Các môn Huyền học đều nghiên cứu về vận mện con người:
Bất cứ
ngành khoa học nào cũng phải bắt đầu bằng những tiên đề (Axiom). Đó là những
chân lý tự thân đúng, không cần và không thể chứng minh. Ví dụ ngành vật lý thì
thừa nhận vật chất và năng lượng là bảo toàn, không tự nhiên mất đi và không tự
nhiên sinh ra. Mỗi học thuyết (hay lý thuyết) cụ thể trong một ngành khoa học
cũng phải xây dựng trên những tiên đề riêng (còn gọi là định đề - postulate) là
những chân lý không thể chứng minh bằng chính lý thuyết đó1. Ví dụ, Thuyết
Tương đối của Einstein trong vật lý coi tốc độ ánh sáng trong chân không là cực
đại và bất biến theo mọi hướng. Định đề này được rút ra bằng thực nghiệm, còn
lý thuyết của Einstein thì không thể chứng minh được tại sao.
Vậy nên, nếu muốn coi bói toán là một
khoa học, ít nhất là Khoa học huyền bí, thì tiên đề đầu tiên của bói toán, là
phải thừa nhận có một sự sắp đặt trước nào đó của tạo hóa khi một con người
sinh ra.
Nói theo ngôn ngữ khoa học, đó là tạo hóa đã lập
trình cho mỗi sinh linh khi ra đời và việc bói toán là việc cố giải mã lập trình
của tạo hóa. Trong cái gọi là Khoa học huyền bí về bói toán tồn tại nhiều
thuyết huyền bí, mỗi thuyết đều phải dựa trên một hay nhiều định đề cơ sở.
Ví dụ, bói vân tay thì coi vết chỉ tay là dấu
hiệu của cuộc đời. Bói mai rùa (Trung Hoa), bói chân gà (Việt Nam), bói lòng
lợn (châu Phi) cũng tượng tự. Bói Kiều thì coi 3.254 câu Kiều là chỉ dấu của
đời người… Nói chung là rất tùy tiện, không có bài bản gì để bàn luận. Tuy
nhiên, nền minh triết Đông Tây hiện nay tồn tại ba học thuyết tiên tri tương
đối có bài bản đó là Chiêm tinh học (Astrology), Kinh Dịch, Tử Vi. 3.000 năm
trước Công nguyên, người Lưỡng Hà (Vùng Iraq-Syria ngày nay) bắt đầu mày mò
nhìn đoán sao trên trời - Chiêm tinh. Họ đã quan sát bầu trời và phát hiện ra
chuyển động biểu kiến của Mặt trời tương ứng với vị trí các chòm sao nhất định,
có tính chu kỳ hằng năm. Và sau đó, người Babylon
tạo ra 12 ký hiệu Hoàng đạo. Người Ai Cập cải tiến nó và đến lượt người Hy Lạp
thì hệ Hoàng đạo (Zodiac) đã hoàn chỉnh. Họ đã chia một chu kỳ Mặt trời ra 12 cung
(độ dài khoảng 30 ngày) định vị với các chòm sao tương ứng trong một năm. Ngày
sinh của một cá thể người là chỉ dấu gắn chặt với cung hoàng đạo, nên đó là
cung chiếu mệnh của cá thể đó. Định đề này có thể chấp nhận được. Hơn nữa,
thuyết này đã có cơ sở khoa học khá sớm, đó là thừa nhận Mặt trời là một tác
nhân chủ yếu đến sự hình thành và phát triển con người. Nhưng khi đi xa hơn,
mỗi cung Hoàng đạo lại được gắn cho những thuộc tính nhân tạo, cùng với những
tương tác của các cung Hoàng đạo với nhau thì thật là đáng ngờ. Ví dụ, lấy gì
để nói rằng Capricornus – Ma Kết (22/12 – 19/1), Virgo – Xử Nữ (23/8 –
22/9), Taurus – Kim Ngưu (20/4 – 20/5) là nhóm Đất. Những người sinh ra
trong nhóm Đất rất chung thủy, cần cù, ôn hòa và khoan thai! Và khi lấy đó làm
một định đề cơ sở để tiên đoán thời mệnh của con người thì đó là việc hoàn toàn
tùy tiện, không thể lý giải. Nhưng đó lại chính là mảnh đất làm ăn của các nhà
Chiêm tinh học cổ đại và hiện đại. Dù biết là vô lý như vậy nhưng loài người
ngày nay, nhất là giới trẻ vẫn gửi niềm tin vô vọng vào đó.
