứ sợ hãi. Vì vậy mà đem
ký linh thân nhân mình vào chùa cho đỡ sợ.
2. Vì không biết những nguyên tắc, những nghi
thức để cúng cho vong trong thời gian 49 ngày.
3. Do sự biếng nhác của thân nhân, vì phải làm
công việc đó trong suốt 49 ngày. Đây là sự thật, không thể phủ nhận!
4. Vì những thân nhân của hương linh không tha
thiết đến việc tu tập, cho nên cứ đem hương linh giao phó cho chùa chiền, rồi
thì chùa chiền muốn làm gì cũng được. Sau 49 ngày là phủi tay xong việc!
5. Thân nhân cho rằng: vì bận bịu với công việc
làm ăn hằng ngày nên không có thì giờ để hành trì siêu độ cho người quá vãng.
Đối với người chủ lễ chưa
biết tu tập, thì đây là một cơ hội tốt để người này, vừa bày tỏ lòng thương yêu
của mình đến người quá cố và cũng là dịp để tập tễnh bước vào đường tu tập. Dù
là một sự bắt buộc tu tập, hay là một sự phát nguyện tu tập, đây vẫn là một dịp
rất tốt để làm bàn đạp cho việc thăng hoa sau này.Lúc đầu thì cảm thấy khó
chịu, lúng túng, nhưng sau đó không
bao lâu, khi
suy nghĩ lại,
vì tình thương
yêu của mình đối với người đã
mất, cũng mong mỏi cho người đã mất được ung dung tự tại, được siêu thoát nhẹ
nhàng, cho nên, thôi thì bấm gan bấm bụng mà tu! Rồi thì từ từ, mỗi
ngày một chút, đến khi
thâm nhập lúc nào không hay. Vì vậy mà thời gian 49 ngày, đủ để giúp cho một người,
từ một tư tưởng, một cảm giác bị bắt buộc, trở thành ra tự nguyện hay phát
nguyện tu tập.Việc siêu độ cho hương linh ở tại nhà có một điều lợi ích, là sự
giúp đỡ cho hương linh được dễ dàng hơn. Trong 49 ngày, hương linh chưa nhận ra
được mình đã mất, vẫn còn lẩn quẩn ở trong gia đình, cho nên hương linh không
cảm giác nhiều về sự đói lạnh, vẫn còn cảm nhận được không khí gia đình. Vì
vậy, người chủ
lễ sẽ cảm
thấy gần gũi hơn với hương linh, và vì biết rõ được
những điều thầm
kín, những khúc mắc của hương
linh, người chủ lễ sẽ tỉ tê, khuyên giải mỗi ngày. Như vậy giúp cho hương linh
bừng sáng rất nhiều.Số hương linh ký gởi tại chùa quá đông, người chủ lễ ở tại
chùa cũng không có nhiều thì giờ để tìm hiểu gốc gác, ngọn ngành của mỗi hương
linh. Việc đánh thẳng, đánh mạnh vào trong những khúc mắc của mỗi hương linh,
hoặc tỉ tê, khuyên giải từng vong linh mỗi ngày, điều đó vị chủ lễ gần như bó
tay, không làm được. Ngoài ra, còn phải kể đến tâm thành, tâm lực, đạo lực của
người chủ lễ rất là nhiều.
Nhà chùa lấy dạ Từ Bi đối
với Phật Tử, không nỡ chối từ bất cứ một hương linh nào cả. Tuy nhiên, làm sao
có thể so sánh được sự săn sóc của viện dưỡng lão với sự chăm lo, chắt chiu của
gia đình, đối với thân nhân già nua hay tàn tật của mình.Nếu cảm thấy rằng:
việc siêu độ cho hương linh đem lại lợi lạc cho kẻ Dương Thế lẫn người cõi Âm thì
nên tiến hành việc siêu độ tại nhà, làm giảm bớt đi gánh nặng cho nhà chùa.Hương
linh để tại nhà cũng vẫn tốt hơn, vì ngoài người chủ lễ, còn có thể có những người
thân khác; tuy rằng họ không được như người chủ lễ, nhưng cũng đem tấc dạ chân
thành của mình ra để cầu nguyện cho hương linh, thì cũng giúp cho hương linh
rất nhiều trong vấn đề siêu thoát. Cho nên, một người nào có thân nhân vừa mới
qua đời, nên cố gắng tự mình siêu độ cho vong linh của thân nhân mình, vì đó là
cơ hội để giúp cho mình có thể bước vào đường tu tập, hoặc được thăng tiến trên
đường đạo, nếu mình đã từng có tu tập rồi, và điều quan trọng là dễ dàng giúp
cho thần thức của thân nhân mình hiểu biết và rung động để siêu thoát được.
Việc sợ hãi một người mới mất, đó là vấn đề tâm lý. Thật sự ra mình phải nghĩ
rằng: một khi mình mất rồi, những người khác có sợ như vậy hay không? Tại sao
mình lại sợ một cái vong? Cái vong không làm gì được cả. Đối với một người vừa
mới qua đời, tất cả mọi việc chung quanh họ đều
làm cho họ rất bỡ ngỡ. Khi
còn sống, họ nhìn sự vật với đôi mắt của họ, với nhãn thức của họ, tất cả mọi
thứ đều đóng khung. Họ không thể nào nhìn cái gì quá cái khung của đôi mắt họ được.
Nhưng một khi đã trở nên một cái vong rồi, tầm nhìn của họ không bị đóng khung
nữa. Họ có thể nhìn thấu hết tất cả mọi vật. Ngay cả những thân nhân của họ,
tâm tánh như thế nào, họ
đều nhìn thấu rõ, nhưng
bảo rằng, những vong này có thể làm hại bất kỳai thì việc đó không có. Vong mới
vừa mất chưa đủ sức để làm việc đó đâu! Như vậy đâu có gì để phải sợ hãi cái
vong?Tại sao lại có sự phân biệt giữa người đã mất với người còn sống? Sự sợ
hãi có được là do người còn sống tự đặt một ranh giới, giữa người đã mất và người
chưa mất. Giả sử rằng, người đã mất này hiện đang ở cùng một khu phố với mình,
mà mình không biết được rằng người này đã mất, thì liệu rằng mình có sợ hãi hay
không? Cho nên, tất cả đều là do người sống đặt ranh giới để tạo sự sợ hãi.
Phải hiểu rằng: Sanh -Lão -Bệnh -Tử, có sanh thì có tử, người đi trước, kẻ đi
sau, không ai thoát được vòng lẩn quẩn đó, vì vậy mà nên từ bỏ tư tưởng sống
chết. Hãy xem đó là một điều đương nhiên phải chấp nhận! Có sanh ra thì phải có
chết, để không cảm thấy rằng, có một sự khác biệt ở trong đó. Trong phần nghi
thức siêu độ, mỗi ngày, trước khi hành lễ, người chủ lễ phải trì Chơn Ngôn Phát
Hào Quang. Câu Chú này giúp cho trong nhà rất thanh tịnh, không có gì phải sợ
hãi cả.Kế tiếp là phải tự hỏi rằng, mình có thật lòng chan chứa tình cảm với người
đã mất hay không? Có xem người đó giống như thuở người đó còn sống hay không?
Có một tình thương dạt dào với người đó hay không? Khi người đó còn sống thì
mình làm thế nào để giúp cho người đó được vui vẻ, được cảm thấy hạnh phúc? Bây
giờ người đó không còn hiện diện nữa, phải làm cái gì để giúp cho người đó được
tốt đẹp, được thăng hoa? Khi còn sống thì người đó hưởng hạnh phúc, nhưng khi
người đó đã mất rồi thì người đó phải được thăng hoa. Khi mình đặt những câu
hỏi đó, thì mình sẽ có câu trả lời là, “tôi phải làm một cái gì!” Và chính câu
trả lời, tôi phải làm cái gì để giúp cho thân nhân của tôi được thăng hoa, sẽ
giúp cho tôi tìm tòi tất cả những phương cách, phương tiện để giúp đỡ cho thân
nhân. Khi đã hiểu được chuyện đó rồi thì dễ dàng bước vào việc tu tập. Việc tu
tập, bước ban đầu là vì thân nhân, cho thân nhân, tất cả giúp cho thân nhân; nhưng
chắc chắn rằng, sau 49 ngày, người chủ lễ sẽ có một cảm giác rằng, chính thân
nhân quá cố đó đã giúp cho tôi bước vào đường tu tập lúc nào không hay. Cho nên
có lợi cho cả đôi bên, một khi vẫn có lợi cho cả đôi bên thì tại sao không thực
hành? Tại sao còn phải đắn đo?
Siêu Độ Cho Thân Nhân
Việc siêu độ cho thân nhân
sẽ bao gồm những phần sau
đây:
1. Chuẩn bị cho người chủ lễ:
a. Người
chủ lễ biết tu tập
b. Người
chủ lễ chưa biết tu tập
c. Những điều
kiện cho người chủ lễ
2. Chuẩn bị cho hương linh
3. Hướng dẫn phần nghi thức
4. Nghi Thức Siêu Độ và Sám Hối
5. Hồi hướng
Chuẩn Bị Cho
Người Chủ Lễ
Người Chủ Lễ Biết Tu Tập
Tu tập
Chuẩn bị cho người chủ lễ là một việc vô cùng quan
trọng, nếu không chuẩn bị một cách kỹ càng, chu đáo, sẽ khó lòng thuyết phục được
vong.Người chủ lễ có thể là một người biết tu tập, tuy nhiên, một người chưa
từng làm quen với việc tu tập, cũng vẫn đảm nhận được việc siêu độ một cách dễ
dàng, tốt đẹp. Người Chủ Lễ Biết Tu Tập Tu tập nơi đây phải được hiểu là Tu Tập
chân chính, có nghĩa là:Luôn luôn kiểm soát TÂM - Ý - TÁNH của mình. Thấu triệt những nguyên tắc căn bản
của việc tu tập:
Giữ Tâm bình, Giữ Ý không phát khởi, sửa Tánh xấu
thành Tánh tốt.
Thời
khóa tu tập hằng ngày lúc nào cũng phải bao
gồm Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.
Đọc
Pháp, Hiểu Pháp, Tư Duy Pháp và áp dụng Pháp
vào cuộc sống Đời lẫn Đạo.
Giữ
cho mình một TƯ CÁCH đúng nghĩa của người
tu tập.
Một sự tu tập chân chính sẽ mang đến cho hành giả
một
ánh hào quang bao bọc chung quanh người. Ánh hào
quang này dày hay mỏng, màu sắc thay đổi tùy theo cường độ tu tập cao hay thấp
của hành giả.
Người tu tập chân chính lâu năm, hào quang phải
phát sáng. Nếu hào quang không phát sáng thì có nghĩa là đường tu tập không đúng
lối.Công năng tu tập qua nhiều ngày tháng sẽ mang đến cho hành giả một Đạo Lực,
do ở việc Trì Chú - Niệm Phật.Nếu một người chủ lễ vừa có được ánh hào quang
sáng
rực, vừa có được Đạo Lực mạnh mẽ, sẽ tạo nên một
uy lực, khiến cho vong nhìn vào sẽ tỏ lòng kính phục và dễ dàng nghe theo lời
khuyên bảo của chủ lễ.
Người Chủ Lễ Chưa Biết Tu
Tập
Người chưa tu tập bao giờ, nhưng nếu muốn siêu độ
cho một vong linh thì họ bắt buộc phải có một Tâm Lực rất… rất cao.TÂM LỰC là
một sức mạnh xuất phát từ TÂM, được kết hợp bởi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Phải là một người
có lòng TỪ - BI - HỶ - XẢ thì mới có thể tạo được một Tâm Lực vững chắc.
Một người chưa
biết gì về
việc tu tập,
nhưng với tất cả
tấm lòng, tất cả sự thương yêu trìu mến, sự mong mỏi, sự tha thiết của mình đối
với một vong linh, tất cả sự nồng nàn đó góp tạo lại thành một sức mạnh to lớn
mang tên là
Tâm Lực. Tâm Lực cũng vẫn phát ra được ánh hào
quang, nhưng nếu so với ĐẠO LỰC thì yếu hơn nhiều và không được rực rỡ lắm.Để
giúp cho việc Siêu Độ vong linh mang lại một kết quả thật viên mãn, LacPhap.com
xin hân hạnh trao tặng cho người hữu duyên một câu Thần Chú. Nếu là người vừa
có ĐẠO LỰC vừa có TÂM LỰC, khi trì câu Chú này, hào quang sẽ rực sáng như vòng
lửa bao bọc chung quanh mình. Nếu một người chỉ có thuần Tâm Lực, câu Chú này
sẽ làm cho hào quang của người đó được sáng rực lên (chỉ trong thời gian hành
lễ mà thôi). Nếu muốn được hào quang một cách vĩnh viễn, đúng nghĩa, thì bắt
buộc phải thường xuyên tu tập. Câu Chú đó là:
CA SA THA PHA
(Khi trì Chú, hai tay bắt Ấn: Kiết Tường Kim Cang)
Bắt đầu:
tay bắt Ấn Kiết Tường Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở thành
GHI NHỚ
Người trì câu Chú này,
dù rằng chưa biết tu tập, cũng vẫn phải là một người chân chính. Người theo tà đạo
hoặc người có Tâm Không Lành,
trì câu Chú này sẽ không
mang lại kết quả tốt đẹp. Tâm Lực là một sự kết hợp của Tứ Vô Lượng Tâm xuất
phát từ Tâm mà ra, người theo tà đạo hoặc tâm
không chân
chính thì không
thể có một
Tâm Lực dũng mãnh được.
Suốt trong thời gian
49 ngày siêu độ cho vong linh, chủ lễ có Đạo Lực nên trì thường xuyên câu Chú
này (ngoài thời gian hành lễ) để cho hào quang của mình luôn rực sáng.Người chủ
lễ chỉ có Tâm Lực mà thôi, càng cần phải trì câu Chú này thật nhiều, để chắc
chắn rằng hào quang của mình
luôn phát sáng và khuyên
bảo vong sẽ dễ dàng nghe theo.Siêu độ cho một vong linh cần cái gì? Cần tấm
lòng chân thật, cần người chủ lễ siêu độ phải là một người tu tập chân chính,
người xuất gia trong cửa Đạo cũng tốt, mà người tại gia ngoài cửa Đạo thì cũng
không có gì đáng nói, nơi đâu cũng được, miễn là một người hết dạ chân thành,
dốc lòng tu tập và biết nghĩ đến chúng sanh. Nếu là người trong cửa Đạo đảm
nhận việc siêu độ, thì người trong cửa Đạo phải xem hết tất cả chúng sanh đều
là thân bằng quyến thuộc của mình, để mới có thể đem hết tấm lòng mà siêu độ,
hộ niệm cho vong linh bằng Đạo Lực và bằng chính Tâm lực của mình. Còn người
ngoài cửa Đạo cũng vẫn phải đem Đạo Lực của mình (nếu có) kèm theo với Tâm Lực
rất mạnh của mình để mà siêu độ cho người thân của mình hoặc là một người mà
mình thương mến, mình lo lắng, mình chăm sóc khi họ còn tại thế. Cho nên, dù
trong cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo, việc siêu độ không phân biệt bất kỳ ai.
Nếu chủ lễ là con Trưởng
trong gia đình, hay là Trưởng Tộc trong dòng họ, hoặc bất cứ người nào thuộc về
thân nhân của người quá cố, thậm chí là bằng hữu, quen biết, cũng đều được cả. Điều
quan trọng chính là sự chân thành
của người chủ lễ. Nếu người
chủ lễ đảm nhận việc siêu độ nhưng không đem hết dạ chân thành của mình, sự
mong mỏi của mình để giúp cho vong linh được siêu thoát, thì việc đó sẽ không
mang đến một kết quả nào cả, dù trong
cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo
cũng vậy thôi! Cho nên phải nhớ kỹ một điều là, Đạo Lực cộng với Tâm Lực mới có
thể giúp được cho vong linh siêu thoát. Có Đạo Lực mà không có Tâm Lực thì
không thể nào làm việc có kết quả được; nhưng nếu chỉ có một Tâm Lực thôi,nhưng
một Tâm Lực rất caothì kết quả tốt đẹp vẫn có thể đạt được như thường.
Những Điều Kiện Cho Người Chủ Lễ
Người chủ lễ phải đạt một
vài điều kiện sau đây để cho tư cách của mình gia tăng lên, như vậy thì việc
mình hướng dẫn một vong linh mới đến nơi đến chốn, không mất thì giờ và tạo nên
được công đức.
1. Phải Trường Chay Trong 49 Ngày:
Khi người chủ lễ tại giađứng
ra siêu độ cho một vong linh, người đó bắt buộc phải Trường Chay trong suốt
thời gian làm lễ (49 ngày). Phải chịu khó dùng những thức ăn thanh, đừng dùng
những thức ăn nặng, vì những thức ăn thanh dễ dàng giúp cho ánh hào quang của
câu Chú được phát sáng và lời niệm Phật được phát sáng. Nếu không trường chay
thì rất khó lòng nói để cho vong nghe lắm. Người đời không nhìn thấy được những
gì xa hơn tầm mắt của họ, cho nên không nhận ra được sự thán phục của vong, hay
sự hờ hững của vong đối với người chủ lễ. Vì vậy, người chủ lễ muốn nói cho
vong nghe thì phải có đủ tư cách. Trên dương thế, một người muốn cho kẻ khác
nghe mình, theo mình, làm theo những gì mình muốn, đều bắt buộc phải có tư cách
và phải có uy, thì mới có thể lôi kéo được kẻ khác theo mình.
2. Thọ Trì Tam Quy và Giữ Ngũ Giới:
Người trong cửa Đạo (xuất
gia) thì đương nhiên là đã thọ trì Tam Quy và giữ Ngũ Giới (giữ còn nhiều hơn 5
giới nữa). Tuy nhiên, nếu người trong
cửa Đạo làm
những chuyện sái quấy, phạm giới
thì khó lòng siêu độ cho vong linh vì người đó thiếu cái uy nghiêm khiến cho
vong không nghe theo lời khuyên bảo.Người tại gia, tu tập chân chính, việc thọ
Tam Quy, trì ngũ giới là việc đương nhiên.Người chưa từng tu tập, làm chủ lễ
với tất cả Tâm Lực của
mình, trong thời gian 49
ngày phải phát nguyện thọ trì Tam Quy
và giữ ngũ
giới, để cho người đó được nhẹ
nhàng, không tạo cơ hội cho một nghiệp chướng xảy ra. Chính bản thân người
đó đã mang nghiệp chướng rồi, bây giờ trong suốt 49 ngày, lại mang thêm hết
nghiệp chướng này đến nghiệp chướng khác, như vậy rất là nặng trĩu. Tự bản thân
của họ đã đeo đá nặng rồi, thì khó lòng có thể khuyên bảo ai được nữa, cho nên
tối thiểu cũng phải làm “NHẸ” người của mình trong suốt 49 ngày, để cho hào
quang được phát sáng. Dù rằng hào quang đó tạm thời phát sáng trong thời gian
mình dẫn dắt vong, cũng vẫn phải làm cho người mình được nhẹ nhàng. Nếu người
mình không nhẹ nhàng, thì hào quang từ câu Chú CA SA THA PHA cũng vẫn không thể
giúp cho mình phát sáng
hào quang được đâu. Sau thời gian siêu độ, nếu người đó muốn tiếp tục giữ Tam
Quy Ngũ Giới thì rất tốt, còn không muốn tiếp tục thì cũng Tuy nhiên nếu người đó
vẫn tiếp tục tu tập, và trong quá
trình tu tập, họ hồi hướng
cho bản thân họ được thân tâm chánh niệm, cho oan gia của họ, cho nghiệp chướng
của họ được tiêu trừ để giải những món nợ đối với oan gia của họ, rồi họ cũng
hồi hướng cho thân nhân đã quá cố mà họ đã
giúp cho siêu độ, như vậy
là một chuyện quá sức tốt! Có thể nói rằng: chính nhờ vào vong linh đó, mà người
chủ lễ có cơ hội bước vào đường tu tập.
Nghi Thức Thọ Tam Quy và Giữ Ngũ Giới Cho Người Chưa Biết Tu Tập
Người chưa hề thọ Tam Quy,
trì Ngũ Giới, nếu làm chủ lễ siêu độ cho vong linh thì phải theo nghi thức sau đây.
Trong buổi lễ đầu tiên, trước khi bắt tay hành lễ, người chủ lễ thắp hương đứng
trước bàn thờ Phật, khấn nguyện như sau:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. o(1 lạy)
Con tên là ____, ngày hôm nay con xin đem
hết Tâm Lực của mình để làm chủ lễ siêu độ cho thân nhân của con
vừa mới qua đời, hương
linh tên là
____, Pháp danh ____, sanh ngày____, mất ngày____.
Cúi xin chư Phật và Bồ Tát chứng minh cho
con:
Thành tâm Quy Y Phật (1 lạy)
Thành tâm Quy Y Pháp (1 lạy)
Thành tâm Quy Y Tăng o (1 lạy)
Con cũng xin phát nguyện giữ Ngũ Giới:
Con nguyện Không Sát Sanh
Con nguyện Không Trộm Cắp
Con nguyện Không Tà Dâm
Con nguyện Không Nói Láo
Con nguyện Không Uống Rượu
Và con nguyện trường chay trong suốt 49 ngày hành
trì lễ siêu độ. Con cầu xin thân tâm nhẹ nhàng, thơ
thới, có đủ uy lực để dẫn dắt, hướng dẫn cho vong
linh thoát được những vướng mắc, tìm được đúng
hướng đi của mình để thác sanh.
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, tác đại
chứng minh. (1 lạy)
Trong suốt 49 ngày, trước
khi bắt đầu hành lễ, người chủ lễ này đều
phải luôn luôn khấn nguyện:
Con tên là ____ ngày hôm nay con vì hương linh, phát nguyện thọ Tam
Quy, trì Ngũ Giới, giữ trường chay, tu tập, giữ cho thân tâm luôn được thanh
tịnh.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. (1 lạy)
Sau đó thì trì câu Chú CA SA THA PHA trong 15 phút trước khi
bắt đầu hành lễ. Nên giữ tâm thanh tịnh lúc trì Chú, có nghĩa là tránh Tâm Viên
Ý Mã, quán tưởng hào quang rực sáng chung quanh mình.
Làm Một Thiện Tri Thức Cho Vong Linh
Trên dương thế, người
thiện tri thức là người giúp đỡ, dẫn dắt cho một chúng sanh từ đường tối bước
ra đường sáng, từ vũng bùn lầy bước ra chỗ đất khô ráo. Vai trò của người Thiện
tri thức là dẫn dắt một chúng sanh từ thấp tiến lên cao. Công việc đó bao gồm
rất nhiều điều mà một người Thiện tri thức phải chu toàn trong khi hành xử vai
trò của mình. Đưa một chúng sanh từ bờ Mê ra bến Giác không phải là một việc
búng tay, cũng không phải là một việc chỉ “một ngày một bữa”. Đó là một công
việc có khi kéo dài cả hàng tháng, hàng năm hay nhiều năm. Cho nên người Thiện
tri thức phải đặt rất nhiều chữ NHẪN ở trong công việc của mình.Chữ Nhẫn là một
đức tánh vô cùng quan trọng trong đường Đời lẫn đường Đạo. Đường Đời thiếu chữ
Nhẫn, không thể có sự thành
công được. Đường Đạo thiếu
chữ Nhẫn, thì không thể nào tiến đến Bờ Giác được. Cho
nên, người thiện tri thức hành xử vai trò của mình rất là cực nhọc. Đó là nói
về chúng sanh còn trên dương thế.Đối với một chúng sanh mà chỉ còn là một thần
thức thôi, thì sự Nhẫn Nại của người chủ lễ sẽ nhiều gấp bội phần. Có đôi lúc,
thần thức đó, vong linh đó, không hiểu gì hết, cần phải cắt nghĩa, cần phải chỉ
dẫn từng bước một. Do đó, phải nhẫn nại rất nhiều.Điều quan trọng là, phải tìm
hiểu về vong linh đó, trước khi đảm nhiệm việc siêu độ cho vong linh. Nếu không
biết gì về vong linh, thì sẽ khó lòng dẫn dắt cho vong linh đi đúng đường được.
Phải nghĩ rằng: nếu một người đang khát nước mà cứ cho họ ăn, thì họ sẽ không
thể nào tiếp tục ăn được, hay ngược lại, nếu một kẻ đang muốn ăn mà không cho ăn,
cứ cho uống nước đầy bụng thì phải tới lúc người đó ói ra nước. Cho nên, đối
với vong linh cũng thế, phải tìm hiểu rất là cặn kẽ những uẩn khúc của vong
linh, tánh tình của vong linh, vì tất cả những nghiệp chướng mà vong linh đã
tạo ra, đều liên quan mật
thiết với cái Tánh của vong linh khi còn sống. Vì vậy, nếu không hiểu rõ vấn đề
đó, thì rất khó lòng giúp cho vong linh thoát được nghiệp chướng của mình.Nếu
một vong linh đã trả xong nghiệp chướng của mình, đã giải tỏa hết tất cả những điều
uẩn khúc của mình, thì vong linh không cần người siêu độ nữa, họ đã tự động ra đi
rồi. Khi vong linh vẫn còn vương vấn những uẩn khúc trong lòng, nghiệp
chướng bề bề chưa phân
giải được, thì
bắt buộc người chủ lễ phải hiểu rõ để giúp cho vong linh giải
trừ những khúc mắc. Vì vậy,
vai trò của người chủ lễ không phải đơn giản đâu! Cần phải nghiên cứu rất nhiều
trước khi ngồi xuống cùng với vong linh hành lễ.
Làm sao biết được vong linh nào đã siêu thoát ra đi và vong linh nào chưa
siêu thoát?
Nếu người chủ lễ không có
mặt vào giờ phút lâm chung của người quá cố, thì cần phải hỏi thân nhân của người
này để biết tướng trạng trên gương mặt của người đã qua đời như thế nào.Nếu người
này ra đi với bộ mặt rất là thanh thoát, thoải mái, hơi ấm cuối cùng tụ vào từ
ngực trở lên thì việc siêu
độ cho người đó không cần
phải tốn quá nhiều công sức.Còn nếu người đó có những ác tướng (vẻ mặt không
thoải mái: lo âu, sợ sệt, khổ, buồn...) hiện lên nơi mặt, có nghĩa là người này đã bị
vướng mắc rất là nhiều, không siêu
thoát được. Như vậy, phải
nghiên cứu những
khúc
mắc của người này để giúp
cho họ có thể thoát được Tam Đồ mà đi về đến cõi Người.Việc nghiên cứu một người
chưa siêu thoát không khác gì công việc của một Bác Sĩ. Muốn trị bịnh cho bịnh
nhân, cần phải lập hồ sơ Bịnh Án của từng bịnh nhân. Vị Bác Sĩ phải hiểu rõ
bịnh nhân này có căn bịnh gì? Nguồn gốc căn bịnh xuất phát từ đâu? Việc trị
bịnh gồm phương cách gì? Dùng các loại thuốc nào? v.v… Người chủ lễ phải tìm
hiểu thật cặn kẽ những lý do của từng ác tướng hiện trên nét mặt của người quá
cố. Hiểu được rõ ràng căn nguyên, cội rễ mới có thể giải thích, khuyên bảo để
cho vong linh xả bỏ những ẩn ức, những đau buồn, sân hận v.v…Nếu một người đã
qua đời được 1, 2 tiếng đồng hồ rồi, thân xác bắt đầu lạnh dần, khi sờ vào cảm
nhận được hơi ấm cuối cùng tụ vào hoặc trán, hoặc đỉnh đầu, có nghĩa rằng người
đó đã được tiếp rước hoặc về cõi Trời (hơi ấm cuối cùng tụ ở trán), hoặc về cõi
Phật (hơi ấm cuối cùng tụ ở đỉnh đầu). Việc siêu độ sẽ không cần thiết.Hơi ấm
tụ vào từ ngực trở xuống cần phải siêu độ. Dù rằng ở nơi ngực, tức là trở lại
cảnh giới Người, nhưng vẫn bị chi phối trong hạn 49 ngày. Thời gian 49 ngày là
thời gian đặc ân;nếu người đó được trở về cảnh giới Người, nhưng trong
suốt 49 ngày, nếu người
chủ lễ giúp cho họ biết ăn năn sám hối thêm, biết niệm Phật, nói tóm lại, là
biết tu tập, biết xả bỏ hết tất cả những vướng mắc, thì có thể hoán chuyển từ
cảnh giới Người lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật, tùy ở sức giúp của
người chủ lễ và tùy ở độ tiếp nhận của vong linh.
Nếu tới ngày thứ 49 mà
thần thức có một sự tiến bộ vượt bực, và theo ước muốn của thần thức(chớ không
phải ước muốn của người chủ lễ), thần thức sẽ được tiếp dẫn lên cõi Trời hay
cõi Phật. Nếu không đủ duyên lành để lên cõi Trời hay cõi Phật, thần thức sẽ được
trở lại làm Người, ở một hoàn cảnh khá hơn, ở một đẳng cấp cao hơn.Người chủ lễ
tu tập chân chính sẽ có được một cảm giác và cảm giác đó sẽ rất là tinh tế. Vì
vậy, khi làm chủ lễ phải rất là ĐỊNH để có thể lắng nghe hoặc là giao cảm được
với vong linh. Điều này rất khó, không phải dễ, tuy nhiên đoạn đường mình cất bước,
dù rằng đầy chông gai, hầm hố, không có nghĩa rằng mình không có cách để khắc
phục nó mà tiến lên.Giúp đỡ một
chúng sanh còn
trên dương thế, đưa họ từ đường
tối bước ra đường sáng, đã là một việc vô cùng phức tạp và đòi hỏi nhiều nhẫn
nại, nhiều tế nhị. Vong linh cũng là một chúng sanh, nhưng không còn có mặt ở
Cõi Đời nữa. Họ tạm thời vắng mặt, để sửa soạn khoác lên người một chiếc áo
mới.Người chủ lễ có bổn phận phải giúp cho vong linh lựa chọn một chiếc áo vừa
vặn, tốt đẹp, để đến khi vong linh sẵn sàng bước vào cuộc đời mới, Chiếc Áo Mới
này sẽ giúp cho vong linh gây tạo một sự chú ý đáng kể.Dù đã bước vào đường tu
tập, hay chưa bước vào đường tu tập, cũng nên thực tập chữ Bình, để đến khi có
việc cần đem ra sử dụng, sẽ đem đến một kết quả liền tức khắc. Nếu đợi đến phút
cuối thì khó lòng giữ được Tâm Bình. Hãy ghi nhớ một điều quan trọng là: nhận
lời làm chủ lễ siêu độ cho một vong linh, cần phải hiểu thật rõ ràng “bệnh án của
bệnh nhân”. Nếu nhận lời mà không biết gì về nguồn gốc, ngọn ngành của vong
linh, sẽ khó lòng mang đến một kết quả tốt đẹp được.Việc siêu độ cho một vong
linh, trên nguyên tắc phải liên tục trong 49 ngày, vì đó là “thời gian đặc ân.”
Vong linh rất cần được nghe Pháp; vong bị vướng mắc, không siêu thoát được,
cũng chỉ vì chưa giải tỏa được điều uẩn khúc trong lòng trước khi nhắm mắt lìa đời.
Cũng có khi vì một sự hiểu sai, hiểu lầm, hiểu chưa thấu đáo mà vong vô tình
bị vướng vào một nghiệp chướng.Nhờ
sự giúp đỡ của chủ lễ trong việc giải thích, giảng dạy, chỉ dẫn để vong nhận ra
điều sai trái, vong tỉnh ngộ, và nhẹ
nhàng cất bước. Trong việc
siêu độ, điều cần thiết và chánh yếu không phải
là vật thực (thức ăn) mà
chính là PhápThực. Vong linh cần phải được nghe Pháp, được nói đi nói lại rất
nhiều lần, tỉ tê, để cho vong có thể tiếp nhận được.Vong linh và người còn sống
khác biệt nhau ở chỗ nào?Người còn sống khi nói lên một điều gì là họ tiếp nhận
ngay, chỉ trừ khi họ bướng bỉnh thì họ từ chối không nghe. Còn vong
linh phải lặp đi, lặp
lại nhiều lần vì
họ không
còn ngũ căn,
do đó, một
khi họ đã cảm
nhận được rồi
thì thần thức
tức khắc rung động,
mọi việc được
chuyển hóa ngay
tức khắc. Cho nên cần phải có sự
kiên trì, nhẫn nại để tỉ tê nói cho thần thức nghe.
Sau Lễ An Táng
Thời gian 49 ngày có thể
chia ra làm 7 thất (tức là 7 tuần). Ngày tử được kể là ngày thứ nhất, từ đó
tính đến 49 ngày - và phân ra làm 7 tuần.
Sau lễ an táng, vong có
thể được:
1. Đưa về chùa
2. Hoặc đưa về nhà
(Nếu) Đưa
Vong Về Chùa
Thông thường,
nhà chùa chỉ
nhận lời siêu độ cho
vong trong 7 thất, tức là mỗi tuần, nhà chùa sẽ có lễ cầu siêu cho vong
một lần. Lễ siêu độ sẽ hoàn tất ở tuần thứ 7 (tổng cộng có 7 lần hành lễ siêu độ
cho vong ở chùa).
Nếu đã đưa vong về chùa
rồi, mà thân nhân vẫn muốn hành trì lễ siêu độ cho vong ở tại nhà, thì sẽ theo
cách thức như sau:
+ Lập bàn thờ vong ở
tại nhà
+Chỉ để hình của vong
hay bài vị trên bàn thờ vong - không làm nghi thức cho vong nhập vị (vì vong đã
nhập vị ở chùa rồi)
+Cũng không thỉnh hai
Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong
+Vị chủ lễ vẫn hành
trì nghi thức siêu độ mỗi ngày gồm
sám hối, trì
Chú, niệm Phật
và giảng Pháp. Không cần cúng cơm mỗi ngày vì nhà chùa
đã lo phần này rồi. Mỗi tuần một lần cúng cơm (ở chùa).
Quan trọng là: Khi hành lễ, vị chủ lễ phải thành tâm quán tưởng (tưởng
tượng hình ảnh của vong) vong đang ở trước mặt, cùng với mình hành lễ. Không có
phần triệu thỉnh
vong. Việc giảng Pháp
cũng như thế, phải
quán tưởng vong đang mặt đối mặt
với người chủ lễ để nghe Pháp.
Dù rằng vong đang ở chùa,
vẫn cảm nhận được hết những gì mà người chủ lễ thành tâm siêu độ cho vong.
Khi vong linh sám hối người
chủ lễ phải nói rằng:
“Vong linh tên _____, Pháp danh ____, mất
ngày ____,
đang ở tại Chùa ____(tên và địa chỉ),hãy
cùng với chủ lễ
hành trì nghi thức sám hối.”
Đến giai đoạn trì
Chú hay niệm
Phật, chủ lễ
cũng phải xướng lên như vậy:
“Vong linh đang ở tại chùa ____ (tên và địa
chỉ) hãy cùng
với chủ lễ trì Chú (hay niệm Phật).”
Sau mỗi khóa lễ, chủ lễ
phải khấn với Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng:
“Vong linh tên
____, mất ngày
_____, đang ở
tại chùa _____ (tên và địa
chỉ).Cầu xin Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ để cho vong linh ở tại chùa ____
được tu tập.”
Có lời khấn với Đức Địa
Tạng Vương Bồ Tát, Ngài sẽ đặc biệt theo dõi vong linh đó, để xem vong linh đó
tu tập như thế nào. Chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới có thể thẩm định được
sự tu tập, sự tiến triển của vong linh mà
thôi, để rồi cuối cùng mới
có thể quyết định được vong linh
sẽ thác sinh về đâu.
Ngày thứ 49, trong lúc
chùa hành lễ, người chủ lễ cũng hành lễ ở tại nhà vào giờ giấc đó. Sau khi chấm
dứt khóa lễ, chủ lễ cũng sẽ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhờ Ngài thẩm định
xem việc tu tập của vong linh ở tại chùa như thế nào, và nhờ Ngài sắp xếp giùm để
tiễn vong linh đi, theo đúng cảnh giới của vong linh. Điều này đòi hỏi người
chủ lễ phải luôn luôn giữ trạng thái Bình và phải nghĩ tưởng đến vong linh rất
rõ ràng trong lúc khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Người chủ lễ sẽ phải đem hết
sức lực của mình để giúp đỡ cho vong linh ở tại chùa, phải có một sự giao cảm
giữa vong linh và người chủ lễ, thì người chủ lễ mới có thể giúp được cho vong
linh ở tại chùa. Do đó, nếu đã có ý muốn siêu độ cho thân nhân, thì nên đưa
vong về nhà, mọi việc sẽ ở trong tầm tay của mình, sự giao cảm cũng sẽ dễ dàng
hơn.
(còn) Đưa Vong Về Nhà
Cách thức sẽ như sau:
1. Lập bàn thờ vong
2. Thỉnh vong về nhà
3. Thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho vong
nhập vị
4. Thỉnh hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ vong
5. Hành trì nghi thức siêu độ mỗi ngày cùng với
vong,
liên tục trong 49 ngày.
Cúng cơm mỗi ngày. Nếu gia
chủ quá bận rộn thì cúng cơm
mỗi tuần.
6. Sau phần nghi thức siêu độ là phần giảng Pháp
7. Ngày thứ 49, sau phần nghi thức siêu độ,
thỉnh Đức
Địa Tạng Vương Bồ Tát để
tiễn vong.
