Nguyễn Thế Vũ người đồng đội thân thiết và Tác giả gặp lại sau 36 năm |
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc ta do Đảng cộng sản Việt Nam
và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo đã thắng lợi hoàn toàn kết thúc bằng chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử. Dấu mốc thắng lợi là ngày 30/4/1975.
Miền Nam
hoàn toàn giải phóng; và Miền Nam
bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
xây dựng Miền Nam- một phần của
nước Việt Nam
ta “ to đẹp hơn và đàng hoàng hơn –như
lời Bác Hồ đã dậy”.
Chúng tôi những người lính “Cụ Hồ” đã đóng
góp một phần công sức nhỏ bé trong cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc và đã
về đến đích.
Hỏi rằng có niềm vui nào hơn nữa nhỉ? Những
tuổi 20 ra đi và đã về đích, những người còn sống xin thắp nén Tâm hương dâng lên linh hồn các anh, các chị chiến binh đã hy sinh cuộc đời mình vì hạnh phúc
nhân dân và vì đất nước trường tồn.
Nhớ lại: Vào
khoảng đầu tháng 1 năm 1975 tại Trảng Bàng (thuộc Tỉnh Tây Ninh) Tôi được biên chế vào Trung đội trinh sát pháo binh thuộc Đoàn pháo binh 75 Biên Hòa– Đây là căn
cứ kháng chiến thuộc miền Đông Nam Bộ; tháng 2/1975 được Bộ tư lệnh miền Đông tăng cường thêm người và pháo 120 vác vai cho Tiểu đoàn pháo binh 23.11 (Tiểu đoàn D23.11 ra đời năm 1966 ) chúng tôi hành quân trên đất Miên khoảng gàn một tháng- Nơi đến là Tiểu đoàn pháo
binh độc lập 120 vác-vai) có tên gọi: D23-11; trực thuộc sư đoàn 4 Hậu Giang, Quân khu 9; khi hành quân từ Tây Ninh qua đất Miên có cả cán bộ khung của Tiểu đoàn bộ và 3 đại
đội : C1-C2-C3 với khoảng 50 đến 60 người đóng chân ở các tỉnh thuộc Tây Nam Bộ). Khi tập kết ở biên giới Miên thuộc Kam pốt ;trong thời gian huấn luyện ; đầu tháng 4/1975 tiểu đoàn nhận lệnh hành quân tiến về Miền Tây
Nam
bộ và đơn vị vừa hành quân vừa huấn luyện (nhờ) trên đất Campuchia. Trên đường hành quân thay nhau
vác nòng và chân đế pháp 120 trên vai (tháo dời) nòng pháo, chân đế, đạn pháo ... nặng lắm! Nhưng vẫn về
đến cứ đích an toàn .
Ảnh Nguyễn Thế Vũ chụp năm 1975 ở Sóc Trăng (Tìm vũ bằng tấm ảnh này) |
Tôi và Nguyễn Thế Vũ khi đó biên
chế ở trung đội 3 (B3) thuộc đại đội 2 (C2); B3 là trung đội có hai tiểu đội: một
thông tin và một tiểu đội trinh
sát (đó là “tai” và “mắt” của Pháo binh!) Vũ ở tiểu đội thông tin, còn tôi ở
tiểu đội trinh sát. Tiểu đội trưởng của tôi là anh Vũ Đình Đảng quê ở thôn
Tướng Loát, xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. (Từ khi về nghỉ
anh đã chuyển ra xóm trại thôn Tướng Loát). Còn Vũ khi đi trên đường
hành quân Vũ tâm sự quê Vũ ở Ba hàng cây xã Xích Thổ (Xích Thổ ở đâu thì Vũ không nói hoặc có
nói thì còn chiến tranh liên miên biết
để làm gì ? ). Và khi chia tay quê Vũ chỉ có vậy.