Ở Phương Đông
cũng thịnh hành một kiểu gần giống thuật chiêm tinh nói trên, gọi là Tử Vi.
Khởi nguồn muộn hơn, có thể là thế kỷ 10 sau Công nguyên, và được quy cho Trần
Đoàn, hiệu là Hi Di, đời Tống sáng tạo ra. Cũng giống như thuật Chiêm tinh Tây
phương, Tử Vi cũng coi số mệnh con người được an bài từ lúc chào đời. Lấy ngôi
sao ứng với thời điểm chào đời làm sao chiếu mệnh. Thời điểm chào đời tính theo
lịch Mặt trăng, mà tên gọi của năm là tổ hợp của 10 can và 12 chi – tức 12 con
giáp. Việc thừa nhận ảnh hưởng của vũ trụ và đặc biệt là chu kỳ Mặt trăng đến
con người là có tính khoa học. Từ các thông số đó và giới tính, theo một quy
trình do con người không dựa trên bất kỳ cơ sở nào để xếp các sao thành một lá
số. Đó là điều thứ nhất mang tính áp đặt buộc phải thừa nhận mà không lý giải
được vì sao. Cái thứ hai không thể lý giải được là hệ thống sao của Tử Vi đã
không theo một quan sát thiên văn nào cả mà hoàn toàn do con người tự đặt ra
(Ban đầu theo Hi Di thì có 93 sao, hậu thế thì lại an đến 118 sao). Điều vô lý
thứ ba, Tử Vi cũng gán cho mỗi sao mỗi thuộc tính và quy luật tương tác không
dựa trên một cơ sở nào cả. Điều này cũng hoàn toàn giống như điều phi lý của
Chiêm tinh học khi quy cho mỗi cung Hoàng đạo một thuộc tính. Khi được hỏi cơ
sở nào để thừa nhận thì khó trả lời nhưng thừa nhận : theo người xưa truyền
lại.
Phương Đông từ rất sớm đã quan niệm vạn vật từ
vũ trụ đến con người là sự kết hợp của âm dương và từ hơn 5.000 năm trước Công
nguyên đã xây dựng được một hệ thống biểu diễn toán học của quan niệm tổng quát
đó bằng các quẻ của Kinh Dịch. Cổ nhân dùng một nét gạch liền gọi là Dương và
một nét đứt đoạn gọi là Âm. Đó chính là Lưỡng nghi, theo toán học ngày nay đó
là cơ số hai. Khi chồng hai gạch đó lên nhau, thì thu được bốn tổ hợp, gọi là
Tứ tượng, tương ứng 22.Chồng thêm một gạch (liền hoặc đứt) nữa thi thu được tám
tổ hợp, gọi là bát quái, tương ứng 23. Chồng hai tổ hợp của bát quái lên nhau,
thu được tất cả 64 tổ hợp, gọi là Trùng quái, tương ứng 26. Cho đến đoạn này
thì các quan niệm âm dương, xây dựng nên hệ cơ số hai là hoàn toàn khoa học.