8. Sau đó tiễn hai Vị Hộ Pháp
9. Việc siêu độ cho vong đã hoàn tất.
Hai Vị Hộ Pháp này không
phải là Hộ Pháp Già Lam đâu. Hộ Pháp Già Lam là Hộ Pháp ở trong chùa để bảo vệ
kinh sách. Hai Vị Hộ Pháp nơi đây, do sự yêu cầu của chủ lễ nên có mặt để bảo
vệ cho vong. Vì vong hoàn toàn mới với Cõi Âm, cho nên, để tránh những việc đáng
tiếc xảy ra có hại cho vong linh, mới có việc hai Vị Hộ Pháp đi theo để bảo vệ
cho vong linh. Hai vị này đóng vai trò tương tự như hai vị cảnh sát của cõi dương
vậy. Hai vị này bảo vệ cho vong tránh gặp kẻ xấu. Kẻ xấu đó chính là những vong
linh ở tại
Cõi Âm từ rất lâu, không
siêu thoát được. Người mới mất, vong linh còn yếu, do đó dễ bị kẻ xấu ăn hiếp,
vì vậy, có hai Vị Hộ Pháp, do theo lời yêu cầu của chủ lễ, bảo vệ cho vong
trong thời gian 49 ngày. Sau 49 ngày, vong linh về
đúng cảnh giới của mình
rồi, hai Vị Hộ Pháp cũng chấm dứt nhiệm vụ bảo vệ cho vong linh.
Tâm Trạng Của Người Chủ Lễ Ảnh Hưởng Đến Vong Linh
Trong suốt 49 ngày, muốn
cho việc siêu độ mang lại kết quả tốt đẹp thật sự, người chủ lễ phải giữ Tâm
Bình, tránh phiền não hay lo lắng, sân hận, tránh tất cả những gì có liên quan đến
Tâm - Ý - Tánh.
Như vậy mới có thể giữ cho
hào quang của người chủ lễ không bị phai mờ; hào quang không phai mờ thì vong
mới kính phục được, mới nghe theo lời của chủ lễ chỉ dạy.Khi đảm
nhận trách nhiệm
giúp siêu độ
cho vong linh, người chủ lễ tuyệt đối không được buồn
rầu thương nhớ, vật vã khóc than sự ly biệt với người thân của mình.Đã là người
biết tu tập thì phải hiểu rằng, tất cả những tình cảm đó đều là KHÔNG. Cho nên,
tự họ phải biết buông bỏ những đau khổ khi bị mất mát. Những sự đau thương,
chia lìa, những tình cảm ủy mị, khóc thương, người tu tập chân chính phải biết
tiết
giảm, phải nhận chân ra được
một cách đương nhiên là, có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, có gặp gỡ thì có
chia xa, cho nên không có gì để phải đau buồn, khóc hận. Nếu đứng ra siêu độ
cho một vong linh mà ngập tràn nước
mắt, làm
sao giữ được
Tâm Bình? Không
giữ được tâm bình, sẽ không giữ được sự rực sáng của
ánh hào quang, mà hào quang không rực sáng, sẽ khó lòng dẫn dắt vong đi đúng đường
được. Phải ghi nhớ các câu hỏi vô cùng quan trọng sau đây:
« Mình làm sao để tỏ
lòng thương yêu của mình đến thân nhân quá cố? »
Phải giúp cho họ được thăng hoa.
« Muốn cho họ được thăng
hoa, mình phải làm như thế nào? »
Phải kiên trì và hành xử
cho thật đúng việc siêu độ.
Thần thức của thân nhân mình
có rung động được thì việc siêu thoát, việc thăng hoa mới có thể có kết quả tốt
đẹp được. Thương yêu thân
nhân, tưởng nhớ đến thân
nhân không phải bằng nước mắt,
bằng sự vật vã, khóc than, kêu gào. Tất cả những hành động đó không đem lại điều
lợi ích, mà
trái lại, đẩy mình và thân
nhân của mình càng đi ngược chiều, không tiến gần lại được để mà cứu giúp.
Chuẩn Bị Cho
Hương Linh
Lập Bàn Thờ Phật
Tại sao có việc lập bàn
thờ? Chẳng qua là vì giúp cho chúng sanh dễ dàng quán tưởng. Nếu chúng sanh nào
có thể quán tưởng dễ dàng, thì cũng không cần phải lập một bàn thờ. Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật đã giới thiệu đến chúng sanh của cõi Ta Bà về Đức A Di Đà
Phật, vị giáo chủ của
cõi Tây Phương Cực Lạc. Vị
Phật này đã có lời thệ nguyện, là sẽ tiếp độ chúng sanh của cõi Ta Bà, nếu
chúng sanh đó thật tâm muốn về cõi Cực Lạc của Ngài.Chúng sanh nơi cõi Ta Bà đã
ví Ngài như một Từ Phụ và cảm thấy rất gần gũi với Ngài. Người đời đã họa hình
của Đức A Di Đà Phật và cũng họa hình của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng Đức Đại
Thế Chí Bồ Tát. Hai vị Đại Bồ Tát này là cánh tay Phải và cánh tay Trái của Đức
A Di Đà Phật, trong công việc tiếp độ chúng sanh.Cho nên, cõi Tây Phương Cực
Lạc được thể hiện qua hình tượng của 3 vị: Đức A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát, được gọi một cách trang trọng là Tây Phương Tam
Thánh.
Vị giáo chủ của cõi Ta Bà
là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Một người bước vào việc tu tập, không thể
nào quên được Đấng Cha Lành của mình chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho
nên, vị Phật chánh yếu phải tôn thờ và quán tưởng trong lúc tu tập, chính là Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đức A Di Đà Phật cùng Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là biểu tượng của Thế Giới Cực Lạc mà chúng
sanh muốn được an trụ sau khi bỏ xác thân. Vì vậy, phải luôn luôn có sự đi đôi
giữa hình tượng của Đức Bổn sư và cả ba vị của cõi Cực Lạc. Ngoài ra, nếu hành
giả muốn thờ thêm bất kỳmột vị Phật nào, một vị Bồ Tát nào cũng đều được cả,
tùy ở lòng thành
tâm của hành giả đó. Việc
lập bàn thờ là một việc tùy Tâm, tùy Hỷ, không bắt buộc; tuy nhiên, cũng là điều
lợi ích, vì đó là một sự nhắc nhở từng giờ, từng phút, từng giây; từng ngày,
từng tháng, từng năm cho hành giả luôn nhớ đến con đường mình đang đi và mục đích
của mình trong việc tu tập. Nó cũng nhắc nhở cho mình hiểu, phải tu tập như thế
nào để không bị lạc lối, để an toàn đến được bến bờ. Việc bài trí, trang hoàng,
tùy vào tầm nhìn, tùy theo quan niệm của mỗi người. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ
như Tâm của mình, luôn luôn bình dị, thì chữ Bình mới ở mãi trong Tâm; đừng gây
nhiều rắc rối, đừng gây nhiều phức tạp, sẽ khiến cho mình dễ bị vướng mắc.
Bàn Thờ Vong:
1. Bàn thờ vong phải đặt một nơi cách xa bàn thờ
Phật. Tại sao? Bàn thờ Phật là nơi mà hành giả đến tu tập mỗi ngày. Công năng
của việc trì Chú, niệm Phật giúp cho hành giả có được một đạo lực. Đạo Lực này
sẽ tỏa ra ánh hào quang, bao trùm Đạo Tràng mỗi khi hành giả ngồi vào tu tập. Đó
là chưa kể, nếu có thiện duyên, sẽ có những vị như Chư Thiên, Chư Thánh, Chư
Thần sở tại, nơi vùng đất của hành giả ở, hoặc Hộ Pháp Già Lam, v.v… cùng đến
tu tập chung.Nếu hành giả là một người tu tập chân chánh thì sẽ được sự ủng hộ
của các vị này. Cho nên khi tu tập, phải thận trọng rất nhiều, phải giữ gìn tư
cách, giữ oai nghi của mình, vì không phải chỉ có riêng mình ngồi tu đâu!
Vong linh vì không còn bị vướng bận bởi ngũ căn
nữa, nên có thể nhìn thấu suốt tất cả. Vì vậy vong rất sợ hãi, không dám bén
mảng đến Bàn thờ Phật. Do đó mà phải lập một bàn thờ riêng cho vong.2. Muốn cho
vong luôn trụ ở trong nhà trong suốt 49 ngày, khi cho vong nhập vị phải nói với
vong rằng: “Hương linh ở tại nơi đây và không đi lẩn quẩn trong nhà, không được
ra khỏi bài vị, chỉ khi nào có lời triệu thỉnh vong ra để nhận thức ăn hay cùng
tu tập thì vong mới được ra.” Khi thời khóa tu đã chấm dứt, thì phải tiễn vong
vào bài vị, vong sẽ an trụ nơi đó để lúc nào cũng nghe câu niệm Phật.3. Khi cho
vong nhập vị rồi (tức là ở trong bài vị), người chủ lễ sẽ thỉnh hai Vị Hộ Pháp để
trông coi vong, không cho phép vong được tự do xuất nhập. Thật ra vong cũng
không thể tự do xuất nhập, nếu không có lời mời gọi của vị chủ lễ, nhưng hai Vị
Hộ Pháp đó cũng vẫn được thỉnh để giữ Vong trong suốt 49 ngày. Đó là hai Vị Hộ
Pháp đặc biệt chỉ để canh giữ vong, chỉ cần người chủ lễ khởi tâm cầu nguyện là
hai Vị Hộ Pháp đó sẽ xuất hiện và giữ sát vong, cho nên vong không thể nào đi
loanh quanh trong nhà được, trong suốt 49 ngày.
Nên sử dụng loại đèn cầy (Nến) như trong
hình để có thể
thắp
sáng trong suốt 49 ngày.
4. Nếu không cho vong nhập
vị thì chỉ thỉnh vong về trong lúc làm lễ, rồi thì tiễn vong đi. Khi tiễn vong đi,
vong sẽ bước ra khỏi nhà và cũng không thể nào tự ý quay trở lại, vì Sơn Thần,
Thổ Địa nơi đó không cho phép; chỉ trừ một vài trường hợp rất là đặc biệt, do
một nghiệp chướng nào đó, khiến cho vong vào trong nhà của một người, nhưng
việc đó cũng rất ít xảy ra.Khi
không cho vong
nhập vị, cũng
là một điều
bất lợi, vong sẽ không chú tâm
một cách hoàn toàn vào việc tu tập, vì không có nhà để ở, cái bài vị được xem
như là căn nhà của vong linh!Do đó, nếu người chủ lễ hoặc những người trong gia
đình hiểu thấu đáo việc tu tập, thì nên để cho vong nhập vị, giúp
cho vong có đủ thì giờ
trong suốt 49 ngày, làm đúng những điều mà người chủ lễ hướng dẫn cho vong.
Vong đi lang thang cũng khó lòng mà Định được và làm đúng hoàn toàn những điều
chỉ dẫn của chủ lễ.
5. Nếu có nhiều người ở
nhiều nơi khác nhau, cùng phát tâm thành siêu độ cho chỉ một người, mỗi người đều
lập bàn thờ vong, theo nguyên tắc,cần phải có sự thống nhất giữa mọi người là
vong sẽ trụ ở đâu?Tuy là vong trụ lại ở một nơi nào đó, nhưng nếu tất cả mọi người đều
hành lễ, đều
dốc tâm siêu độ, vong
vẫn cảm nhận được như thường. Dù
rằng bên kia có cho vong ăn - mà ở nơi này vong đang nghe Pháp, vong vẫn cảm
nhận được thức ăn từ ở nơi người bên kia dâng cúng. Cho nên không cần phải di
chuyển đi đâu cả.
Chủ lễ nào giảng Pháp hay
nói bất kỳđiều gì với vong, vong đều hiểu, đều cảm nhận được hết. Một điều cần
phải ghi nhớ là: tất cả mọi thứ phải từ ở Tâm Thành mà ra thì mới có thể giao
cảm được với vong, còn làm cho lấy có,
lấy lệ, không do một tâm
thành, sẽ không có sự cảm nhận của vong đâu!
Nếu cảm thấy mình không
hết dạ chân thành, đừng nên đứng ra siêu độ cho vong linh, vì như vậy sẽ mất
nhiều thì giờ, mà không đem lại kết quả gì cả, nếu không muốn nói rằng, làm cho
vong thất vọng, và không đặt được một niềm tin nơi người chủ lễ.Cốt yếu của
việc làm chủ lễ là để giúp siêu độ cho một vong linh, không phải vì danh, không
phải vì tiếng, cũng không phải vì bất cứ lợi lạc nào cả, mà phải vì một cái tâm
chân thành và tha thiết.
Lập Bài Vị Cho Vong Linh
Việc lập bài vị cho vong
linh, phải theo cách thức như sau: Nếu có hình ảnh thì để hình ảnh của hương
linh vào khuôn hình, kèm theo chi tiết: tên, họ, Pháp danh (nếu có), ngày sanh,
ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương). Nếu vị chủ lễ không phải là thân
nhân của người quá cố, những chi tiết này sẽ giúp cho người đó không bị lúng
túng khi triệu thỉnh vong.Nếu không có hình ảnh thì ghi tên họ, Pháp danh (nếu
có), ngày sanh, ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương) v.v… lên một miếng
giấy, cắt cho vừa khuôn hình và để vào.
Cách Thức Cho Vong Nhập Vị
1. Chủ lễ đứng trước bàn thờ vong
2. Khuôn hình hoặc bài vị đã sẵn sàng trên bàn
thờ vong
3. Chủ lễ đánh 3 tiếng chuông, chấp tay niệm:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát (3 lần)
4. Chủ lễ khấn:
Con
tên là ________,
xin đem hết
Tâm Thành,Tâm Lực làm chủ lễ giúp
siêu độ cho Hương Linhtên ________, Pháp danh(nếu có)________, sanhngày____ mất
ngày____ hưởng thọ ___ tuổi.
Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho Hương Linh nhập vị.
Chủ lễ (vẫn còn chấp tay
trước ngực) quán tưởng hương linh ở trước mặt, vừa lớn tiếng kêu lên:
“Hương Linh tên ________ nhập vị!”
Vừa vung thẳng tay (đang
chấp lại), chỉa thẳng vào khuôn hình, hơi hất nhẹ bàn tay lên.
Chú ý:Trước khi thật sự cho hương linh nhập vị, chủ lễ nên
thực tập động tác này, (nhớ khoan quán tưởng), để cho thuần thục, tiếng kêu
phải mạnh mẽ, cứng rắn, động tác chắc chắn và gọn.
Ngay sau đó, vị chủ lễ khấn
hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho
vong. Chỉ cần khấn như
sau:
Con tên ____, ngày hôm nay nhận làm chủ lễ để
siêu
độ cho vong linh tên ____, sanh ngày ____,
mất ngày
____. Con đã cho hương linh nhập vị rồi,
cầu mong
hai vị Hộ Pháp hiện diện để bảo hộ cho vong
linh.
Tức khắc sẽ có hai Vị Hộ
Pháp đến ngay.
Khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đóng
vai trò rất quan trọng trong việc giúp siêu độ cho hương linh.Sau lễ an táng,
ngay khi dẫn vong về nhà, người chủ lễ đã
phải khấn Đức Địa Tạng Vương
Bồ Tát để nhờ Ngài giúp cho hương linh nhập vị.Mỗi ngày trong mỗi thất, mở đầu
nghi thức cúng vong, đều phải thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ở thất thứ bảy,
vào ngày thứ 49, phải có lời cầu nguyện của người chủ lễ đến Đức Địa Tạng Vương
Bồ Tát; chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới thẩm định được, hương linh có đủ tư
cách để đi về cõi Phật hay về cõi Trời hoặc về cõi Người. Vì vậy, người chủ lễ
phải thành tâm cầu nguyện Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, để Ngài sắp xếp và giúp đỡ
cho hương
linh được thác
sanh theo đúng
cảnh giới của mình.
Thời gian 49 ngày là thời
gian chuyển đổi, hoán chuyển tâm của một hương linh. Có thể nói rằng, ở thất
thứ nhất, hương linh chưa có ý niệm về cõi Trời hay cõi Cực Lạc, nhưng nhờ sự hướng
dẫn, giải thích của người chủ lễ mà
hương linh giác ngộ và chí
tâm tu tập. Chính Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là người thẩm định được sự chuyển
hóa của thần thức, để có thể tiễn thần thức đi về đúng cảnh giới của họ. Người
chủ lễ phải hiểu rất rõ việc này, vì người chủ lễ không thể thẩm định được việc
tu tập của hương linh như thế nào, chỉ có thể giúp đỡ, chỉ có thể cổ võ cho hương
linh tu tập, nhưng người thẩm định việc tu tập chính là Đức Địa Tạng Vương Bồ
Tát.
Triệu Thỉnh Hương Linh
Người chủ lễ thành tâm,
chân chính, sẽ giao cảm một cách rất dễ dàng với hương linh thân nhân, chỉ cần
một lời khấn là hương linh đó sẽ hiện đến ngay. Không cần phải trì Chú triệu
thỉnh.
Tuy nhiên để bảo vệ người
chủ lễ, việc triệu thỉnh vong nên nhờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ.Người
chủ lễ thành tâm khấn trước bàn thờ vong như sau.
Đánh 3 tiếng chuông, chấp
tay khấn:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)
Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Cúi lạy các vị Hộ Pháp đang bảo vệ cho Hương
linh
tên là ________
Pháp danh ________
sanh ngày
________ mất ngày ________ hưởng thọ ____ tuổi.
Con tên là ______ hôm nay đứng làm chủ lễ giúp siêu
độ cho vong linh tên ______ Pháp danh _______.Cúi xin Đức Địa Tạng Vương Bồ
Tát cùng hai vị Hộ Pháp đưa giúp hương linh đến ngay
Đạo Tràng để
hành lễ.
Đốt Quần Áo Cho Hương Linh
Vong mới mất có cảm thấy lạnh lẽo, cần phải đốt
quần áo ấm áp, cúng cho vong không?Nếu người mới mất đã được liệm với đầy đủ y
phục rồi thì
không cần thiết; chỉ trừ khi nào mình biết đích
xác rằng người đó không có đầy đủ y phục trên người, hoặc không được liệm một
cách đàng hoàng, lúc đó mới cúng cho vong quần áo, tất cả những vật dụng cần
thiết để cho vong mặc
vào.Nếu trường hợp bắt buộc phải cúng quần áo cho
vong,nên cúng đồ thật. Đồ bằng giấy thì vong sẽ sử dụng trong một thời gian
ngắn rồi cũng sẽ tiêu đi, nhưng đồ thật thì vong sẽ giữ được lâu hơn. Thường
thì nên cúng cho vong hoặc chính đồ của họ lúc còn sanh tiền, hoặc là đồ mới,
không nên lấy đồ cũ của người khác mà cúng cho vong; mỗi người, dù sống hay đã
chết, đều mang trên người một cái mùi riêng của chính họ, cho nên, hoặc là quần
áo của chính họ, hoặc là quần áo mới không có mùi, chưa có ai mặc qua, như vậy
vong mới dễ dàng tiếp nhận.Đã là một cái vong, tức
là ở vào trạng thái vô hình, tại sao lại có cảm giác lạnh lẽo, cần quần áo?Thật
sự ra, vong linh chỉ là một cái hơi thôi, rất nhẹ. Tuy nhiên vì vong mới mất,
ký ức chưa phai, A Lại Da Thức còn rất mạnh, cho nên vong cảm nhận rất dễ dàng;
một người đã mất từ lâu, sự cảm nhận cũng sẽ yếu đi rất là nhiều. Do ở sự cảm
nhận còn rất mạnh, cái vong vừa mới mất, nhìn thấu suốt được những gì xảy ra
chung quanh họ.Gia đình vẫn còn kia, người thân vẫn còn đó, nhưng lạ quá, sao
mặt ai cũng buồn bã, đầm đìa nước mắt? Việc gì đã xảy ra? Vong nôn nóng muốn
biết rõ nguyên do, nhưng hình như hỏi ai, ai cũng không buồn đáp lại!Vong ngơ
ngác trước một
hoàn cảnh mới,
cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mọi người chung quanh hình
như trở nên xa lạ, không tỏ ra mừng rỡ, để ý đến vong.
Vong chưa nhận ra được rằng mình đã “CHẾT,” bắt đầu
sợ hãi trong một khung cảnh mới. Sự sợ hãi đó khiến cho chút hơi ấm cuối cùng
mà thần thức đã mang theo khi thoát ra khỏi thân xác, sẽ tan biến dần đi. Sự sợ
hãi càng gia tăng, hơi ấm càng tan nhanh. Khi đó, vong sẽ cảm thấy lạnh và
xiểng niểng như người bị đói.Thật sự ra, sự đói lạnh chỉ là một sự cảm nhận của
vong
linh mà thôi. Cảm nhận rằng cái chung quanh quen
thuộc của mình không còn. Khi còn sống, vong được bao bọc bởi một căn nhà ấm
áp, trên một cái giường cũng ấm áp, và chung quanh hơi người cũng ấm áp, có lò
sưởi ấm áp, và được no nê. Thoắt một cái, thần thức thoát ra khỏi thân xác,
bỗng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và sợ hãi. Người còn sống cũng có cùng một cảm
giác như thế mỗi khi sự sợ hãi dâng cao, thần kinh căng thẳng tột độ, sau cơn
sợ đó rồi thì mệt lả người, vừa đói, vừa run, vừa lạnh! Vì vậy mà cần phải cho
vong nhập vị!
Người
chủ lễ theo đúng nghi
thức, giúp cho
vong nhập
vị để vong được an trụ trong một nơi không quá
rộng rãi,
vong sẽ cảm thấy ấm áp hơn và đỡ sợ hãi hơn.
Cúng Cơm Cho Hương Linh
Vấn đề cúng cơm trong 49 ngày, cúng bao nhiêu lần,
cúng những thức ăn gì?
Đúng
lý ra, vong
cần Pháp thực hơn cần
vật thực. Tuy nhiên, lòng thương yêu của người còn sống
đối với thân nhân quá cố được biểu lộ bằng cách cho ăn, chớ thật sự ra, vong
không cần phải ăn đâu! Vong cần Pháp thực để có thể hiểu rõ, để có thể rung cảm
được. Một khi rung cảm được thì vong có thể siêu được một cách dễ dàng. Tuy
vậy, muốn cho von ăn thì cũng được; nếu có nhiều thì giờ thì cho vong ăn mỗi ngày,
nếu không có nhiều thì giờ
thì cho vong ăn mỗi tuần, hay mỗi hai tuần, tùy ở
lòng hảo tâm của người chủ lễ, không nhất thiết lắm.Một người khi còn tại thế,
có thể ăn bất kỳmột con vật nào hợp với khẩu vị của họ, nhưng khi đã bỏ xác
thân rồi, bất luận là dân tộc nào, tôn giáo nào, vong cũng chỉ hưởng đồ thanh
nhẹ, không hưởng những đồ nặng được (như tôm, cua, sò, ốc, thịt, cá…). Trong thời
gian người chủ
lễ hành lễ
siêu độ cho
vong, người chủ lễ bắt buộc phải trường chay trong 49 ngày, có thể dùng
những thức ăn của người chủ lễ để chia lại cho vong cũng rất tốt; tức là tuyệt đối
phải cúng thức ăn chay cho Vong.
Biến Thực Biến Thủy
Khi dâng cúng đồ ăn thức uống cho vong, người chủ
lễ có cần phải trì Chú biến thực biến thủy không? Biến thực biến thủy là biến đồ
ăn thức uống ra nhiều để tất cả các vong đều nhận được cả.Nếu cúng cho 2 vong
linh cùng chung một bàn thức ăn thì lúc đó phải biến thực biến thủy. Nếu cúng
cho 2 vong linh ở 2 bàn thờ vong khác nhau thì không cần phải biến thực biến
thủy. Thức ăn của vong linh nào thì vong linh đó hưởng khi được dâng cúng.
Nếu cúng cho nhiều vong linh ở tại 1 bàn thờ vong
thì phải biến thực biến thủy để tất cả các vong đều nhận được đồ ăn thức uống.
Việc trì Chú Biến Thực Biến Thủy2 đòi hỏi một sự quán tưởng. Người chủ lễ
chưa biết tu tập, đem tâm lực của mình.
---------------------------------------------------------------------------
2BIẾN THỰC CHƠN NGÔN: Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam
bạt ra, tam bạt ra hồng. (7 lần)
CAM LỘ THUỶ CHƠN NGÔN: Nam mô tô rô bà da, đát tha
nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô tô rô, bát ra tô rô,bát ra tô rô, ta bà ha. (7
lần
---------------------------------------------------------------------------
để siêu độ cho Hương Linh, nên tránh những việc
khiến
cho mình lúng túng, không trôi chảy trong khi hành
lễ - vả
lại thân nhân quá cố cũng chỉ một người, cho nên
lấy tâm
thành khấn nguyện khi dâng cúng thức ăn cho hương
linh
là đủ rồi.
Tất cả mọi việc không nên cưỡng cầu, làm trong khả
năng gánh vác được của mình. Điều quan trọng chính là sự Thành Tâm, Thành Ý của
mình đối với vong linh.Thức ăn được bày ra để cúng cho vong, cũng chỉ tượng trưng
một vài món, chứ không cần phải quá nhiều. Vong không ăn và nuốt như người đời đâu!
Vong chỉ hưởng hơi thôi, vì có thân xác đâu để mà ăn với uống. Tất cả mọi thứ
cũng chỉ là qua Ý Thức mà thôi.
Khai Yết Hầu
Nên nhớ rằng: vong linh chỉ là một cái bóng rất
nhẹ, cần phải trì Chú Khai Yết Hầu 3
vong mới có thể hấp thụ dễ dàng được hết những cái hơi từ ở thức ăn
dâng cúng. Trong thời gian
49 ngày, vong
linh còn cảm
giác mình
hiện hữu, do đó mà mới có vấn đề đói lạnh. Sở dĩ
có vật thực là tại vì hương linh chưa nhận thức được rằng mình đã mất, cho nên
vẫn còn cảm giác đói no, vì vậy mà phải cho hương linh được thỏa cái cảm giác đó
của mình.
-----------------------------------------------------
3KHAI YẾT HẦU CHƠN NGÔN: Án, bộ bộ đế rị, dà đa rị đát đa nga đa da. (7 lần)
-----------------------------------------------------
Nhưng muốn cho hương linh thỏa được cái cảm giác đó,
phải có câu thần Chú Khai Yết Hầu để khơi dậy cái thức của hương linh, giúp hương
linh nhận ra rằng đây là đồ ăn thức uống. Khi hương linh nhận biết được thì hương
linh sẽ
hấp thụ được, nếu hương linh không nhận biết được
thì sẽ không hấp thụ được. Cho nên việc hương linh hấp thụ được lý cao siêu của
lời Kinh, của câu trì Chú, niệm Phật, của lời giảng Pháp, sẽ giúp cho cái Thức
của hương linh sáng rực lên. Pháp thực cần hơn vật thực ở điểm đó vì sẽ giúp
cho cái thức của hương linh được sáng lên, tức là cho hương linh cái Trí
Huệ.Với cái Trí Huệ đó, hương linh mới nhận ra được hướng đi của mình và biết được
nên đi về đâu, nếu có sự chọn lựa giữa Cõi Trời hay Cõi Phật hoặc Cõi Người. Thời
gian 49 ngày là thời gian “đặc ân.” Dù rằng khi còn sống, hương linh không đủ tư
cách để được vãng sanh về cõi Cực Lạc hay được về Cõi Trời, nhưng nếu trong
thời gian 49 ngày, hương linh hết dạ chân thành ăn năn sám hối, biết bỏ xuống
hết tất cả những phiền não và nhận chân ra được rằng mình
đã làm điều sai trái, hương linh sẽ có toàn quyền
trên sự lựa chọn của mình giữa 3 cõi Phật -Trời - Người.
Vật thực dâng cúng cho vong,
ngoài trà, nước hoặc nước ngọt, có nên cúng rượu hoặc bia hay không?
Nên nhớ rằng: vật thực cho vong gồm tất cả những
gì thật là giản dị thì vong sẽ nhận được, còn những gì rườm rà vong khó lòng
nhận được. Sắp dọn cho vong ăn có cần phải đặt chén, dĩa, muổng, đũa hay
không? Thật ra vong cũng không cần đến muỗng nỉa gì hết, vong chỉ hưởng mùi
thôi. Cho nên, cần phải dùng những thức ăn thật là thanh.
Vong Thật Sự Cần Những Gì?
Điều quan trọng không phải là cho vong ăn, mà
chính là phải giúp cho vong sám hối, sám hối rất nhiều! Khi một người bỏ thân
xác, không phải rằng chỉ một hiện kiếp là người đó có thể thanh toán hết tất cả
nghiệp lực của mình trong quá khứ, đó là chưa kể rằng trong hiện kiếp, người đó
đã còn tạo ra những nghiệp lực mới nữa. Cho nên vong phải sám hối, sám hối
không ngừng. Vì vậy thời giờ cho vong ăn, nên để dành cho vong sám hối, niệm
Phật và giảng Pháp cho vong nghe. Cho nên, đừng quan trọng hóa việc cho vong ăn,
đó là tư tưởng thường tình của chúng sanh, có cho ăn thì mới tỏ
rõ được tấc lòng thương yêu, trìu mến. Đối với một
vong linh, làm sao cho thần thức rung động nhanh chóngđể tìm ra đúng con đường đi
kế tiếp của mình, đó mới là một tình thương đúng nghĩa, một sự chắt chiu hợp
lý, hợp tình của người ở lại.Người đời đặt ra rất là nhiều nghi thức, bảo phải
như vầy,
như vầy, và biến cái không thành cái có.
Cái không là cái gì?
Cái không là vong linh. Biến thành cái có, là vong
linh biến trở lại làm người. Cho nên đặt ra rất nhiều nghi thức rườm rà. Thoạt
xem qua thì tưởng là có ích lợi cho vong, nhưng thật sự ra thì không có gì ích
lợi cả. Vong cần phải bỏ xuống cái gánh nặng của mình. Nếu một vong linh nào
vào giờ phút lâm chung, không tự siêu thoát được, thì phải chắc chắn rằng, vong
linh đó bị vướng mắc. Hơi ấm cuối cùng dù rằng tụ lại ở ngực, tức là được trở
lại
kiếp Người, nhưng vẫn phải siêu độ, vì sao?Vong
linh đó không bị đọa, có nghĩa là không bị vướng mắc quá nhiều đến nỗi phải bị đọa,
nhưng vẫn có vướng mắc; không có vong linh nào trở lại kiếp người mà không bị vướng
mắc cả. Cho nên, nếu hơi ấm cuối cùng tụ từ ngực trở xuống, bắt buộc phải siêu độ
để cho các vướng mắc đó được trở nên nhẹ nhàng. Mà những vướng mắc đó là cái
gì? Tức là những nghiệp lực của mình, nhân quả mình tạo ra, những điều sai trái
mình làm, những suy nghĩ sai lầm của mình. Tất cả những
cái gì không nằm trong chữ Đúng, đều phải giúp cho
vong cởi bỏ xuống. Những nỗi oan tình, ẩn ức, những uẩn khúc không bày tỏ được…
tất cả những điều đó thuộc về Sân Hận, khiến cho vong linh khó lòng cất bước.
Vì vậy bắt
buộc phải siêu độ. Những người được ra đi tức
khắc, sinh về
Cõi Trời hay Cõi
Phật, những người đó không
cần phải siêu độ. Cho nên, siêu độ cho vong linh, điều quan
trọng là phải làm sao để cho vong linh thấu hiểu được rằng, vong linh ra đi
mang hành trang quá nhiều, mà hành trang đó không phải là những hành trang quý
báu. Hành trang đó chỉ là những cục đá mà thôi, mang theo làm gì cho nặng nề.
Do đó, cần phải giúp cho vong linh soạn lại cái hành trang của mình, để cho được
nhẹ nhàng hơn.Tất cả những nghi thức nào giúp cho vong linh được nhẹ nhàng cất
bước, nhìn thấu suốt được con đường mình đi, nói tóm lại, là giúp cho vong linh
sớm siêu thoát, các nghi thức đó đều chấp nhận được. Ngoài ra đó, những gì rườm
rà, không ích lợi cho vong linh thì không nên đặt thành vấn đề và không nên xem
nó là cần thiết.Vong linh cần Pháp thực hơn là vật thực. Cúng một chén cơm,
cúng hai chén cơm, cúng ba chén cơm hay cúng một chục chén cơm, vong linh cũng
chỉ hưởng được hơi cơm mà thôi. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, đồ ăn
phải thật là ngon, chỉ cần làm sao đồ ăn thật tinh khiết, để vong có thể hấp
thụ được cái hơi mà thôi, càng tinh khiết chừng nào thì vong linh càng dễ dàng
hấp thụ chừng nấy. Nếu không thể nào nấu ra thành món ăn, chỉ cần 1 chén cơm,
vong linh cũng vẫn hưởng được, không sao cả.
Việc Siêu Độ Cho Hương Linh
Có Nhiều Đứa Con
Một người cha hay một người mẹ có nhiều đứa con,
nếu hoặc cha hay mẹ mất đi, con cái của họ đồng phát tâm hoặc có một số phát
tâm để siêu độ thì:
1. Nếu con cái cùng tụ về một nơi, cần ghi nhận:
a. Người con biết tu tập sẽ đảm nhận vai trò chủ
lễ.
Những người con khác đem Tâm Lực của mình phụ trợ
cho chủ lễ trong việc siêu độ.
b. Nếu có nhiều người con cũng biết tu tập thì
mỗi người thay
phiên nhau làm
chủ lễ; người
này hành lễ xong thì tới phiên người kia. Điều cốt yếu là giúp cho vong linh sám hối
nhiều chừng nào tốt chừng nấy, việc giảng Pháp cũng không kém phần quan trọng.
Tỉ tê giảng giải để cho vong hiểu và thấm thía.Chỉ cần cho vong ăn một lần
trong ngày, nhưng có thể giảng
Pháp cho vong
nghe 3 lần
trong ngày cũng vẫn rất tốt. Các vị chủ lễ chia phiên
nhau mà hành lễ, 2 lần hay 3 lần trong ngày đều
rất lợi lạc cho vong linh.
c. Ngoài các người con, còn có các thân nhân
khác,
Bạn bè, thân quyến, mỗi người đồng đem tâm thành
của mình mà siêu độ cho vong linh, chắc chắn
rằng vong linh
sẽ sớm thoát
khỏi những vướng mắc trong lòng
mà an ổn ra đi.
Nên nhớ kỹ một điều, đem hết sự chân thành siêu độ
cho vong linh, công đức đó, người hành trì siêu độ hưởng 6 phần, vong linh hưởng
được 1 phần.Nếu càng có nhiều tấm lòng thành, thì công đức vong linh được hưởng
càng nhiều, sự ra đi xem như cái búng tay, và hành trang của vong linh khi đó
lại càng thêm nặng trĩu các đồng tiền Công Đức.Người đời thường đưa tiễn vong
linh bằng câu chúc: “Cầu cho Hương Linh được siêu thăng Tịnh Độ.”
Trong trường hợp này, có bắt tay vào việc siêu độ
cho vong linh, có hết dạ chân thành siêu độ cho vong linh, có trân trọng trao
tặng cho vong linh những đồng tiền Công Đức, các thân bằng quyến thuộc mới thể
hiện một cách tuyệt vời và đúng nghĩa lời chúc kể trên.Cần phải luôn luôn tâm
niệm rằng: Việc siêu độ đòi hỏi một sự Thành Tâm Thành Ý tối đa. Nếu kẻ thành
tâm chỉ
có một, mà người “lơ là” lại số đông, thì kết quả
cũng chỉ là một mà thôi! Vong linh cũng chỉ hưởng có một phần công đức do người
thành tâm thành ý ban cho.
2. Nếu con cái ở rải rác nhiều nơi:
a. Những
người biết tu
tập hoặc chưa
biết tu tập nhưng
có Tâm Lực
mạnh cũng muốn đứng ra siêu độ cho cha hoặc mẹ mình, tất cả sẽ
hội ý với nhau và ấn định thời khóa siêu độ.
b. Người
chủ lễ chánh
thì chọn một
buổi nào đó trong ngày. Các người khác chia nhau các buổi còn lại.
c. Việc siêu độ của từng đứa con, sẽ giúp cho
vong linh cảm nhận được
một sự ấm áp của không khí gia đình luôn tràn đầy, do đó vong linh sẽ cảm thấy
ít đói lạnh hơn.
Ghi Nhớ:
Trước khi bắt tay vào việc hành trì siêu độ, chủ
lễ nên đọc thật kỹ từng phần của những lời giảng giải, ghi chú những phần nào,
những chi tiết
nào cần thiết
phải làm, có lớp
lang, thứ tự để dễ dàng tuần tự tiến hành, không vấp váp, không lúng túng.
Hướng Dẫn Phần Nghi Thức
Việc tu tập bao gồm:
Sám hối
Trì Chú
Niệm Phật
Đọc Pháp và Giảng Pháp
Đây là những nguyên tắc căn bản áp dụng cho người
sống lẫn người chết.
Người đã lìa đời, không còn đủ căn thức để tự buộc
mình hành việc tu tập mà cầu giải thoát, tháo gỡ những vướng mắc mình
tự buộc ràng
từ khi còn
tại thế. Có
khi cũng không hiểu, không nhận
chân ra được là mình đã làm sai, hay hiểu sai về một việc gì.Khi còn sống không
tha thiết đến việc tu tập, trí huệ không được phát sáng. Khi đã bỏ báu thân
rồi, thần thức cũng tối
mò mò, không phân định được hướng đi của mình Người
chủ lễ có bổn phận giúp cho hương linh đốt sáng ngọn đèn trí huệ của mình qua
việc Sám Hối, Trì Chú và Niệm Phật. Sau đó, dùng lời Pháp để giảng dạy, dẫn dắt
cho vong “MỞ TRÍ,” phân biệt được điều đúng sai, nên hay không nên. Vong có được
chút trí huệ phát sáng, tìm đường thác sanh rất dễ dàng.