Sau khi hành quân trên đất Miên
khoảng một tháng ,quãng đường hành quân
trên dưới 500 đến 600 km; đêm đi ngày nghỉ; đến đầu tháng 2 năm 1975 đơn vị hành quân đến “chốt”
ở căn cứ “tạm” trên đất Miên thuộc tỉnh
Kămpốt (từ đây cách Việt Nam bao xa thì
chúng tôi không biết); do trên thông báo là chúng ta đang ở trên đất Miên nên
mọi hoạt động phải luôn trong tình trạng “sẵn sàng chiến đấu cao” và đơn vị B3 của chúng tôi là ngày đêm huấn
luyện tại chỗ nếu có đi ra ngoài cũng loanh quanh mấy “phum” của Miên: đi tìm
hiểu thực địa địa bàn ; nếu đi xa một
chút phải đi từ hai đến 3 người ; phải
mang theo AK và 2 cơ số đạn và 3 đến 4 quả lựu đạn “mỏ vịt”. Khi đó theo thông
báo của trên thì “ Khmer đỏ” đã “có vấn đề” nên bộ đội đề cao cảnh giác.Đơn vị luôn sẵn sàng chiến đấu cao và sẵn sàng chiến đấu.
Những ngày hành quân trên đất Căm Pu Chia (Ảnh minh họa)
Và: chúng tôi nhận lệnh là tiến về miền Tây Nam bộ thuộc mũi tiến vào thành phố Cần thơ, Là đơn vị pháo binh chủ yếu là đánh phối thuộc hợp đồng chiến đấu với các đơn vị.
Khi huấn luyện ở Kampot
ở Căm –Pu –Chia đơn vị được chỉ thị là mũi chính tiến công vào miền Tây Nam Bộ
đích đến là Cần Thơ. Và thời cơ giải
phóng miền Tây Nam
bộ đã đến. Mũi của đơn vị là giải phóng Cần Thơ. Cần Thơ - trung tâm đầu não vùng IV chiến
thuật của Ngụy ; vào 14 giờ 30 phút ngày 30-4, đồng đội đang đánh chiếm Đài phát thanh, tuyên
bố giải phóng Cần Thơ - căn cứ quan trọng cuối cùng của Ngụy ở vùng 4 chiến
thuật. Cuối buổi chiều cùng ngày, quân và dân Cần Thơ đã chiếm Chi cảnh sát, làm
chủ khu vực Hưng Phú, Hưng Thạnh. Tiểu đoàn Tây Đô II tiến công địch trên bờ
Nam sông Cái Răng, làm chủ quận lỵ Châu Thành. Lực lượng vũ trang QK9 lần lượt
làm chủ hoàn toàn sân bay Trà Nóc, chiếm kho đạn Bình Thủy, sân bay Lộ tẻ,
tiêu diệt chi khu Phong Điền. Đến 18 giờ 30 phút ngày 30/4, Cần Thơ - trung tâm
đầu não của địch ở ĐBSCL được hoàn toàn giải phóng; toàn bộ hệ thống Ngụy quân,
Ngụy quyền từ tỉnh đến cơ sở bị đập tan. Được
tin miền Sài Gòn
hoàn toàn giải phóng vào trưa 30/4/1975, từ radio
của một đồng đội khi đang ăn cơm và tất cả mọi người mừng vui...nhẩy lên. Không
có niềm vui nào hơn thế nữa. Buổi chiều ngày 30/4/1975 toàn đơn vị tập trung
nghe cấp trên phổ biến “lệnh” hành quân “gấp” về tiếp quản thành phố Cần Thơ.
Đêm 30/4 rạng 1/5 anh em không tài nào ngủ được và mọi người bàn tán chuyện mai
sau. Đúng 5 giờ sáng 1/5 đơn vị xuất phát đi bộ trên đất Miên hướng về Tây nam
bộ , sau đó đi thuyền cô-le đến khoảng 12 giờ chúng tôi có mặt ở thành phố Cần Thơ và khi đó
thành phố (không thể tưởng tượng nổi rất khó diễn tả) như vừa trải qua một cơn
bão lại vừa như một bãi chiến trường.... xe dân dụng, xe quân
dụng, súng nhiều loại, quần áo của ngụy vứt đầy đường. Bóng người dân đi lại
rất thưa thớt.
Đơn vị chúng tôi được lệnh
tiếp quân quản “căn cứ Hải quân Bình Thủy” là căn cứ hải quân lớn nhất của miền Tây
Nam Bộ ; rất nhiều tầu chiến, kho tàng, vũ khí, quân dụng của Mĩ-Ngụy.
Theo tài liệu của địch thì
căn cứ Bình Thủy: “Khoảng tháng 3 và tháng 4 năm 1975, quân ta
đưa nhiều đơn vị về chung quanh Cần-Thơ, cố tạo áp lực ngay “trung tâm não bộ”
của Vùng IV Chiến-Thuật..