Đáng tiếc là cổ nhân phương Đông (Trung Hoa hay Việt gì đó) hơn 4.000 năm trước
chỉ dừng lại ở 64 quẻ Dịch, không thể đi xa hơn để xây dựng nên Đại số học Nhị
phân, cơ sở cho máy tính hiện nay! Trái lại, cổ nhân lại coi chúng như biểu
trưng cho sự bí ẩn huyền diệu. Các bậc thánh hiền hậu sinh, mỗi người mỗi cách
gửi gắm minh triết của mình vào mỗi quẻ Dịch một bài thuyết giảng, bắt đầu từ
Chu Văn Vương viết lời Soán, con là Chu Công viết Hào từ, rồi Khổng tử giải
nghĩa thêm gọi là Thập Dực, thế là bộ Kinh Dịch huyền bí hoàn thành, người đời
sau cứ thế mà suy luận thoải mái, gọi là giải Dịch. Vì dựa trên hệ nhị phân,
giống như đồng tiền có hai mặt quy ước Âm-Dương, nên khi gán một quẻ Dịch cho
đối tượng nào thì làm thủ thuật xin quẻ, đơn giản nhất là tung đồng tiền sấp
ngửa (Âm hoặc Dương), hoặc rút hay xóc thẻ làm bằng các lóng tre có đốt hay
không có đốt. Sau một số lần gieo nhất định thì thu được một quẻ Dịch cho đối
tượng đó. Thế là các nhà bói dịch dựa vào các lời thánh hiền viết cho mỗi quẻ
mà giải thuyết, không khác gì dân Việt ta bói Kiều, đối tượng tin tuyệt đối!
Nội dung của Chu Dịch gồm phần Kinh Dịch là phần về bói toán. Phần thứ hai là
Truyện Dịch là giải thích Kinh Dịch đậm chất triết học, nhưng mơ hồ huyền bí
lắm. Chỉ có thể bàn về phần bói dịch, rằng việc gán cho mỗi quẻ dịch mang một
phần triết thuyết nào đó là không có cơ sở và việc giải đoán nó lại càng mơ hồ.
Sau nữa, thủ thuật xin quẻ cho đối tượng dựa trên sự xin quẻ ngẫu nhiên, rõ
ràng là thua xa việc dựa trên thời điểm sinh nhật của đối tượng như thủ thuật Chiêm
tinh học hoặc Tử Vi sử dụng. Cái duy nhất khả dĩ chấp nhận được trong bói Dịch
là quan niệm mọi thực thể vũ trụ, kể cả con người, là chịu ảnh hưởng của vũ trụ
và là sự kết hợp âm dương mà phát triển lên [“Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng
nghi, nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái định Cát hung, Cát
hung sinh Đại nghiệp”].
Như vậy, cả ba thuyết phổ biến về tiên tri bói
toán này đều xuất phát từ những quan niệm (hay định đề) tương đối khoa học.
Có thể biết trước được số phận?
Khoa học hiện
nay chưa thể lý giải mọi hiện tượng. Vì vậy có lúc cũng phải viện dẫn đến niềm
tin để làm cơ sở. Chẳng hạn, có linh hồn hay không? Khoa học không thể phủ định
cũng không thể khẳng định. Đa số tin rằng con người bao gồm phần thực thể
(Physical) và phần tinh thần (Spirit). Phần tinh thần quá cao siêu, không dám
bàn về số phận tinh thần. Vậy chúng ta chỉ bàn về số phận cho phần thực thể mà
thôi.
Bốn định đề chính
Nếu loại bỏ
những điều phi khoa học, không logic và mang màu huyền bí thì những luận cứ của
Chiêm tinh, Tử Vi, Kinh Dịch khả dĩ chấp nhận dưới góc nhìn khoa học có thể tóm
tắt thành các định đề dưới đây:
1- Con người
sinh ra đã được tạo hóa định mã lập trình (có thể hiểu là số phận).
2- Con người
là một thực thể của vũ trụ, do âm dương kết hợp mà thành, chịu ảnh hưởng của vũ
trụ trong quá trình hình thành. Mà ảnh hưởng quyết định nhất là Mặt trời và Mặt
trăng.