Sám Hối
Phật Thuyết Kinh Thập Nhị Phật Danh So Sánh Công Đức
Trừ Chướng Diệt
Tội là một món
quà vô cùng
quý giá cho chúng sanh trong việc
sám hối các nghiệp chướng của mình. Mười hai vị Phật được Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật nêu lên, đặc biệt có một oai thần lực rất lớn trong vấn đề giúp cho
chúng sanh sám hối.Nếu chúng sanh nào thật lòng ăn năn sám hối Nghiệp Tội của mình,
đem hết Tâm Lực, Ý Lực, Cường Lực để vào việc sám hối, tức khắc các tội lỗi của
mình, những điều sai trái gây tạo, nhờ vào oai thần lực của các Vị Phật này, mà
được “Lắng Xuống.”Lắng xuống, chớ không phải tiêu tan! Lắng xuống và tiêu tan
là hai trạng thái khác nhau.Tiêu tan là không còn hiện hữu. Lắng xuống
là vẫn còn
hiện hữu ở nơi đó, nhưng
không nổi lên để quấy phá. Mười hai vị Phật này
giúp cho những tội lỗi đó được lắng xuống. Rồi thì sự quyết tâm tu tập hằng
ngày, nếu được tiếp tục đều đặn, sẽ giúp cho các tội đó được phai đi cho đến
khi biến mất. Chúng sanh thường hay nghĩ sai, bảo rằng: niệm các danh hiệu Phật
này rồi thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan hết. Không phải như vậy, phải
hiểu cho tận cùng thâm sâu của việc sám hối. Khi một người hết dạ chân thành
sám hối,
các nghiệp tội mình làm sẽ được nhận biết và lắng
xuống. Nhưng, muốn cho các nghiệp tội này được tiêu tan, thì đòi hỏi phải có sự
dốc tâm tu tập. Người hành trì nghi thức sám hối này mỗi ngày, sẽ giúp cho các
tội chướng của mình
lắng xuống, rồi thì với tất cả Tâm Lực, Ý Lực, Cường
Lực khi tu tập, sẽ làm cho từng tội, từng tội được phai đi … phai đi.Oai lực
của mười hai vị Phật này giúp cho bao nhiêu tội lỗi của hành giả được lắng
xuống. Đó là điểm khác biệt giữa nghi thức sám hối này với tất cả những nghi
thức sám hối khác.Hành giả có thể niệm bất kỳdanh hiệu Phật nào khi hành trì
nghi thức sám hối. Tuy nhiên, phải ghi nhớ rằng: Các vị Phật đó chỉ chứng
minhtấm lòng ăn năn sám hối của hành giả chớ không cho ra một oai lực nào
cả.Riêng đối với các vong linh, oai thần lực của mười hai vị Phật này rất là
mạnh mẽ và khiến cho các vong linh được nhẹ nhàng, không còn phải đeo mang
những tội, nghiệp mà mình đã tạo nên từ tiền kiếp, cho đến kiếp vừa qua, khiến
cho vong linh rất là nặng nề. Oai thần lực của các vị Phật này làm cho các
nghiệp, tội đó được lắng xuống, nhẹ nhàng, không còn một cảm giác nặng nề nữa. Tuy
nhiên,
nó vẫn còn nằm ẩn trong A Lại Da Thức của vong
linh, để rồi sau đó, vong linh cần phải đem công năng tu tập của mình mà làm
tiêu lần đi nghiệp tội của mình.Ngoài
nghi thức sám
hối Thập Nhị Phật
Danh So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt Tội,còn có
các nghi thức sám hối khác như:
1. Mười hai
vị Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ:Những vị Phật này có liên quan rất là
mật thiết với Cực Lạc, nhưng cũng là ở vào vai trò Chứng Minh
chớ không đưa oai lực để giúp cho hành giả hay cho
vong linh.
2. Trong Nghi
Thức Hồng Danh Bửu Sám: hành giả phải trì niệm danh hiệu của 88 vị Phật.
3. Nghi
thức Sám Hối do cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn, gồm có 35 vị Phật rút ra từ Kinh
Đại Bảo Tích.
Trong 3 nghi thức Sám Hối kể trên, những vị Phật
chỉ đóng vai trò “Chứng Minh” mà thôi, chớ không thực sự đóng góp vào việc làm
“Lắng Xuống” các
nghiệp tội của hành giả hay của vong linh.
4. Lương
Hoàng Sám: Người Xuất gia lẫn tại gia đều hành trì được Lương Hoàng Sám,
nương vào lòng Từ Bi của rất nhiều vị Phật trong 10 phương. Tuy nhiên, nghi
thức sám hối này rất khó có thể giúp
cho người chủ lễ siêu độ cho vong linh vì quá sức
dài, mất nhiều công sức, chỉ trừ khi nào thân nhân
dốc lòng quyết tâm, bất kể ngày giờ, bất kể công
sức
thì mới dùng đến nghi thức này.
5. Từ Bi
Thủy Sám Pháp: để giải oan trái giữa đôi bên, mà oan trái đó rất là nặng nề
và đã trải qua nhiều đời, nhiều kiếp rồi.Sám Pháp này không dùng cho việc sám
hối đâu! Trong trường hợp siêu độ cho vong linh, không dùng
nghi thức này.
Trì Chú
Người chủ lễ sẽ hướng dẫn để cho hương linh trì 3
câu Chú dưới đây nhiều chừng nào tốt chừng nấy!
1. Chơn Ngôn Siêu Độ Cho Hương
Linh
Âm: HA-ANH
CA THU SHU PHU!
Vong linh thật sự cần cái
gì? Vong linh cần được nhẹ nhàng để ra đi. Nếu người chủ lễ không biết một cách
rất rõ ràng ý muốn của vong linh, và đạt chưa đến được một cách sâu rộng ý muốn
đó, thì vẫn có thể giúp cho vong linh được nhẹ nhàng, cởi bỏ những khúc mắc, mà
tiếp tục đi theo nghiệp của mình.
Người chủ lễ đem hết tâm
lực của mình cùng với vong linh trì câu Chú này, giúp cho vong từ từ thấm lần …
thấm lần. Câu Chú có tác dụng là giúp cho vong linh được nhẹ lần … nhẹ lần để
ra đi.
2. Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn
Tiếng Phạn: OṂ MAṆI PADME HŪṂ
Tiếng Việt: ÁN MA NI BÁT DI
HỒNG
Lục Tự Đại Minh rất là mạnh, công năng của câu
thần Chú này có tính cách dời non, lấp biển, Vị chủ lễ cũng như hương linh đều
rất cần trì câu Chú này để giúp Trí Huệ phát sáng. Vong linh trì Lục Tự Đại
Minh xem như là đốt lên một điểm sáng, rồi từ đó tỏa rộng ra, không khác một
ánh lửa, và đồng thời Trí Huệ được phát sáng, giúp cho hương linh cảm thấy ấm
áp, phân định được
mọi sự việc chung quanh mình, và thâm nhập được
lời giảng Pháp của chủ lễ.
3. Vãng Sanh Tịnh Độ Thần
Chú
Tiếng Việt:
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha
già đa dạ. Đa điệt dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa
tỳca lan đế, a di rị đa tỳca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Tiếng Phạn:
Namo amitābhāya, tathāgatāya.
Tadyathā:
Amṛtodbhave,
amṛta siddhaṃbhave, amṛta
vikrānte,
amṛta vikrānta, gamine
gagana, kìrtti
kare svāhā.
Cách đọc theo tiếng Phạn:
Nam mô a mi ta ba da, thách
ta ga ta da. Tách da tha: A mia tô
út pha wê,
a mia ta xăm pha
wê, a mia
tavi ca ranh tê, a mia ta vi ca ranh ta, ga mi ni ga ga na, kia ti ca ri
soa ha.
Người hay trì tụng Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú sẽ được
Đức A Di Đà Phật thường trụ trên đỉnh đầu của người ấy, ngày đêm ủng hộ, không để
cho oan gia được dịp thuận tiện hãm hại, đời thường an ổn, sau khi mạng chung, được
tùy ý vãng sanh.Người chủ lễ cần hướng dẫn cho
vong linh trì thần Chú này
thật nhiều, kèm với niệm Phật thật nhiều, để cơ
hội được vãng sanh càng lên cao hơn.
Niệm Phật
Nếu trong gia đình có người rãnh rỗi, hoặc có trẻ
em nào có thể dạy cho các em niệm Phật được, thì khi đến phần niệm Phật, vị chủ
lễ nên nhờ người phụ cùng niệm Phật, để tạo một cái lực mạnh giúp cho vong niệm
Phật được trơn tru.
Nên ghi nhớ: Cố
gắng đừng để tâm viên ý mã trong lúc niệm Phật. Phải nhứt tâm mới có được hào
quang phát sáng khi niệm Phật, do đó mới bao bọc được vong trong cái hào quang đó.Các
trẻ thơ tâm không gợn bất kỳtư tưởng nào. Nên tập cho các cháu
niệm Phật hằng
ngày, vừa lợi
lạc cho các
cháu, mà cũng rất là hữu ích khi cần thiết.Niệm
Phật càng nhiều càng tốt, tối thiểu phải là 10-15 phút.Người chủ lễ khuyên vong
nếu muốn được vãng sanh về Cõi Phật, phải niệm Phật liên tục, niệm Phật không
phải chỉ trong khóa lễ tu tập, mà sau khi hồi vị rồi, cũng vẫn phải tiếp tục
niệm Phật. Càng niệm Phật nhiều, vong càng cảm thấy nhẹ nhàng, dễ dàng cất bước.
Vai Trò Của Trẻ Thơ Trong
Việc Siêu Độ Tâm của trẻ
thơ rất là trong trắng, lời của trẻ thơ thốt ra là một lời chân thật không che đậy,
cho nên cần phải dạy cho các cháu niệm Phật hay trì Chú. Một câu niệm Phật của
các cháu cũng sẽ giúp cho vong linh rất … rất là nhiều. Câu niệm Phật rất quan
trọng, một người niệm Phật với một tâm như như bất động, không bị tâm viên ý
mã, nói tóm lại là
với một Tâm Bình thì mới phóng hào quang được. Đối
với những đứa bé khi niệm Phật, câu niệm Phật của chúng sẽ phóng hào quang, vì đó
là một tâm hoàn toàn trong suốt. Người niệm Phật giữ tâm bình, có nghĩa là giữ
tâm của một đứa bé (còn được gọi là Tâm Đồng Tử).
Cho nên dạy cho trẻ thơ niệm Phật để siêu độ cho
người quá cố thì rất là đúng và cần thiết. Đối với những đứa trẻ có thể trì Chú
được, nên dạy cho các cháu câu thần Chú. Nếu trì Chú thì có thể trì Lục Tự Đại
Minh Chơn Ngôn, hoặc
Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú. Trì 2 câu Chú này mà
giữ một tâm bình, tâm trong sáng, thì câu Chú sẽ phóng hào quang rất là chói
chang. Vong linh được bao che trong hào quang đó, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng thơ
thới, và những người
đang hành trì việc siêu độ, cũng sẽ được bao che
bởi ánh hào quang của
Lục Tự Đại
Minh Chơn Ngôn,
hoặc của Vãng Sanh Tịnh Độ Thần
Chú.
Phần Giảng Pháp
Phần chuẩn bị Pháp để giảng có những sự đòi hỏi như
thế nào? Dựa trên các tiêu chuẩn ra sao?Nếu vong linh là thân nhân của người
chủ lễ biết tu tập thì
điều đó quá dễ! Người chủ lễ đã biết rõ tánh tình
của vong linh khi còn sống, cái gì thích, cái gì không thích, điều sai lầm nào
hay phạm phải, tâm sự ra sao, vướng mắc phải khuyên giải như thế nào v.v…Cho
nên, việc giảng Pháp tương đối cũng dễ dàng, chỉ cần để tâm một chút, sắp xếp
lại cho có mạch lạc và bắt đầu nói chuyện, giống y như là đang nói chuyện với
một người trên
dương thế, khi người đó gặp những điều khúc mắc đến
hỏi ý kiến của mình, mình khuyên giải họ ra làm sao?Còn đối với một người chưa
biết việc tu tập, đem Tâm Lực mạnh mẽ của mình để siêu độ cho một vong linh, họ
bắt buộc phải nghiên cứu, tìm hiểu xem những gì mình cần phải nói chuyện với
vong linh. Nếu vong linh đó là thân nhân của mình thì không có gì là khó khăn
cả. Nhưng, nếu vong linh đó là một bạn hữu hay người quen biết, cần phải tìm
hiểu từ ở gia đình của vong linh đó, để có thể hiểu biết thêm một cách tường
tận về những khúc mắc của vong linh, hầu tìm cách giảng dạy, dẫn dắt vong linh đó
bước ra khỏi những vướng mắc. Việc tìm hiểu những bài Pháp để tạo một kiến thức
cho mình, đã được
giảng rõ rất
nhiều ở trang
web cPhap.com. Những bài Pháp nơi
đây đủ để giúp cho một người mới bước vào việc tu tập, có được một trình độ căn
bản để có thể siêu độ cho vong linh.. Một người đã tu tập lâu năm, nhưng nếu
biết tư duy cho sâu sắc những lời Pháp, sẽ làm cho trí huệ được gia tăng rất
nhiều. Những bài Pháp cũng đã được soạn theo đề tài. Tùy theo những vướng mắc
của thần thức mà người chủ lễ sẽ nghiên cứu, tìm hiểu những đề tài liên quan
hầu giải tỏa những khúc mắc đó cho thần thức.
Nhân Quả
Tu tập là bắt buộc phải tư duy, đó là cách duy
nhất để làm cho Trí Huệ của mình phát triển theo chiều sâu. Trí Huệ phát sáng
không chưa đủ, Trí Huệ đó cần phải gom lại, cô đọng lại để trở thành một tia
sáng cực mạnh mà người tu
tập có thể điều khiển nó trong việc cứu giúp Người
và cứu giúp chính bản thân mình. Dù người còn sống hay người đã chết, tất cả đều
bị chi phối
bởi Nghiệp Lực, không có một ngoại lệ nào, cho bất
kỳ ai trong việc chi phối này.Sự tư duy về những câu hỏi sau đây sẽ giúp cho người
còn sống hiểu được giá trị của sự hiện diện của mình, ngày hôm nay, trên cuộc đời.Người
đã xa lìa cuộc đời rồi, vì không có cơ hội để tư duy một cách sâu sắc về Nghiệp
Lực, nên còn vướng mắc và loanh
quanh với cái “Lưới” do
chính mình đã
quấn vào người của mình.Chính
thân nhân còn ở lại sẽ giúp cho người quá cố tư duy để trí huệ bừng sáng, có
thể nhận ra được khúc mắc ở nơi
nào, hầu tháo gỡ cái lưới ra khỏi mình, và nhẹ
nhàng cất bước.
Câu hỏi được đặt ra là:
Tôi đến đây tự bao giờ?
Tôi đến đây từ vô thỉ kiếp, chớ không phải tôi mới
tới đây.
Từ vô thỉ kiếp tôi đã làm gì?
Từ vô thỉ kiếp tôi đã gieo nhân ?
Khi cây mọc lên sum sê, trái đã chín muồi tôi phải
làm sao?
Tôi bắt buộc phải hái trái.Vậy chớ trái đó là trái
ngọt hay là trái chua hoặc trái
đắng?Cũng có trái ngọt, mà cũng có trái chua, đôi
khi có trái đắng, đôi lúc có những trái có hình dạng vô cùng quái dị.
Tại sao lại có nhiều loại trái như vậy?
Đó là do khi tôi ương cây, những hạt giống mà tôi
gieo xuống, tôi đã không có sự lựa chọn kỹ càng, cho nên tôi
mới nhận được
những trái đắng,
những trái chua, những trái có
hình thù quái dị.Khi tôi nhận được một quả chín muồi thơm ngon, tôi có cảm giác
như thế nào? Và khi tôi nhận được những quả mà tôi không vừa ý, cảm giác của
tôi ra sao?Khi tôi nhận được một quả chín muồi thơm ngon, tôi biết chắc chắn
rằng tôi đã chọn đúng hạt giống, và tôi sẽ theo đó mà vun trồng tiếp tục. Còn
những quả chua, đắng, hoặc
là có những
hình dạng không
tốt đẹp, tôi phải lựa lọc và loại ra để không bao giờ có thể ương trở
lại những hạt giống như vậy nữa . Nếu tôi muốn lựa lọc lại những nhân này,
những hạt giống này thì tôi phải làm sao? Trong số quá nhiều hạt giống, làm sao
tôi có thể phân định được hạt giống
nào cho trái ngon, hạt giống nào cho trái đắng,
trái chua, trái có hình hài xấu xí?Tôi bắt buộc phải dùng trí huệ của tôi để
phân biệt tất cả những hạt giống.
Làm sao để có trí huệ mà lựa chọn những hạt giống
này?
Tôi phải tu tập để mới có được trí huệ.
Nếu tôi muốn tu tập để có được một trí huệ, tôi
phải làm sao để mang lại kết quả tốt đẹp?Sự thấu triệt Vòng tròn nghiệp lực Tâm
- Ý -Tánh có
thể giúp cho tôi có đầy đủ trí huệ để có thể lựa
chọn được những hạt giống nào tốt, những hạt giống nào không tốt.Vòng tròn
nghiệp lực giúp cho tôi bằng cách nào?Vòng tròn nghiệp lực giúp tôi tự nhìn vào
bản thân tôi
để lọc lừa cho hết những tánh xấu của tôi, vì
những tánh xấu khiến cho trí huệ của tôi bị che khuất, không thể nào
phát sáng được.
Trí huệ của
tôi nếu không phát sáng được, tôi sẽ không đủ khả năng
để có thể lựa chọn được những hạt giống tốt đẹp nhất. Muốn làm được việc này,
nó đòi hỏi ở tôi một cái gì?
Nó đòi hỏi ở tôi một sự can đảm.
Can đảm như thế nào?
Là can đảm cầm dao, moi
móc, khoét cho sạch, khoét cho tận cùng gốc rễ tất cả những tánh xấu của tôi.
Khi tôi không còn bất kỳmột tánh xấu nào nơi tôi nữa, thì lúc đó, trí huệ mới
thật sự phát sáng! Như thế, tôi sẽ dùng trí huệ đó như một ngọn đèn để lựa lọc
tất cả những hạt giống mà tôi gieo xuống. Có như vậy thì những trái mọc lên sẽ
là những trái ngon, trái ngọt, không còn chua, không còn đắng, không còn hình
thù quái dị nữa.Một khi tôi đã có đủ đầy những trái ngọt trong tay, nó sẽ làm
hành trang để tôi tiến về Cực Lạc, nơi đó là nơi tôi An Trụ đời đời, không vướng
bận, không còn dính líu vào vòng sanh tử luân hồi nữa. Dưới sự hướng dẫn của
các Bồ Tát nơi cõi Cực Lạc, tôi sẽ góp phần vào việc mang đến những điều lợi
ích cho chúng
sanh.Không phải nói rằng tôi về Cực Lạc là ngồi chơi an hưởng, mà tôi được
về Cực Lạc để từ nơi đó, tôi chắc chắn rằng, mình không còn bận bịu với việc
phải làm sao lựa lọc những hạt giống mà mình gieo xuống. Tôi về Cực Lạc để tôi
cùng với Thánh Chúng gieo trồng những cây trái mà tôi biết chắc chắn rằng,
những cây trái này là từ ở những mầm giống rất là tốt đẹp. Từ đó, việc cứu độ
chúng sanh là điều mà tôi có bổn phận phải làm, cũng như tất cả việc cứu độ
chúng sanh là điều mà tôi có bổn phận
phải làm, cũng như tất cả
Thánh Chúng của cõi Cực
Lạc đã và đang làm.
Như vậy, việc tu tập của
tôi là một việc làm có ý nghĩa ngay khi còn ở hiện kiếp. Nhờ vào việc tu tập mà
tôi sẽ tìm được một sự An Bình cho bản thân tôi. Từ sự an bình đó, tôi sẽ gieo
rắc an bình cho những người chung quanh tôi, tất cả mọi người đều sống trong sự
nhẹ nhàng, không phiền não. Và rồi sau đó, chuẩn bị cho một chuyến đi, một
chuyến đi đầy ý nghĩa, với tất cả hành trang là những quả rất tốt đẹp, rất ngon
ngọt mà tôi đã vun trồng ngay trong
kiếp này.Mong rằng tất cả
chúng sanh đều phát tâm tu tập để sửa đổi tâm tánh của mình. Có như vậy mới
thoát được những điều không hay sẽ xảy ra, vô cùng tai hại và kinh khủng cho
cõi Ta Bà trong tương lai. Chuẩn bị cho những sự việc không hay xảy đến, có thể
là trong vòng năm năm, mười năm hay
thậm chí hai mươi năm, vẫn
bắt buộc phải thực hiện ngay từ bây giờ, nếu không, thì những chúng sanh trong
thời vị lai của năm năm, mười năm hay hai chục năm kế tiếp đó sẽ gặp điều vô
cùng không hay, nếu không muốn nói là khủng khiếp. Mà những
chúng sanh trong
khoảng thời gian đó là ai?
Chính là những thân nhân
của mình, là hậu bối của mình! Khi đó mình đã là bậc tiền bối, nhưng nếu không
chăm lo tu tập ngay từ bây giờ, thì chắc chắn rằng hậu bối của mình sẽ gặp cảnh
nguy cơ trong tương lai.hánh Chúng của cõi Cực Lạc đã và đang làm.Như vậy, việc
tu tập của tôi là một việc làm có ý nghĩa ngay khi còn ở hiện kiếp. Nhờ vào
việc tu tập mà tôi sẽ tìm được một sự An Bình cho bản thân tôi. Từ sự an bình đó,
tôi sẽ gieo rắc an bình cho những người chung quanh tôi, tất cả mọi người đều
sống trong sự nhẹ nhàng, không phiền não. Và rồi sau đó, chuẩn bị cho một
chuyến đi, một chuyến đi đầy ý nghĩa, với tất cả hành trang là những quả rất
tốt đẹp, rất ngon ngọt mà tôi đã vun trồng ngay trong kiếp này.Mong rằng tất cả
chúng sanh đều phát tâm tu tập để sửa đổi tâm tánh của mình. Có như vậy mới
thoát được những điều không hay sẽ xảy ra, vô cùng tai hại và kinh khủng cho
cõi Ta Bà trong tương lai. Chuẩn bị cho những sự việc không hay xảy đến, có thể
là trong vòng năm năm, mười năm hay thậm chí hai mươi năm, vẫn bắt buộc phải
thực hiện ngay từ bây giờ, nếu không, thì những chúng sanh trong thời vị lai
của năm năm, mười năm hay hai chục năm kế tiếp đó sẽ gặp điều vô cùng không
hay, nếu không muốn nói là khủng khiếp. Mà
những chúng sanh
trong khoảng thời
gian đó là ai?
Chính là những thân nhân của mình, là hậu bối của mình! Khi đó mình đã là bậc
tiền bối, nhưng nếu không chăm lo tu tập ngay từ bây giờ, thì chắc chắn rằng
hậu bối của mình sẽ gặp cảnh nguy cơ trong tương lai. Tương lai năm năm, mười năm,
hai chục năm không là bao
xa cả. Thoắt một cái, búng
một ngón tay là tới đích rồi; đừng nghĩ rằng con số hai mươi năm là một con số
quá lớn, quá xa. Thậm chí năm mươi năm cũng vẫn là một con số mà người ta có
thể tiến đến nó được, chớ không phải chỉ là
một con số xa vời, không
thể đụng tới được đâu.Cho nên người tu tập chân chánh phải biết nhìn xa, vì khi
mình tu tập, nên nhớ một điều rằng: tu cho chính bản thân mình mà cũng cho hậu
bối của mình nữa, để giữ sự An Bình của cõi Ta Bà trong hiện tại và ngay cả
trong tương lai.
Vong Linh Chết Trong Đau Khổ
Một vong linh chết trong
sự đau đớn, sợ hãi, lòng ngập tràn nỗi lo âu, phiền não, nhiều khúc mắc, người
chủ lễ sẽ phải giảng giải cho vong linh như thế nào, để giúp cho họ có thể nhẹ
nhàng được, và vơi đi cơn sợ hãi, sân hận hoặc đau đớn hay là phiền não?Tất cả
những cảm giác đau đớn, sợ hãi, phiền não là những cảm giác khi vong linh đó
còn tại thế. Một người còn sống, còn ngũ căn thì còn cảm nhận được điều đó. Khi
đã trở thành vong linh rồi, thoạt ban đầu, vong linh đó vẫn còn ở vị thế chân
bên này, chân bên kia, tức là vong linh chưa nhận chân ra được mình đã mất, cứ
nghĩ rằng mình còn sống, vì vậy cảm giác đó vẫn còn.
Tuần lễ đầu tiên rất quan trọng.
Người chủ lễ sẽ phá đi
những cảm giác đó của vong linh bằng cách: nói cho vong biết rằng: vong hiện
giờ đang ở trong một cảnh giới khác, không còn hiện hữu trên thế gian nữa. Mà
một khi không còn hiện hữu nữa, thì tất cả những cảm giác của vong, bắt buộc
phải buông xuống, phải rứt nó ra khỏi thần thức của mình, vì nó không còn có
thật nữa rồi!Khi đó phải giảng cho vong hiểu về tánh chất KHÔNG của tất cả mọi
vật thì vong mới có thể buông xả được những cảm giác đó. Khi vong đã buông bỏ
xuống những cảm giác
đó rồi, thì khuyên bảo
vong an trụ vào trong lời Kinh, trong tiếng niệm Phật, để cho vong cảm thấy được
che chở và không còn sợ hãi nữa. Sau đó từ từ cắt nghĩa cho vong hiểu về những
khúc mắc của vong. Phải tùy trường hợp của từng vong linh, có những khúc mắc
nào cần tháo gỡ. Cho nên, người chủ lễ phải vận dụng trí huệ của mình rất nhiều
để có thể tìm một hướng đi đúng mà dẫn dắt vong. Mỗi vong có một tình trạng
khác biệt nhau, cũng giống như mỗi người bệnh có một bệnh trạng riêng, vị bác
sĩ sẽ tùy theo bệnh trạng của từng bệnh nhân mà cho thuốc.Để chuẩn bị phần
giảng Pháp cho vong, người chủ lễ gần như
là phải soạn
thảo 49 bài
Pháp để “tỉ
tê” cùng vong trong 49 ngày siêu độ.
Việc soạn thảo những bài
Pháp, thoạt xem qua thì có hơi khó khăn, lúng túng; tuy nhiên vì mình soạn để
giảng dạy lại, bỗng nhiên mình hiểu và thâm nhập Pháp rất nhiều. Người sơ cơ
mới làm quen với Đạo, vì thân nhân, lo cho
thân nhân mà dốc tâm tu
tập, cố gắng thông hiểu Pháp để giảng dạy lại cho vong linh thân nhân, cả hai
sẽ cùng ngộ, cùng phát sanh trí huệ, và cùng thăng hoa.Nên ghi nhớ: Vì vong
không còn ngũ căn nữa nên sự tiếp nhận sẽ chậm chạp, không nhanh nhẹn như khi
còn sống. Do đó, nên kiên trì giúp cho vong bằng cách nói đi nói lại nhiều lần
những lời Pháp. Nắm vững ý chính của lời Pháp, sau đó ngồi thoải mái, từ tốn,
xem như vong đang đối diện mình, cùng nói chuyện như khi còn sống.Cũng có
thể đọc một
bài Pháp cho
vong linh nghe;
sau khi chấm dứt thì giảng rộng ra, hay bình luận thêm. Đây
là cách cùng vong linh tư
duy, mình sẽ hiểu thêm ra. Khi mình vừa suy nghĩ vừa nói, vong cũng sẽ nhờ đó
mà trí huệ được gia tăng.Những đề tài có sẵn chia ra làm bảy tuần để cho người
chủ lễ nương theo đó đọc thật kỹ những bài Pháp và giảng lại cho vong nghe
trong 49 ngày. Người chủ lễ nên nhấn mạnh rằng, nếu trong thời gian 49 ngày,
vong hết dạ một lòng tu tập, xả bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc và quyết lòng
muốn được thác sanh vào nơi đâu thì vong sẽ được như ý.Đây là thời gian ĐẶC ÂN
mà vong được hưởng, để hoán chuyển cảnh giới, hay nói một cách nôm na, là “vong
được cơ hội để làm lại cuộc đời.” Do đó, nếu vong hết dạ chân thành tu tập
trong suốt 49 ngày, dưới sự thành tâm dẫn dắt của người chủ lễ, vong sẽ được
toại ý thác sanh về nơi mà vong muốn.Sau 49 ngày, sẽ không còn đặc ân đó nữa,
người chủ lễ cũng bó tay, không thể giúp cho vong có cơ hội thăng hoa.Do đó,
trong thời gian 49 ngày này, cả chủ lễ lẫn vong linh đều phải hết dạ chân
thành. Chủ lễ chân thành hướng dẫn cho vong tu tập. Vong linh cũng hết dạ chân
thành sám hối nghiệp chướng nặng nề, xả bỏ mọi phiền não, sân hận, vướng mắc,
thần thức được nhẹ nhàng trì Chú, niệm Phật để chuẩn bị cho một cuộc thác sanh được
hoàn toàn như ý.
Buông Xả
Khi siêu độ cho một vong
linh, người chủ lễ cần phải giúp cho vong linh buông xả rất là nhiều. Phải
giảng Pháp như thế nào để có thể khiến cho vong linh buông xả được?Chỉ cần hỏi
vong linh rằng: vong linh bước ra khỏi cái xác của mình rồi, có mang theo được
tài sản của mình đi hay không?
Không cần nhiều, chỉ cần
mang cái bóp trong đó có một 100 đồng thôi. Vong linh có mang theo được hay
không? Vong linh có một đứa con kháu khỉnh, khi vong linh đã rời khỏi thân xác
rồi, vong linh có thể mang theo được cái hơi của con mình theo hay không? Vong
linh có một sản nghiệp to lớn, gồm nhiều nhà cửa, nhiều ruộng vườn, nhiều xe
cộ, nhưng vong linh đã mang
theo được cái gì? Một
miếng ngói cũng không mang được, một miếng gạch
cũng không mang được, một
cái bánh xe cũng không mang theo được, vong linh không mang theo được gì hết!Như
vậy, vong linh sẽ cảm thấy rất là tiếc, nhưng thử hỏi,
vong linh tiếc cái gì?
Vong linh không phải tiếc
nhà cao cửa rộng, không phải tiếc ruộng vườn rộng lớn, mà vong linh tiếc một
công trình. Một công trình do mình đã tạo nên.
Vong linh cảm thấy hối
tiếc về việc mình đã bỏ quá nhiều công sức, nhưng cuối cùng rồi thì vẫn không
mang theo được cái gì hết.Bây giờ đặt câu hỏi với vong linh: vong linh bảo rằng
vong linh đã đem công sức của mình ra để tạo dựng những cơ sở, những tài sản đó,
vậy chớ vong linh có nghĩ rằng, trong
quá trình tạo dựng đó,
vong linh đã gây ra những nghiệp chướng nào hay không?Một người có quá nhiều cơ
sở, quá sức giàu có, thì phải biết rằng đó không phải thuần là sức của họ đã
tạo nên những của cải vật chất đó. Không ai có thể nói rằng, tự sức của tôi,
tôi đã tạo nên những cơ sở đó.Vong
linh khi còn
sống, có tự
tay cất lên cơ sở đó hay không? Vong linh cũng phải thuê mướn người,
cũng phải liên lạc để mượn tiền, mượn bạc để trang trải những vấn đề tài chính
trong quá trình xây cất đó.Chuyện trước tiên là về vấn đề tài chính, vong linh
muốn được người ta cho mượn tiền với lãi suất thấp, với tất cả những điều kiện
rất dễ dãi, liệu rằng vong linh có chân thật
một trăm phần trăm hay
không?Vong linh mướn người để cất một sơ sở, vong linh có thật sự hành xử Tứ Vô
Lượng Tâm trong vấn đề mướn người hay không? Hay lại cũng lươn lẹo, uốn éo, trả
giá và đôi khi ép người ta, vì miếng cơm manh áo, mà phải chấp nhận những điều
kiện của vong linh?Cho nên, trong việc tạo dựng một cơ sở, cơ sở càng lớn chừng
nào, những tánh xấu của người chủ đó càng hiện rõ ra nhiều chừng nấy.Hương linh
nuối tiếc một công trình, mà công trình đó đã gây tạo ra biết bao nhiêu nghiệp
chướng. Có những nghiệp chướng hiện rõ để cho vong linh thấy được qua những
việc gấu ó lẫn nhau, cãi vã, tranh chấp nhau. Cũng có những nghiệp chướng tiềm
ẩn, vì những kẻ thấp cổ bé miệng, cam chịu để lấy miếng ăn. Rồi cũng vì việc
tạo dựng một công trình, hương linh đã gieo biết bao nhiêu Nhân không lành, vì
lúc nào cũng phải thủ lợi cho mình. Không thể nào đem mối lợi cho kẻ khác,
mà chấp nhận điều bất lợi
cho mình. Mà muốn giữ điều lợi cho mình thì phải thủ đoạn đưa ra. Ngoài ra còn
biết bao nhiêu điều khác nữa xoay quanh việc tạo dựng một công trình. Hương linh đắc thắng
với công trình
do mình tạo
dựng, nhưng thật sự
ra, công trình đó được
tạo dựng trên
quá
nhiều sự khổ đau của kẻ
khác. Càng tạo nên nhiều công trình chừng nào thì sự đau khổ mình gây nên cho
kẻ khác càng nhiều chừng nấy. Rồi vợ đẹp con ngoan, có khi hương linh đã chiếm đoạt
người vợ đó trong tay của một kẻ khác. Tức là hương linh đã gieo một cái nghiệp
không lành với thù địch của mình rồi đó.Vì
vậy, trong việc
tạo dựng một
công trình, hương
linh
đã vô tình hay cố ý gây
nên nhiều nghiệp chướng, chính những nghiệp chướng đó làm nặng nề bước chân của
hương linh. Khi hương linh còn sống, hương linh không nhận ra nó nặng nề. Vì
sao? Vì hương linh đi bằng xe hơi.
Còn bây giờ, với một cái
bóng nhẹ như sương, như khói, hương linh mới thật sự cảm thấy bước chân mình
nặng nề vì những cái vướng mắc đó.Ngày giờ này, hương linh bắt buộc phải buông
xả hết tất cả những sự nuối tiếc của mình, vì tất cả giờ đã trở thành Không.
Ngay chính thân xác của hương linh cũng còn bị thiêu đốt để trở thành cát bụi.
Cái thân xác của mình còn không giữ được, thì sá gì những công trình. Những
công trình đó xây
dựng được, thì
phá hủy được.
Hương linh không tự mình phá hủy
nó, thì những kẻ thù địch (nếu có) sẽ phá hủy nó, trong một sớm một chiều.Vì
vậy, không có cái gì để nắm giữ, cũng không có cái gì để mang theo. Ngày giờ
này hương linh không còn một thân xác nữa. Hãy mau mau tìm một nơi an trụ. Nếu
khư
khư không bỏ xuống những
gì mà mình còn luyến tiếc, thì chắc chắn rằng hương linh sẽ không thể nào nhẹ
nhàng cất bước được. Nay chỉ còn là một cái bóng nhẹ như tơ, thì sức đâu mà lôi
kéo cả một chiếc xe chứa toàn là tảng đá lớn?Hương linh cần phải gấp rút tìm nơi
an trụ; mà muốn tìm được nơi an trụ thì hương linh phải có ngọn đèn trí huệ và
phải làm sao cho cái túi của mình nhẹ chừng nào tốt chừng nấy, để có thể cất bước
ra đi được nhẹ nhàng.Muốn có ngọn đèn Trí Huệ, hương linh bắt buộc phải tu tập.
Để hành trì việc tu tập, hương linh phải sám hối. Sám hối để chi? Để cho những
cục đá mà mình mang theo sẽ tan đi … tan đi thành tro bụi. Hương linh phải trì
Chú. Để chi? Để cho ngọn đèn Trí Huệ của mình được phát sáng lên. Hương linh
phải niệm Phật. Để chi? Để nương vào sức của Phật, vào ánh hào quang của Phật,
giúp cho ánh sáng Trí Huệ được tỏ rõ thêm.Lúc đó, hương linh có đầy đủ những phương
tiện cần thiết để giúp cho hương linh tìm được nơi an trụ mới.Cho nên,
nếu hương linh
không buông xuống
hết tất cả những gì nặng nề mà mình kéo lôi theo, thì
đời đời kiếp kiếp, hương linh phải lôi kéo những cục đá này, hương linh mãi mãi
không bao giờ tìm được nơi an trụ. Nếu hương linh còn lưu luyến con cháu, không
an tâm vì sợ rằng mình ra đi rồi, con mình không tự lo được, cháu mình không
thể nào đủ sống, chỉ cần đặt câu hỏi cho hương linh:
1. Điều thứ nhất, hương linh làm
cách nào để lo cho con, cho cháu của mình, hay thậm chí, lo cho người vợ mà
mình gọi là thương yêu hết mực? Hương linh làm thế nào để cho con mình có cơm ăn
ngày 2 bữa? Làm cách nào để cho con của mình có quần áo đẹp mà mặc? Hương linh
sẽ không làm được gì
hết!Hương linh sẽ phải tự đặt câu hỏi rằng: Tôi có thể tự
lo được cho bản thân tôi
không? Ngày giờ này, tôi đã không thể tự lo được cho bản thân tôi, thì làm sao
tôi có thể lo cho những người khác được?