Lúc bấy giờ, những
Lực-Lượng Hải-Quân, một phần phải yểm trợ sông Đại-Ngãi – dòng sông huyết mạch
từ Cần-Thơ xuống Cà-Mau, đi qua Bạc-Liêu – để hộ tống các ghe lúa gạo từ
Bạc-Liêu về; phần còn lại rút về phòng thủ Cần-Thơ... Bộ Tư lệnh Hành quân Lưu động Sông, gồm
có: Vùng 3 Sông ngòi đóng tại Sài Gòn,
chỉ huy các giang đoàn Xung phong. Vùng 4 Sông ngòi đóng tại Cần Thơ, chỉ huy
các giang đoàn Xung phong. Lực lượng Thủy bộ là lực lượng đầu tiên do Hải quân
Hoa Kỳ chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào tháng 8/1969. Bộ Tư lệnh Lực lượng đóng
tại Đồng Tâm. Căn cứ yểm trợ đặt tại Bình Thủy, Cần Thơ, để cung cấp nhiên liệu
cũng như sửa chữa và tu bổ tầu chiến (chiến đĩnh) . Lực lượng Thủy bộ gồm 3
liên đoàn Thủy bộ. Liên đoàn 1 phối hợp hành quân với Tiểu khu Sóc Trăng, hộ
tống các đoàn thuyền chuyên chở nhu yếu phẩm từ Bạc Liêu, Sóc Trăng về Sài Gòn.
Liên đoàn 2 yểm trợ TRD 32 BB đồng thời phối hợp hành quân và tiếp tế cho các
đơn vị thuộc vùng Cà Mau. Liên đoàn 3 tuần tiễu, kiểm soát các thủy lộ của hai
tỉnh Kiên Giang và Chương Thiện”.
Như vậy căn cứ hải
quân Bình Thủy có một vị trí chiến lược rất lớn ở miền Tây Nam bộ do đơn
vị C2 - tiểu đoàn pháo D23-11 (trực thuộc Quân khu 9) quân quản.
Song kẻ thù không để cho chúng ta yên mà lại gây hấn. Cuộc
chiến tranh ở biên giới Tây Nam
do Khmer đỏ đứng đầu là Pôn Pốt - Iêng Xari chính thức phát
động (có sự hậu thuẫn của Bá quyền Phương Bắc) đã nổ ra. Những khiêu khích ban đầu của Khmer
đỏ : Ngày
5/5/1975 , Khmer đỏ đã đưa quân lên chiếm đảo Thổ Chu, sau khi chiếm đảo chúng
đã bắt đi gần 600 người dân (và giết một số dân thường) đồng thời chiếm đảo Poulowai, dùng tàu thăm
dò bắc đảo Phú Quốc, Nam du.
Ngày
7/5/1975, lực lượng ta tại đảo Phú Quốc đã buộc địch phải rút khỏi phía bắc
đảo. Ngày 25/5/75 Quân khu 9 dùng 2 tiểu đoàn của trung đoàn 195 và 1 phần các
đơn vị được Bộ tăng cường: Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 101, không quân và hải
quân tiến công giải phóng đảo Thổ Chu. Sau vài ngày bao vây, thì đến ngày 30/5
ta điều các tầu chiến đã đổ bộ lên Thổ Chu tấn công tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch,
diệt 200 tên, bắt sống 315 tên. Quân ta đã chiếm lại và làm chủ đảo. Sau đó
quân khu 9 có ý định tiếp tục thu hồi quần đảo Cô Tang và Bộ quốc phòng đã triển khai lực lượng bảo
vệ toàn bộ biên giới Việt Nam
– Căm pu chia”.
Chuẩn bị cho tình hình mới đơn vị
bàn giao căn cứ Hải quân Bình Thủy cho đơn vị khác ; khoảng trung tuần tháng
6/1975 đơn vị được lệnh hành quân về huấn luyện ở Sóc Trăng .
Sóc Trăng được quân và dân ta tấn
công đồng loạt các mũi vào địch ở thị xã
Sóc Trăng lúc 3 giờ sáng ngày 30/4/1975 và giải phóng hoàn toàn 14 giờ ngày 30/4/1975; Sóc Trăng có một
vị trí rất quan trọng ở miền Tây nam bộ vì ở đây trước giải phóng: có sân bay
Sóc Trăng, Trại thẩm vấn Mỹ, Nhà thương Trương Bá Hân, Tiểu khu Ba Xuyên, Trại
Lý Thường Kiệt (nơi chứa vũ khí của địch, có đại đội hành chánh tiếp vận đóng
quân) và cũng là cửa ngõ xuống phía cực Nam của Tổ quốc.