3- Sự phát
triển của đời người dựa trên cơ sở lập trình lúc hình thành và biến chuyển liên
tục dưới tác động của vũ trụ.
4- Dấu ấn của
vũ trụ và mã lập trình được xác định trong khoảng thời gian hình thành lấy thời
điểm ra đời (ví dụ lấy ngày sinh) làm mốc.
Theo tuổi tăng lên con người sẽ
thay đổi. Những tuổi mà ở đó trạng thái của vũ trụ lặp
lại trạng thái ở tuổi tiên thiên (trong phạm vi sai số), thì dù có tạo nên sự
biến dịch, cũng vẫn là đồng dạng với mẫu hình như hóa đã ban tặng. Nói đơn giản
đó là tuổi những thay đổi đã theo một khuôn mẫu như khi tạo hóa sinh ra, không
biến đổi đột xuất. Ta gọi là tuổi Bình yên. Còn nếu ở tuổi mà trạng thái vũ trụ thay đổi so với trạng thái ở
tuổi lúc sinh ra, thì con người cũng thay đổi không theo như ban sơ, ta gọi là tuổi Biến dịch.
Các cơ sở khoa học về vật lý thiên văn
và y sinh học
Xác định trạng thái Mặt trời - Trái đất - Mặt trăng
Mặc dù con
người có thể đo đạc và tính toán chính xác đến từng giây, từng mét từng radian
tọa độ vũ trụ của của Mặt trời, Mặt trăng, nhưng ở đây ta chỉ cần dùng đến các
quy luật thiên văn chính xác đến ngày mặt trời (Solar day) hoặc ngày thiên văn
(sidereal day) là đủ. Vị trí của Trái đất so với mặt trời được đặc trưng bởi
quỹ đạo Trái đất quanh mặt trời, là năm mặt trời. Một năm mặt trời có 365,2425
ngày. Con số về ngày tháng Dương Lịch (ngày tây) là chỉ thị gần đúng vị trí của
Trái đất trên quỹ đạo. Vị trí của Trái đất và mặt trăng quay quanh Trái đất so
với mặt trời được xác định bởi quỹ đạo của mặt trăng quanh Trái đất (có tính
đến sự dịch chuyển của Trái đất quanh mặt trời), tức là tháng mặt trăng. Một
tháng mặt trăng có 29,53059 ngày. Vị trí của mặt trăng trên quỹ đạo chính là
ngày tháng lịch mặt trăng (như lịch của đạo Hồi). Lịch ta là âm dương lịch, cho
nên ngày ta thì không chính xác hoàn toàn vì lịch ta đã hiệu chỉnh theo lịch
mặt trời bằng cách tính năm nhuận.
Quan sát bầu
trời, đo đạc ngày tháng, các nhà thiên văn đã khám phá ra:
a) Chu kỳ 19: 19 năm mặt trời =235 tháng mặt trăng, sai số
chỉ 0.003. Nói một cách gần đúng dễ hiểu là trạng thái của bộ ba Mặt trăng-Trái
đất-Mặt trời cứ 19 năm lặp lại như cũ. Chu kỳ
này khá chính xác, hơn 400 năm mới lệch một ngày, cho nên trong cõi trăm năm
người đời có thể coi là trùng lặp tuyệt đối. ( Vì lý do này mà trong lịch pháp,
cứ 19 năm dương lịch thì trong 19 năm âm lịch tương ứng phải có 7 năm gồm 13
tháng, tức là 7 năm nhuận). Chu kỳ này có tên là Chu
kỳ Meton, đặt theo tên người Hy lạp đã khám phá ra (Meton of Athen,năm 440
trước CN). Chu kỳ Meton là do hai tiểu chu kỳ
(chu kỳ con) gần đúng cộng lại:
b) Tiểu Chu
kỳ 8 (octaeteris): 8 năm mặt trời = 99 tháng mặt trăng, sai số 1,5 ngày, có
nghĩa là cứ 5 năm thì lệch 1 ngày. Tiểu Chu kỳ này ta đặt tên là chu kỳ ÂM.
c) Tiểu chu
kỳ 11: 11 năm mặt trời =136 tháng mặt trăng, sai số 1,5 ngày, tức là cứ 7,3 năm
lêch 1 ngày. Ta đặt tên tiểu chu kỳ này là chu kỳ DƯƠNG.