2. Điều kế
tiếp, hương linh
có nhìn thấy
nghiệp lực giữa hương linh và
đứa con của mình hay không? Hương linh có nhìn thấy nghiệp lực giữa mình và người
thương yêu nhất là vợ hay không? Chắc chắn rằng, ngày
nay, với hình
dạng của một
cái vong, hương linh có thể nhìn
rõ được. Thì như vậy, hương linh còn cái gì để mà lưu luyến nữa? Nghiệp lực đã
giải quyết xong rồi! Nếu bây giờ hương linh hỏi rằng: Hương linh có thể nào giữ
nguyên trạng thái của cái linh hồn
này, để có
thể quây quần
bên đứa con
của
mình, cho tới khi nó nhắm
mắt lìa đời hay không? Chắc chắn rằng, hương linh đã thấy nghiệp lực giữa mình
và nó chấm dứt rồi. Đường nó, nó đi, đường mình, mình đi. Tại sao lại dại dột
gánh vào cái ách của kẻ khác nữa?Mà có muốn gánh cũng không sao gánh được. Khi
mình còn trên dương thế, mình là cha nó, nó là con của mình. Ngày giờ này, đường
ai nấy đi, nghiệp ai nấy gánh.Hương linh đã không thể giải quyết được gánh nặng
của mình rồi, thì làm sao có thể giải quyết thêm một gánh nặng nữa? Tất cả
những gì mà hương linh tiếc nuối, đều đã thuộc về vô thường rồi, không còn hiện
hữu nữa.
Đối với vong linh, điều
cấp bách hiện giờ mà vong linh cần phải giải quyết, đó là tìm cho ra nơi an
trụ. Sau khi 49 ngày hoàn mãn, người chủ lễ cũng phải suy nghĩ lại quan niệm
sống của mình. Vì sao? Vì tuy là nói chuyện với hương linh, nhưng người chủ lễ
cũng nói chuyện với chính thần thức của mình đó.Dù cho người sang, người hèn,
người giàu có, người nghèo khổ, từ một vị vua cho đến người bần cùng, từ một
cao tăng cho đến người mới tập tểnh biết tu tập, không ai qua khỏi được hình
dạng của một vong linh. Đã được tiếng “Người” rồi, thì sẽ phải mang tiếng “Vong
Linh”, không trừ một ai
hết!Có thấy một người nào
khi đã chết rồi mà không được gọi là “vong” không? Chỉ trừ khi người đó được
thác sanh liền tức khắc về cõi Cực Lạc hoặc cõi Trời, thì sẽ không qua tiếng
“vong”. Tức là những
người đó không
hề có mặt
ở Cõi Âm sau
phút lâm chung. Đã có mặt ở Cõi Âm rồi, dù rằng chỉ một phút, một giây, thì
cũng vẫn được gọi là vong linh. Cho nên, người chủ lễ khi nói chuyện với vong
linh là cũng tự nói với bản thân mình, để chuẩn bị cho cái vị trí của mình
trong tương lai, không ai bước qua khỏi vị trí đó cả, chỉ trừ hai cái lý do vừa
nói ở trên.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Nhất:
Cắt nghĩa cho vong biết là
vong đã chết rồi, không còn hiện hữu trên cõi Đời này nữa, khuyên vong đừng sợ
sệt, hãy an trụ trong ngôi nhà mới này (Đã cho vong nhập vị), trong lời Kinh,
tiếng kệ, tiếng niệm Phật, tiếng trì Chú.
Tiếp theo đó là giảng dạy
cho vong hiểu về sự vô thường của chính bản thân họ, của tất cả mọi sự vật trên
cõi đời. Lần lượt tiếp theo, là những đề tài về nhân quả, nghiệp lực, vì người
sống lẫn người chết đều bị chi phối bởi nhân quả và nghiệp lực.Cũng trong
tuần lễ này,
người chủ lễ
cũng nên sắp
xếp để cho những thân nhân, bạn bè hoặc người quen biết với vong linh đến
trước bàn thờ vong, phát lời “sám hối” cùng với vong linh. Khi vong linh còn
tại thế, họ đã có những xích mích, làm những việc trái lòng, gây tạo sự buồn
phiền, sân hận hoặc hiểu lầm đối với vong linh.Những lời
chân thành ăn năn sám
hối này, sẽ
giúp cho hương linh được nhẹ
nhàng, xả bỏ những phiền não, góp một phần lớn vào việc giúp cho hương linh dễ
dàng siêu thoát.
Những đề tài Pháp tham
khảo trong lễ siêu độ:
* Vô Thường
* Buông Xả
*Nghiệp Lực
*Nhân Quả
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Nhì:
Giảng cho vong nghe về
những khúc mắc của vong. Những đề tài về “khúc mắc của chúng sanh” thì nhiều vô
số kể, nhưng thật ra cũng tương tự, cũng xoay chung quanh vấn đề tiền tài, vật
chất, sân hận, nợ nần, buồn bã, oan ức, tức là những cái khổ hằng ngày. Vì đó
là thân nhân của mình, nên những khúc mắc của họ mình vẫn biết được, cho nên
phân loại khúc mắc đó thuộc về đề tài nào, và chú tâm nghiên cứu về đề tài đó.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Ba:
Người chủ lễ sẽ nghiên cứu
các đề tài về Nghiệp Lực, về lục dục thất tình, về khổ nạn. Những bài Pháp tham
khảo:
* 7 Bước Thăng Trầm
*Khổ Nạn Của Chúng
Sanh
*Vòng Tương Quan
Nghiệp Lực
*Tánh Chiêu Cảm Nghiệp
Lực
Vong đã xa rời dương thế,
ra đi nhưng vẫn còn ôm ấp những ước vọng chưa thực hiện được. Sự nuối tiếc cuộc
đời sẽ là cơ hội tốt đưa vong trở lại cõi Ta Bà, nhưng thử hỏi:Khi còn tại thế,
vong có thực sự sống những ngày
hoàn toàn an bình, không
phiền não, không vướng bận, không lo âu chăng?
Vong chưa từng bao giờ
đối diện với nghiệp chướng nào sao?
Vong chưa từng bao giờ
gây tạo nên nghiệp lực với ai chăng?
Bước vào cõi Ta Bà là bước
vào vòng Sanh Tử Luân Hồi, là quấn vào người của mình không biết bao nhiêu là
vòng nghiệp lực chằng chịt, không tìm ra được mắt tháo gỡ. Hằng ngày, các Chư
Phật và Bồ Tát đã bận rộn với biết bao
nhiêu chúng sanh kêu gào
cứu khổ!Trở lại cõi Ta Bà, vong linh có chắc chắn rằng mình sẽ thác sanh về một
nơi sung sướng, có nhà cao cửa rộng, có nệm
ấm chăn êm, có kẻ hầu người
hạ chăng? Vong tin tưởng rằng sẽ được cư ngụ trong một Quốc Gia hùng cường,
giàu có, biết tôn trọng và chăm lo cuộc sống của mỗi người dân hay sao? Nếu
vong linh phải thác sanh vào một nơi mà ánh
sáng văn minh không có,
cuộc sống con người vô cùng lạc hậu,
không khác loài
súc sanh, thiếu ăn,
thiếu mặc, bữa đói, bữa no, liệu rằng vong linh có còn phấn khởi để trở lại cõi
Ta Bà nữa hay không?
Người ở cõi Ta Bà còn
cố gắng tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc, thì tại sao vong linh lại chọn cõi
Ta Bà để trở lại, cho thêm nhiều phiền não, nhiều khổ sầu, nhiều tai ương?
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Tư:
Sẽ xoay quanh đề tài về Tự
Ái.
Người chủ lễ vạch rõ cho
vong thấy rằng chính do ở Tự Ái mà vong đã sân hận, đã đem nhiều phiền não đến
cho mình, đã gây tạo nên biết bao nhiêu nghiệp lực với kẻ khác.
Bài Pháp tham khảo:
* Tự Ái
*Nghiệp Chướng Nền
Tảng Của Chúng Sanh
GHI NHỚ:
Trong tất cả các buổi
giảng Pháp, đều gợi lên cho vong thấy rằng, vong không nên trở lại cõi Ta Bà,
lúc nào cũng vạch rõ sự thù thắng vi diệu của cõi Trời, cõi Phật.Khuyên vong
nên sám hối, trì Chú, niệm Phật thật nhiều để người được nhẹ nhàng, dễ dàng xả
bỏ những vọng tưởng.Như thế việc thác sanh về cõi Trời, cõi Phật cũng sẽ được
dễ dàng.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Năm:
Người chủ lễ sẽ giảng cho
vong nghe về Tam Độc: Tham – Sân- Si, về những tai hại, những hậu quả đáng ghê
sợ của nó và Ba Món Phiền Não này đã lôi kéo chúng sanh trôi lăn trong vòng
sanh tử như thế nào?Đề tài Tham Sân Si là đề tài lớn, người chủ lễ cần phải
nghiên cứu kỹ lưỡng để giảng giải cho vong nghe.Thần thức có hiểu thấu đáo thì
sẽ dễ dàng xả bỏ những vướng mắc của mình, vì đa số những vướng mắc đều nằm vào
Tham Sân Si.Nếu người chủ lễ cảm thấy lúng túng, không diễn tả hết được tính
chất của Tam Độc này thì cứ đọc cho vong nghe những bài Pháp nói về Tham Sân
Si.Nên đọc chậm rãi, rõ ràng để cho vong dễ thâm nhập.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Sáu:
Đề tài được chọn để giảng
trong tuần này là đề tài về Phiền
Não.Bài Pháp tham khảo:
* Địa Ngục Của Mỗi
Chúng Sanh
*Tâm Bình
*Buông Xả
Trong tuần này, người chủ
lễ sẽ trình bày cho vong sự thù thắng của cõi Trời, những phước báu mà Thiên
Chúng được hưởng ở cõi Trời.Muốn được sanh về cõi Trời, vong phải dốc lòng xả
bỏ phiền não, phải giữ một trạng thái Bình để tuyệt đối không vấy vào sân hận.
Giảng Cho Vong Linh Về Cảnh Giới Trời và Cảnh Giới Phật
Sau đây là hai cảnh giới:
Trời và Cực Lạc. Người chủ lễ có thể đọc lên cho vong nghe. Nếu có thể thì giải
thích sự thù thắng (sự vượt bực, sự khác thường) của từng cảnh giới, vong thấu
hiểu và tự mình lựa chọn.
Cảnh Giới Trời
Ánh sáng nơi cõi Trời Dục
Giới luôn luôn rực rỡ, gió mát quanh năm suốt tháng, không bao giờ thấy nắng
nóng, nực nội, cũng không bao giờ thấy mưa rơi, tuyết giá. Một khung cảnh làm
cho Thiên Chúng luôn luôn cảm thấy phơi phới trong lòng, lúc nào cũng thấy phấn
khởi, lúc nào cũng thấy vui tươi, không chút phiền não, không chút lo âu, không
chút buồn rầu. Tóm lại chữ Buồn, chữ Lo không bao giờ hiện hữu ở tại Cõi Trời
cả. Mỗi Thiên Chúng đều có thần thông,
nghĩ đến cái
gì thì cái đó sẽ
hiện ra. Một
Thiên
Chúng Nữ sửa soạn để đi chơi,
nghĩ đến một chiếc áo thật đẹp theo ý muốn của mình, tức thì cái áo hiện ra.
Một Thiên Chúng Nam nghĩ đến việc: tôi muốn được cỡi ngựa để rong chơi với bạn
bè, tức khắc một đàn ngựa con nào cũng đẹp, con nào cũng oai vệ, hiện ra theo ý
muốn của người đó.Hoặc giả, chiều hôm nay tôi muốn mời vài người bạn tới để
dùng tiệc; tôi muốn những thức ăn như thế này, thế này; tôi muốn nơi tôi ở được
trang hoàng như vầy, như vầy. Tất cả mọi thứ tôi đã vẽ sẵn ra trong đầu, tức
khắc tôi sẽ đạt được
hết theo ý muốn của tôi.
Tôi muốn vui chơi, đàn ca, xướng hát, tôi muốn xem kịch, tôi muốn làm bất kỳcái
gì mà tôi thích, nhất nhất không sót một cái gì hết, tất cả đều hiện ra theo ý
muốn.Trên Cõi Trời có rất nhiều chùa, tất cả đều rất uy nghi, tráng lệ; chỉ cần
tôi tỏ ý muốn tu tập, tức khắc các vị Bồ Tát
sẽ chỉ dẫn cho tôi một
cách rất rõ ràng việc tu tập. Nếu tôi muốn phát tâm tu tập, đó là một điều rất
tốt, không gặp sự khó khăn gì hết. Từ việc tôi phát tâm tu tập, cho đến việc
tôi bước sang cảnh giới Cực Lạc, đều rất là dễ dàng.
Chúng sanh khi được thác
sanh về Cõi Trời, có nghĩa là, chỉ ở Cõi Trời Dục Giới mà thôi. Muốn được lên
tầng Trời cao hơn, phải tu tập thêm. Đã mang tên là Cõi Trời Dục Giới, tất cả
những gì gọi là hưởng Lạc, đều không thiếu sót một điều gì cả. Vì vậy, khi
chúng sanh được về Cõi Trời Dục Giới, rồi đắm chìm vào trong Dục Lạc, cho nên
khó lòng mà lo tu tập lắm. Ngày tháng qua nhanh, đến khi dòm lại thì hình tướng
đã suy hao, không còn những tướng tốt nữa. Vì vậy, được sanh về Cõi Trời, nhưng
nếu phát tâm tu
tập, thì có thể kéo dài
thời gian ở tại Cõi Trời, và cũng có cơ hội tốt, nếu muốn, để được sanh về Cực
Lạc.Còn nếu chỉ thuần hưởng Dục Lạc không, thì sẽ có một thời hạn nhất định. Khi phước Trời đã mãn, nếu
không tu
tập, vong bị trả trở về
cõi Ta Bà và sẽ theo nghiệp kế tiếp của mình mà đi; như vậy vong sẽ trở lại với
điểm bắt đầu là TRẢ NGHIỆP và tiếp tục TẠO NGHIỆP cho đến ngày nhắm mắt lìa đời,
nói tóm lại là trôi lăn trong vòng Sanh Tử Luân Hồi.Một người được thác sanh về
Cõi Trời, nhưng nếu họ không chú tâm đến việc hưởng lạc thú của Cõi Trời, mà
vẫn tiếp tục tu tập, hoặc phát nguyện tu tập, thọ mạng của Thiên Chúng này sẽ được
kéo dài hơn mức quy định.Người được thác sanh về cõi Trời vẫn chưa thoát ly
vòng
sanh tử luân hồi,qua khỏi
phần thọ mạng ở cõi Trời, sẽ phải trở lại kiếp Người để hành xử nghiệp kế tiếp
của mình.Chủ lễ nên khuyên vong linh, cố gắng tu tập, niệm Phật thật là nhiều, để
có thể đến cõi Phật, thoát ly vòng sanh tử
luân hồi; nếu chỉ ở cõi
Trời lo hưởng phước, hưởng cái thù thắng vi diệu đó, thì khi hết phước, trở
xuống cõi trần, lúc đó thiên tai biến động lại chín muồi, thần thức còn khổ
nữa. Do đó thần thức phải cố gắng tu tập để thoát ly sanh tử.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Bảy:
Đây là tuần lễ cuối cùng
của 49 ngày siêu độ. Tuần lễ này vô cùng quan trọng đối với vong, mà cũng là đối
với người chủ lễ, vì nó sẽ chứng tỏ được sự thành công của người chủ lễ trong
việc siêu độ cho một vong linh, nhất là việc hoán chuyển, từ cảnh giới thấp lên
đến cảnh giới cao hơn.
Trong tuần lễ này, người
chủ lễ xoay quanh đề tài về: sự tha thứ, phước huệ, hồi hướng về cảnh giới Cực
Lạc.Bài Pháp tham khảo:
*Minh Tâm Kiến Tánh
*Đới Nghiệp Vãng Sanh
*Mục Đích Của Việc Tu
Tập
Người chủ lễ trình bày cho
vong cảnh giới Cực Lạc, sự an nhiên tự tại, và điều vô cùng quan trọng và đáng
nói là, một khi vong đã trở thành Thánh Chúng rồi, vong sẽ thoát được vòng Sanh
Tử Luân Hồi, không còn nghiệp chướng trùng trùng quấn chặt quanh mình nữa. Với
tư cách là một Thánh
Chúng, vong sẽ trở lại cõi
Ta Bà để cứu độ chúng sanh, trong đó gồm luôn cả chính thân nhân ruột thịt của
mình.Cực Lạc là nơi vong an trụ đời đời, vô thời hạn. Cõi Trời
là nơi vong được hưởng
Phước, hưởng những niềm vui bất tận, có thể nói, muốn gì được
nấy!Tuy nhiên Phước
báu này cũng
không được gọi
là vĩnh viễn, vẫn
có thời hạn,
dài hay ngắn,
còn tùy theo
công năng tu tập hành Thập Thiện của mỗi chúng sanh, khi còn
tại thế.Người chủ lễ hướng
dẫn cho vong niệm Phật thật nhiều …
nhiều hơn các ngày trong
các tuần trước, giúp cho vong phát nguyện tu tập, trau giồi Tâm - Ý -Tánh và
sám hối thật nhiều.
Trong suốt 7 ngày của tuần
lễ thứ 7 này, người chủ lễ giúp cho vong tu tập rất nhiều và giờ giảng Pháp
cũng nhiều hơn, cốt sao để giúp cho Trí Huệ của vong được sáng lên.Tuy nhiên,
việc lựa chọn giữa hai cảnh giới Trời và Phật là do vong quyết định thì mới được.
Người chủ lễ chỉ có bổn
phận trình bày hai cảnh giới Trời và Cực Lạc, không thể dự phần vào việc quyết định
giùm cho vong được.
Cảnh Giới Cực Lạc
Cảnh giới Cực Lạc đã được
diễn tả rất rõ ràng trong Kinh A Di Đà sau đây:
“Xá Lợi Phất! Vì sao cõi đó
tên là Cực Lạc? Vì cõi đó chúng sinh chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng thụ các sự
vui, nên gọi là Cực Lạc.Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy tầng lan
can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều do bốn thứ báu bao bọc chung
quanh, cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có
ao làm bằng bảy báu, nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao dùng
cát vàng trải làm đất, bốn bên thềm đường, dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp
làm thành, phía trên có lầu các, cũng dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
châu đỏ, mã não nghiêm sức. Hoa sen trong ao, lớn như bánh xe, hoa màu xanh thì
ánh sáng xanh, màu vàng thì ánh sáng vàng, màu đỏ thì ánh sáng đỏ, màu trắng
thì ánh sáng trắng, tốt đẹp thơm tho trong sạch. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc
thành tựu công đức trang nghiêm như thế.Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi Phật đó thường
trổi nhạc
trời, đất bằng vàng ròng,
ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa trời Mạn
Ðà La. Chúng
sinh cõi đó, thường vào buổi sáng sớm, đều lấy túi y đựng
đầy
hoa đẹp, đem đi cúng dường
vạn ức Ðức Phật trong mười phương, khi đến bữa ăn bèn trở về nước của mình, ăn
cơm xong đi kinh hành. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang
nghiêm như thế. Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu
như: Chim hạt trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh.
Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn
nói Pháp: năm căn, năm
lực, bảy bồ đề
phần, tám thánh đạo, các Pháp như vậy thảy, chúng
sinh trong cõi đó, nghe
tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. »
Chúng sanh được vãng sanh
về cõi Cực Lạc sẽ đời đời an trụ nơi cõi ấy, thoát được vòngsanh tử luân hồi,
không còn bị nghiệp lực triền miên trói buộc.
Ngày Thứ 49
Vào ngày thứ 49 tính từ
ngày lâm chung (tức là ngày thứ 7 của tuần thứ 7), vẫn theo nghi thức bình thường;
sau khi cho vong sám hối là đến phần trì Chú, niệm Phật (nên nhờ thêm một vài
người trong gia đình hoặc bạn bè, quen biết phụ việc niệm Phật cùng với vong).Trong
lúc đó, người chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để giúp tiễn vong đi, trong
lời niệm Phật vang rền của các thân nhân.Khi khấn xong, người chủ lễ thành tâm
niệm danh hiệu của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong khoảng thời gian từ 15-20
phút, trong lúc đó thì Ngài cùng với quyến thuộc lo việc tiếp dẫn cho vong
linh. Sau thời gian trì niệm danh hiệu của Ngài, người chủ lễ tụng phần hồi hướng
và Tự Tam Quy rồi kết thúc việc siêu độ cho vong!
+Nếu vong đủ duyên để về cõi Phật, Thánh Chúng sẽ đến rước.
+Nếu vong được sanh về cõi Trời, Tứ Thiên Vương sẽ đến rước.
+Nếu vong trở lại cõi Người, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ đưa
đi.
Người chủ lễ cũng phải
khấn hai Vị Hộ Pháp và tỏ lời cảm ơn hai Vị đã bảo vệ cho vong trong suốt thời
gian 49 ngày. Hôm nay việc siêu độ cho vong đã hoàn mãn, xin cung tiễn hai Vị
Hộ Pháp.
GHI NHỚ:
Trong suốt 49 ngày, sau
mỗi khóa lễ siêu độ, chủ lễ khấn hai Vị Hộ Pháp để giúp vong hồi vị, đồng thời
vị chủ lễ cũng chấp 2 tay nói lớn:
Khóa lễ siêu độ cho vong linh tên ________ đã
hoàn tất,
xin thỉnh vong linh hồi vị.
Vừa nói
vừa đưa 2
tay chấp lại,
chỉ thẳng vào
hình của
vong linh, hơi nhích 2 bàn
tay lên.
TỊNH TÂM TRƯỚC KHOÁ LỄ
Chủ
lễ ngồi yên lặng, tịnh tâm trong 5 phút để cho thân tâm được
lắng
đọng trước khi vào khoá lễ siêu độ cho hương linh.
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
(Trì
Thần Chú này để cho thân tâm cảnh vật đều thanh tịnh.
Chủ
lễ có thể tuỳý chọn trì theo tiếng Phạn hoặc tiếng Việt.)
Tiếng Việt: ÁN LAM SOÁ HA. (7 lần)
Tiếng Phạn: OṂ RAM SVĀHĀ. (7 lần)
CHƠN NGÔN PHÁT HÀO QUANG
(Trì
Thần Chú này để giúp cho Chủ Lễ có hào quang và oai lực khi
cúng
cho hương linh. Ngồi xuống, hai tay bắt ấn, trì từ chữ rõ ràng,
chậm
rãi, quán hào quang rực sáng bao phủ chung quanh người.)
CA SHA THA PHA (15 phút)
Bắt đầu: tay bắt Ấn Kiết Tường Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở thành Ấn Kiết Tường Kim Cang
NGHI THỨC SIÊU ĐỘ: CHO HƯƠNG LINH
(Chư
Phật tử nghiêm tịnh thân tâm, quỳ,
chắp
tay cung kính. Chủ lễ nguyện hương.)
0
0 0
NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện
đem lòng thành kính,
Gởi
theo đám mây hương,
Phưởng
phất khắp mười phương,
Cúng
dường ngôi TamBảo,
Thề
trọn đời giữ đạo,
Theo
tự tánh làm lành,
Cùng
pháp giới chúng sanh,
Cầu
Phật từ gia hộ,
Tâm
Bồ đề kiên cố,
Xa
bể khổ nguồn mê,
Chóng
quay về bờ Giác. (1 lạy) 0
KỲ NGUYỆN
(Riêng
người Chủ Lễ khấn:)
Hôm nay là ngày ________, tháng ________, năm
________.
Đệ tử chúng đẳng nhất tâm thành kính, dâng
hương đăng, hiến
cúng Thập Phương
Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng,
U
Minh Giáo Chủ Đại Nguyện
Địa Tạng Vương Bồ Tát, thọ trì
Sám Hối, xưng dương Phật hiệu, chuyên vì cầu siêu, truy tiến quá cố hương
linh tánh danh:
________, Pháp danh ________,
sanh ngày ________, tháng ________, năm ____,
mất ngày ________, tháng ________,
năm ____, hưởng
thọ ________ tuổi. o
(Ðứng dậy cắm hương lên lư
xong rồi chắp tay đứng thẳng và tất cả đồng tụng phần kế tiếp.)
TÁN THÁN PHẬT
Ðấng
Pháp Vương vô thượng,
Ba
cõi chẳng ai bằng,
Thầy
dạy khắp trời người,
Cha
lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận. (xá) o
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật Bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (xá) o
ÐẢNH LỄ TAM BẢO
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :
Nam mô tận hư không, biến
pháp giới, quá, hiện, vị lai
Thập phương chư
Phật, Tôn Pháp, Hiền
Thánh Tăng, thường
trú Tam Bảo. (1 lạy) o
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ :
Nam mô Ta Bà Giáo chủ, Ðiều Ngự Bổn SưThích
Ca Mâu Ni
Phật, Ðương lai
Hạ sanhDi Lặc
Tôn Phật, Ðại
Trí Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ PhápChư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội thượng
PhậtBồ Tát. (1 lạy) o
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Nam mô Tây Phương Cực Lạc
Thế Giới, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Ðà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải
Chúng Bồ Tát. (1 lạy) o
TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa bén chiên đàn,Khói thơm nghi ngút muôn ngàn cõi xa.
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,Ngưỡng
mong chư Phật
thương mà chứngminh.Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát.
(3 lần) o
CHÚ ÐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng
Phật Bồ Tát.(3 lần) o
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại
Đại Bi TâmĐà Ra Ni. 0
Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà
bà.Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a
thệ dựng, tát bà
tát đa, na ma bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di
hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát
bà, ma ra ma ra, ma hê ma
hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt
xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma
ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt xa
phạt xâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất
rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na
ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha
tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ,
thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na
ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà
ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta
bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
Ma bà rị thắng yết ra dạ, ta bà ha. o
Nam mô hắc ra đát na, đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô,
mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.
(3 lần) 0
TRIỆU THỈNH HƯƠNG LINH
(Riêng người Chủ Lễ đọc)
Duy nguyện U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ
Tát, xin phóng
hào quang tiếp triệu quá cố hương linh tánh danh:
________, Pháp danh
________, tử ngày ________, tháng ________, năm ________, hưởng
thọ ____ tuổi, lai đáo Pháp đàn, tiệm hình Pháp vị, thọ tài hưởng thực, thính
Pháp, văn Kinh, siêu sinh Tịnh Độ. o
Nam mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma
Ha Tát. (1 lạy) o
QUY
Y CHO HƯƠNG LINH
Hương linh ____ nhất tâm quy y Phật. o
Hương linh ____ nhất tâm quy y Pháp. o
Hương linh ____ nhất tâm quy y Tăng. o
Quy y Phật, đức trí vẹn toàn.
Quy y Pháp, xa lìa tham ái.
Quy y Tăng, tự tâm thanh tịnh. o
Hương linh ________ quy y Phật, bất đọa Địa ngục.Hương linh ________
quy y Pháp, bất đọa Ngạ quỷ.Hương linh ________ quy y Tăng, bất đọa Súc sanh.o
Hương linh quy y Phật rồi. o
Hương linh quy y Pháp rồi. o
Hương linh quy y Tăng rồi. o
SÁM HỐI
Hương linh _____ vốn tạo bao ác nghiệp, Đều do vô thỉ tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,Tất cả hôm nay nguyền sám hối. o
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát, tác đại chứng minh. (3 lần) o
Hương linh ____, xin đem tất cả tâm thành đối trước chư Phật và Bồ Tát, dập
đầu sám hối, ăn năn tất cả những nghiệp chướng mà hương
linh ____ đã vô
tình hay cố
ý gây tạo
nên.Vì hương linh có Tâm xấu ác nên đã toan tính hại Người.Vì hương linh
có Ý không lành nên luôn mang đến cho Người nhiều đau khổ.Vì hương linh mang
nhiều Tánh xấu nên đã gây niềm Sân Hận cho Người.
Ngày nay nhờ Phật, hương
linh ____ đã thấu rõ những Nghiệp
tội mà hương
linh đã gây nên từ vô thỉ kiếp cho đến kiếp vừa
qua.Cúi lạy Mười Phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, chứng minh cho lòng chí thành
sám hối của hương linh
____ và giúp
cho tất cả tội
chướng của hương linh ____ đều được tiêu trừ.
Nam mô A Di Đà Phật tác đại
chứng minh.(1 lạy) o
KHAI KINH KỆ
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm
mầu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm
cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. o
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) o
PHẬT THUYẾT KINH
THẬP NHỊ PHẬT DANH SO SÁNH
CÔNG ĐỨC TRỪ CHƯỚNG DIỆT TỘI
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1250 vị đại TỳKheo ở trên núi Linh Thứu
gần đại thành Vương Xá. Ngoài ra còn có 12000 vị Bồ Tát Ma Ha Tát, với Vô Năng
Thắng Bồ Tát làm thượng thủ.Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:“Này Di-Lặc!
Từ đây về hướng đông,
vượt qua mười bất khả thuyết chư Phật sát độ ức trăm ngàn vi trần số cõi
Phật, có một thế giới tên là Giải Thoát Chủ. Trong cõi nước ấy có
Đức Phật hiệu là: Hư Không Công Đức, Thanh Tịnh Vi Trần, Đẳng Mục Đoan Chánh,
Công Đức Tướng, Quang Minh Hoa, Hồng Liên, Lưu Ly
Quang, Bảo Thể Hương,
Tối Thượng Hương,
Cúng Dường Ngật, Chủng
Chủng Trang Nghiêm Đảnh
Kế, Vô Lượng
Vô Biên Nhật
Nguyệt Quang Minh, Nguyện
Lực Trang Nghiêm, Biến
Hóa Trang Nghiêm,
Pháp Giới Xuất Sanh, Vô Chướng Ngại Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác; với tùy tâm sở dục, Ngài hiện đang hành Đạo
tiêu diêu và thuyết Pháp ở nơi đó. (1 lạy) o
Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân nào phạm bốn trọng tội, thì do bởi trọng
tội của người ấy, giả sử đất ở Diêm Phù biến làm vi trần và mỗi vi trần làm
thành một kiếp; dẫu người ấy có nhiều kiếp tội như thế, nhưng khi xưng danh
hiệu của Đức Phật này một lần và lễ bái một lần, thì tội tất đều diệt trừ.
Huống nữa là có ai ngày đêm thọ trì đọc tụng và nhớ niệm
chẳng quên; công đức của người đó
chẳng thể nghĩ bàn. Ở trong thế giới kia có một vị Bồ Tát, tên là Nan Thất Vô Chướng Ngại Vương. Ngài đã được Như Lai thọ
ký sẽ thành Phật, hiệu là: Hào Tướng Nhật Nguyệt Quang Minh Diễm, Bảo Liên Hoa,
Cố Như Kim Cang Thân, Biến Nhất Thiết Xứ, Vô Chướng Ngại Nhãn, Viên Mãn Thập Phương,
Phóng Quang Phổ Chiếu Nhất Thiết Phật Sát, Tướng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn. (1 lạy) o
Ở phương đông của thế giới kia lại có một Đức Phật, hiệu là: Nhất Thiết
Trang Nghiêm Vô Cấu Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh
Giác. Hãy nên
tu tâm, xưng danh hiệu của Đức Phật ấy và cung kính
tôn trọng. (1 lạy) o
Ở phương nam có một Đức Phật, hiệu là: Biện Tài Anh Lạc Tư Niệm Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh
Giác. Hãy nên
tu tâm, xưng danh hiệu của Đức
Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở phương tây có một Đức Phật, hiệu là: Vô Cấu Nguyệt Tràng Tướng Vương
Danh Xưng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu tâm, xưng danh
hiệu của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở phương bắc có một Đức Phật, hiệu là: Hoa Trang Nghiêm Tác Quang Minh
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu
tâm, xưng danh hiệu của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở hướng đông nam có một Đức Phật, hiệu là: Tác Đăng Minh Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy
nên tu tâm, xưng
danh hiệu của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở hướng tây nam có một Đức Phật, hiệu là: Bảo Thượng Tướng Danh Xưng Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu
tâm, xưng danh hiệu của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở hướng tây bắc có một Đức Phật, hiệu là: Vô Úy Quán Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu tâm, xưng danh hiệu
của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở hướng đông
bắc có một Đức Phật,
hiệu là: Vô Úy
Vô Khiếp Mao Khổng Bất
Thụ Danh Xưng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu tâm,
xưng danh hiệu của Đức Phật ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o
Ở phương dưới
có một Đức
Phật, hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Căn Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu tâm,
xưng danh hiệu
của Đức Phật
ấy và cung kính tôn trọng. (1 lạy) o Ở phương trên
có một Đức Phật, hiệu là: Kim Quang
Uy Vương Tương
Tự Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Hãy nên tu tâm, xưng danh hiệu của Đức
Phật ấy và cung kính tôn trọng.” (1 lạy) o
Lúc bấy giờ Đức Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát:“Nếu có chánh tín thiện nam
tử, hay chánh tín thiện nữ nhân nào, chí tâm xưng danh hiệu của mười hai Đức
Phật này, thì suốt mười ngày hãy nên sám hối tất cả nghiệp tội. Hết thảy chúng
sanh có bao nhiêu công đức hãy đều
nên tùy hỷ. Hãy khuyến thỉnh tất cả chư Phật trụ lâu ở thế gian. Hãy đem
các thiện căn của mình hồi hướng đến khắp chúng sanh trong
Pháp Giới.
Ngay lúc đó, tất cả nghiệp tội của họ sẽ liền được diệt
trừ, tất cả
nghiệp chướng được thanh tịnh, liền được thành tựu đầy đủ
trang
nghiêm tất cả
Phật độ và
thành tựu cụ túc
vô úy. Họ lại được đầy đủ thân tướng trang nghiêm, đầy đủ chư Bồ Tát làm quyến
thuộc vây quanh, được đầy đủ vô lượng đà la ni, đầy đủ vô lượng tam muội, và đầy
đủ Phật độ trang nghiêm như ý. Họ cũng được đầy đủ vô lượng Thiện Tri Thức, mau
được thành tựu những việc như đã nói ở trên và bất tăng
bất giảm.
Ở trong chốn
phiền não, họ
tu hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và có tướng
mạo đoan chánh. Quả báo đáng mừng thay!
Họ cũng được tài bảo dồi dào, luôn sanh vào dòng dõi tôn quý, thân tướng
cụ túc, và cũng được quyến thuộc hiền hòa vây quanh.” o
Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn trùng tuyên nghĩa lý trên nên nói kệ rằng:
“Nếu có thiện nam tử
Hay thiện nữ nhân nào
Thọ trì Phật danh này
Trong đời đời kiếp kiếp
Được người khác kính mến
Quang minh uy lực lớn
Tôn quý trong hàng người
Về sau sẽ thành Phật.” o
KỆ SÁM HỐI
Hương Linh ________
Chí tâm Sám Hối:
Đệ tử chúng con
Trong cõi Ta Bà
Mang nhiều nghiệp chướng
Thật là sâu nặng
Hôm nay dập đầu
Thành tâm sám hối.(1 lạy) o
Một lòng ăn năn
Tất cả việc làm
Con đã tạo nên
Đem điều đau khổ
Tròng vào cổ người
Khiến người tức tưởi
Đau xót muôn phần.
Ngày nay con hiểu
Tất cả tội lỗi
Là do ở Tâm
Tâm con không lành
Khơi dậy Ý xấu
Tánh con quá dữ
Không năng sửa đổi
Tạo nên nghiệp chướng
Rất đỗi sâu dày.
Con đã nhận ra
Tâm Ý Tánh này
Là đầu mối đó
Khiến con phải chịu
Khổ sở trăm bề.
Phật Pháp nhiệm mầu
Giúp con mở Trí
Kiểm điểm Tâm mình
Giữ tròn Ý tốt
Dùi mài Tánh xấu
Để không bao giờ
Gây lụy phiền phức.
Hủy bỏ tất cả
Những điều sai trái
Thật sự ăn năn
Điều không tốt đẹp
Làm khổ bao người
Tạo nên nghiệp chướng.
Lòng con chân thành
Ăn năn sám hối.
Cúi lạy chư Phật
Mười phương minh chứng
Để con nhẹ nhàng
Thư thả cất bước. (1 lạy) o
Hương Linh ________
Chí tâm Phát Nguyện:
Khi bỏ báu thân
Con sẽ sẵn sàng
Đem thân thanh tịnh
Về chốn Tịch Liêu.
Lòng con hoan hỉ
Thấy cảnh Trời Tây
Cực Lạc đón chào
Con ngự tòa sen
Lòng rất vui mừng
Trở nên Thánh Chúng. (1 lạy)
o
Hương Linh ________
Chí tâm Tùỳ Hỷ:
Nhờ ơn chư Phật
Bồ Tát giúp con
Trí huệ mở mang
Con hiểu được rằng:
Sống trên cõi đời
Phải luôn tôi luyện
Tâm mình trong sáng
Ý mình rực rỡ
Tánh mình trau chuốt
Làm sáng lòng ta
Đem điều tốt đẹp
Đến cho muôn người,
Tránh sự phiền hà
Tạo bao nghiệp chướng. (1
lạy) o
Hương Linh ________
Chí tâm Khuyến Thỉnh:
Cúi lạy Chư Phật
Lạy chư Bồ Tát
Xin giúp cho con
Đời đời kiếp kiếp
Trong ánh hào quang
Soi thấu của Ngài
Bỏ đi điều dữ
Chỉ biết điều lành
Đem niềm An Lạc
Đến cho chúng sanh.