Từ thành phố Cần Thơ đơn vị hành
quân đến nơi đóng quân mới để huấn luyện
là phi trường Sóc Trăng.
Tình hình biên giới từ giữa tháng 6
năm 1975 rất căng thẳng, Pôn Pốt cho quân lấn sâu vào nhiều nơi thuộc lãnh thổ
Việt Nam trên tuyến biên giới dài gần 100 kilômét, từ Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang)
đến Tịnh Biên (tỉnh An Giang). Lính Pôn Pốt gài chông, mìn, lựu đạn, bắt trâu
bò, cướp dụng cụ sản xuất và tàn sát nhân dân ta; có nơi chúng vào sâu đất ta vài km.
Trước tình hình đó đơn vị nhận lệnh
của cấp trên hành quân theo đội hình Tiểu đoàn chiến đấu lên đồn trú ở căn cứ
“Thiết giáp Chi Lăng” (Căn cứ Chi Lăng tại vùng Bảy núi ), thuộc huyện biên
giới Tịnh Biên tỉnh An Giang. Lúc này đơn vị thực sự hùng mạnh đã được trang bị
chính qui hiện đại là tiểu đoàn pháo binh với nhiều “đại pháo” 105li và thêm cả
pháo 155 li - xe ô tô GMC kéo (pháo 120 vác –vai cho vào kho).
Đơn vị đón xuân 1976 trên đất biên
giới An Giang.
Vui xuân đơn vị đón 2 đoàn cán bộ
và chị em phụ nữ của tỉnh Sóc Trăng và
tỉnh An Giang đến chúc tết bộ đội. Rất vui; tiểu đoàn tổ chúc đốt lửa trại để
giao lưu.
Do tình hình có chiến sự nên tất cả
các đơn vị thuộc tiểu đoàn ngày ngày huấn luyện đêm canh gác. Khí hậu ở vùng
này rất khắc nghiệt: nắng nhiều, và ở đây rất thiếu nước ngọt. Đơn vị hàng ngày
bố trí 2 xe GMC chở téc xuống thị xã Châu Đốc để chở nước. Nước ngọt chỉ đủ cho nấu ăn
và nước uống không cho sử dụng các nhu cầu khác. Nên khi xe đi lấy nước thì các đơn vị luân phiên
nhau cử bộ đội theo xe đi tắm ở nhà máy nước Châu Đốc, mỗi xe ba người đứng
trên xe ở vị trí giữa téc nước và ca-bin, xe chạy tốc đọ cao rất nguy hiểm
(nhưng ngày đó thấy bình thường, chiến tranh đánh nhau còn chẳng sợ nữa). Một
tuần mới được đi tắm một lần. Nhưng cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao.
Nay nhìn lại mới thấy đúng là mỗi chiến sĩ là một anh hùng , đúng thật!
Đơn vị tăng cường huấn luyện ban
ngày, đêm gác. Các buổi chiều thể thao, tăng gia. Đêm đến văn nghệ. Vui theo
kiểu cái vui của người lính. Cái nhớ nhà, nhớ quê hương “dấu”ở trong lòng.
Khi đồn trú ở đây, đơn vị không cho
hòm thư viết thư về nhà sợ lộ “ bí mật
quân sự”; nên bộ đội ra các nhà dân “quan hệ” với các gia đình “mượn địa chỉ”
viết thư. Thư lính gửi đi, thư gia đình, người yêu của lính đến. Nhận thư thay
nhau đọc; một thằng có thư coi như niềm vui của đơn vị, vui chung, chẳng có gì
mà dấu nhau. Đời lính là thế càng gian khổ, càng khó khăn càng thương yêu nhau
hết lòng không mảy may vụ lợi! Cốc nước uống chung, điếu thuốc chia đôi, cánh
thư đọc chung... Đời lính là thế.