Để cho dễ
hiểu, nói một cách gần đúng thô sơ, trạng thái của vũ trụ được xác định bời ba
con số: Năm Dương Lich, Ngày Dương Lịch (ngày Tây) và Ngày Âm Dương Lịch (ngày
Ta). Ví dụ ngày tết nguyên đán Ất Mùi (1/1) năm nay là 19/2/2015, 19 năm sau
tết Giáp Dần cũng là ngày 19/2/2034, còn tết Bính Tý 19 năm trước cũng là ngày
19/2/1996. Có nghĩa là trạng thái vũ trụ các năm này lặp lại nhau. Nhưng mà
19/2/2014 chỉ chệch một năm so với 2015 thì lại là ngày 20/1 Giáp Ngọ. Trạng
thái vũ trụ không lặp lại. (Các chu kỳ 8 và 11 thì con số không hoàn toàn trùng
như vậy vì năm nhuận chỉ hiệu chỉnh theo chu kỳ 19)
Quy ước về tính tuổi: Năm gốc là tuổi số 1
gồm có 9 tháng trước ngày sinh (tuổi mụ) và ba tháng sau ngày sinh (tuổi tây)
(Vì thế, hãy tính là tuổi ta cho dễ nhớ, tuy không thật chính xác).
Phải chăng Số phận của con
người do Mặt trời định sẵn?3
Trong một
nghiên cứu chưa từng có, các nhà khoa học Na Uy phát hiện, những người sinh vào
các thời điểm Mặt trời bình lặng có thể sống thọ hơn khoảng năm năm so với
những người chào đời lúc Mặt trời hoạt động mạnh mẽ.
Kết luận trên
được rút ra khi nhóm nghiên cứu xem xét các dữ liệu nhân khẩu học của những
người Na Uy sinh ra trong khoảng 1676 - 1878 cùng với các kết quả ghi nhận quan
sát về hoạt động của Mặt trời.
Các chuyên
gia nhận thấy, tuổi thọ của những người sinh ra trong các giai đoạn hoạt động
tối đa của Mặt trời (đặc trưng bằng các trận phun trào dữ dội) tính trung bình
thấp hơn 5,2 năm so với những người chào đời vào thời điểm hoạt động của Mặt
trời giảm tới mức tối thiểu.
Thống kê còn cho thấy, 11
tuổi là tuổi mà các trẻ em nam hết thời kỳ trẻ con (trung tính),
chuyển sang phát triển giới tính nam.
Ảnh hưởng của Mặt trăng
Mặt trăng tuy
nhỏ hơn Mặt trời nhưng gần Trái đất hơn nên ảnh hưởng của Mặt trăng tới Trái
đất mạnh hơn Mặt trời. Ảnh hưởng của Mặt trăng tới Trái đất có tác động không
nhỏ tới hoạt động sống của con người. Điều ai cũng biết là chu kỳ Mặt trăng xác
định chu kỳ kinh nguyệt của nữ giới.
Tất cả những thay đổi ấy đều được phản ánh trong
cơ thể sinh vật và con người. Não phản ứng rất nhạy bén trước những biến đổi
đó, gây hàng loạt biểu hiện về tinh thần. Các nhà khoa học khẳng định rằng
những ngày trăng non tác động khác với những ngày trăng tròn. Các nhà y học cổ
Tây Tạng còn cho rằng: Các bệnh nguy hiểm như tai biến mạch máu não, bại liệt,
động kinh, nhồi máu cơ tim, tâm thần kích phát thường xảy ra vào các ngày 4, 8,
11, 15, 22, 29 tháng âm lịch. Dù chưa được khẳng định đúng sai, nhưng ảnh hưởng
của Mặt trăng là rất lớn và đặc biệt là phụ thuộc vào tám pha của
chu kỳ Mặt trăng.