Nhờ ơn Chư Phật
Con đem công sức
Tu tập của mình
Gói trọn thân con
Hành trang sẵn sàng
Ra đi thư thả
Trọn lòng ước mong
Pháp giới chúng sanh
Trong cõi Ta Bà
Dốc lòng Tu Tập. (1 lạy)
Hương Linh ________
Chí tâm Hồi Hướng:
Xin giúp cho con
Giữ Tâm thanh tịnh
Tu tập tốt đẹp
Đem điều hạnh phúc
Đến cho muôn người
Mang hết công đức
Tu tập của con
Hướng về tất cả
Pháp giới chúng sanh
Từ người đến vật
Đều cùng hưởng cả.
Con xin chia sẻ
Công đức sâu dày
Tất cả muôn loài
Đồng hưởng điều lành
Cùng nhau chung bước
Về miền Cực Lạc,
Thoát kiếp luân hồi,
Sống đời An Nhiên. (1 lạy) o
CÚNG CƠM CHO HƯƠNG LINH
(Chủ
lễ đến trước bàn thờ vong, châm trà và gấp thức ăn vào chén cơm của hương
linh).Phần này chỉ dành cho hương linh còn trong 49 ngày
Xin nguyện hương linh ________Về đây thọ hưởng
đơn thành,
Nén hương, bát nước, cơm canh cúng dường.Hương linh _________ thọ hưởng,
Chứng tri lòng thành.
KHAI YẾT HẦU CHƠN NGÔN
(Tay bắt Ấn Kiết Tường)
ÁN BỘ BỘ ĐẾ RỊ, GIÀ ĐA RỊ,
ĐÁT ĐA NGA ĐA GIA. (7 lần)
Sau đây chủ lễ mời hương linh đến trước bàn thờ Phật, nghiêm chỉnh,
nhất tâm cùng trì Chú và niệm Phật với Chủ lễ.
CHƠN NGÔN SIÊU ĐỘ
HƯƠNG LINH
(Tay bắt Ấn Kiết Tường, trì Thần Chú này giúp cho hương linh được nhẹ
nhàng, mau siêu thoát. Khuyên hương linh cùng trì theo từ chữ rõ ràng, chậm
rãi).
Âm: HA-ANH
CA THU SHU PHU! (10 phút)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
(2 tay bắt Ấn Kiết Tường, chuyên tâm trì
Chú này tôí thiểu 10 phút)
(Tiếng Phạn): OṂ MAṆI PADME HŪṂ
(Tiếng Việt): ÁN MA NI BÁT DI HỒNG
NIỆM PHẬT
(Quỳchấp tay cung kính phát nguyện)
Đệ tử chúng con,Nay vì hương
linh _____,Sám hối ba nghiệp tội.Phàm được bao phước thiện,Con xin nguyện hồi hướng.Nguyện
cùng với hương linh,Vãng sanh nước Cực Lạc.Thấy Phật ngộ Pháp Tánh,Phát tâm đại
Bồ Đề. Đoạn vô biên phiền não, Tu vô lượng pháp môn. Thệ nguyện độ chúng sanh, Đồng
trọn thành Phật đạo. o
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đại
Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. o
Nam Mô A Di Ðà Phật (Niệm từ 10 phút
trở lên) o
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 Câu) o
Nam Mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (10 Câu) o
Nam Mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (10
Câu) o
Nam Mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (10 câu) o
TÂM KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA
Khi Ngài Quán Tự Tại BồTát thực
hành sâu xa Pháp
Bát Nhã Ba
La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết
thảy khổách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, Sắc
chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.”“Này Ông Xá Lợi Phất, ‘Tướng Không
của mọi
pháp’ - không sanh, không diệt,
không nhơ, không
sạch, không thêm,
không bớt, cho
nên trong ‘Chơn Không’,
không có Sắc,
không có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Không
có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý.
Không có Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Không có Nhãn Giới, cho đến không
có Ý Thức Giới, không có Vô Minh, cũng không có
cái hết Vô Minh, cho đến không có Già Chết, cũng không có cái hết Già Chết.
Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không có Trí Huệ, cũng không có Chứng Đắc. Vì
không có Chứng Đắc, nên Bồ
Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, Tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.”“Chư Phật
trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa mà được đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa
là Đại Thần Chú, là Đại
Minh Chú, là
Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết
thảy khổ, chân thật không hư.”
Vì vậy, Phật liền nói Thần
Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa:
“YẾT ÐẾ
YẾT ÐẾ, BA
LA YẾT ÐẾ, BA
LA TĂNG YẾT ÐẾ, BỒ ÐỀ TÁT BÀ HA.” (3
lần) o
VÃNG SANHTỊNH ĐỘ THẦN CHÚ
Tiếng Việt:
Nam mô A di đa bà dạ
đa tha già đa dạ.
Đa điệt dạ tha:
A di rị đô bà tỳ
a di rị đa tất đam bà tỳ
a di rị đa tỳ ca lan đế
a di rị đa tỳ ca lan đa
dà di nị dà dà na
chỉ đa ca lệ ta bà ha. (7
lần) o
Tiếng Phạn:
Namo amitābhāya
tathāgatāya.
Tadyathā:
Amṛtodbhave
amṛta siddhaṃbhave
amṛta vikrānte
amṛta vikrānta
gamine gagana
kìrtti kare svāhā. (7 lần) o
GIẢNG PHÁP
Sau đây, chủ
lễ đứng trước
bàn thờ vong, giảng Pháp khuyên nhắc hương linh …
Vị chủ
lễ nên nghiên
cứu thật kỹ lưỡng
chương Hướng Dẫn
Phần Nghi Thức:
Mục Giảng Pháp, để có thể nắm vững nội dung của việc giảng Pháp cho vong
linh mỗi ngày, trong mỗi tuần.Vong cần phải nghe chậm rãi, nhắc đi nhắc lại
nhiều lần vì ngũ căn không còn, nên không thể lãnh hội nhanh được. Do đó, cần
có sự nhẫn nại, dìu dắt vong, để vong hiểu
một cách thấu đáo. Mỗi
tuần một bài
pháp mới. Khi cúng cho vong mỗi ngày, cứ bài pháp đó
nhắc đi nhắc lại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhấn mạnh nhiều đến Nhân và
Quả, vì nghiệp lực là sự tác động của Nhân và Quả. Nếu vong hiện đang bị vướng
mắc cũng là do đã gây tạo nên nhân không lành.
Việc
giảng pháp cho
vong nghe góp
một phần không nhỏ vào việc giúp vong tỉnh ngộ, nhận ra điều sai lầm để ăn
năn sám hối, thần thức nhẹ nhàng, vong cất bước dễ dàng tìm đường thác sanh.
PHỤC NGUYỆN
(Riêng người Chủ Lễ đọc)
Đệ tử tên là ________, Pháp
danh ______, xin đem công đức Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật hồi hướng cho hương
linh tánh danh ________, Pháp danh
________, sanh ngày ____, tháng
____, năm_____, mất
ngày ___, tháng ___, năm _____, hưởng thọ ____ tuổi. o
Ngưỡng mong chư Phật và Bồ Tát thùy từ gia hộ độ cho hương linh _______,
thần thức được nhẹ nhàng, trí huệ phát sáng để nhận chân ra điều sai lầm đã tạo
tác, biết thành tâm ăn năn, sám hối về những
nghiệp chướng đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp cho đến kiếp vừa qua.
Cúi lạy Đức Từ Phụ A Di Đà
Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi cứu khổ, cùng Đức Đại Hùng Đại Lực Đại Thế
Chí Bồ Tát, U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát,
rủ lòng thương xót, phóng quang tiếp dẫn thần thức
của hương linh _____
vãng sanh Cực
Lạc
Quốc. o
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Hồi hướng cho Hương Linh _____
Cùng oán thân trái chủ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báu thân này
Đồng sanh cõi Cực Lạc.
TỰ TAM QUY
Tự quy y Phật :
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo Đạo cả,
Phát lòng Vô Thượng. (1 lạy) o
Tự quy y Pháp :
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ Kinh Tạng,
Trí Huệ như biển. (1 lạy) o
Tự quy y Tăng :
Xin nguyện chúng sanh,
Thống Lý đại chúng,
Hết thảy không ngại. (1 lạy) o
Nếu việc siêu độ cho vong
linh còn trong khoảng thời gian từ 1-48 ngày, sau phần Tự Tam Quy, vị chủ lễ
tiếp tục với phần “Ghi Nhớ” : Trong suốt 49 ngày, sau mỗi khóa lễ siêu độ,
chủ lễ khấn hai Vị Hộ Pháp để giúp vong hồi vị, đồng thời vị chủ lễ cũng chấp 2
tay nói lớn:
Khóa lễ siêu độ (ngày) cho vong linh
tên ________ đã hoàn tất,
xin thỉnh vong linh hồi vị.
Vừa
nói vừa đưa
2 tay chấp
lại, chỉ thẳng
vào hình của
vong linh, hơi nhích 2 bàn tay lên.
0 0 0
Phần Phụ
Giảng
Sau 49 Ngày
Khóa lễ siêu độ cho hương
linh đã hoàn mãn.
Bàn Thờ:
Sau 49 ngày, dù cho hương
linh đi về cảnh giới nào cũng vậy, không cần giữ bàn thờ đó nữa. Nếu người chủ
lễ hoặc thân nhân của hương linh,
vì hương linh
mà tu tập
mỗi ngày, và hồi hướng cho hương linh, thì dù ở bất kỳmột cảnh giới nào,
hương linh cũng nhận được sự hồi hướng đó. Đây là việc làm ích lợi cho cả đôi
bên. Người chủ lễ tiếp tục việc tu tập hằng ngày sau 49 ngày, và giữ được trường
chay thì tốt, còn nếu không giữ được trường chay, trở lại như cũ cũng vẫn không
sao.
Đám Giỗ
Sau
49 ngày, để lưu niệm, thân nhân người quá cố có thể treo lên tường, hoặc đặt
hình của người ấy ở một nơi nào đó trong nhà, tùy theo sự trang trí của mỗi
nhà.Mỗi năm, vào đúng ngày người đó qua đời (có người dùng ngày Dương Lịch, có
người dùng ngày Âm Lịch, cách nào cũng được cả, miễn là tròn một năm), tất cả
thân nhân, bạn bè quen biết của người quá cố, tề tựu lại, người đại diện sẽ có đôi
lời nói về thân thế, về những sự đóng góp vào Gia Đình, vào Xã Hội, vào Quốc
Gia của người quá cố. Cũng có thể nhắc lại những đức tánh, những việc làm tốt đẹp
của người này khi còn sống.
Tất cả mọi người hiện diện
trong ngày hôm ấy sẽ ăn chay, và đồng hành lễ Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.Sau
cùng thì hồi hướng công đức tu tập của ngày hôm đó cho người quá cố.Cứ mỗi người
đem hết tâm thành của mình ra tu tập ngày hôm đó, công đức trao về cho người
quá cố một phần, người
đó hưởng sáu phần.Nếu có
20 người tham dự buổi lễ, người quá cố sẽ được
hưởng 20 phần công đức!Đó
là phương thức tưởng niệm hữu ích nhất cho người sống lẫn người chết.
Bên cạnh đó, nếu thân nhân quyết định hành việc Thiện để
hồi hướng cho người đã mất, thì lại là một việc mang đến quá nhiều Phước Báu
cho người đã mất.
Nói
tóm lại: nghi thức đám giỗ cho hương linh, một năm sau đó, là ăn chay, sám hối,
trì Chú, niệm Phật và làm điều phước thiện. Tất cả công đức đó hồi hướng cho hương
linh, không phải rườm rà nấu nướng, cúng cơm, làm bàn thờ, lập bài vị gì hết.
Hương
linh không trở về nữa để ăn đâu, dù đi bất kỳ một cảnh giới nào, cũng không trở
về để ăn được.
Về cảnh giới Người thì, đã trở lại làm người
rồi, cũng không trở về ăn được. Về cảnh giới Trời, cũng vẫn không trở về để
hưởng đâu. Nhưng, những
công đức tu tập của thân nhân người quá cố, sẽ giúp cho hương linh ở tại cõi
Trời hoặc cõi Người, được hưởng nhiều lợi lạc trong ngày hôm đó. Nếu về Cực
Lạc, là một việc khác nữa! Nếu hương linh về được Cực Lạc, sự tu tập của thân
nhân của hương linh, sẽ giúp cho hoa sen của hương linh đó mau nở ra, do đó,
lúc nào cũng lợi ích cho cả đôi bên.
Sự tu tập và hồi hướng của
thân nhân hằng ngày, sẽ giúp cho hương linh gặp nhiều lợi ích như là may mắn,
sức khỏe, được hưởng những thứ tốt đẹp ở cõi trần, nếu hương linh đó đã đầu
thai làm người. Nếu hương linh đó về cõi Trời, thì thọ mạng ở cõi Trời sẽ được
kéo dài, nhờ ở công năng tu tập và hồi hướng của thân nhân cho hương linh. Nếu
hương linh đó được may mắn vãng sanh Cực Lạc, thì sự tu tập, hồi hướng của thân
nhân sẽ giúp cho hoa sen càng mau nở.Một thần thức được nhập liên hoa, có nghĩa
là được vào trong hoa sen, thì sẽ ở trong đó để tu tập, gột rửa thân tâm của
mình trong một thời gian; tùy theo mức độ tu tập của hương linh, mà hoa sen sẽ
nở nhanh hay chậm. Nhưng, nếu có được sự ủng hộ, trợ giúp của thân nhân, hoa
sen đó sẽ nở lẹ hơn. Khi hoa sen nở ra, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng
lớn, và có cơ hội để cùng với tất cả những thần thức khác tham dự những buổi
nghe Pháp, được đi đảnh lễ các chư Phật trong mười phương. Vì vậy mà cần cho
hoa sen được nở nhanh! Những người “đới nghiệp vãng sanh” Hạ Phẩm Hạ Sanh, phải
mất thời gian rất lâu mới có thể gột rửa được thân tâm của mình. Cho nên, nếu được
sự giúp đỡ của thân nhân, nhất là con cái của mình, hoa sen đó sẽ nở nhanh hơn.
Khi hoa sen đã nở, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng lớn lên, việc tu tập
càng tăng tiến, phẩm vị càng lên cao. Từ Hạ Phẩm Hạ
Sanh, Thánh
Chúng tiến lần đến Thượng
Phẩm Thượng Sanh, chánh thức trở
thành Bồ Tát của Cực Lạc, tham dự hết tất cả những công việc cứu độ chúng sanh
của hàng Bồ Tát.
Tạo Phước Cho Hương Linh
Người chủ lễ và các thân
nhân của vong linh nên làm tất cả mọi việc cho vong với tinh thần của Tứ Vô Lượng
Tâm. Với tất cả Tâm Từ Bi Hỷ Xả, thay mặt cho vong mà bố thí, in Kinh, đúc tượng
hoặc là giảng Pháp, hay làm bất kỳmột điều gì tạo nên công đức, hồi hướng lại
cho vong, đều rất tốt đẹp và lợi lạc cho vong lẫn thân nhân. Trong thời gian 49
ngày, nếu vong được hưởng những công đức đó, xem như là vong có đủ đầy phương
tiện để có thể ra đi ở một kiếp tới.Muốn bố thí và hồi hướng cho người thân quá
cố, chỉ có một điều rất là tốt đẹp, là hành xử Tứ Vô Lượng Tâm, Từ Bi Hỷ Xả;
một lời tốt đẹp, một hành động tốt đẹp, cái gì tốt đẹp … cũng đều hồi hướng lại
cho thân nhân, như vậy rất tốt.Việc siêu độ cho một vong linh là một công hai
việc: vừa giúp cho vong linh được siêu thoát, mà cũng vừa giúp cho bản thân của
người chủ lễ được thăng hoa. Nếu việc siêu độ đó là một hành động xuất phát từ
tấm lòng chân thật của mình, và vì một chúng sanh mà đem hết tấc dạ chân thành
của mình ra để tạo điều An Lạc, vong linh cũng được hưởng, mà chính bản thân
mình cũng được hưởng. Công đức đó, vong linh sẽ hưởng một, mà người chủ lễ sẽ hưởng
được đến sáu phần. Cho nên, công đức đó không thể nghĩ bàn.
Lợi Ích Của Việc Siêu Độ Cho Vong Linh
• Nhờ có việc siêu độ
vong linh, người đã tu tập, đã bước qua giai đoạn tập tểnh tu tập rồi, sẽ được
gia tăng phước huệ.
• Nhờ có việc siêu độ
vong linh, người chưa từng tu tập, có dịp bước vào việc tu tập, để rồi từ đó,
làm đà cho những bước tiến nhảy vọt trong vấn đề tu tập.
Chúng
sanh từ người giàu có cho đến người bần hàn, không ai thoát được cái chết cả.
Ngày hôm nay mình siêu độ cho một người, ngày sau người khác sẽ siêu độ cho
mình. Nếu mình không đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho người, thì sẽ khó có
người đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho mình. Đó
là nguyên tắc
chánh yếu, thường
tình, không thoát đâu được hết.
Cho nên, dù có muốn bước
vào việc tu tập, hay chưa muốn bước vào việc tu tập, vẫn phải hiểu rằng, trước
sau gì tôi cũng phải đi vào con đường tử vong. Đã có sinh thì phải có tử. Khi
tôi chạm mặt với cái chết, nếu tất cả mọi người đều cùng mang một ý nghĩ như
tôi là sống chết mặc ai, thì như vậy, ai sẽ là người giúp siêu độ cho tôi? Vì
vậy mà tôi phải nhớ rằng: việc bước vào con đường tu tập là một việc đương
nhiên, không tránh khỏi, vì kẻ đi trước, người đi sau. Không bước vào con đường
tu tập, sẽ không có dịp làm quen đến vòng nghiệp lực, đến việc làm sao phá được
vòng nghiệp lực, làm sao để tiêu trừ được nghiệp chướng. Tất cả những việc đó đều
có liên quan đến Tâm-Ý -
Tánh. Hiểu được một cách
sâu sắc vòng nghiệp lực, là tự mình trui rèn con người của mình, để tự biến cải
mình, từ xấu hóa tốt, từ tốt ít biến thành tốt hơn, để rồi từ đó, có cơ hội đi
lên. Cho nên, việc siêu độ cho một vong linh, là cửa ngõ giúp cho mình bước vào
con đường tu tập, và hiểu được rằng, việc tu tập rất là quan trọng và cần thiết
cho bất kỳ một người nào. Một nguyên tắc chánh yếu cần phải ghi nhớ là, mình có
làm cho người thì người mới làm cho mình! Nếu mình từ chối người thì người sẽ
từ chối mình! Do đó, nhân và quả như
bóng với hình,
không bao giờ
rời nhau nửa bước. Vì vậy đừng kinh sợ, đừng hoảng hốt
khi nghe đến hai chữ tu tập. Thật sự ra, nó đem lại cho mình bao nhiêu điều lợi
ích, trên đường Đời lẫn đường Đạo. Sự tu tập giúp cho mình được an nhiên tự tại
trong cuộc sống, rồi một mai mình bỏ thân xác ra đi, mình cũng sẽ thăng hoa một
cách dễ dàng. Sự tu tập cũng giúp cho mình có được cơ hội giúp người, để cho người
có thể được thăng hoa. Người thăng hoa mà mình cũng thăng hoa, vì công đức mình
hưởng đến sáu phần, công đức của người mình siêu độ chỉ có một phần mà thôi.
Cho nên điều này có lợi chớ không bao giờ có hại. Vì vậy, những điều hiểu biết
của mình trong vấn đề siêu độ, đem ra phổ biến cho người này người kia để cùng
nhau tu tập,
cùng nhau biết cách siêu độ,
đó là một điều rất tốt. Cũng là thuộc trong Tứ Vô Lượng Tâm! Người đời thường
nói: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người.”Siêu độ
cho một vong linh là cứu Thân Huệ Mạng của thần thức. Điều này còn quan trọng hơn
cả cứu thân người nữa.
Thân người dù có thương
tích đầy mình, dù có gặp hiểm nguy, nếu được thuốc hay thầy giỏi, việc lành lặn
cũng chỉ mất thời gian.Đối với một vong linh, sở dĩ không siêu thoát là do Trí
Huệ bị lu mờ, đôi khi rơi vào cảnh giới tối tăm, không thể tháo gỡ vướng mắc
của mình.Trí huệ ví tựa ngọn đèn; ngọn đèn đã tắt hay chỉ còn mờ ảo, vong linh
phải quờ quạng mà đi, tìm đâu ra được nẻo đúng đường ngay?Vong linh biết rằng
tôi phải đi về hướng đó, nhưng hiện giờ còn bị kẹt lối trong đám rừng già,
quanh đi ngoãnh lại chỉ
một màu đen, thì nẻo đường
vong muốn tiến tới, biết đến bao giờ tìm ra phương hướng?Siêu độ
cho vong linh
là giúp cho
vong linh thắp
sáng
lại ngọn đèn Trí Huệ của
mình, phá tan bóng đêm, tìm ra phương hướng mà mình muốn đến.Người chủ lễ thành
tâm đem hết Đạo Lực cùng Tâm Lực
của mình để giúp cho một
thần thức, từ cảnh giới Đọa lên đến cảnh giới Người, và thậm chí, nếu người đó
gia sức lên thì cũng có thể đưa lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật được.
Đó là một công đức không thể nghĩ bàn, vì đã giúp cho một thần thức từ dưới vực
sâu lên đến núi cao.Không có người chủ lễ, nghi thức dù có hay đến mấy, cũng
vẫn không giúp được gì cho hương linh đâu! Vì vậy, cần phải kêu gọi mọi người,
nên vì hương linh mà tu tập, để rồi sau đó, có thể làm điều lợi lạc cho cả đôi
bên. Thật ra không phải mình giúp không cho vong linh đâu, mà chính là, mình
vừa giúp cho vong linh, vừa hưởng được lợi lạc, và cũng chính mình chuẩn bị cho
người khác giúp mình trong tương lai, khi mình đối diện với cái chết.Đây cũng
là cách duy nhất để giúp cho một người con, làm tròn được chữ hiếu của mình đối
với cha mẹ đã mất đi. Chỉ có con cái, mới có thể có đủ một lực rất mạnh, để đưa
cha
mẹ của mình, hay ông bà
của mình về được một cảnh giới tốt đẹp, vì đó là một tình cảm chân thành xuất
phát từ Tâm! Vì vậy, nếu người con đã sẵn biết tu tập, tức là đã có được một đạo
lực rồi, bây giờ cộng thêm với Tâm Lực nữa, thì đó là một điều quá tốt đẹp. Nhưng,
nếu người con chưa biết tu tập, chỉ có một Tâm Lực mạnh mẽ mà thôi, thì vẫn được
như thường, và đây là một
dịp để cho người đó bước
vào đường tu tập vì cha mình, vì mẹ mình, vì ông bà của mình, thì lợi lạc cho
cả đôi bên. Sau 49 ngày, người phát tâm siêu độ sẽ tìm thấy được một sự thay đổi
lớn lao trong cuộc đời của mình, nhưng phải
với một điều kiện tiên
quyết là có một Tâm Lực vô cùng mạnh mẽ.
Siêu Độ Cho Thân Nhân Bị Đọa Tam Đồ
Địa Ngục
Nếu một vong linh, nhờ một
duyên may nào đó, chợt hiểu ra rằng, do mình đã gây tạo ra điều không lành, nên
bị đọa vào địa ngục, tức khắc Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ hiện đến. Ngài giúp cho
vong linh đó 3 cơ hội để báo mộng cho thân nhân, hoặc người quen biết nào, có
khả năng giúp cho vong được siêu thoát. Trong trường hợp này, không làm chay
siêu độ cho vong linh như người mới mất đâu. Thân nhân của vong linh đó cũng
phải đem hết tất dạ chân thành, lòng thương yêu tha thiết đặt vào một Tâm Lực
vững mạnh, nếu người đó không biết tu tập.Thân nhân biết tu tập thì Đạo Lực của
họ phải hợp với Tâm Lực, sẽ nhân danh vong linh đang ở trong địa ngục, mà sám
hối một cách chân thành
tha thiết.Sám Hối là điều vô cùng … vô cùng quan trọng, không cần lời Kinh, chỉ
cần lời sám hối chân thành. Và cũng trong 49 ngày, tha thiết sám hối và tu tập,
giữ giới, phát nguyện trường chay, vì hương linh đang bị đọa đày đó mà tu tập,
và hồi hướng cho hương linh đó. Đồng thời cũng phải giảng Pháp cho vong linh
nghe. Vong linh không thể nào về theo như mình triệu thỉnh được, nhưng những
lời người chủ lễ nói ra, vong linh vẫn cảm nhận được. Sự tha thiết, sự chân
thành của người chủ lễ sẽ khiến cho vong linh hiểu được và rung động, địa ngục
tức khắc sẽ tiêu tan, khi đó, hương linh sẽ được ung dung tự tại ra đi theo
nghiệp kế tiếp của mình.
Hai nghi thức này thật ra đều
giống nhau vì cùng có chung phần sám hối, tuy nhiên, vong đang ở địa ngục thì
không thể triệu thỉnh được và cũng không có phần vật thực, chỉ có Pháp thực mà
thôi.Cảnh giới lang thang vất vưởng là cảnh giới mà vong bị đọa, không thoát ra
được. Đó cũng chính là địa ngục của
vong linh.Nếu người chủ
lễ, trong giấc mộng thấy được người thân, hay người quen biết của mình ở trong
cảnh giới lang thang vất vưởng, thì phải hiểu rằng: vong linh đang bị đọa địa
ngục và khi siêu độ cho vong linh sẽ không thể nào triệu thỉnh vong linh về được.
Triệu thỉnh chỉ được đối với vong vừa mới mất, còn trong hạn 49 ngà y mà thôi.
Vong đã mất lâu rồi thì
không thể triệu thỉnh được đâu!
Điều đáng ghi nhận là, chỉ
có vong mới mất (còn trong hạn 49 ngày), là mới có thể hoán chuyển từ ở kiếp đọa
đày này bước sang cảnh giới khác.
Nếu trung
ấm thân báo
cho biết rằng
vong bị đọa đày4
--------------------------------------------------
4 Nếu hơi
ấm cuối cùng
tụ ở bụng:
vong linh sẽ
bị đọa vào
loài ngạ quỷ.
Nếu hơi ấm
cuối cùng tụ
ở đầu gối:
vong linh sẽ
bị đọa vào
loài súc sanh.
Nếu hơi ấm cuối cùng tụ ở
2 bàn chân: vong linh sẽ bị đọa vào địa ngục.
-----------------------------------------------
nhưng nhờ sự giúp đỡ chân
thành của người chủ lễ, cũng có thể khiến cho vong từ đọa đày tiến lên cảnh
giới Người hay cảnh giới Trời. Vong đãbị đọa lâu trong địa ngục, tức là thời
gian đặc ân 49 ngày đã qua rồi, sẽ không thể nào hoán chuyển cảnh giới được.
Thân nhân của người chết phải hiểu rõ, đó là điều rất
quan trọng! Muốn
làm bất kỳ điều
gì giúp cho vong, phải trong vòng 49 ngày. Quá 49
ngày thì phải theo một nghi thức siêu độ khác và với nghi thức đó, khi vong đã cảm
nhận được rồi,
vong sẽ theo
nghiệp kế tiếp
của mình mà đi. Không thể nào nói rằng có thể hướng dẫn cho
vong về cõi Trời hay cõi
Phật được.
Ngạ Quỷ
Có những
người tự bản
chất của họ,
luôn luôn, lúc
nào cũng Sân Hận, mang một nỗi Sân Hận triền miên, không tháo gỡ được.
Cái Sân Hận đó, hoặc là do ở tánh Sân của người đó không sửa đổi, hoặc là do họ
bị vướng mắc vào
một việc nào đó khiến họ
phải Sân; cái độ Sân đó rất là cực mạnh. Khi họ hắt hơi, chắc chắn rằng họ bị
thác sanh vào Ngạ Quỷ. Ngạ Quỷ hay Súc Sanh cũng vẫn là một cái “địa ngục.”Thần
thức nằm trong Súc Sanh tối mò mò, không nhìn thấy được bất kỳmột hướng đi nào
cả. Thần thức ở trong Ngạ
Quỷ vẫn còn sáng hơn loài
súc sanh, nhưng bị lôi kéo bởi cái Sân. Cái Sân đó phải nói là một cái Sân
không diễn tả được. Cho nên thần thức cũng không nhận ra được rằng, mình phải
làm như thế nào để thoát được cái lốt Ngạ Quỷ
mà mình đang mang. Đó cũng
là địa ngục của mình! Thần thức ở trong Ngạ Quỷ phải làm sao để hạ cái Sân
xuống, làm cho tiêu lần cái Sân đi.Muốn hạ cái Sân, bắt buộc phải dùng ngọn đèn
Trí Huệ để đốt nó; mà muốn có ngọn đèn trí huệ thì phải làm sao? Phải sám hối,
sám hối rất là nhiều!Một người Sân Hận, khi còn tại thế, rất dễ dàng làm chuyện
sai lầm,
vì quá Sân
nên không nhận
chân ra được
rằng, mình đã làm chuyện này sai, mình đã làm chuyện kia sai, và đã tạo
ra quá nhiều nghiệp chướng với kẻ khác. Cho nên, việc đầu tiên là phải sám hối,
cực kỳsám hối!Người chủ lễ muốn giúp cho một thần thức đọa Ngạ Quỷ, phải đem
hết tâm lực của mình, thậm chí đến khóc được để sám hối giùm cho thần thức đó.
Khi đã sám hối rồi, phải trì Chú và niệm Phật để cho thần thức đó được sáng lên
… sáng lên, để đốt được lửa Sân. Dùng lửa Trí Huệ của câu Chú và lời niệm Phật để
đốt ngọn lửa Sân.
Sau cùng
là giảng Pháp
cho thần thức
nghe, phải xoay quanh vấn đề Sân Hận rất … rất là nhiều.
Phải giúp sao cho thần thức đó bỏ xuống cái sân hận. Nếu người chủ lễ biết được
tâm tình của người đã mất thì rất là tốt, rất là dễ dàng để khuyên lơn thần
thức đó. Còn nếu không biết được, việc giảng Pháp phải xoay quanh vấn đề Sân
Hận, vấn đề Tâm Bình. Phải bỏ cái sân hận xuống, giữ cho được tâm bình, và phải
giảng về vấn đề Nghiệp Lực. Chính vì cái sân hận mà thần thức đó khi còn sống đã
tạo quá nhiều nghiệp chướng.
Cũng phải nói về Tâm - Ý -
Tánh, vì cái tánh sân hận, cho nên cái tâm không lành, nảy sanh các ý tưởng hại
người, do đó phải sửa đổi.Tóm lại là phải giúp thần thức ở trong cái lốt Ngạ
Quỷ đó tu tập, như vậy mới thoát ra khỏi cái lốt Ngạ Quỷ của mình được.
Phân biệt: Vong bị đọa địa ngục - vong lang thang - vong không siêu
thoát.
Vào phút lâm chung, nếu hơi
ấm cuối cùng tụ vào 2 bàn chân, đó là dấu hiệu cho biết thần thức sẽ bị đọa vào
Địa Ngục. Nếu không được siêu độ đúng cách, sau 49 ngày, vong linh sẽ theo đúng
nghiệp đọa địa ngục của mình mà đi.Nghiệp lực nào khởi sắc nhất, mạnh mẽ nhất
trong tất cả nghiệp lực của vong linh, sẽ hiện ra địa ngục, với vô số khổ đau
có liên quan đến nghiệp lực đó. Vong linh sẽ chịu những đọa đày trong cái địa
ngục Nghiệp Lực của chính mình tạo nên.Những vong lang thang cũng vẫn là bị đọa
vào Địa Ngục Lang Thang của họ.Nếu vong linh không bị đọa Tam Đồ, nhưng không được
siêu độ đúng cách để đi đúng cảnh giới, vong linh không siêu thoát được, bỗng
nhiên trở thành vất vưởng, giống như người không nhà vậy. Họ cứ lẩn quẩn mà
không biết phải đi về đâu. Họ không thể nào tìm được hướng đi đúng.
Đó là những vong linh,
phải nói một cách rõ ràng rằng, bị đọa đày một cách oan uổng. Đúng lý ra họ
cũng dễ dàng siêu thoát, nhưng vì thiếu sự dẫn dắt, nên bỗng dưng trở thành vất
vưởng, nay đây, mai đó.Giúp cho vong linh tu tập, người của cõi Ta Bà sẽ bớt được
tánh hung hãn và sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Một vong linh được dạy dỗ đúng mức, được
chỉ vẽ tận tường tất cả mọi
việc, đúng sai phải trái,
nên hay không nên, sẽ rất lợi lạc cho thân xác mới mà vong linh thác sanh vào.
Cho nên, giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho người trên Dương Thế được tốt đẹp
hơn!
Súc Sanh
Ở vào phút lâm chung, trên
thân thể của người quá cố, nếu hơi ấm cuối cùng tụ vào ở hai đầu gối, thân nhân
có thể đoán biết rằng người này bị đọa vào SÚC SANH.Nếu việc siêu độ trong 49
ngày khôngđược hành trì đúng
cách, vong linh đó sẽ theo
nghiệp đọa Tam Đồ của mình mà đi.Vong linh bị đọa vào SÚC SANH, chắc chắn rằng
có dính líu rất nhiều đến chữ Si, cho nên trí huệ gần như tối đen, vô phương
vùng vẫy. Thần thức của vong linh đó cảm nhận được hết tất cả những sự ràng
buộc, sự đau khổ, sự sợ hãi, sự khó khăn của con vật đang dung chứa thần thức đó.
Rồi thì con vật mãn kiếp, thần thức thoát ra ngoài, nếu kiếp đọa đày chưa chấm
dứt, thần thức lại bước vào một con vật khác, đúng với lờiKinh Địa Tạngđã nói:
“địa ngục này hoại thì bước vào địa ngục khác.”Thân xác của con vật chính là
cái địa ngục giam cầm thần
thức đó. Có điều rằng: một
thần thức ở trong cái địa ngục của chính mình, vẫn còn dễ thở hơn là ở trong
cái địa ngục là một súc sanh.Bị đọa Địa Ngục hay Ngạ Quỷ, còn có thể báo mộng
cho thân nhân được. Thần thức đã ở trong súc sanh rồi thì vô phương, không
làm gì được
hết, vì chung
quanh là một
màu tối đen, thần thức
không biết được gì hết, khó lòng báo mộng!Người
sống phải làm
sao đây khi
không biết được
rằng thân nhân của mình có SIÊU THOÁT được hay không?Các trường hợp sau đây
cần phải ghi nhận:
A. Nếu hơi ấm sau cùng tụ lại ở hai đầu gối của người vừa
mãn phần, tức là dấu hiệu bị đọa súc sanh.
Thân nhân phải nổ lực siêu
độ trong suốt 49 ngày đặc ân này. Dù biết tu tập hay chưa tu tập, chính thân nhân phải nên đem hết
Tâm Lực, Tâm Thành của mình để siêu độ cho vong linh, giúp cho vong linh dốc
lòng tu tập, đặc biệt là
sám hối thật nhiều, thật
tha thiết. Khi giảng Pháp,
chú trọng nhiều
về NHÂN QUẢ,
về THAM - SÂN
- SI, về
NGHIỆP LỰC; nhấn
mạnh đến sự MÊ ĐẮM của
vong linh khi
còn sống, đưa đến việc hủy hoại đi Trí Huệ của mình và gây tạo
quá nhiều nghiệp chướng. Sự tận tâm, tận lực của người chủ lễ trong suốt thời
gian 49 ngày siêu độ, có thể giúp được cho vong linh thoát khỏi cảnh giới súc
sanh (còn trong thời gian 49 ngày đặc ân, làm đúng theo nghi thức siêu độ).
B. Biết được rằng vong linh bị đọa súc sanh (qua dấu hiệu của hơi ấm
cuối cùng), nhưng đã qua 49 ngày rồi, tức là thời gian đặc ân để hoán
chuyển cảnh giới không còn nữa. Nếu muốn siêu độ cho vong linh này, vị chủ lễ
cũng phải đem hết Tâm Thành, làm tất cả nghi thức siêu độ,chỉ trừ có phần nhập
vị, phần triệu thỉnh và cúng cơm cho vong linh.
Bàn thờ vong vẫn phải có
với hình của vong linh để người chủ lễ dễ dàng quán tưởng khi giảng Pháp.Người
chủ lễ sẽ vì hương linh mà sám hối, vì hương linh mà trì Chú, vì hương linh mà
niệm Phật, và cũng vì hương linh mà giảng
Pháp để giúp
cho cái tối đen ở
trong súc sanh đó được sáng lên,
bật ngọn đèn Trí Huệ để thần thức đó thấy được mờ mờ sự vật chung quanh mình,
nhưng vẫn không thể thoát ra được, còn phải chờ cho tới khi con vật đó chết đi
(vì nó có thời gian sống của nó), thì thần thức mới thoát ra được. Khi đã thoát
ra khỏi thân xác của súc sanh, thần thức đó thay vì
tối mò như người mù,
không thấy đường đi, thì bây
giờ, nhờ việc
siêu độ mà
thần thức đã
thấy mờ mờ con đường mình đi rồi. Những vướng mắc mà
thần thức đã lôi kéo theo, cũng được nhẹ nhàng, nhẹ nhàng buông bỏ
xuống. Thần thức biết được
rằng: tôi sẽ phải đi về hướng nào để tìm chổ thác sanh.Khi hành trì việc siêu độ
cho thần thức ở trong súc sanh, người chủ lễ chỉ cần khấn tên họ, ngày tháng năm
sanh, ngày tháng năm mất, bao nhiêu tuổi (lúc mất). Mỗi lần làm lễ, đều kêu tên
họ của thần thức.
Thí dụ:
Thần thức Nguyễn Văn A
hãy cùng chủ lễ sám hối, tha thiết chân thành sám hối những tội của mình…
Thần thức Nguyễn Văn A
hãy cùng chủ lễ trì Chú, nhất tâm trì Chú để đốt sáng lên ngọn đèn trí huệ của
mình.