Ngày 1/4/1976 một bất ngờ đến với
tôi, tôi được Bộ quốc phòng thông báo cho ra Bắc an dưỡng và học tập (chưa phải
ra quân). Theo thông báo của đồng chí chính trị viên đại đội: chuẩn bị có đợt
cho ra Bắc để an dưỡng và học tập (đợt 3; trước tháng 4/76 có 2 đợt: đợt một (ngay
sau ngày 30/4/1975): là thương bệnh binh; đợt hai: là những đồng chí có sức
khỏe yếu và tuổi cao) đối với các đồng chí có trình độ văn hóa lớp 10. Và đơn
vị tôi lúc đó cả một đại đội có hai người, có tôi. Đợt 3 là đợt: những người
khi trước đi bộ đội đang học ở các trường trung học, đại học và những người có
trình độ văn hóa lớp 10; được về lại trường học. Nói nôm na là đợt nhân tài của
đất nước.
Chiều 1/4/1976; trên đường đi tập
về (có báo cáo Tiểu đội trưởng) Vũ rủ tôi đi chơi; khi đóng quân ở Chi lăng
chúng tôi có quen một gia đình người
Khmer. Gia đình này cư trú ở đây rất lâu đời, nhà có 2 vợ chồng và 2 đứa
con; một trai một gái đầu. Anh chị làm nghề nông và nuôi bò. Khi đến Vũ nói
chuyện tôi chuẩn bị ra Bắc, anh chị hỏi “bao giờ đi?”; tôi nói “quân sự không
báo trước, có lệnh là đi !”. Chiều tà anh chị mổ 2 con vịt làm món “vịt xé
phay’ uống la-de coi như làm cái liên hoan chia tay, hai cháu nhỏ còn tặng ảnh
gia đình, lòng thấy cảm động lắm. Lúc ra về anh chị và các cháu đi cùng đến gần
chợ Chi Lăng thì chia tay, thấy bịn rịn . Đến chập chập tối về doanh trại. Thấy
lòng nao nao sắp phải xa nơi này ít có dịp quay lại, xa đồng đội vào sinh ra tử
có nhau, nhớ nhiều thứ nữa. Nhưng cái vui nhiều hơn về Bắc với cha, mẹ với các
em và bạn bè nhiều lắm.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 2/4/1976;
trực ban báo động chiến đấu cả đơn vị. Tất cả sẵn sàng quân tư trang. Đại đội
trưởng Nguyễn Hạnh Phúc đọc quyết định hai đồng chí “đi A” là ra Bắc. Tài vụ
phát cho mỗi người 30 đồng gọi là tiền “cửa rừng”! Phát cho bộ đội mua sắm quà
kỉ niệm chiến trường Miền Nam!
Chính thức tôi xa đồng đội cùng chung chiến trường xa Vũ từ hôm nay.
Đơn vị dùng xe GMC chở hai chúng
tôi lên thẳng tổng kho Long Thành và giao quân cho Bộ quốc phòng. Từ đây tôi
được biết là có hàng nghìn quân nhân được “đi A” ; Bộ quốc phòng huy động
“trưng tập” rất nhiều “xe đò” xe chở khách loại lớn, mỗi xe chở 25 đến 30 chiến
sĩ . Phía trước xe quân cảnh dẫn đường; qua nhiều binh trạm và trạm cuối cùng
là Thường Tín- Hà Tây.
Sau khi an đưỡng một tuần ở Thường
Tín chúng tôi được chia về các tỉnh, bộ đội tỉnh nào về khu an dưỡng của tỉnh
đó. Tại đây chúng tôi được phân loại: ai đang học đại học trường nào trả về
trường đó, nếu không thích thì ôn thi trường khác. Tôi về Hà Nam Ninh. Tỉnh
Hà-Nam-Ninh thì đưa về an dưỡng ở xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn , tỉnh Hà Nam
Ninh.
Tôi được đơn vị mới cho “về tranh thủ” 5 ngày
thăm gia đình.Như bao người lính khác, sau ngày giải phóng, nhiều người lính
trở về hậu phương, “ hình ảnh quen thuộc là một anh chiến sĩ vai khoác balô, đầu
đội mũ cối quân hiệu nửa xanh-nửa đỏ, chân đi đôi dép cao su, trên lưng có con
búp bê, hồn nhiên bước trên hè phố” hoặc ra bến tàu về thăm nhà ; Tôi cũng vậy , vì tôi có đứa em gái nhỏ tôi mua
cho nó một con búp bê có “mắt nhắm mắt mở” em tôi thích lắm; và tôi cũng có quà
cho cha mẹ . Cả nhà vui lắm, mừng rỡ hàn huyên. Hết phép tôi về đơn vị an
dưỡng.