Một thống kê
đã được khẳng định là năm thứ tám (từ 8 tuổi), các em gái bắt đầu phát
triển giới tính nữ. Vì vậy chu kỳ tám năm là dành cho Mặt trăng, cho nên
gọi là chu
kỳ Âm, biểu hiện cho giới tính Nữ.
Thử giải mã sự lập trình của tạo hóa
Tạo hóa sinh ra con người?
Vậy là con
người sinh ra (năm số 0) tiếp theo tám năm biến dịch thì đến tuổi (hầu như)
bình yên đầu tiên, tám tuổi, cũng là hết một chu kỳ Âm. Hai năm Biến dịch nữa
(9, 10) sang năm 11 tuổi lại (hầu như) bình yên, hết một chu kỳ Dương. Năm 19
tuổi là hoàn thành chu kỳ Meton = ÂM+DƯƠNG, là tuổi (tuyệt đối) bình yên, âm dương
hài hòa. Có thể xác định Tuổi Bình yên (tính chất chung cho các tuổi “hầu
như” hoặc “tuyệt đối” bình
yên) của đời người theo công thức :
TUỔI BÌNH YÊN= A x 8 + D x 11, trong đó A và D là những số nguyên dương.
Những tuổi
còn lại, không thể khai triển được như trên là Tuổi Biến dịch.
Khi nào thì bước vào tuổi già
tự nhiên?
Trong trăm
năm đời người thì có đến 66 năm là Bình yên, đó là các tuổi:
8,11,16,19,
22, 24, 27, 30, 32, 33, 35, 38, 40, 41, 43, 44, 46, 48, 49, 51, 52, 54, 55, 56,
57, 59, 60;
62, 63, 64,
65, 66, 67, 68;
70, 71, 72,
73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 88, 89, 90, 91,
92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99, 100.
Trong 66 năm bình yên này có thể chia làm ba
đoạn:
-Từ 8-60: có
27 năm bình yên và khá rời rạc, là đoạn tuổi trẻ và trung niên;
-Từ 62-68: có
bảy năm liên tục, là đoạn cao niên;
-Từ 70 -100:
có 32 năm (và tiếp nữa) liên tục là đoạn tuổi già.
Tuổi 69 là tuổi đặc biệt, vì đó là năm biến dịch
cuối cùng. Sau đó là mãi mãi bình yên, chỉ có già dần (lão hóa) mà thôi.
Vậy khi 70 tuổi là bước vào Tuổi già trời định. Từ 69 về
trước bao gồm các giai đoạn Tuổi trẻ, Trung niên và Cao niên, gọi chung là tuổi Tráng niên.
Những năm tháng đẹp của tuổi
Tráng niên
Nói chung,
những năm bình yên trong tuổi Tráng niên là những tuổi ít nhiều đều đẹp, ít
phải lo lắng.
Tuổi Bình yên phân
thành Tuổi Âm thịnh, Tuổi Dương thịnh và Tuổi Hài hòa
D-A >0:
Tuổi Dương thịnh; D-A < 0: Tuổi ÂM thịnh ; D-A=0 : Tuổi Hài hòa
Đối với cả
hai giới những tuổi hài hòa đều thuận lợi: 19, 38, 57
Đối với Nữ giới các
tuổi âm thịnh là thuận lợi: 8, 16, (19), 24, 27, 32, 35, (38), 40, 43, 46, 48, 51, 54, 56, (57), 59, 62, 64, 65,
67.
Tuổi Đẹp nhất
cho Nữ là các tuổi thuần âm: 8,16, 24, 32, 40, 48, 56, 64.