Thần thức Nguyễn Văn A
hãy cùng chủ lễ niệm Phật, thành tâm niệm Phật, một lòng quy hướng Phật, cầu
xin Phật thương xót phóng hào quang tiếp dẫn thần thức mau thoát kiếp đọa tam đồ…
Thần thức Nguyễn Văn A
hãy lắng nghe lời giảng Pháp, thâm nhập
lời Pháp, trí
huệ bừng sáng
mới mong thoát khỏi tam đồ.
Tuy rằng ở trong súc sanh,
toàn một màu đen tối, thần thức vẫn rung động, vẫn giao cảm được với người chủ
lễ, nếu vị này hết dạ chân thành, mong muốn giúp đỡ cho thần thức thoát được sự
đọa đày và sáng suốt nhận ra được hướng đi kế tiếp của mình. Khi giảng Pháp,
nên đặt hình của vong linh ở trước mặt để dễ dàng quán tưởng, cứ nhìn hình mà
giảng Pháp, mà nói
chuyện, y như nói với người
còn sống vậy.Người bị đọa vào trong Súc Sanh, nguyên nhân chánh yếu chính là
Mê, từ đó kéo đế chuyện Si, tức là không còn cái trí huệ nữa. Cái Mê nơi đây là
một sự đắm chìm vào những
điều không đúng, không
tốt.Thí dụ: mê cờ bạc, mê sắc dục, mê tiền, mê danh lợi, mê rượu chè, mê hút
sách, v.v…
Những điều làm cho con người
càng ngày càng lụn lần, càng nặng nề, không vượt lên cao được. Từ cái Mê mới đưa
đến cái mù quáng, cái mù quáng đó là gì? Chính là làm mà không suy nghĩ, làm mà
không hiểu rằng tại sao mình làm. Tức là đi đến cái Si.
Khi giảng Pháp cho một
thần thức nằm trong Súc Sanh, phải cắt nghĩa cho thần thức đó biết được cái lỗi
lầm của mình lúc còn sống, là mình đã quá đắm chìm vào trong những điều không đúng.
Mà những điều không đúng đó
xuất phát từ đâu? Nó xuất phát từ ở cái Dục. Dục
Lạc quá nhiều, không phân biệt được cái Dục nào cần thiết cho sự tăng tiến của
mình và những cái Dục nào làm cho mình càng ngày càng lụn bại. Chính cái Dục
Lạc đó đã khiến cho mình trở thành một con người, không còn cái tư cách của một
con người nữa. Việc mê đắm dục lạc đã đưa mình đến chỗ tâm trí không còn sáng
suốt, đầu óc tối đen, giống như người bị mất đi căn thức, thân thể cử động nhưng
không có căn thức, sẽ không khác gì một người máy, chỉ biết cử động
mà không có sự suy nghĩ. Cho nên tất cả mọi thứ đều
rơi vào một lỗ hổng tối đen. Dục Lạc tự bản thân nó không có xấu.
Đơn cử một thí dụ sau đây:
Mọi người trong gia đình đều muốn có một cuộc sống
thơ thới, êm ả, cho nên tự tiết giảm cái Dục riêng của mình, để tạo nên cái Dục
Lạc chung cho tất cả mọi người trong gia đình. Đó chính là việc tạo dựng một
Hạnh Phúc. Hạnh phúc gia đình chính là một Dục Lạc. Tại sao gọi nó là Dục Lạc?
Từ ngữ Hạnh Phúc diễn tả sự mong muốn đem lại niềm
An Lạc, sự thoải mái, dễ chịu cho tất cả mọi người. Cái Dục Lạc đó là một cái
Dục Lạc chấp nhận được!Nếu cũng là
Hạnh Phúc, nhưng
chỉ cho riêng
bản thân
mình, mà bất cần sự đau khổ của kẻ khác, thì cái
hạnh phúc đó vẫn không chấp nhận được.Người Si Mê luôn luôn nghĩ đến bản thân
mình, họ hành xử rất nhiều hai chữ Dục Lạc, nhưng chỉ riêng cho bản thân mình,
mà không hề nghĩ đến kẻ khác.Dục Lạc mà chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình, sẽ dễ
dàng biến thành ra Si Mê. Một người đắm chìm trong Si Mê, Trí Huệ chẳng những
bị lu mờ, mà còn tắt hẳn luôn ngọn đèn Trí Huệ. Vì vậy mà Tâm thức không còn
sáng nữa. Khi Tâm thức không còn sáng, làm sao có thể phân định được việc đúng
hay việc sai, việc nên hay không nên? Chỉ làm như cái máy, làm để thỏa mãn cái
Dục Lạc của mình, cái Hạnh Phúc cho riêng bản thân mình. Vì vậy, cái bản chất đó,
cái tính cách đó, đã khiến cho người này tạo biết bao nhiêu nghiệp chướng và sẽ
phải nếm biết bao hiêu bài học trong tương lai.Giảng Pháp cho một thần thức nằm
trong Súc Sanh là phải giảng cho thật kỹ càng hai chữ Si-Mê, phải nói rất nhiều
về Lục Dục Thất Tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, bi, dục lạc), vì Dục Lạc nằm
trong Lục Dục
Thất Tình. Và
chắc chắn rằng, thần thức này cũng phải được biết qua
về Nhân Quả, về Nghiệp Lực và về cái Tánh của mình. Mà nói về cái Tánh
là luôn luôn dính liền với cái Tâm và cái Ý. Không
có bất kỳmột thần thức nào bị đọa vào Tam Đồ, mà không có liên quan đến Tâm –Ý-Tánh.
C. Hoàn
toàn không biết được thân
nhân mãn phần
của mình có siêu
thoát được hay không và đã thác sanh về đâu?Nếu người còn sống chí thành tu
tập, làm muôn điều tốt đẹp, hằng ngày đem công đức tu tập của ình, đem phước
huệ của mình thu thập được, hồi hướnglại cho thân nhân quá cố, thì dù cho thân
nhân vẫn còn bị đọa đày nơi chốn Tam Đồ, nhưng nhờ sự hồi hướng này mà tìm lại
ánh sáng Trí Huệ, chờ đợi ngày mãn kiếp của Súc Sanh, thần thức thoát ra ngoài,
và với một chút Trí Huệ có được, với Công Đức do thân nhân còn sống tu tập và
hồi hướng cho, thần thức sẽ dứt kiếp đọa đày và biết được hướng đi kế tiếp của
mình để thác sanh. Nếu thân nhân quá cố đã về một cảnh giới tốt đẹp, như cõi
Trời hay cõi Người, thì việc mình tu tập cũng không có gì là bỏ sông bỏ biển
cả. Nếu thân nhân mình được thác sanh về cõi Người, thì công đức mà mình hồi hướng
đó, sẽ giúp cho thân nhân mình được tốt đẹp hơn, nói nôm na là giàu có thêm.
Ngoài ra, nếu mình tu tập và cũng luôn nguyện cầu cho thân nhân
của mình, gặp được Thiện
Tri Thức dẫn dắt,
và cũng biết tu tập để có thể thăng hoa, thì đó lại là một chuyện rất … rất
tốt!
Siêu Độ Cho Người Tự Tử
Một người đã đi đến quyết định tự tử, hành động đó
nói lên được rằng: bản thân người này đã mang quá nhiều uẩn khúc trong lòng. Người
này xa lìa trần thế, kéo theo một toa xe nặng trĩu SÂN HẬN, nặng trĩu KHỔ ĐAU,
ngập
tràn NƯỚC MẮT, đầy dẫy OÁN HỜN. Chỉ có thân nhân
ruột thịt, hay bạn bè thâm giao, mới có thể thấu hiểu được một phần nào nỗi đau
đớn, vày vò của người quá cố, khi họ còn tại thế; và nguyên nhân nào đã khiến
cho người này tự kết liễu cuộc đời mình.Do đó, thân nhân hãy tự mình, đem hết
Tâm Thành, đem hết Tình Thương Yêu sâu đậm để siêu độ cho người quá vãng, không
nên nhờ ai hết!
Chỉ có
thân nhân mới
giao cảm được
với vong linh
và giúp cho vong linh thoát được địa ngục do chính mình tạo ra. Người tự
tử mang theo biết bao nhiêu nghiệp lực chưa thanh toán xong, chính những nghiệp
lực này, tạo thành một địa ngục kiên cố, bao chặt lấy vong linh, do đó, việc
vong linh thác sanh trở lại kiếp Người, không phải là việc đương nhiên đâu!Muốn
cho vong linh trở lại cõi Người, thân nhân phải giúp đỡ cho vong linh rất
nhiều, kể cả công sức của chính vong linh nữa thì mới được.Trong suốt 49 ngày,
mỗi ngày thân nhân phải thỉnh vong về để cùng làm lễ Sám Hối, vì chỉ có sám hối
mới làm cho tiêu bớt nghiệp chướng mà thôi. Sau đó thì trì Chú, niệm
Phật và sau cùng là giảng Pháp.Lời Pháp sẽ giúp
cho vong bừng sáng, nhận ra những điều sai trái của mình, vong xả bỏ những sân
hận, phiền não, chăm lo tu tập, vong được nhẹ nhàng cất bước tìm đường thác
sanh. Tuy nhiên, không thể mong mỏi một cuộc đời sắp tới tốt đẹp hơn, hạnh phúc
hơn đâu. Vong từ cảnh giới địa ngục, bước qua được cảnh giới Người, là một việc
đòi hỏi rất nhiều sự chân thành hết dạ sám hối ăn năn. Muốn nguyện cầu cho vong
có sự an bình, ít phiền não trong kiếp vị lai và nhất là được sanh ở một nơi có
Phật
Pháp, gặp được Thiện Tri Thức để dẫn dắt tu tập,
việc đó trông chờ rất nhiều… rất nhiều vào công năng tu tập của chính thân
nhân, đem công đức tu tập của mình, đem hạnh bố thí của mình mà hồi hướng cho
vong linh, cả hai đều cùng lợi lạc cả.Thân nhân nên chịu khó đọc các bài Pháp
trên trang nhà
LacPhap.com nói về: Nhân Quả, Nghiệp Lực, Tự Ái,
Tham Sân Si, Nghiệp
Chướng Nền Tảng, Địa Ngục
Của Mỗi Chúng Sanh … để có đủ ý tưởng
mà nói chuyện với vong linh, khuyên giải vong linh xả bỏ tất cả phiền não, sân
hận và thành tâm sám hối, trì Chú, niệm Phật, để cho được nhẹ nhàng, mới có thể
siêu thoát được.Với một tình yêu thương sâu đậm, dạt dào dành cho người quá cố,
thân nhân đem hết tình cảm thiết tha đó để vào từng
lời khấn nguyện, từng lời Kinh sám hối, từng lời
khuyên tha thiết, để hương linh sớm nhận chân ra được những điều lầm lỗi của
mình khi còn sống, hương linh sẽ chân thành sám hối ăn năn, thần thức rung động,
hương linh sẽ nhẹ
nhàng cất bước.Trong phần giảng Pháp cho hương
linh, thân nhân sẽ lần
lượt đề cập đến những điểm sau đây:
1. Tự tử là một hành động gây tạo bởi Nhân và
Quả. Trong quá
khứ (tiền kiếp),
một người đã
gây tạo nhiều sân
hận, nhiều đau
khổ cho kẻ
khác, đã khiến cho
kẻ đó phải rơi lệ,
phải uất ức
và nhất là không
biện bạch được,
cho đến nỗi
kẻ đó phải dùng cái chết của mình để minh bạch nỗi
oan tình.Cái Quả nhận được
ngày
hôm nay, cho người đã gây tạo một cái Nhân không lành trong quá
khứ, là đón nhận hết tất cả những nỗi đớn đau mà mình đã từng áp đặt lên kẻ
khác. Mình cũng lại được nếm cái hương vị đắng cay của việc “có miệng mà chẳng
thốt nên lời,” đưa đến một sự uất ức vô cùng cực, dẫn đến việc hủy hoại mạng
sống của mình.
2. Tất cả những cảnh huống mà người quá cố đã
gặp phải, đã đối diện, đều
là kết quả của việc người này đã gieo đau khổ cho kẻ khác trong quá khứ.
3. Cái Nhân không lành mà người quá cố đã gieo
trong quá khứ, đã tạo nên
một nghiệp không lành, đó chính là Nghiệp Sát trong quá khứ. Tuy rằng người này
không trực tiếp giết hại người, nhưng những điều mà họ gieo rắc cho kẻ khác, đã
khiến kẻ
đó tức tưởi
mà Tự Sát.
Trách nhiệm đó, người này vẫn bắt buộc phải gánh vác.
4. Việc dễ dàng làm đau đớn kẻ khác, xuất phát
từ cái Tánh Ngã Mạn,
thiếu Từ Bi, thiếu sự Để Tâm và Bất Cần. Chính cái Tánh quá lẫy lừng đó trong
quá khứ, đã trở thành tập khí cho cuộc đời ngày hôm nay, lúc nào cũng chiêu cảm
những nghiệp không lành, đem đến nhiều nghịch duyên cho người quá cố.
5. Chính cái Nhân không lành của quá khứ đã tạo
nên một TỰ ÁI xoay quanh
sự khổ đau, sự oan ức, sự dễ sân hận, dễ bực tức … Bất kỳmột hành động, một sự
việc gì có liên quan đến những điều trên, sẽ khiến cho TỰ ÁI nổi lên và người
quá cố sẽ vô cùng tủi thân và nghĩ ngay đến cái chết.
6. Người tự tử phải hiểu rõ tư cách của người
sống trên dương thế.
Giữa người quá cố và con cái vẫn còn một nghiệp
lực chưa thanh toán xong.
Giữa người quá cố và những người quen biết khác
vẫn còn oan trái chưa giải quyết xong. Tự tử là một hành động trốn nợ, nhưng
chắc chắn rằng vẫn không trốn được mà trái lại,vốn lời chồng chất, nợ càng lên
cao. Người quá cố gặp quá nhiều cảnh huống trong cuộc Đời, đó
chẳng qua là
vì người này
có quá nhiều nghiệp lực cần phải thanh toán. Người
quá cố tưởng rằng tự tử là phủi tay, là rảnh hết nợ đời, nhưng không phải thế,
nghiệp lực không trả
được ở kiếp này thì cũng phải trả ở kiếp vị lai,
không trốn đâu cho được cả. Chỉ e rằng bổn cũ soạn lại, thì phải mất thêm một
kiếp người nữa, cứ đi vòng lẩn quẩn, không bao giờ chấm dứt.Nếu thân nhân cảm
thấy rằng, mình cũng đã góp một phần vào việc gây tạo nỗi đau buồn cho người
quá cố, điều tốt
nhất
là nên đối trước bàn
thờ của vong
linh, thành tâm, thành ý, hết dạ ăn năn, cầu xin lời tha
thứ. Vong linh xả bỏ nỗi ưu phiền, làm nhẹ một phần nào gánh nặng mang theo. Cố
gắng giúp cho vong linh sám hối và phát nguyện tu tập, như thế mới có thể xóa được
cái địa ngục mà vong sẽ phải
thọ lãnh sau 49 ngày. Nên nhớ: 49 ngày là thời
gian đặc ân dành cho vong linh, nương vào sự thành tâm sám hối, tu tập để hoán
chuyển cảnh giới. Cho
nên, thân nhân
nên giúp cho hương linh hoán chuyển từ cảnh giới Địa Ngục qua cảnh
giới Người. Đó cũng là một cách để thân nhân tỏ rõ tình thương sâu đậm của
mình, sự quan tâm, sự chăm sóc đến người quá cố.
Nói chuyện giảng Pháp cho vong linh nên chậm rãi,
lặp đi lặp lại, vì vong linh không còn ngũ căn, nên không thể lãnh hội nhanh được.
Siêu Độ Cho Người Bị Chết
Oan
Việc một người bị chết oan, việc đó cũng ít xảy
ra, nhưng vẫn có, chớ không phải là không có. Chết oan có nghĩa là chết trước
cái thọ mạng của mình.
Vấn đề này cũng rất khó diễn tả, vì có đôi khi,
thoạt xem qua thì cho là chết oan, nhưng thật sự ra thì không oan.Thường thì
một người, nếu thật sự chết oan, sẽ có sự báo mộng của người đó cho thân nhân
là mình bị chết oan.
Người thật sự bị chết oan hay người qua đời một
cách đột ngột, đều cùng giống nhau ở một điểm, đó là: họ mang cái SÂN trong người
và một cảm giác SỢ HÃI. Người chủ lễ phải giải thích để vong linh hiểu được
rằng, tất cả những cảm giác tức tối, giận dữ, sợ hãi đó, vong linh cần phải
buông xuống, buông bỏ để được nhẹ nhàng. Tiếng nói là “chết oan” nhưng vẫn có
dính líu đến một nghiệp lực, chớ không phải không có đâu!Dù chết một cách đột
ngột, cũng vẫn là do ở sự hoạt động bất bình thường của cơ thể, chớ không phải
tự nhiên mà chết. Chỉ trừ một trường hợp duy nhất, xảy ra cho người tu
tập cao dày, việc ra đi của người này cũng rất là
nhanh. Thật sự ra, thọ mạng của người ấy cũng đã chấm dứt, nhưng vì được đặc
biệt “Tiếp Dẫn,” nên việc ra đi trở thành đột ngột.Tóm lại, những cái gì gọi là
cảm giác xấu, xảy đến cho một người trước khi hắt hơi cuối cùng, vị chủ lễ đều
khuyên vong linh phải buông xuống hết. Và sau đó, nghi thức siêu độ cũng đều y
như nhau. Nhưng đặc biệt trong phần giảng Pháp, phải giảng cho thần thức đó
hiểu được rằng, Sân Hận là điều không nên giữ, và phải nên buông bỏ tất cả
những
điều làm cho mình bực dọc,
nặng nề trước khi nhắm mắt. Cần phải bỏ xuống hết, để có được sự nhẹ nhàng mà
cất bước ra đi. Riêng đối với những người được nghi ngờ là chết oan, người chủ
lễ hoặc thân nhân phải tu tập thật là nhiều để hồi hướng lại cho những vong
linh đó. Xem như là một sự đền bù,
cho khoảng thời gian mà
vong linh đó còn hưởng được sự sống trên dương thế, để bù đắp lại cho vong linh
đó, để cho hướng đi của họ được dễ dàng hơn, và coi như họ sẽ mang được nhiều
công đức đi theo họ về một cảnh giới mới.
Siêu Độ Cho Thai Nhi Bị Sẩy Thai
Khi một người Nam và
một người Nữ giao hợp, đúng vào lúc có hiện tượng THỤ THAI, là đã có sự hiện
diện của Thần Thức rồi. Nhưng sau đó, người Mẹ bị sẩy thai, tức là Thần Thức đã
bước ra ngoài khỏi Thai noãn. Nên ghi nhận những trường hợp sau đây:
1. Thần thức thấy rằng không thể tồn tại được
trong người của Bà Mẹ vì:
Người Mẹ bị bịnh, không
thể nào giữ cái thai đến đúng ngày sinh nở được.
Người Mẹ có vật lạ xâm
nhập vào người.
2. Cũng có thể rằng người Mẹ, hoặc luôn cả người
Cha đã làm nhiều việc thiện, tích lũy Phước Đức. Phước Đức này sẽ giống như một
MÀN CHẮN, không cho Thần Thức tiến vào, nếu Thần Thức đó quá hung hãn, quyết
một lòng đòi nợ.Khi người
Mẹ bị sẩy
thai, Thần Thức bước ra
khỏi thai noãn, xem như nghiệp
lực giữa đôi bên còn chưa bộc phát.Thần thức ra đi, mang theo nhiều SÂN HẬN vì
không phải dễ dàng tìm được: Nơi chốn thác sanh. Cha mẹ có dây tương quan
nghiệp lực, phối hợp được
với Thần Thức, để mọi việc
được THUẬN DUYÊN.
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
cũng phải khó nhọc mới giúp được cho vong linh tìm đúng cha mẹ, tìm được đúng
chỗ thác sanh.Vuột mất một cơ hội, khiến cho Thần Thức rất là buồn bã đến đâm
ra sân hận.Việc siêu độ cho thai nhi bị sẩy được hành trì theo đúng nghi thức,
nhưng chỉ cần 21 ngày, tức là 3 tuần lễ. Ngài Địa Tạng sẽ giúp cho vong linh
trong trường hợp này, tìm cha
mẹ khác để thác sanh trong
vòng 21 ngày.Người chủ lễ phải khuyên giải thần thức để cho thần thức được nhẹ
nhàng, hiểu rõ rằng, chỉ trừ trường hợp người mẹ có ý muốn hủy diệt cái thai,
còn việc sẩy thai không do ý muốn của người mẹ, thần thức cũng không nên sân
hận quá nhiều.
Phá Thai
Đối với những người có ý
muốn tiêu diệt cái thai, trong trường hợp này, có khi không tiêu diệt được, có
khi tiêu diệt được. Nếu
không tiêu diệt được, nghiệp
lực dồn lại cái trước lẫn cái sau. Nếu trong trường
hợp tiêu hủy được, người mẹ mang nghiệp sát, và cái nghiệp này sẽ cộng thêm với
cái nghiệp đã gây tạo ra lúc trước giữa hai thần thức. Vì vậy, nếu gặp một thần
thức bướng bỉnh, thần thức đó sẽ tìm cách nhập thai trở lại. Đây là một cách để
tỏ sự sân hận.Cũng có khi thần thức hiền hậu hơn, không bướng bỉnh,
lúc đó ngài Địa Tạng sẽ
giúp cho đi tìm chỗ thác sanh. Tuy nhiên, nghiệp lực cũng đã tạo ra giữa người
mẹ đó với thần thức.Nếu một người mẹ phá thai đã lâu mà vẫn còn thấy đứa con
của mình, điều đó có nghĩa là vong linh đó chưa siêu thoát, chưa tìm chỗ thác
sanh, cho nên người mẹ có cơ hội nhìn thấy con. Sự việc khi đó sẽ rất là phức
tạp, rối rắm và lắm điều sầu thảm. Nghiệp lực giữa đôi bên cũng vẫn buộc ràng.
Rồi thì cũng có thể gặp nhau trên dương thế để đòi nợ nhau. Vì vậy phải cẩn
thận rất nhiều, đừng xem việc phá thai như một trò đùa. Đừng xem thường những
thai nhi còn trong bụng Mẹ.Y khoa khuyên không nên phá thai khi thai nhi đã tượng
hình (từ tuần thứ 20 trở lên), nhưng thật sự ra thì một mạng sống đã bắt đầu từ
khi cha mẹ giao hợp và thụ thai, chớ không phải đợi tới lúc tượng hình đàng
hoàng!Người đời nhìn tất cả mọi việc với ngũ căn, có nghĩa là có giới hạn,
không thể nhìn xuyên qua cái giới hạn đó được.Nếu có thể thấu suốt xuyên qua
cái giới hạn, chắc có lẽ
người đời không dám làm
sai, làm chuyện sái quấy đâu!Người phá thai phải nhớ rằng, mình đã tạo nghiệp
sát bên cạnh cái nghiệp chưa thanh toán giữa mình và đứa nhỏ chưa ra đời đó.
Hai nghiệp chồng lên nhau, sẽ rất là nặng nề, tạo nên vô số cảnh huống, nhiều
bi kịch khi hai thần thức đối diện nhau qua một cơ duyên nào đó.Có thể nói
rằng, công việc của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát vô cùng cực nhọc và phức tạp.
Ngài phải giúp đỡ chocác vong linh rất nhiều.Việc đi tìm chỗ cho vong linh thác
sanh cũng không phải là điều dễ dàng. Công việc của Ngài ở cõi Âm phải nói
rằng: “trùng trùng điệp điệp.” Nếu chúng sanh trong cõi Ta Bà biết tu tập, làm
giảm nghiệp lực, thì công việc của Ngài ở cõi Âm sẽ được giảm bớt rất nhiều.Khi
sẩy thai còn có thể siêu độ được, nhưng khi phá thai, khó siêu độ lắm!Người chủ
lễ siêu độ cho một thần thức bị phá thai khó vô cùng. Hãy nghĩ rằng, mình muốn
sống mà người ta nở chặt đứt đường sống của mình, niềm sân hận sẽ lên đến đâu?
Cho nên thần thức đó đã
trở thành một oan gia trái chủ rất lớn của người muốn hủy diệt nó. ếu người
mẹ đó vừa
mới phá thai,
thần thức chưa
kịp đi tìm chỗ thác sanh khác, người chủ lễ còn có cơ hội để khuyên bảo.
Việc tu tập trong trường hợp này rất là cần thiết, và lợi lạc cho cả hai bên:
cho người Mẹ lẫn cho thần thức của thai nhi. Người Mẹ cần phải thành tâm sám
hối rất nhiều, phải tha thiết sám hối, phải bố thí, phải hành Thiện và hồi hướng
tất cả công đức của sự Tu Tập Chân Chính cho thần thức đó.
Chỉ có Tu Tập Chân Chính
mới có thể giải quyết được ổn thỏa. Nên nhớ rằng, tất cả những vong linh đều
cảm nhận sự Chân Thật một cách rất là nhạy bén. Nếu không chân thật, lời đó
không xuất phát từ tâm mà xuất phát từ miệng, sẽ không bao giờ có thể giải
quyết được bất kỳmột việc gì ở cõi Âm đâu.
Triệu Thỉnh Hương Linh
Khi triệu thỉnh vong về để
cúng, có khi nào mời nhầm một cô hồn uổng tử hoặc một vong linh khác đi cùng
với vong linh (thân nhân) để vào nhà hay không?
Nếu vong nhập vị thì luôn
luôn bên cạnh của vong đều có hai vị Hộ Pháp. Còn nếu không cho vong nhập vị,
thì phải khấn Chư Thần Thổ Địa nơi mình cư trú và xin phép để cho vong tên đó,
họ đó, mất ngày nào đó, được vào nhà để mình siêu độ cho vong. Sẽ không có việc
các vong khác ồ ạt kéo đến đâu. Chỉ trừ khi nào gia đình đó có một nghiệp lực
sâu dày với một vong linh nào đó, thì mới có việc vong linh đó vào để dựa nhập.
Ngoài ra thì không có việc một vong linh nào đó cùng đi với vong linh (thân
nhân) để mà vào nhà. Thế giới cõi Âm cũng có những quy luật rất là chặt chẽ.
Tất cả những vong linh trong thế giới cõi Âm, đều có một kỷ luật đâu vào đó.
Không thể nào tự ý muốn làm gì thì làm. Vẫn có một sự tổ chức hẳn hòi, trừ khi
là oan gia, nghiệp chướng, thì đó là một việc khác. Không phải bất kỳmột vong
linh nào cũng được quyền xuất nhập trong nhà của người trên dương thế đâu.Một
người đã phát nguyện tu tập, và biết cách thức tu tập “chân chính,” luôn luôn
có Chư Thần, Hộ Pháp theo bảo vệ Đạo Tràng, Kinh điển, và luôn cả chính bản
thân của người tu tập nữa. Cho nên không dễ dàng để cho bất kỳmột vong
linh nào
dựa nhập được
hết. Chỉ trừ
khi nào là
oan gia, nghiệp chướng thì chuyện
đó là một chuyện khác.Muốn có được sự hộ trì của Ơn Trên, hành giả bắt buộc
phải là một người tu tập chân chính: luôn giữ Giới, Tâm phải được kiểm soát thường
xuyên, tránh không chao động. Những Ý tưởng bất thiện, kém hoặc không cao thượng
đều phải được ngăn chận, và hủy bỏ đúng lúc, đúng thời; sửa Tánh, dùi mài Tánh
và trau giồi Tánh. Như thế mới giữ
được tư cách cùng nét oai
nghi của người tu tập. Sự tu tập nếu chỉ thể hiện qua lời nói sẽ khó lòng nhận được
sự hộ trì.Nên nhớ rằng: tất cả những sự hộ trì đều là đặc ân, đền bù cho người đã
bỏ nhiều công sức, bỏ nhiều thì giờ vào việc tu tập. Một người tu tập chân
chính đúng nghĩa, sẽ là một vị Bồ Tát của Cực Lạc trong tương lai, cho nên tự
họ sẽ được bảo vệ. Nếu vì một lý do nào đó mà họ dứt đường tu tập, không tiếp
tục, thì lúc đó họ sẽ không còn nhận được sự hộ trì nữa.
Siêu Độ Vấn Đáp
Cách Thức Xưng Hô Với Vong Linh
Khi nói chuyện với vong,
nếu người chủ lễ biết rõ ràng vai vế, thứ bậc của vong linh, cách xưng hô lúc
sống như thế nào, khi chết cũng sẽ y như vậy.
Đây chỉ là một cách để
biểu lộ cái tình thân, cho vong linh thấy rằng, đây chính là người thân của
mình nói chuyện với mình, và người thân của mình đứng ra lo lắng cho mình.Cho
nên, muốn sử dụng cách xưng hô như khi còn sống, việc đó không sao cả. Tuy
nhiên, nếu chủ lễ là một người không thuộc trong gia đình của vong linh, không
quen biết, nhưng người đó đem tấc dạ chân thành của mình để giúp siêu độ cho
vong linh, người chủ lễ đó có thể nói chuyện với vong linh xưng Tôi và gọi Vong
Linh, Hương Linh gì cũng được cả.
Vong Không Phục Người Chủ Lễ
Lúc còn sống, vong có ý
xem thường một người nào đó, nhưng nay thì chính người đó lại làm chủ lễ siêu độ
cho vong, như vậy
có gây sự
khó khăn gì
cho người chủ lễ
trong việc giảng dạy, dẫn dắt cho vong không?
Một người khi còn sống, tỏ
vẻ khinh khi kẻ khác, điều đó nói lên rằng: người ấy mang nhiều tánh xấu, đưa đến
việc khinh người này, trọng người kia; thương kẻ này, ghét kẻ nọ v.v... Khi người
đó đã qua đời rồi, chỉ với cái thần thức thôi, cũng khó lòng thể hiện được cái
tánh xấu đó, dù rằng nó vẫn còn tiềm tàng nơi thần thức.Tu tập chân chính là
phải sửa tánh, sửa tánh và sửa tánh. Để chi? Để cho tất cả những tánh xấu mà
mình đã sửa đó, không còn vướng bận vào trong thần thức nữa. Thần thức sẽ không
còn mang những tánh xấu đó đi theo, nó rất là nặng nề. Phải biết rằng, chỉ cần
mang một tánh xấu thôi, thần thức cũng đã phải lê lết rồi, huống chi là có quá
nhiều tánh xấu,
thần thức sẽ rất nặng nề
như đeo đá vậy.Cho nên, nếu một người dù chưa biết tu tập, nhưng biết sửa đổi
tánh của mình, biết dung bồi những tánh tốt, và sửa cho hết những thói hư, tật
xấu của mình, khi người đó bỏ báu thân, thì cũng đỡ mang cái gánh nặng trên vai
của mình.Một người đã trở thành một vong linh, tánh xấu tuy rằng vẫn còn
tiềm tàng, nhưng
biểu lộ cái
tánh đó, cái
vong không biểu lộ được. Nếu người chủ lễ là một người tu tập chân
chính, là một người có đạo lực, tự họ đã có một hào quang bao chung quanh, mắt
thường không nhìn thấy được, nhưng vong linh nhìn vào đã nhận ra được, và biết
rằng: không thể nào khinh miệt được người này. Cái tánh xấu ngã mạn của vong
linh khi còn sống, đã ngăn chận cái nhãn căn, khiến cho không nhìn thấu triệt được
cái hào quang bao chung quanh người bị miệt thị. Trước hào quang chói chang của
vị chủ lễ, vong linh rất sợ hãi, bắt buộc phải kính phục và nghe theo lời của
vị chủ lễ.Bên cạnh đó, câu thần Chú CA SA THA PHA giúp cho người chủ lễ, nếu
việc tu tập của họ còn kém, thì cái hào quang yếu ớt của họ sẽ rực rỡ hơn; nếu
một người tu tập lâu năm, chân chính, có đạo lực, hào quang phát sáng, câu Chú
kia sẽ làm cho hào quang rực lửa lên, khiến vong nhìn vào phải có một sự kính
phục và nghe theo.
Thức Ăn Cúng Cho Vong
Thức ăn đã cúng cho vong
rồi, người chủ lễ hay gia đình vẫn
có thể dùng được, vì
vong chỉ hưởng
hơi thôi, chớ không vọc vào ở trong đó để múc, để ăn
giống như là người bình thường. Tuy nhiên, nếu kỹ lưỡng thì chỉ cần đậy lại
thôi, đừng dọn đi,vì đó là dấu hiệu cho biết rằng buổi lễ đã chấm dứt, người
chủ lễ còn phải giảng Pháp cho vong sau đó.Thông thường,
vong thọ hưởng
phần vật thực
chỉ trong khoảnh khắc vài phút
thôi, không cần thời gian lâu giống như người còn sống khi thọ dụng một bữa ăn.
Vong chỉ
hưởng hơi
thôi, do đó
chỉ có đồ
thanh vong mới hưởng
được, còn đồ nặng vong không hưởng được. Đồ thanh tức là chỉ thuần rau cải
thôi, những thức ăn được nấu lên từ động vật, vong không hưởng được đâu.
Thần Thức Rung Động Có Nghĩa Là Gì?
Có nghĩa là cái thức của hương
linh nhận ra được những điều mà người
chủ lễ giảng
dạy, cắt nghĩa,
chỉ dẫn cho hương linh. Cái thức này hoàn toàn trong
suốt, không gợn bất kỳmột cái gì để làm chướng ngại. Rung động có nghĩa là hiểu
được, một sự hiểu thấu đáo không có sự
che mờ khuất
lấp. Vì vậy,
nếu hương linh muốn được đi về cõi Phật, hương linh
quyết tâm niệm Phật, quyết tâm sám hối ăn năn, hương linh sẽ được về Cõi Phật,
dù rằng trước kia khi còn sống, hương linh không đủ tư cách để về Cõi Phật.
Đưa Hương Linh Về Nhà Sau Khi An Táng
Sau lễ An Táng, vong linh được
đưa về nhà để làm lễ siêu độ. Thân nhân phải làm như thế nào cho đúng cách?Sau
khi đã làm lễ An Táng hoặc hỏa thiêu xong, thân nhân nào cầm hình của vong linh
thì khấn rằng: “Vong linh tên đó họ đó, hãy theo về nhà và ở lại trong nhà để
cho thân nhân làm lễ siêu độ cho vong linh trong 49 ngày.” Tức khắc vong linh
sẽ đi theo thân nhân về nhà. Nên nhớ: người nào cầm hình của vong linh thì người
đó sẽ khấn như vậy.
1. Nếu đã lựa chọn được chủ lễ:
• Người này hoặc ở cùng
một nhà với vong linh khi còn sống
• Cũng có khi vị này ở
khác nhà, nhưng sẵn sàng đến nhà của
vong linh để
hành lễ siêu độ mỗi ngày
• Khi lễ an táng hoặc hỏa
thiêu đã chấm dứt, giao cho chủ lễ cầm hình của vong linh, chủ lễ sẽ khấn vong
linh để đi về nhà của vong linh.
• Trước khi làm lễ An
Táng, ở tại nhà phải nên lập sẵn bàn thờ của vong linh; sau buổi lễ An Táng về
nhà, đặt hình của vong linh lên bàn thờ vong, chủ lễ sẽ cho hương linh nhập vị
ngay và thỉnh hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong.
2. Nếu vị chủ lễ ở khác nhà với
vong linh, nhưng không tiện đến mỗi ngày để hành lễ siêu độ, sau lễ an
táng, vị này sẽ cầm hình của vong linh và khấn vong linh đi về nhà của vị chủ
lễ. Bàn thờ của vong linh cũng phải sẵn sàng, vị chủ lễ cho vong linh nhập vị
ngay, thỉnh hai Vị Hộ Pháp bảo hộ cho vong. Trong buổi lễ siêu độ đầu tiên, tất
cả thân nhân của vong linh sẽ cùng hành lễ ở tại nhà của vị chủ lễ.
Máy niệm Phật để trên bàn thờ vong, nên mở suốt ngày 24/24. Đây
là cách giúp cho hương linh không quên niệm Phật, càng niệm Phật nhiều, hương
linh an trụ trong tiếng niệm Phật, hương linh sẽ càng thấy nhẹ nhàng hơn, đúng
với ý nghĩa của việc siêu độ
là giúp cho hương linh được nhẹ nhàng. Thân nhân không thể niệm Phật suốt ngày,
suốt đêm được, vì vậy nếu để băng niệm Phật cho hương linh nghe thì rất
tốt.Không nên vặn quá lớn, vừa đủ để tạo một khung cảnh thật ấm cúng với nhang
khói, với đèn thắp sáng trên bàn thờ.
Không nên dùng nhang trầm
cúng cho hương linh, nhang trầm chỉ nên dùng để cúng Phật, biểu lộ sự trân
trọng của hành giả. Tuy
nhiên, điều đó
cũng không cần thiết đâu, điều cần yếu chính là sự thành tâm tu
tập, cải sửa bản thân mình. Nên dùng loại đèn cầy ở trong ly, sẽ không bị gió
lay tắt. Nơi nào không có loại đèn này thì dùng 2 ly cao, cắm 2 đèn cầy thường
vào, nên nhớ là chiều cao của đèn cầy phải thấp hơn chiều cao của ly khoảng 2
cm thì đèn cầy mới không bị tắt. Hai ngọn đèn trên bàn thờ vong luôn luôn đốt
sáng
(24/24) để vong lúc nào
cũng có cảm giác được bao bọc trong ánh sáng rực rỡ, tránh cái ánh sáng mờ mờ
ảo ảo của Tam Đồ. Ngày đầu tiên
dẫn vong về
nhà, phải chuẩn
bị đầy đủ hương hoa trà quả ở bàn thờ Phật, hương
hoa trà quả ở bàn thờ vong, kèm theo thức ăn cúng cho vong. Tất cả sẵn s àng
để người chủ lễ bắt tay
vào việc siêu độ cho vong linh ngày thứ 1.
Ngày thân nhân qua đời được
kể tính là ngày thứ nhất, từ đó tính tới 49 ngày. Nếu từ ngày mất cho đến ngày
an táng là 5 ngày, thì phải hiểu rằng thất thứ 1 chỉ còn lại có 2 ngày, cho nên
người chủ lễ sẽ phải sắp xếp để thời gian 44 ngày còn lại, đủ để chuyên chở hết
tất cả những gì mà người chủ lễ muốn giảng dạy, dẫn dắt cho vong, nhất là việc
giúp cho vong tu tập trong suốt thời gian này.
Hỏa Thiêu Hài Cốt
Nếu trong trường hợp hỏa
thiêu, tro cốt mang về nhà phải đợi đến bao giờ mới có thể thủy táng được?Trong
trường hợp hỏa thiêu, tro cốt mang về nhà để trên bàn thờ vong; sau 49 ngày,
vong đã được đi thác sanh rồi, lúc đó có thể đem tro cốt để đi thủy táng. Tro
cốt dù sao cũng là một biểu tượng của thân xác của vong linh, không nên đem đi
thủy táng trong lúc còn siêu
độ cho vong linh, để tránh
việc vong linh có thể Sân Hận. Như vậy có nghĩa là, phải chờ đợi sau 49 ngày,
mới có thể mang tro cốt đi thủy táng được.
Nghi Thức Thủy Táng Hoặc Sơn Táng Nguyên tắc đúng là, khi vong đã được
thác sanh rồi thì đem tro cốt đi thủy táng hoặc sơn táng hay để bất kỳ nơi nào
cũng được. Trước khi rải tất cả những tro cốt đó xuống nơi mình muốn, thì có
lời khấn nguyện rằng:
“Hôm
nay, tôi đem
tro cốt của hương linh (tên ...... gì , mất
ngày nào đó), để
thủy táng (hay sơn táng).T ro cốt
này là một thể hiện của cái có của hương linh. Cái có đó chính là thân xác. Nhưng
ngày nay, thân xác này đã trở thành KHÔNG. Sự vô thường có - không, không -
có; tất
cả đều trở
về với cát
bụi, hương linh với một thần thức sáng suốt, đã được siêu thoát, đã được
thác sinh. Thân xác này, hương linh không còn nhận nó làm vật sở hữu của mình
nữa. Ngày nay, cát bụi xin trả trở về cho cát bụi, hương linh ung dung tự tại nơi
Cõi Trời hay Cõi Phật.”
Chỉ khấn bao nhiêu đó là đủ
rồi. Cái chánh yếu trong thân xác đó đã không còn hiện hữu trong cái xác đó
nữa, đã được thác sanh về Cõi Trời, hay cõi Phật hoặc cõi Người rồi. Cho nên
muốn niệm Phật cũng tốt, không niệm Phật
cũng không sao.Tuy nhiên, điều
quan trọng không phải là lúc rải tro cốt
đâu, mà điều quan trọng
là, sau 49 ngày, thân nhân nên vẫn còn tiếp tục tu tập, để giúp gia tăng phần
trí huệ cho hương linh. Vì sao?Vì đúng lý ra, hương linh không được về Cõi Trời
hay Cõi Phật, nhưng vì một lòng thành tu tập mà hương linh được đặc ân để hoán
chuyển cảnh giới của mình, cho nên nói nôm na là, vẫn còn yếu ớt! Vì vậy, thân
nhân vẫn nên tiếp tục tu tập, làm hạnh bố thí, in Kinh, đúc tượng … hồi hướng
cho hương linh, giúp cho hương linh được mạnh mẽ hơn ở cảnh giới mới đó, và
cũng giúp cho hương linh được an trụ lâu dài nếu ở Cõi Trời.Còn nếu về cõi Người,
cũng giúp cho hương linh tích tụ được nhiều phước đức cho một cuộc đời mới của
mình.
Do đó, không phải sau 49
ngày là hoàn tất việc siêu độ đâu! Việc siêu độ chấm dứt trên danh nghĩa, ở vào
ngày thứ 49, sau khi đã tiễn vong linh về đúng cảnh giới mong muốn. Tuy nhiên, để
cho được trọn vẹn với ý nghĩa Siêu Độ, thân nhân để ra một ít thời giờ tu tập,
tiếp tục hồi hướng công đức tu của mình cho vong linh.Đây là một việc làm giúp
cho cánh chim Non càng ngày
càng cứng cáp, để đến một
lúc nào đó, chim đã đủ lông đủ cánh, sẽ tự mình bay thoát trong khoảng trời
rộng bao la.
Ngày Giờ Làm Lễ
Việc cúng cho vong có nhất thiết phải vào một giờ giấc nào nhất định
hay không? Hoặc là tùy thuộc vào giờ giấc của người chủ lễ?
Nhà chùa chỉ đảm nhận
việc siêu độ cho vong linh mỗi tuần 01 lần mà thôi. Tức là vong linh sẽ chỉ
có vỏn vẹn 07 ngày để được siêu độ, so với 49 ngày ròng rã của thân nhân siêu độ
cho vong linh. Việc siêu độ cho vong linh tùy vào sự sắp xếp của thân nhân. Nếu
thân nhân có nhiều thì giờ, có thể làm 2 lần trong một ngày; nếu không có nhiều
thì giờ, làm 1 lần trong ngày cũng đủ. Giờ giấc tùy vào sự sắp xếp của thân
nhân hay của người chủ lễ, không nhất thiết phải có giờ giấc cố định, miễn là đừng
làm vào quá khuya, bước qua ngày hôm khác thì không tốt đâu.Nên nhớ rằng: vong
linh cần từng ngày một, do đó, giúp đỡ cho vong linh đừng để bước sang một ngày
khác, uổng mất một ngày siêu độ cho vong linh.Một ngày qua là một ngày giúp cho
vong linh sám hối, giúp cho vong linh niệm Phật, giúp cho vong linh trì Chú, và
giúp cho vong linh nghe Pháp, hiểu Pháp. Mất đi một ngày là mất đi bao nhiêu
quyền lợi, mất đi bao nhiêu điều tốt đẹp cho vong.
Siêu Độ Cho Vong Linh Ấu Thơ
Có sự khác biệt hay không
trong việc siêu độ cho một vong linh 80 tuổi và một vong linh 8 tháng tuổi?Một đứa
bé lìa đời khi còn quá sức nhỏ, phải hiểu rằng: đứa nhỏ đó mất đi vì bệnh tật,
chớ không phải là không có lý do. Mà nếu vì bệnh tật thì, nó mang bệnh tật để
làm gì? Để khiến cho cha mẹ nó phải bỏ thì giờ, bỏ tiền bạc, bỏ công sức để chăm
sóc cho nó. Một khi đã đủ số mà nó muốn đòi rồi, lúc đó nó sẽ ra đi. Dưới cặp
mắt của người Đời, đứa bé
đó đoản mệnh, có nghĩa là
không sống thọ. Nhưng, dưới cặp mắt của một người tu chân chính, hiểu đạo, họ
biết rằng: nghiệp lực giữa đứa bé và cha mẹ nó đã chấm dứt. Chủ nợ chính là nó. Con nợ chính là cha mẹ nó. Chủ
nợ đã
đòi đủ số rồi thì chủ nợ
ra đi. Cho nên, siêu độ cho một đứa bé là giúp cho nó được nhẹ nhàng bước qua
một kiếp mới, và theo nghiệp lực kế tiếp của nó mà đi. Người chủ lễ phải giảng
cho cái vong này hiểu được rằng: nghiệp lực giữa nó và cha mẹ nó đã chấm dứt
rồi, bây giờ thì đường ai nấy đi. Người chủ lễ sẽ giúp cho nó được nhẹ nhàng để
ra đi, theo nghiệp kế tiếp của nó. Tuy nhiên, nếu người chủ lễ có dạ từ bi, thì
cũng sẽ siêu độ cho đứa bé này trong 49 ngày, bằng cách sám hối.
Sám hối để làm gì?
Để cho cái vong nhỏ bé
này, tuy rằng nó mang thân nhỏ bé khi nó mất đi, nhưng nó vẫn là một thần thức
lớn, giúp cho nó sám hối, niệm Phật để có lợi cho nó ở kiếp tới, nghiệp lực kế
tiếp của nó dẫn đường sẽ nhẹ nhàng hơn. Sỡ dĩ nó mất đi khi nó còn quá nhỏ, là
vì nghiệp lực giữa nó và cha mẹ nó cũng chỉ có bấy nhiêu thôi!Việc giảng Pháp
cho một vong linh 80 tuổi và một vong linh 8 tháng tuổi, vẫn không có gì khác
biệt cả. Điều quan trọng chính là sám hối, sám hối và sám hối. Tại vì sao? Vì
không có bất kỳmột thần thức nào thoát được nghiệp lực cả! Đã làm Người mà còn
không thoát được nghiệp lực, huống chi là một thần thức? Ở dạng của một thần
thức, hay ở dạng của một thân người, thì cũng vẫn phải bị chi phối bởi nghiệp
lực. Nhưng nếu gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt, nghiệp lực kế tiếp dẫn đường
cho thần thức đó sẽ làm cho mọi việc nhẹ nhàng hơn, thần thức đó sẽ đi về một hướng
tốt đẹp hơn.Cho nên, vẫn phải hướng dẫn cho thần thức sám hối và niệm Phật. Nên
nhớ rằng: lời nguyện của Đức A Di Đà Phật không phải chỉ dành cho người sống,
mà còn đối luôn với người chết nữa. Vì vậy mà phải giúp cho người chết niệm
Phật rất là nhiều. Nếu họ quyết tâm tu tập, thì sự rung động của họ có thể hoán
chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, từ cảnh giới thấp có thể lên được cảnh giới cao hơn.
Sau 49 ngày, việc họ được vãng sanh về Cực Lạc là việc vẫn có thể xảy ra, chớ
không thể nói rằng: không bao giờ có thể xảy ra.
Tóm lại, lời Pháp rất là
quan trọng, vì đó là một cách thức để dẫn dắt một chúng sanh. Dù rằng đã bỏ
thân rồi, chúng sanh đó vẫn có thể được dẫn dắt để hướng thượng, để đi về một
cảnh giới cao hơn.
Cúng Cơm Cho Vong Linh Ấu Thơ
Nếu vong linh là những đứa
trẻ nhỏ, cúng thức ăn cho trẻ thơ có phải dùng đến sữa hoặc là dùng đến những
thức ăn dành riêng cho trẻ thơ hay không?Hình dạng của một trẻ thơ, nhưng là
một thần thức lớn, không phải là thần thức của một bé thơ đâu! Về vấn đề này,
khi nhìn về hình dạng thì, đối với một đứa trẻ thơ chỉ mới một hai tuổi hay một
vài tháng tuổi, không thể nào cúng cho những vong linh đó những thức ăn của người
lớn được.Vì người đời nhìn vào hình tướng để đoán xét mọi việc, cho nên có sự
phân biệt giữa trẻ thơ và người lớn. Thật sự ra, trẻ thơ hay người lớn, đều
cùng có một Thần Thức lớn. Không thể nói rằng: trẻ thơ thì Thần Thức nhỏ, còn
người già thì
Thần Thức già, không phải
như vậy.Đã cùng là Thần Thức lớn, thức ăn nào cũng hấp thụ được cả. Vong
không thể đưa
thức ăn vào
miệng được, vong không nhai, không nuốt được, chỉ là hưởng
hơi thôi, mà đã là hưởng hơi thì bất kỳthức ăn nào cũng được, không có sự phân
biệt về tuổi tác. Tuy nhiên, người đời căn cứ vào hình tướng, cho nên trẻ thơ
thì phải cúng bằng sữa, cúng bằng những thức ăn của trẻ thơ. Cũng không sao, như
thế nào cũng được, không có điều gì quan trọng cả. Đừng quên trì Chú Khai Yết
Hầu để
giúp cho vong linh có thể
hấp thụ được hơi đồ ăn. Giúp sao cho cái Thức của vong linh được sáng lên, đó
mới là điều đáng quan tâm.
Đốt Kinh Chuỗi
Có cần phải đốt Kinh, đốt chuỗi cho vong hay
không, để cho vong linh có thể đọc Kinh, lần chuỗi, niệm Phật?Không cần phải như
vậy đâu. Mỗi ngày người chủ lễ đã mời vong về để tu tập rồi. Vong tu tập với người
chủ lễ,
vong niệm Phật với người chủ lễ và vong niệm Phật
với máy niệm Phật, cho nên không cần thiết phải đốt Kinh, đốt chuỗi cho vong đâu.
Làm Sao Biết Được Vong Linh
Siêu Thoát Về Cõi Nào?
Ngày thứ 49 là ngày mà vong chánh thức bước vào
một cảnh giới mới, làm sao biết được vong đã ra đi?Muốn biết được vong đã ra đi
chưa, người chủ lễ phải giữ Tâm Bình mới có thể nhận được cảm giác đó. Khi khóa
lễ đến phần niệm Phật, vị chủ lễ có thể nhờ một vài thân nhân hay bạn bè quen
biết, thành tâmcùng niệm Phật để “tăng sức”, để “cổ võ” cho hương linh. Trong
lúc
đó, vị chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để
nhờ Ngài tiếp dẫn hương linh. Trong thời gian Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng
quyến thuộc của Ngài làm việc, vị chủ lễ sẽ đem hết tâm thành niệm danh hiệu
của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong khoảng từ 10-15 phút. Sau 15 phút, tiếng
niệm Phật chấm dứt, vị chủ lễ ngồi lại tịnh tâm thì có thể cảm giác được là
vong vẫn còn hiện diện hay đã đi rồi. Điều này khó diễn tả bằng lời, nó tùy
thuộc vào trạng thái Bình của người chủ lễ khi đó. Tuy nhiên, nếu trong
suốt 49
ngày, việc siêu độ được
hành trì với một tấm lòng tha thiết, với một chân tình thật là sâu sắc, vị chủ
lễ tận tâm giảng dạy, dẫn dắt vong linh qua từng lời khuyên, từng lời Pháp,
chắc chắn rằng trí huệ của vong linh sẽ bừng sáng, thần thức chân thành rung động,
vong linh hoán chuyển cảnh giới rất dễ dàng. Nếu người chủ lễ có Đạo Lực, việc
cảm nhận cũng không khó khăn đâu, chỉ cần người chủ lễ giữ tâm Bình thì sẽ cảm
nhận được ngay. Điều này cũng giống y như việc, có uống ly nước rồi, mới biết
ly nước đó lạnh hay nóng? Rất khó diễn tả bằng lời lắm!Còn đối với người chủ lễ
không có Đạo Lực, cũng vẫn phải giữ Tâm Bình mới cảm nhận được vong linh đã ra đi
chưa?
Tuy nhiên, việc đó xem như
là một món quà mà thôi. Khi người chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để nhờ
Ngài dẫn dắt cho vong linh, công việc của Ngài là đưa vong linh đi, theo đúng
cảnh giới của vong. Điều này đòi
hỏi, trong suốt 49 ngày,
người chủ lễ dù cho có Đạo Lực hay không có Đạo Lực, có thành tâm thành ý, có đem
hết sức của mình ra để siêu độ cho vong linh hay không? Và việc siêu độ có đi
từng bước một theo sự hướng dẫn trong
quyển sách hay không? Nếu
người chủ lễ làm đầy đủ hết tất cả mọi việc ghi trong quyển sách, kèm theo một
tâm thành của mình, điều đó nói lên được rằng, người chủ lễ đã giúp cho vong
linh tu tập trong suốt 49 ngày.Nếu đã giúp được cho vong linh tu tập trong suốt
49 ngày, thì chắc chắn rằng vong linh sẽ được Ngài Địa Tạng đưa đi vào ngày thứ
49. Mỗi ngày, vị chủ lễ đều có khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài sẽ để tâm
theo dõi việc tu tập
của vong linh, và Ngài
cũng hỗ trợ để cho vong linh tu tập.Cho nên, nếu vị chủ lễ không cảm giác được
việc ra đi của vong, cũng đừng thắc mắc, không sao cả! Nếu làm đúng hết các bổn
phận, các chỉ dẫn, đem hết tâm thànhcủa mình ra để siêu độ cho vong, chắc chắn
rằng vong sẽ đi về đúng cảnh giới mà vong đã chọn lựa. Một điều quan trọng,
quan trọng vô cùng mà người chủ lễ
phải ghi nhận là: nếu đã
có sự Thành Tâm, Thành Ý siêu độ, thì chắc chắn rằng vong không bao giờ bị đọa
vào Tam Đồ. Sẽ chỉ có 3 cảnh giới mà vong được chọn lựa, đó là: Cõi Phật, Cõi
Trời và Cõi Người mà thôi. Đó là món quà quý giá dành cho người chủ lễ đối với
vong linh, mà đó cũng là món quà của vong nếu vong chịu khó tu tập trong 49
ngày. Cho nên, chỉ vỏn vẹn có 49 ngày mà giúp cho một thần thức được thăng hoa,
thì thời giờ mình bỏ ra, công sức mình đưa ra, không có gì là quá đáng. Tất cả đều
được đền bù một cách tương xứng.Nếu hành trì đúng việc siêu độ thì cảnh giới
thấp nhất để vong thác sanh, sẽ là cảnh giới NGƯỜI, việc đọa TAM ĐỒ, chắc chắn
là không!
Tại sao Đức Địa
Tạng Vương Bồ
Tát không thể
tiếp dẫn được cho một vong linh
không tu tập, không sám hối, không buông xả, để đi về một cảnh giới, mà bắt
buộc người chủ lễ phải giúp cho vong tu tập trong 49 ngày, rồi sau đó, Đức Địa
Tạng Vương Bồ Tát mới có thể giúp cho vong đi một cách
dễ dàng?Vong phải tự phát
nguyện sửa đổi mình!Phải nhớ rằng: Một Con Người hiện diện trên cõi Đời là để
làm gì? Để trả nghiệp, và sau đó, nếu không biết tu tập, thì lại tiếp tục tạo
nghiệp; còn nếu biết tu tập, thì chỉ lo trả nghiệp và ngừng việc tạo nghiệp.
Nếu bây giờ một người đến để trả nghiệp, rồi lại tạo nghiệp, không biết
trả được bao
nhiêu nghiệp, mà
lại tạo thêm nghiệp, thì chắc chắn rằng, nghiệp lực mà
người đó mang, phải lên cao chớ không xuống thấp. Bây giờ người đó mất đi, mà
vẫn còn mang những cái nghiệp, hoặc trả chưa xong, hoặc trả được một phần, hoặc
có khi trả được rồi, nhưng vì tạo thêm nghiệp, cho nên nghiệp chất chồng, vong
linh đó phải làm sao để được ung dung tự tại muốn đi đâu thì đi?Lấy thí dụ: một
người bị giam cầm trong ngục thất, nếu người đó tỏ ra ăn năn sám hối, sửa đổi
con người của mình, làm được nhiều điều tốt đẹp, chứng tỏ là tôi đã có một sự
sửa đổi
thật sự, trở
thành ra người
tốt, người hữu
dụng, khi đó, quan tòa mới có thể xem xét trường hợp của người này để
quyết định nên cho người này được tự do ngay hay là hưởng trường hợp giảm
khinh, thu ngắn thời gian giam
cầm lại. Một vong linh cũng y như vậy. Lìa khỏi trần thế ra
đi, nếu một người có được huệ nhãn, sẽ thấy được rằng, vong linh đó không có đi
một cách nhẹ nhàng đâu, mà phải lôi, phải kéo.
Lôi kéo cái gì?
Lôi kéo những nghiệp lực
của mình. Tùy theo mỗi vong linh, mà sự lôi kéo đó sẽ nặng nề nhiều hay ít. Một
vong linh lôi kéo cái gánh nặng như vậy, liệu rằng có thể đi đâu xa được hay
không? Chắc chắn là không thể đi đâu xa được hết, nếu không muốn nói là giậm
chân tại chỗ.Nếu bây giờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát chận vong linh đó lại, và
nói rằng: “Muốn đi về đâu? Ta sẽ giúp cho.”Vong linh đó chỉ rằng: “Tôi muốn đi
về hướng đó.”Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát có thể giúp cho vong linh đó đi, nhưng
vì cái gánh ở ngoài sau quá nặng, vong linh đó cũng vẫn không đi được. Dù cho Đức
Địa Tạng Vương Bồ Tát có lôi có kéo họ, họ cũng vẫn không đi được. Những nghiệp
lực mà vong linh mang theo, có một sức hút rất đặc biệt là nó trì lại, vong
linh muốn đi tới, nhưng chính nó trì lại, và khiến cho không lôi kéo được cái
gánh nặng đó.Vì vậy mà Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng đành phải bó tay, trước
nghiệp lực của một vong linh.
Chỉ có người chủ lễ, với
vai trò Thiện Tri Thức, mới có thể giúp cho vong linh hiểu rõ một cách thâm
sâu, là làm thế nào để có thể mất đi cái sức hút của gánh nặng đó. Mà muốn làm
giảm đi cái sức hút đó, vong linh phải biết sám hối.Sám hối với ai? Sám hối với
cái gì? Chính là sám hối với những nghiệp lực mà vong linh đã mang theo đó.Với
vai trò là một thiện tri thức, người chủ lễ sẽ chỉ dẫn cho vong linh biết cách
sám hối, cách trì Chú, cách niệm Phật. Để chi?
Để thể
hiện sự ăn năn, hối
hận của mình đối với những
nghiệp lực mà
mình đã mang
theo, để làm giảm đi sức trì lại của cái gánh nặng.
Nhờ có sám hối, nhờ có
trì Chú, nhờ có niệm Phật mà Trí Huệ của thần thức được sáng lên. Một mặt thì
giảm sự trì kéo của nghiệp lực mà mình đang
mang theo đó, một mặt thì
trí huệ được phát sáng, nhận chân ra được mình phải đi về đâu. Lúc đó vẫn phải
nhờ đến sự giúp đỡ của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, đưa đi đến đúng cảnh giới của
mình. Nhờ có ánh sáng chỉ đường, cho
nên biết được đi về đâu,
nhờ sức trì kéo được giảm đi, vong linh sẽ đi dễ dàng hơn, với sự giúp sức của Đức
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nên nhớ rằng, trong vấn đề siêu thoát, phải do chính tự
thần thức rung động. Thần thức rung động có nghĩa là gì? Có nghĩa là thần thức
nhận chân ra được rằng, cái gánh nặng mà mình kéo đó, chứa toàn là nghiệp lực
của mình, mà những nghiệp lực
đó là do chính mình tạo
nên, thì bây giờ mình phải biết ăn năn sám hối, với những người mà mình đã gây
tạo nghiệp chướng. Không thể nói rằng, tôi tha hồ tạo tác, rồi bây giờ thì nhởn
nhởn nhơ nhơ, muốn làm gì thì theo tự ý mình. Như thế là không được! Cõi Âm
cũng như Cõi Dương, tất cả đều có một sự bình đẳng ngang nhau, không có vấn đề
muốn làm gì thì làm. Tu tập là một sự hoán chuyển từ bên trong của mình, để làm
gì? Để làm cho Tâm thức của mình ngời sáng lên, cho Ý thức của mình rực rỡ
thêm, cho Tánh xấu của mình giảm bớt xuống. Cho nên sự hoán chuyển phải đi từ ở
bên trong, chớ không
phải do ở bên ngoài tác động
vào. Do đó, việc Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ là một tác động từ bên
ngoài, nhưng muốn nhận được sự giúp đỡ
đó, thần thức phải có một
sự hoán chuyển từ ở bên trong.Tóm lại, tu tập là phải tự lực trước, rồi sau đó
mới cầu đến tha lực; dù tha lực đó là Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát hay là Đức A Di
Đà Phật, hay ai đó cũng vậy, then chốt vẫn là cá nhân đó phải tự lực trước.Không
có tự lực thì như người đeo đá, mà đá đó không phải đá bình thường, mà là đá
nam châm, cho nên hút xuống,
không gỡ
lên được. Nếu
là một cục đá bình
thường, thì trong mười phương, Chư
Phật và Bồ Tát hằng hà sa số, đủ để cứu vớt hết tất cả chúng sanh trong cõi Ta
Bà rồi.Mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, Chư Thiên, chư Thánh, tất cả
sẵn sàng tiếp
dẫn các vong
linh. Nhưng, tiếp
dẫn
là đem xe đến nơi để chở đi,
các vong linh phải tự bước lên chiếc xe, nếu không bước lên được, thì xem như đã
lỡ chuyến xe rồi. Mà bước lên không được chỉ vì bị sức trì xuống. Cho nên, giúp
cho thần thức tu tập là giúp cho thần thức làm tiêu đi tính chất trì hút của
tảng đá nghiệp lực mà mình phải đeo.
Tại Sao Siêu Độ Cho Vong Linh Không Tụng Kinh A Di Đà Hoặc Kinh Địa
Tạng?
49 ngày là thời gian đặc
ân để hoán chuyển cảnh giới của một vong linh. Vong linh có được một cơ hội
cuối cùng để tu tập, để chân thành sám hối, cải sửa những lỗi lầm của mình. Sự
rung động của thần thức là một sự rung động chân thật và đúng nghĩa, hoàn toàn
không có sự che đậy (giả dối). Sự rung động đó có được, chính là nhờ ở sự Sám
Hối. Vong linh phải sám hối ... sám hối … và chỉ có sám hối là mới có thể làm
tiêu được một phần nào những nghiệp tội của mình, là bỏ xuống túi đá nặng mà
vong linh đã mang trên vai.
Nhờ có sám hối mà các
nghiệp chướng sẽ thu nhỏ lại, lắng xuống dưới đáy của A Lại Da Thức, làm cho
cái túi nghiệp chướng của vong linh được nhẹ bớt đi, tuy rằng chỉ là tạm thời
chớ không vĩnh viễn, nhưng cũng vẫn giúp cho vong linh được nhẹ nhàng cất bước
tìm đường thác sanh.
Điều quan trọng hàng đầu
là giúp cho vong linh sám hối, chớ không phải giúp cho vong linh tụng Kinh A Di
Đà hay Kinh Địa Tạng. Kinh A Di Đà giúp người tu tập (còn sống) biết đến
cảnh giới Cực Lạc, biết đến lời nguyện rộng lớn của Đức A Di Đà Phật, trong
việc dang tay cứu vớt chúng sanh của cõi Ta Bà. Người tu tập có được niềm tin
vào lời nguyện của Đức A Di Đà Phật, sẽ đặt hết tâm thành của mình vào nơi an
trụ vĩnh viễn cuối cùng của kiếp luân hồi.Hướng đi đã được vạch rõ, nơi dừng
chân cuối cùng cũng đã tỏ tường, chỉ còn lại có việc sắp xếp hành trang và chọn
lựa phương tiện di chuyển. Hành trang nào nên đem theo? Hành trang nào nên bỏ
lại? Phương tiện di chuyển nào thích nghi nhất? Tiện lợi cho mình nhất?Cực Lạc
vẫn đòi hỏi người tu tập chân chính phải chu toàn Tâm – Ý- Tánh, phải luôn luôn
kiểm Tâm, chỉnh Ý và sửa Tánh thì nghiệp lực mới có cơ hội tan biến dần đi, làm
cho cái túi hành trang của người đó sẽ không còn nặng nề, trở nên nhẹ nhàng nhưng
chứa toàn vật quý giá để mang theo. Mà muốn được như vậy, người tu tập chân
chính sẽ không ngừng sám hối, sẽ luôn thiết tha sám hối và thật dạ chân thành ăn
năn tất cả những nghiệp chướng của mình từ vô thỉ kiếp cho đến hiện kiếp.Người
tu tập chân chính còn phải luôn luôn giữ Tâm Bình - Ý Bình - Tánh Bình thì mới
bảo đảm được một sự tiếp rước vãng sanh ngay vào giờ phút lâm chung.
Niệm Phật A Di Đà, tụng
Kinh A Di Đà là để giúp cho mình biết được hướng đi kế tiếp của mình sau khi bỏ
báu thân, để chuẩn bị hành trang cho mình tiến về Cực Lạc. Kinh Địa Tạng vạch
rõ cho chúng sanh nhận chân ra được sự cực nhọc vô bờ bến, không có chi lường được,
không có lời đúng để diễn tả, về công khó của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, trước
các nghiệp tội do chúng sanh gây ra. Hằng hà sa số địa ngục, tất cả đều do
chúng sanh đã chiêu cảm ra
từ Tâm -Ý - Tánh.
Tụng Kinh Địa Tạngđể: trước
là, thấm thía sự nhọc nhằn của một vị Đại Bồ Tát, đã vì chúng sanh, thương
chúng sanh, cảm nhận sự khổ đau của chúng sanh mà phát lời thệ nguyện rộng lớn:
“Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật,” đã hết lòng, không ngừng nghỉ, dang
tay cứu vớt chúng sanh. Kế tiếp để
thấy rằng, chúng
sanh có nhận
chân ra được là mình đã quá ác độc, quá ương ngạnh,
quá bướng bỉnh, thiếu từ tâm, và luôn luôn có thái độ bất cần hay không? Từng địa
ngục được kể ra, thể hiện cho từng thái độ, từng tánh xấu, từng hành động có
thể nói là “quái ác” và “quái dị” của chúng sanh.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật, qua lời Kinh Địa Tạng đã hết lòng khuyên bảo, nhắn nhủ mọi chúng sanh ngưng
tạo nghiệp chướng, ngưng làm đau khổ lẫn nhau, nên sống đời An Nhiên Tự Tại, đừng
tự buộc ràng mình vào cái Địa Ngục to tướng do chính mình xây tạo cho mình.
Nghiệp lực của ai thì người đó gánh chịu, không ai bằng lòng chịu khổ cho ai
cả, dù là cha mẹ, con cái, thâm tình cũng vẫn không thể kham nỗi gánh nặng
nghiệp chướng
của kẻ khác được. Đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã vạch rõ cho chúng
sanh hiểu được cảnh giới
của bên kia lằn ranh giới Sống và Chết. Ngài đề cập đến sự tha thiết, đến lòng
thương yêu vô bờ bến, đến những việc làm của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đối với
vong linh, Vị Đại Bồ Tát này đã không từ
chối một việc gì để giúp
cho vong linh, nhưng, việc giúp đỡ của Ngài thuộc giai đoạn thứ hai, không phải
giai đoạn thứ nhất.Ở giai đoạn thứ nhất, vong linh có bổn phận làm sao cho mình
được nhẹ nhàng để tiến tới. Tuy nhiên, vấn đề chính yếu là: chiếc xe nghiệp lực
mà vong linh phải lôi kéo ở sau
lưng, lại mang tính chất
của một cục đá nam châm, nó “trì” và “hút” xuống, khiến cho vong linh vô phương
di chuyển. Dù cho Ngài Địa Tạng có ra sức bao nhiêu để giúp đỡ, vong linh cũng
không thể nào cất bước được.Muốn được nhẹ nhàng và thoát khỏi tầm ảnh hưởng của
sức hút
của cục đá
nam châm, vong
linh bắt buộc
phải qua thời gian 49 ngày tu tập, phải sám hối, phải trì Chú, phải niệm
Phật để đốt lên ngọn đèn trí huệ của hương linh.
Hương linh đã có ngọn đèn
trí huệ, hương linh đã có sự chân thành sám hối, ăn năn rồi, sẽ khiến cho cục
nam châm đó mất đi tính chất “hút,” khi đó vong linh mới có thể di chuyển được.
Khi đã có thể di chuyển được rồi, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát hoặc Đức A Di Đà
Phật mới có thể đẩy lên tới trước
được. Đây mới chính là
giai đoạn hai. Vong linh cần phải được dẫn dắt, chỉ dạy cho cách Sám Hối; đã lỡ
tạo nghiệp rồi thì phải biết sám hối nghiệp tội
của mình, làm cho nó tiêu đi
chớ không phải thấy Địa Ngục là hết tội! Vong linh còn phải được giúp đỡ để đốt
sáng ngọn đèn Trí Huệ qua việc trì Chú, niệm Phật. Sám hối, trì Chú, niệm Phật
là phương cách duy nhất và cấp thời, giúp cho vong linh tu tập, xả bỏ gánh nặng
của vướng mắc, của nghiệp chướng, để rồi vong linh sáng suốt nhận ra được hướng
đi kế tiếp của mình.
Bên cạnh việc giúp cho
vong linh gấp rúttu tập, còn phải nổ lực “MỞ TRÍ” của vong linh bằng những lời
giảng Pháp. Vong linh có Sám Hối, nhưng nếu được dẫn dắt để hiểu rõ vì sao mình
đã gây tạo lỗi lầm, khi đó vong linh sẽ thấm thía hơn với những bài Pháp về:
*Nghiệp Lực
*Nhân Quả
*Tham - Sân -Si
*Tự Ái
*Nghiệp Chướng Nền Tảng
*Khổ Nạn Của Chúng Sanh
*Địa Ngục Do Chính Mình Tạo Nên
*Vô Thường
*Buông Xả
*7 Bước Thăng Trầm
*Thế Nào là Đới Nghiệp Vãng Sanh v.v…
Khi đó, dùng lời Kinh A Di
Đà để giới thiệu cảnh giới Cực Lạc, để dẫn giải 48 lời nguyện của Đức A Di Đà
Phật, giúp cho vong linh có một cái nhìn tha thiết về thế giới Cực Lạc trong sự
lựa chọn cảnh giới của Vong Linh.
Vong linh đã được hướng
dẫn tu tập, biết chân thành ăn năn, sám hối, nghiệp tội được lắng xuống, ngọn đèn
Trí Huệ được đốt lên, vong linh giờ đây được ung dung tự tại với 3 con đường mà
mình sẽ phải lựa chọn: cõi Phật - cõi
Trời - cõi Người. Kiếp đọa
đày cũng biến mất, vong siêu thoát, an ổn ra đi,
thảnh thơi ở một cảnh giới
mới do chính mình lựa chọn.
Vong Linh Tại Chùa Đi Về Đâu?
Các vong linh do chùa
chiền siêu độ, sau 49 ngày, các vong linh đi về đâu? Sau lễ an táng, vong được đưa
về chùa, nhập vị và được làm lễ siêu độ tại chùa trong 49 ngày. Sau thời gian siêu
độ, những vong linh nào bị đọa vào Tam Đồ thì sẽ theo nghiệp đọa của mình mà đi.
Những vong linh nào được thác sanh vào cõi Người (mà không bị vướng mắc) thì sẽ
đi thác sanh. Những vong linh nào bị vướng mắc, có điều oan ức, có những ẩn
tình chưa kịp giải quyết trước phút lâm chung, sau 49 ngày siêu độ, nếu tất cả
những vướng mắc không được giải tỏa, vong linh không tìm được sự nhẹ nhàng để
cất bước, trước mặt mình toàn một màu tối đen, không tìm ra con đường đúng để đi,
những vong linh này chỉ còn có một nơi duy nhất để an trụ, đó chính là chùa
chiền, nơi mà vong linh đã được đưa về sau lễ an táng. Nói tóm lại, sau 49 ngày
rồi, những vong linh nào không siêu thoát sẽ lẩn quẩn ở ngoài chùa hay chung
quanh chùa.Chùa có Chư Thần, Hộ Pháp, Sơn Thần, Thổ Địa canh giữ, các vong linh
không thể vào tận bên trong chùa, nếu không được mời gọi đích danh. Rồi thì năm
qua tháng lại, số vong linh không siêu thoát càng ngày càng đông, tất cả nương
nhờ vào những buổi thí thực ở chùa, giậm chân tại chỗ mà chờ đợi ... chờ đợi
... một cơ hội thác sanh.
Vì sao việc siêu độ ở chùa không
mang đến một kết quả tốt đẹp cho các vong linh?
Vong chỉ có vỏn vẹn 49 ngày tu tập hầu hoán chuyển cảnh giới.
Các vong linh đều biết rõ việc này, nhưng vì tự mình không làm được, nên
rất trông nhờ
vào sự giúp đỡ của người trên Dương Thế. 49 ngày thoạt nghe
qua thấy lâu dài, nhưng nếu so với một đời Người Tu Tập, mất hằng bao nhiêu năm
tháng mà vẫn chưa thành tựu Đạo Quả, thì 49 ngày “nóng bỏng” này, vong linh bắt
buộc phải “qua” cho hết, phải dốc lòng, dốc sức tu tập, cải sửa, nếu muốn đạt được
ý nguyện “SIÊU THOÁT.”Việc tu tập của vong linh đòi hỏi phải đi từng bước một,
mỗi ngày một chút, vong linh không còn ngũ căn, ngũ thức, việc thâm nhập rất là
chậm chạp, không ồ ạt được. Từng ngày qua là từng lời Pháp giảng, để vong linh
thấu triệt mà thâm nhập, có thâm nhập mới có rung động, có rung động mới có
siêu thoát được.
Vong khao
khát lời Pháp
chớ không khao
khát thức ăn. Mỗi ngày trong 49 ngày giúp cho vong linh
sám hối, trì Chú, niệm Phật. Trọn 49 ngày vong được uống từng lời Pháp. Như
thế, vong mới đủ đầy để cất bước thác sanh.
Nếu chỉ vỏn vẹn có 7 ngày
ngắn ngủi của 7 thất siêu độ, e rằng thời gian quá ít ỏi để giúp cho vong linh
tìm được điểm sáng, lần theo đó mà cất bước.