Với Nam giới các
tuổi dương thịnh là có ưu thế hơn: 11, (19), 22, 30, 33, (38), 41, 44, 52, 55, (57) 63, 66, 68.
Tuổi Nam nhi rực rỡ
nhất là các năm thuần Dương: 11, 22, 33, 44, 55, 66
Tuổi nào thì cần phải cẩn thận?
Các tuổi biến
dịch không phải là hoàn toàn xấu, vì không có các sự biến dịch bổ sung thêm vào
sự sắp xếp của tạo hóa thì con người không phát triển đa dạng được. Tác động
của môi trường, ngoại cảnh, nội lực, ý chí… cũng không thể thiếu. Tuy nhiên có
sự biến đổi mạnh thì cũng phải cẩn thận hơn.
Trong các Tuổi biến dịch cũng
có thể định lượng được sự Biến dịch bằng một số đo gọi là mức biến dị. Theo
quy luật Vật lý, với cùng một mức độ thay đổi, nếu chuỗi biến dịch liên tục
càng dài thì độ biến dị càng thấp. Vì nếu có xảy ra ở một điểm thì sự biến dịch
liền sau có thể sửa chữa lại. Vậy độ dài của chuỗi tuổi biến dịch liền nhau đặc
trưng cho mức biến dị. Chuỗi càng ngắn thì tác động của mức biến dị càng lớn.
Còn những tuổi biến dị đơn độc nói chung là dễ có những đột xuất đáng ngại của
đời người, vì một khi có biến dị xảy ra thì không có chu trình biến dị liền kề
để điều chỉnh mà phải chờ đến năm biến dịch gần nhất mới có cơ hội điều chỉnh.
Những năm đáng ngại là các năm đơn độc: 23, 31, 34, 39, 42, 45, 47, 50, 53, 58,
61, 69.
Rõ ràng là
mức độ đáng ngại của năm đơn độc càng tăng lên khi mà khoảng cách tính đến năm
biến dị gần nhất (gọi là khoảng cô đơn)
càng dài. Theo cách đó thì có 3 năm như vây, gọi là năm hạn:
Năm hạn: 53, 61, 69. Do mức
biến dị lớn nên 53 là năm hạn nặng vì là năm bắt đầu có thay đổi đột biến
mạnh nhất ở tuổi trung niên. Tuổi 61 đột biến bắt đầu ở cao niên nên nguy hiểm
và 69 là tuổi cuối cùng của đời người có đột biến nên là rất nguy hiểm.
Năm có nguy cơ: 31, 39, 42, 47, 50, 58
Năm lưu ý: 23, 34, 45
Ngoài ra, có
thể xác định đoạn tuổi nguy cơ, đó là khoảng mà hai năm có nguy cơ cách nhau
gần nhất (chỉ có hai năm).
Đoạn tuổi nguy cơ: 39-42 và 47-50.
Các cột mốc của tuổi già
Từ sau tuổi
69 là chuỗi tuổi bình yên liên tục, mọi thứ mà tạo hóa đã ban tặng sẽ suy giảm
(già đi) đều đều theo khuôn mẫu trời định lúc chào đời mà không đột biến. Tuy
vậy cũng có những cột mốc đáng lưu ý.
Đối với cả cụ ông và cụ bà:
Mốc người già
trở thành như con trẻ, 88 tuổi là đạt điểm đặc biệt, đó là điểm đồng thời thuần
ÂM (tổ hợp 11 chu kỳ Âm) hoặc thuần Dương (tổ hợp tám chu kỳ Dương), không phân
biệt, giống như khi mầm sống nảy sinh.
Các mốc
Âm-Dương hài hòa 76 và 95 cũng đáng chú ý.
Ở ba mốc dị
thường này có thể rất tốt cũng có thể rất xấu.