Người xuất gia lấy Hạnh Bồ
Tát làm đầu, gia công tu tập cũng
chỉ để hồi hướng cho
Pháp Giới chúng
sanh được muôn điều tốt đẹp. Khi
bỏ báu thân, an trụ miền Cực Lạc, cũng làm tròn ý niệm Cứu Độ chúng sanh. Ý
nghĩa của “Xuất Gia” là Cắt Ái, Ly Gia. Cuộc đời của một người xuất gia, lấy
mái chùa làm “tổ ấm,” lấy chúng sanh làm thân quyến; chúng sanh khổ thì mình đau
như cắt, chúng sanh vui thì lòng mình phơ phới, chúng sanh gặp nạn thì mình tìm
phương cứu vớt, chúng sanh hạnh phúc thì lòng mình hoan hỷ.
Tất cả cho chúng sanh và
vì chúng sanh. Chư Phật và Bồ Tát cũng vì chúng sanh mà lên xuống không ngừng
nghỉ.Người xuất gia chấp nhận Cắt Ái, Ly Gia để noi theo Hạnh Lành của Phật và
Bồ Tát. Không có cái gì thuộc về của
riêng mình. Biết quên mình
để lo cho người, không nệ hà sự cực nhọc,
bất chấp mọi
phiền toái để
giúp đỡ chúng sanh, khi mình còn hơi thở. Tâm chúng
sanh còn quá nhiều vọng động, còn nhiều ham muốn, còn nhiều dục lạc. Chúng sanh
đã không nhìn thấu đáo đoạn đường
trước mặt, cứ
vui chơi cho
thỏa thích, không nhìn lại sau lưng
mình, đoạn đường đã đi qua, đã rơi rớt lại bao nhiêu gai góc, bao nhiêu vướng
mắc, bao nhiêu điều không tốt đẹp.Rồi một mai khi không còn sức để vui chơi
nữa, hắt hơi cuối cùng, vĩnh biệt cuộc đời, ra đi mà mang theo quá nhiều đá
nặng, không cất được bước chân.Ngày nào vui một kiếp NGƯỜI,Hôm nay buồn thảm
trở thành VONG LINH.Khi còn sống, không biết chăm chút phần Linh Hồn của mình,
ngày giờ này cứ loanh quanh với cái bóng của chính mình, không thoát ra được
nghiệp chướng bề bề.Chỉ vỏn vẹn
có 49 ngày đặc ân,
tìm đâu ra được người
thương yêu
giúp đỡ? Gia đình không
có, bạn bè
cũng không! Chỉ còn biết trông chờ vào lòng “Từ Mẫn” của các bậc xuất
gia giúp đỡ mà thôi!
Siêu độ cho một vong linh
thoát cảnh đọa đày, an nhiên tự tại để
vãng sanh về
Cực Lạc, hay
nhẹ nhàng thư
thả về cõi Trời, hoặc trở lại kiếp Người với nhiều Phước báu, đó chính
là “THIÊN CHỨC” của người xuất gia, làm tròn Tâm Nguyện của mình là Cứu Độ chúng
sanh cho người sống, lẫn người đã chết.
Khi Cúng Có Cần Chuông và Mõ
Không?
Theo nghi thức từ xưa đến
nay, việc tụng Kinh, niệm Phật lúc
nào cũng phải đi kèm
với chuông và
mõ. Nếu một người mới làm quen với việc tu tập, gặp
lúc tang gia bối rối, không tìm được chuông mõ để hành trì nghi thức, việc này
có thể chấp nhận được hay không?Thật sự ra, tất cả những thứ này là do người Đời
đặt ra. Tiếng chuông đóng
vai trò cảnh
thức, phá tan
màn đen tối. Màn đen tối đó chính
là gì? Chính là màn vô minh của
hành giả đó. Tiếng chuông
thường là đi đôi với Tâm Thức. Tâm
Thức nghĩ gì?
Muốn gì? Chuyển
đạt tư tưởng
của mình đến đâu? Đến cho ai? v.v... Tất cả sẽ kèm theo với tiếng
chuông. Tuy nhiên, khi tu tập lâu ngày, có thể Định Tâm được rồi, tất cả những
gì xuất ra khỏi Tâm Thức đều không nhất thiết phải đi kèm với tiếng chuông. Mõ được
dùng để giữ nhịp khi tụng Kinh, trì Chú hay niệm Phật, để dẫn chúng, tránh hôn
trầm (buồn ngủ).Điều chánh yếu của việc tu tập là tôi luyện cái BÊN TRONG của
mình; là rọi chiếu cái NỘI TÂM, tức là phải quán sát cái Tâm, cái Ý và cái Tánh
của mình. Tâm
-Ý- Tánh có luôn được dùi
mài, trau chuốt, mới giúp được Thần Thức của mình THĂNG HOA. Chính vì Thần Thức
không thăng hoa, nên mới cần được siêu độ. Nếu Thần Thức được bao bọc bởi một
cái Tâm không lành,
bởi vô số ý tưởng không
chân chính và nhất là bị chi phối bởi quá nhiều Tánh Xấu, thì ngay từ khi còn
sống, Thần Thức đó đã rất nặng nề, không thể nào giúp cho thân xác của mình có được
một cuộc sống thoải mái, nhẹ nhàng ung
dung được.Khi đã trở thành
một vong linh rồi, Thần Thức đó chắc chắn sẽ không được nhẹ nhàng cất bước vì
mang quá nhiều nghiệp chướng, được gây tạo từ một Tâm-Ý-Tánh không lành.Khi đã
hiểu rõ cái cốt tuỷ của việc tu tập rồi, những gì thuộc về hình thức, không góp
phần vào việc giúp cho Thần Thức được thăng hoa, từ khi còn sống cho đến lúc
mãn phần, tất cả đều KHÔNG được xem là quan trọng và cần thiết. Có cũng được,
mà không có cũng không sao!
Giúp Không Bị Phân Tâm
Để giúp không bị phân tâm,
nên dùng alarm của đồng hồ đồng hồ báo
thức) hoặc của điện thoại
hay timer. Vặn 5 phút, 10 phút, hay 15 phút trước khi
ngồi vào để tịnh tâm, trì Chú
hoặc niệm Phật.
Như thế, chủ
lễ sẽ không bị phân tâm về thời gian ấn định khi
hành trì. Việc quán tưởng trong lúc trì Chú hay niệm Phật cũng sẽ không bị ngắt
quảng nửa chừng.
Vong Linh Có Bị Hạn Chế Bởi Ngôn Ngữ Hay Không?
Đã là một cái vong thì
không còn sự cản trở về ngôn ngữ nữa. Tất cả những cản trở về sự hiểu biết, về
ngôn ngữ là do ở ngũ căn, thoát được ngũ căn, sẽ không còn bị cản trở nữa. Người
tu tập chân chính khi đã đạt thành đạo quả, cũng sẽ hiểu được những cái gì mà
ngoài tầm với của ngôn ngữ.Đó là một điều vô
cùng thú vị!
Nhờ có cảm
nhận được hết tất cả mọi thứ ngôn
ngữ, người tu đắc đạo mới có thể hành xử được việc cứu độ chúng sanh. Cứu độ
chúng sanh, không phải chỉ cứu độ cho những người cùng tiếng nói với mình, mà
còn cứu độ cho tất cả những chúng sanh khác, không cùng ngôn ngữ với mình, và đôi
khi cả với những loài vật nữa. Tuy nhiên việc này còn xa tầm với của chúng
sanh!Khi người chủ lễ giảng Pháp cho vong nghe, nếu không đồng ngôn ngữ cũng
vẫn không sao cả. Vong cảm nhận được tất cả mọi điều mà người chủ lễ muốn bày
tỏ với vong qua cái THỨC.
Hào Quang Của Người Chủ Lễ ;
Sự tu tập chân chính sẽ
mang đến cho hành giả một ánh hào quang bao bọc chung quanh người. Làm sao để
cho người đó biết được là mình có hào quang?Vì nhãn căn bị ngăn chận, cho nên
không nhìn thấy được cái hào quang. Thậm chí, người tu tập chân chính lâu năm, cũng
khó có thể thấy được hào quang của kẻ khác, huống chi là thấy được hào quang
của mình. Khi trì Chú, khi niệm Phật, phải quán tưởng hào quang.Nếu là một người
tu tập chân chính lâu năm đúng cách, quán tưởng hào quang trong lúc trì Chú hay
niệm Phật, sẽ thấy được hào quang xuất ra từ ở ngay Tam Tinh.Nếu người đó không
nhìn thấy được cái hào quang phát ra từ ở ngay Tam Tinh, điều đó chứng tỏ rằng,
mặc dầu người đó tu tập, nhưng không giữ được tâm bình trong lúc trì Chú, niệm
Phật hay sám hối. Người đó vẫn còn bị Tâm Viên Ý Mã, không Định được. Nếu Tâm,
Ý vẫn còn động, khi Sám Hối sẽ không đem hết được Tâm Thành của mình để sám
hối, khi trì Chú, không đem hết Lực của mình để trì Chú, khi niệm Phật không đem
hết Cường Lực của mình
để niệm Phật. Sám Hối, Trì
Chú, Niệm Phật đều giúp cho Trí Huệ gia tăng.
Khi trí huệ
gia tăng, sẽ
phối hợp với
cái chân khí trong người để làm cho cái chân khí đó được
rực sáng lên. Chân khí đi theo vòng tròn trong cơ thể, trí huệ của người đó là
ánh đèn, hợp với chân khí để tạo nên ánh hào quang chung quanh người đó.Chỉ cần
tu tập đúng, giữ cho đừng Tâm Viên Ý Mã, tức là phải giữ Tâm Bình, thì có thể
nhận ra được hào quang chung quanh mình.
Nếu là một người tu
tập chân chính có đạo lực, lúc bình thường, dù cho người
đó không ngồi xuống để tu tập, cái hào quang vẫn bao bọc toàn cơ thể của người đó,
mắt người đó rực sáng khiến người khác nhìn vào bỗng đem lòng kính phục, quý
mến và có cảm tình. Toàn thân của người tu tập chân chính toát ra một sự nhẹ
nhàng, thoải mái; người
ngoài nhìn vào
hay tiếp xúc
cũng cảm nhận được một sự An Bình
khó diễn tả. Đó chính là sức thu hút từ ở ánh hào quang.Một người tu tập chân
chính, có đủ đạo lực, hào quang phát sáng, vong nhìn vào là thấy ngay. Cho nên,
việc một người tu tập chân chính thấy được hào quang của kẻ khác, việc đó rất
ít. Nhưng chính bản thân của người đó, muốn biết được mình có ánh hào quang hay
không, cần phải giữ Tâm Bình trong lúc tu tập. Khi trì Chú, niệm Phật, phải
hoàn toàn giữ tâm thanh tịnh thì sẽ thấy ánh sáng phát ra từ ở Tam Tinh của
mình. Cố gắng giữ cho ánh sáng đó đừng biến mất. Nếu Tâm Viên Ý Mã, ánh sáng đó
sẽ biến mất ngay. Càng tu tập đúng nghĩa, toàn thân người
đó sẽ phát ra một ánh sáng
rất là dịu dàng, khiến người khác nhìn vào đều có cảm tình, và đem lòng kính
phục.
Vong Linh Có Thể Siêu Được Trước 49 Ngày Hay Không?
Vong linh có bắt buộc phải
chờ đợi đủ 49 ngày mới chính thức được tiếp dẫn đúng cảnh giới? Có khi nào thần
thức rung động, thoát khỏi vướng mắc, và ra đi trước 49 ngày hay không? Khi
nói: “vong đi trước 49 ngày,” đó chỉ là một cách để diễn tả rằng, trước khi 49
ngày chấm dứt, thần thức đã có
sự rung động rồi, đã hiểu
rồi, đã biết rồi và đã có một sự hơ thới, một cảm giác rằng, mình không còn bị
vướng mắc nữa, và cái xe nghiệp lực của mình ở ngoài sau không còn nặng nề,
không còn trì hút xuống nữa, vong linh cảm thấy nhẹ nhàng xoay trở. Sau khi đã
nhận ra được những điều sai trái của mình rồi, đã cởi bỏ hết tất cả những vướng
mắc, bây giờ thì vong có một cảm giác ung dung tự tại; nhưng không có nghĩa
rằng vong được đi theo đúng cảnh giới của mình liền, mà vẫn phải chờ cho xong
49 ngày. Hết thời gian đặc ân, đúng vào ngày thứ 49, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
sẽ giúp đỡ để đưa vong đi đúng cảnh giới của mình.Trong thời gian từ lúc thần
thức rung động, cho đến khi Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đưa đi, vong rất là nhẹ
nhàng, rất là thoải mái, thảnh thơi và cảm thấy không còn bị vướng mắc, giống
như một người đang hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Nếu một người ở vào phút lâm
chung, có được trạng thái đó, tức là người đó sẽ được tiếp dẫn ngay phút lâm
chung.
Một người tu tập chân
chính lúc còn sống, nhưng lại không thể
nào được vãng
sanh về cõi
Cực Lạc hay
Cõi Trời ở ngay phút lâm chung, đó là vì người ấy còn
bị chút vướng mắc. Cũng có thể rằng, người đó có một ẩn tình nào chưa kịp giãi
bày, vẫn còn mang trong lòng ở phút cuối, cho nên
cần phải được giúp đỡ.
Những vong linh lúc còn sống không biết tu tập, mà lại có nhiều vướng mắc, 49
ngày sẽ là một thời gian rất dài … rất dài vì vong linh phải đi từ chút, từ
chút để tu tập.Những người đã biết tu tập rồi, chỉ còn chút ít vướng mắc lúc ra
đi, khi cái vướng mắc đó đã được tháo gỡ rồi, thần
thức sẽ cảm thấy rất là thơ
thới và lại tiếp tục tu tập.Thời gian còn lại của 49 ngày siêu độ, vong linh đó
sẽ có được cảm giác sau đây: Nếu vong linh đó quyết tâm về cõi Cực Lạc, vong
linh sẽ có cảm giác ở Cực Lạc trong thời gian còn lại đó. Nếu vong linh muốn về
cõi Trời, vong linh sẽ có
cảm giác rất là sung sướng
của một người ở tại cõi Trời.Điều
này cũng áp
dụng cho người
còn tại thế.
Khi còn sống trên cõi Đời mà lòng
không chứa đầy vướng mắc, tâm không
phiền não, sẽ
thấy cuộc sống
của mình rất
thảnh thơi, nhẹ nhàng và hạnh phúc.Dù rằng người đó trên thực tế, chưa
từng bước vào Thế Giới Cực Lạc, nhưng họ có một cảm giác rằng: tôi đang ở trong
Thế Giới Cực Lạc. Vì sao? Vì Thế Giới Cực Lạc không có
sự khổ đau, không có điều
phiền muộn, không có sự lo âu, không có bất kỳmột cái gì ngoại trừ hai chữ An
Bình. Cho nên, giữ được Tâm Bình là giữ được Cảnh Giới Cực Lạc cho mình trong
suốt thời gian mình an trụ trong chữ Bình.Nếu khi còn sống mà tập luyện để cho
tâm mình luôn an trụ trong Cảnh Giới Cực Lạc của bản thân mình, thì như vậy,
vào giờ phút lâm chung, xem như con đường dẫn về Cực Lạc đang ở trước mặt mình,
chỉ còn chờ đợi mình cất bước mà thôi. Con đường đó đã quá quen thuộc với mình,
đã được nhìn thấy mỗi ngày, không cần đợi đến lúc hắt hơi mới được biết đến
nó!Cực Lạc ở trong Tâm của một người biết tu tập, biết kiểm soát được Tâm - Ý -Tánh
của mình. Khi kiểm soát được Tâm-Ý-Tánh, tức là không bao giờ khiến cho Tâm –Ý-
Tánh của mình hành động sai lầm.Một người làm được một việc tốt đẹp sẽ cảm thấy
thơ thới, nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng, tức là đã có được cái cảm giác Cực
Lạc nơi tâm của họ rồi.Rất mong mỗi chúng sanh nên bỏ ít thì giờ để đọc, để
hiểu, để thâm nhập từng lời, từng chữ trong quyển Siêu Độ này. Nó không phải
thuần là một nghi thức, mà nó là một sự chuẩn bị, chuẩn bị cho chính bản thân
mình.Con đường mình chuẩn bị để đi sẽ như thế nào? Ước muốn của mình ra sao?
Con đường đó mình muốn trải hoa, trải gấm, hay trải gai, trải bùn? Tất cả là do
ở sự sắp xếp của mình, không ai chuẩn bị con
đường đó giùm cho mình, mà
phải chính tự bản thân mình làm việc chuẩn bị đó.Nếu muốn con đường mình đi
trải nhiều hoa, nhiều gấm, thì mình phải
làm sao để kiếm cho đủ hoa với gấm mà lót lên. Còn nếu nói rằng: Tôi bất cần,
con đường tôi đi, nó bùn lầy, nó dính sình, nó gập ghềnh, nó sỏi đá, cũng không
sao! Mình lựa chọn con đường nào, mình sẽ đi trên con đường đó. Có điều đặc
biệt rằng, con đường mà mình lựa chọn sẽ có người cất bước lên đi trước, để cho
mình ở phía sau quan sát, xem coi người đi phía trước mình đã đi như thế nào?
Từ sau nhìn tới, mình có thể thẩm định được rằng: tôi trải
bao nhiêu hoa đó có đủ để đi
hay không? Hoặc là gấm tôi phủ lên có đủ dày hay không? Những sự sắp xếp của
tôi có hoàn toàn giống như ý của tôi hay không? Nếu không đúng với ý muốn của
tôi, thì tôi sẽ phải sửa đổi lại như thế nào để cho thật đúng?Rồi một mai khi bước
lên con đường mà mình đã chuẩn
bị rồi, mình sẽ cảm thấy
vừa ý, và không có lời trách móc, hay là hối tiếc rằng, mình đã làm chưa đúng ý
của mình. Chuẩn bị một con đường, mà con đường đó đã có người bước lên đi cho
mình coi thử, thì như vậy, việc chỉnh sửa sẽ rất dễ dàng!Siêu độ cho một người,
là chuẩn bị con đường cho mình.
Vong linh đó, chính
là người giúp
cho mình thẩm định
được con
đường mà mình
chuẩn bị, có
vừa ý mình
hay không, có cần phải sửa đổi hay không và phải chỉnh sửa như thế nào để
đúng với ý mình mong muốn? Nếu không vừa ý, muốn chỉnh sửa thì còn kịp thời
gian, đừng đợi tới
nước cùng rồi mới chỉnh
sửa, sẽ không kịp nữa đâu!
Cho nên, siêu độ cho một vong linh chính là
chuẩn bị con đường cho mình sẽ đi.
Công Đức Ấn
Tống Quyển Siêu Độ
Chắc chắn rằng, không ai
biết được thân nhân quá cố của mình đã đi về đâu?
Về cõi Trời, hay cõi Phật?
Trở lại kiếp Người? Hay bị đọa Tam Đồ?Dù cho vong linh đi về đâu trong sáu nẻo
Luân Hồi, việc siêu độ cho vong linh vẫn là điều cần thiết phải làm. Vong linh được
cõi Trời tiếp nhận, được hưởng bao nhiêu sự thù thắng vi diệu, việc siêu độ cho
vong linh sẽ giúp cho tuổi thọ của vong linh đó kéo dài hơn ở Thượng Giới. Vong
linh được vãng sanh về Cực Lạc, việc siêu độ cho vong linh, sẽ giúp cho hoa sen
chứa đựng thần thức của
vong linh mau chóng nở
ra.49 ngày siêu độ, người trên dương thế đã giúp cho vong linh tu tập, giúp cho
vong linh sám hối các nghiệp tội của mình, từ nhiều đời, nhiều kiếp cho đến tận
kiếp vừa qua. Dù vong linh được vãng sanh về cõi Phật, cũng vẫn là Đới Nghiệp
Vãng Sanh, vẫn còn mang hết bao nhiêu nghiệp
chướng đi theo mình, cũng
vẫn phải trụ vào hoa sen để tu tập, để sám hối cho tiêu lần những chướng duyên.
Việc siêu độ của người trên dương thế, cho một vong linh an trụ trong thai sen,
là một sự trợ lực, một sự tiếp sức, để vong linh đó sớm làm tiêu mòn đi nghiệp
tội, được trở nên nhẹ nhàng, giúp cho hoa sen mau nở ra, vong linh thực sự trở
thành Thánh Chúng (một cách đúng nghĩa), hòa nhập vào sinh hoạt hằng ngày của
thế giới Cực Lạc.Công việc siêu độ của người trên dương thế đã mang lại một ý
nghĩa thật tuyệt vời, một sự lợi ích rất lớn lao, một sự đóng góp vô cùng cực
trong việc cứu độ chúng sanh. Giúp
đỡ cho một vong linh đới
nghiệp vãng sanh, là giúp đỡ cho một Thánh Chúng của Cực Lạc, là tiếp tay cùng
với Thánh Chúng đó, xoa dịu phần nào những thương đau của cõi Ta Bà, trong đó
có cả chính bản thân mình và các thân nhân còn hiện thế của Thánh Chúng đó.Một
vong linh dù biết rằng sẽ được thác sanh về cõi Người (qua dấu
hiệu của hơi
ấm cuối cùng
tụ vào nơi
Ngực ở vào phút
lâm chung), nếu được thành
tâm, thành ý siêu
độ trong 49 ngày, vong
linh sẽ có cơ hội rất lớn để hoán chuyển cảnh giới của mình từ cõi Người chuyển
sang cõi Trời hay cõi Phật. Nếu nghiệp chướng quá nặng nề, còn vương mang nhiều
vướng mắc, vong linh bị đọa vào chốn tam đồ; chỉ mới là dấu hiệu SẼbị đọa tam đồ,
chớ chưa thật sự bước vào sự
đọa đày,
nhưng nếu có sự nhanh
nhẹn cứu vớt
của thân nhân còn tại thế, thì
chẳng những giúp cho vong linh không rơi vào đường dữ của chốn Tam Đồ, mà nhờ
vào sự siêu độ, vong linh biết tu tập, thành tâm cải sửa, sám hối ăn năn, chỉ
vỏn vẹn trong 49 ngày, con đường xán lạn của cõi Người
hiện rõ, dẫn lối cho thần
thức thác sanh.Tất cả các vong linh đều biết rằng, 49 ngày là thời gian đặc ân,
giúp cho vong linh siêu thoát, hoán chuyển cảnh giới. Nhưng vong linh không thể
tự mình làm công việc siêu độ đó, cho nên phải cần đến sự giúp đỡ của người
trên dương thế.Tuy nhiên, nếu sự hành trì siêu độ không đúng cách, không đúng
chỗ, không với tất cả tâm thành, chỉ là làm cho lấy có, lấy lệ, vong linh sẽ
tức tưởi mà không được siêu thoát.Người trên dương thế phải giúp người cõi
âm.Có nhiều vong linh đã phải ở trong tình trạng không siêu thoát, qua nhiều
thế kỷ, chớ không phải vài năm hay vài chục năm. Đây là một điều rất thương
tâm, nó nói lên được sự hững hờ,
thiếu chăm sóc,
kém dạ chân
thành của người
trên dương thế. Chôn một thi
hài xuống ba thước đất
rồi thì phủi tay, xem như xong
bổn phận, mà không cần quan tâm đến người thân quá cố của mình đi về đâu? Thăng
hoa hay chịu sự đọa đày? Số vong linh không siêu thoát càng lúc càng đông vì họ
phải chờ đợi quá lâu ở cõi âm, không sao tìm được đường thác sanh. Vì vậy, họ
tự động đi tìm oan gia trái chủ, tự giải quyết nghiệp lực, bằng cách dựa nhập
hay tự ý thác sanh, mà không thông qua sự giúp đỡ và lựa chọn chính xác của Đức
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong tương lai, sẽ gây nên một tình trạng rối loạn trên
dương thế, do ở việc tràn ngập các vong linh không siêu thoát. Tính Người đã giảm đi rất
nhiều trong con người đúng
nghĩa. Sự Nhu Hòa, Hiếu Thuận, sự Vị Tha, Nhân Ái, sự Nâng Niu, Trìu Mến, đã
lần lượt bị thay thế bằng sự hung hăng, hiếu chiến, sự sân hận, hống hách, sự
ganh ghét và bất cần. Mạng sống con người không còn được Trân Quý, và luôn luôn
bị đe dọa.Hiện tại cần
phải giải quyết
trước (nếu có
sự nghi ngờ không siêu thoát) những vong linh đã qua đời
không quá lâu, đây là một sự giúp đỡ rất lớn lao!Quyển sách rất là đầy đủ,
không thiếu sót. Thân nhân khi siêu độ cho người thân đã quá cố, cứ theo đúng
nghi thức mà làm, sẽ đem đến kết quả tốt đẹp.Khi nghiên cứu từng chi tiết trong
quyển siêu độ này, người thật tâm tu tập sẽ nhận biết việc sai lầm của mình nằm
vào nơi đâu. Tự họ phải chỉnh sửa, vì nếu họ không chỉnh sửa, họ sẽ phải rơi
vào tình trạng của một vong linh không siêu thoát.Việc siêu độ cho một vong
linh, là một việc làm vừa ích lợi cho vong linh, vừa ích lợi cho người trên dương
thế. Ai
cũng phải bước qua cái
chết, và ai cũng muốn trở thành một vong linh siêu thoát; không ai muốn mình bị
vướng mắc vào trong những điều không tốt đẹp của mình. Vì vậy, nếu mình không
tha thiết đến việc siêu độ cho vong linh,
thì bản thân của mình, do
nhân và quả, cũng sẽ đi theo con đường của vong linh không siêu thoát. Khi mình “đã bị”
ở trong hoàn
cảnh không siêu
thoát, muốn tiến cũng không được, muốn lùi cũng không xong, qua từng năm
tháng, qua từng thế kỷ, thử hỏi mình phải kêu gào nơi đâu? Mình phải cầu xin nơi
đâu? Với cái thần thức nhỏ bé của mình, một khi đã ở trong cái vướng mắc rồi,
thì nó sẽ không khác gì một cái địa ngục của mình, chỉ nhìn thấy chung quanh là
một màu tối đen. Biết làm sao để phá tan được bóng đêm?
Cho nên, tâm trạng của một
vong linh bị vướng mắc, không siêu thoát, là tâm trạng của một người thấp hèn,
của một người khá giả, của một người giàu có, của một người xuất gia, của một
người tại gia, của một tỷ phú, của một vị vua,
của một người nắm bao
nhiêu quyền lực trong tay mình… Tất cả mọi người, từ hèn đến sang, từ thấp đến
cao, đều bình đẳng, không có một sự phân biệt, cũng không có một sự khác biệt,
cùng gặp nhau ở chỗ là cùng bị vướng mắc và cùng bị vây chặt bởi một màu đen.
Vì vậy
việc siêu độ
cho một vong
linh là một
việc làm bắt buộc, chớ không thể
gọi là: “vui thì làm, còn buồn thì không.”Tình trạng của một vong linh không
siêu thoát, có thể là hình ảnh của mình trong tương lai. Cho nên, người người đều
phải biết cách siêu độ, chớ không phải phó mặc cho chùa chiền. Hãy giao công
việc đó cho người biết tu tập, cho người có thành tâm, thành ý, đem hết Tâm Lực
mình để làm công việc giúp cho vong linh siêu thoát. Phải hiểu rằng, công việc đó
là công việc của tất cả mọi người, không có một sự phân biệt, mà cũng không có
sự ngoại lệ nào cả!Đó là bổn phận của tất cả mọi người. Bổn phận đó không phải
là đặc ân của mình cho vong linh, mà chính là bổn phận đối với chính bản thân
mình. Kẻ đi sau lo cho người đi trước, rồi thì người đó cũng sẽ được sự
giúp đỡ của kẻ đi sau
mình.Nếu có người nào đó thốt lên rằng: “Tôi không cần ai siêu độ cho tôi. Tôi
siêu thoát cũng được, mà không siêu thoát cũng không sao.”Thái độ bất cần của
người đó sẽ được trả lời sau cái chết của họ.Mọi người phải nhìn thấy rằng, đây
quả thật là Đặc Ân. Mình làm một bổn phận cho bản thân mình, mà mình còn được hưởng
lợi qua công đức tu tập của mình. Như vậy tại sao không làm?Việc chỉ dẫn lại
cho người chưa biết là một bổn phận của người đã biết việc siêu độ. Phải nói
một cách khẳng định
rằng,ai cũng bắt buộc phải
biết siêu độ cả! Nếu không biết siêu độ, thì nghìn muôn sầu khổ sẽ đến với
mình, khi mình đã trở thành một vong linh rồi.
Từ người thấp hèn cho đến
người cao sang, ai cũng sẽ trở thành ra vong linh, không có một ngoại lệ nào
cho cái chết! Khi đã trở thành ra vong linh rồi, nếu người đó lúc còn sống,
biết tu tập, biết lo sửa đổi Tâm –Ý- Tánh của mình,
nói nôm na là biết chăm
chút phần hồn của mình, chăm chút cho cái vong linh của mình về sau này, thì
việc đó quá tốt đẹp. Siêu độ cho họ là thêm Sức, thêm Lực để họ dễ dàng siêu
thoát, đến đúng nơi mà họ muốn tới. Còn những
người không biết chăm chút
cái vong linh của mình, không biết để ý đến cái phần hồn của mình, thì chắc
chắn rằng việc không siêu thoát là việc rất có thể xảy ra. Không ai muốn bị vướng
mắc không được siêu thoát. Vì vậy, cần phải phổ biến ra càng nhiều càng tốt, để
có người giúp đỡ cho mình trong tương lai, khi mình bỏ báu thân.Việc siêu độ
không phải chỉ là bổn phận của riêng chùa chiền hay là của người xuất gia. Tất
cả mọi người đều cần phải biết cách siêu độ, và hành trì đúng cách siêu độ, nếu
muốn được an nhiên tự tại sau khi đã bỏ thân xác này rồi. Cho nên, việc ấn tống
quyển Siêu Độ là bổn phận chung của tất cả mọi người, Nếu thật tâm muốn lo lắng
cho phần hồn của mình, không gì tốt hơn là phải chia sẻ lại việc siêu độ với
tất cả những người khác.
10 Công Đức
Ấn TốngKinh và Tượng Phật
1. Những nghiệp chướng lỗi lầm từ trước, nặng
thì chuyển thành nhẹ, còn nhẹ thì được tiêu trừ hẳn.
2. Thường được các vị Thiện Thần gia hộ, tránh được
tất cả tai ương, hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
3. Vĩnh viễn thoát khỏi những quả báo phiền khổ,
oán cừu, oan trái của đời trước cũng như đời này. Luôn được an ổn.
4. Các Vị Hộ Pháp, Thiện Thần thường gia hộ nên
những loài dạ xoa, ác quỷ, rắn độc, hùm beo, tránh xa không dám hãm hại.
5. Tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy
khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc
làm thuận lợi, kết quả tốt.
6. Chí thành hộ Pháp, tâm không cầu lợi, tự
nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.
7. Lời nói việc làm, Trời Người hoan hỷ, đến đâu
cũng được mọi người kính mến ngợi khen.
8. Si mê chuyển thành trí huệ, bệnh lành mạnh
khỏe, khốn nghèo chuyển thành giàu sang. Nhàm chán nữ thân, đời sau sẽ được nam
thân.
9. Vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi
thiện, tướng mạo đoan nghiêm,
tâm trí siêu
việt, phước lộc
tròn đầy, giàu sang phú quý.
10. Hay vì tất cả chúng sanh trồng các căn lành.
Lấy tâm cầu của chúng sanh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy thành
tựu được vô lượng phước quả thù
thắng. Sanh ra nơi nào
cũng thường thấy
Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật
quả.Ấn tống Kinh, Pháp, Phật tượng được công đức thù thắng như vậy, nên nhân
dịp có lễ chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật
bệnh, cầu siêu độ hương linh, cầu tiêu trừ nghiệp chướng, hãy dõng mãnh phát
tâm
Bồ Đề ấn tống Kinh Pháp để
trồng cội phước đức, trí huệ giác ngộ cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.
Ở cuối quyển sách có đính kèm mẫu:
Phương Danh: Gia đình &
Thân Nhân Phát
Tâm Ấn Tống Kinh:
Phật Thuyết Thập
Nhị Phật Danh
So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt
Tội và Quyển 49 Ngày Siêu
Độ Cho Thân Nhân Nghi Thức
& Giảng Giải.
Thân Nhân có thể ghi rõ
tên họ người phát tâm ấn tống.
Hồi hướng công đức Ấn Tống
cho Vong Linh tên họ ____,
Pháp danh ____, sinh ngày
____, mất ngày ____, hưởng
thọ __ tuổi.
Về Tác Giả
Pháp An Lạc Bình Sanh Cứu
Khổ
Chúng sinh vô biên thệ
nguyện độ
Phiền não vô tận thệ
nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành
LạcPháp.com là một trang
web nho nhỏ, ghi chép lại những
buổi Pháp thoại giữa một
vị cao tăng tu hành đắc đạo cùng
với đệ tử của Ngài là một
cư sĩ ẩn danh.
Sự hiện diện của
LacPhap.com ngày hôm nay chỉ là một
sự tiếp nối để cho dòng
Pháp vẫn mãi mãi luân lưu. Tất cả
những bậc chân tu đều cùng
một tâm nguyện như nhau là
làm việc cho chư Phật và
Bồ Tát, mãi mãi vì chúng sanh,
tất cả cho chúng sanh;
nhân danh “Người Con Phật” mà
đem lại một chút niềm An
Lạc cho khắp mọi người.LacPhap.com giúp cho chúng sanh đến gần với Đạo Pháp
bằng những lời Pháp rất bình dị, rất căn bản, và tối ư cần thiết trong việc tu
tập hầu tìm cầu giải thoát, bước khỏi vòng sanh tử luân hồi.Chúng sanh còn trên
Dương Thế, còn có cơ hội để nghe Pháp, đọc Pháp, hiểu Pháp và hành Pháp. Đó là
chưa kể đến việc may mắn gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt hầu thoát ra khỏi sự
mê mờ tăm tối.Chúng sanh đã xa lìa Trần Thế, khi còn sống không tha thiết đến
việc tu tập, không cố gắng làm cho đời sống Tâm Linh của mình Cao Vọt lên. Ngày
giờ này gặp muôn điều sầu khổ vì những vướng mắc chưa được tháo gỡ.Thân làm
Vong Linh, nhẹ như sương như khói, làm sao có
thể cất bước dễ dàng khi
vô số nghiệp lực, gút mắt, quấn chặt
quanh mình? Chia
sẻ chánh pháp
là một việc
làm,không những giúp cho người còn sống, mà cũng là một bổn phận đối với
kẻ đã xa lìa Trần Thế.Vong linh khao
khát được uống
từng lời Pháp để thâm nhập, để bừng sáng, để thực sự rung động,
thành tâm sám hối ăn năn những lỗi lầm đã gây tạo. Cần phải giúp cho Vong Linh
An Trụ trong cảnh giới mới tốt đẹp, tránh đoạ Tam Đồ. Cần phải giúp cho Vong
Linh sửa đổi bản tánh của mình, dù cho ở bất cứ một cảnh giới nào, vong linh
cũng sẽ tìm được một sự An Bình đúng nghĩa.LacPhap.com vô cùng hoan hỷ góp một
bàn tay trong việc giúp đỡ cho các vong linh tìm được đúng nẻo thác sanh của
mình.LacPhap.com chỉ
tha thiết đến Đạo Pháp
mà không tha
thiết đến danh xưng, do đó
LacPhap.com không giữ bản
quyền quyển sách 49 Ngày
Siêu Độ Cho Thân Nhân: Nghi Thức & Giảng Giải. Chỉ cốt mong sao quyển sách được
sự tiếp tay của Quý chư Thiện Hữu để phổ biến rộng rãi, hầu đem lại sự lợi lạc
cho người đã qua đời cũng như người còn trên Dương Thế.T ất cả mọi thắc mắc
liên quan đến quyển sách này, xin gửi điện thư về info@LacPhap.com Đúng với tôn chỉ đã nêu
trên, là chia sẻ chánh Pháp của chư Phật và chư Bồ Tát cùng với tất cả Quý chư
Thiện Hữu
gần xa, LạcPháp.com
không nhận tiền cúng dường.
Tất cả những sự đóng góp
qua hình thức:
* Phổ biến
* Ấn tống
* Chỉ dẫn lại cho người
sơ cơ chưa thấu đáo việc siêu độ
*Đảm nhận
vai trò chủ
lễ hay hướng
dẫn để giúp
người sơ cơ hành vai trò
chủ lễ
Giải thích cặn kẽ, mạch lạc những lời Pháp trên trang
LacPhap.com giúp cho người mới làm quen với việc tu tập Chia sẻ sự tư duy
của mình về những lời Pháp trên trang LacPhap.com Đây mới đích thực
là một sự
cúng dường lớn
lao mà LacPhap.com xin chân thành
ghi nhận và hoan hỷ. Pháp sự này nếu có tạo nên chút ít công đức, xin nguyện
hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ khắp đến Tứ Ân, Tam Hữu, cùng tất cả Pháp Giới
Chúng Sanh. Nếu có ai thấy nghe, đều phát Bồ Đề tâm, mãn báu thân này, đồng
sanh Cực Lạc Quốc!
Nam mô Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Từ Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
2014
Ấn hành lần thứ nhất
tại Hoa Kỳ
LạcPháp.com không giữ
bản quyền. Quý chư Thiện Hữu
tùy nghi sử dụng để ấn
tống và phổ biến.
Nghi thức này xin kính
biếu, không được kinh doanh dưới
mọi hình thức.
Biên Soạn và Thiết kế:
LacPhap.com
Printed for free
distribution by
www.LacPhap.com
ISBN: 978-0-9857890-2-2
First Edition
Printed in the United States of America
Nam Mô
Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn
Quảng Đại Linh Cảm Bạch Y
Quán Thế Âm Bồ Tát
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)