Đối với cụ ông:
Mốc đáng ngại
đầu tiên là 72 vì là hậu quả của năm nguy hiểm 61. Tiếp sau là mốc hài hòa 76,
thuần Dương 77. Mốc 80 là nguy hiểm,vì đó là hệ lụy một chu kỳ dương của tuổi
nguy hiểm 69. Nếu vượt qua được các mốc dị thường 88, 95 thì hy vọng đạt 99
thuần Dương, vượt qua được thì trường thọ trên trăm tuổi.
Đối với cụ bà:
Mốc 77 là
nguy hiểm vì là hệ lụy của tuổi nguy hiểm 69. Nhưng 76 và 77 cũng là hai mốc dị
thường, có xấu có tốt, nên 77 có thể là rất nguy hiểm cũng có thể không. Tiếp
sau đó chỉ còn là các mốc dị thường, cho nên nói chung cụ bà sẽ sống thọ hơn cụ ông
cũng là trời định!
Chu kỳ tâm-sinh lý
Một lẽ hiển
nhiên là tâm-sinh lý cũng phát triển theo các chu kỳ phát triển của con người.
Tâm-sinh lý ở chu kỳ một là trung tính. Giới tính hình thành và phát triển hoàn
thiện ở chu kỳ 2, tức 8-16 tuổi ở Nữ và 11-22 tuổi ở Nam. Ở giữa chu kỳ thứ hai này, nữ
thập tam (13), nam thập lục (16) đều dậy thì. Muốn có hòa hợp tâm-sinh lý thì
tốt nhất là Nam-Nữ cùng chu kỳ phát triển.
Ví dụ lấy nhau ở chu kỳ 3, nữ trong khoảng 17-24
mà kết hôn với nam trong khoảng 22-33 là hợp lẽ trời nhất. Theo nguyên lý đó
thì:
Nữ 25-32 hợp
với Nam
34-44
Nữ 33-40 hợp
với Nam
45-55
Nữ 41-48 hợp
với Nam
56-66
Nữ 49-56 hợp
với Nam
67-77
Nữ 57-64 hợp
với Nam
78-88
Cũng có vẻ
buồn cười nhưng đúng là trùng với thống kê y học rằng, Nữ ở tuổi 64 còn Nam thì
mãi cho đến 88, tức đến chu kỳ tám của đời người, thì hoạt động sinh dục mới
dừng hẳn
Thay cho lời kết
Luận thuyết
trình bày trên đây là dựa trên cơ sở tính toán khoa học, không mang chút nào
tâm linh, huyền bí gì cả. Một luận thuyết khoa học có đúng không, cần phải qua
kiểm chứng độc lập. Ít nhất nó cũng phải giải đoán được những điều đã biết và
tiên đoán được những điều chưa biết để tiếp tục kiểm chứng.
Dân gian có
câu: 49 chưa qua 53 đã tới,
hay Nữ thập tam Nam thập lục.
Luận thuyết nêu trên đây lý giải được tuổi cả hai khá tốt. Còn tuổi 49 dân gian
cũng cho là hạn, thì tạm lý giải trong khoảng 47-50. Mà thực sự thì tuổi hạn 49
cũng du di trên thực tế.
Trong khoảng
53, 61,69 (có tính đến sai số) thì người ta nhận thấy có nhiều người từ trần ốm
đau, bệnh tật nhất.
Trời đất vận chuyển tuần
hoàn vĩnh viễn không sinh không diệt, chỉ có cuộc sống hữu hạn của muôn loài là
trôi theo một chiều từ sinh đến diệt mà thôi. Phía trước luôn là bí ẩn và ai
cũng muốn biết trước điều sẽ xảy ra. Do đó dù thuộc chủng tộc nào, nhóm đức tin
nào, tầng lớp nào, trình độ hiểu biết ra sao, muốn hay không, thì với con
người, việc tìm cách tiên tri hay tiên đoán mà dân gian gọi là bói toán, là
hoạt động đã tồn tại hàng ngàn năm qua cho mãi đến nay và rất đúng?
(Ngô Lê Lợi ST trên mạng f/b)