Suốt từ cuối tháng 4/1976 chúng tôi
được ôn văn hóa buổi sáng do các giáo viên trưng tập ở các trường trong tỉnh về
dậy. Buổi chiều rèn luyện thân thể bằng hình thức là vác đất, xây dựng nhà máy
gạch sông Tranh. Đến tháng 7 thi tốt nghiệp (tôi thi có 2 nguyện vọng: trường Đại học giao thông
vận tải và Trung cấp giao thông vận tải). Đến tháng 10/1976 nhận thông báo tôi
không đỗ Đại học; quân đội cử đi học trung cấp và tôi vui vẻ lên vùng trung du
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phú học trung cấp giao thông vận tải đường bộ.
Khi về trường tôi viết thư vào đơn
vị cho Nguyễn Thế Vũ theo địa chỉ “quan hệ” giữa quân với dân dạo trước nhưng không thấy
hồi âm; tháng 12/1976 tôi viết lá nữa và
cũng không thấy hồi âm. Tôi đoán đơn vị đã di chuyển đi nơi khác rồi!
Ba năm sáu tháng học trung cấp ở
vùng trung du thuộc thị xã Vĩnh Yên , tỉnh Vĩnh Phú; ngày 30/5/1980 tôi ra
trường và Bộ Giao thông vân tải có quyết định điều động tăng cường lên tỉnh Hà-
Tuyên.
Ngày 1/6/1980; tôi có mặt ở Ban tổ chức chính quyền tỉnh
Hà-Tuyên và quyết định tôi sang Sở Giao thông vận tải; cùng ngày Sở Giao thông
vận tải điều tôi lên công tác ở huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà- Tuyên.
Huyện điều tôi về Phòng gaio thông vận tải huyện Hoàng Su Phì-tỉnh Hà Tuyên.
Tôi lên công tác ở huyện Hoàng Su Phì là huyện biên giới; khi cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới Trung Quốc phát động nổ ra hơn một năm và đang ngày càng ác liệt. Nghe
ngóng về thời sự :
Lúc này tình hình quan hệ Việt Nam và
Trung quốc đang trong giai đoạn bắt đầu căng thẳng , xấu đi. Đại sứ quán Việt
Nam ở Trung Quốc đã rút về nước , chuyện
anh hùng Lê Đình Trinh trên biên giới Lạng Sơn được đăng tải nhiều số trên báo
Quân đội, trong bài “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, đất nước chúng
ta vào cuộc chiến đấu mới..”; ở biên
giới Tây nam của ta trên toàn tuyến thấy đánh nhau rất căng , lính Pôn Pốt xâm phạm
lãnh thổ gây nhiều cảnh chết chóc , đài
báo ta liên tục thông tin hàng ngày , một cuộc chiến tranh mới đã nổ ra và chúng ta lại một lần nữa phải cầm
súng đứng lên và phải ra mặt trận là điều khó tránh khỏi. Cùng lúc chúng ta có chiến sự ở hai đầu biên
giới Tây nam và biên giới phía Bắc!
Theo tư liệu của ta : “ Mục tiêu
của Trung Quốc là muốn nhanh chóng
chiếm đóng vùng biên giới Việt-Trung, đặc biệt là các thị xã trọng yếu gồm Lạng Sơn (chốt chặn nối QL 1 A của Việt Nam với Trung Quốc), Cao Bằng và Lào Cai Vùng chiếm đóng dự kiến với bề sâu chừng vài chục km sẽ được Trung Quốc sử dụng
làm bàn đạp cho các cuộc tấn công vào sâu nội địa Việt Nam.
Tiêu hao lực lượng
chủ lực và làm suy yếu khả năng phòng ngự phía Việt Nam bằng việc quét sạch các
đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa phương và các đơn vị quân
độc lập khác của Việt Nam.
Hủy diệt cơ sở hạ
tầng và nền kinh tế ở các vùng chiếm đóng để đưa nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
Để tấn công Việt
Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập
(tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn
pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng trên 30 vạn binh sĩ, 550
xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối
và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200
tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quản Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Caii).
Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên Ngoài lực lượng
quân chính qui, Trung Quốc còn huy động hàng chục vạn dân công và lực lượng dân
binh ở các tỉnh biên giới để tải đồ tiếp tế, phục vụ, tải thương, hỗ trợ quân
chính qui phục vụ cho chiến dịch,
chỉ riêng tại Quảng Tây đã có đến 215.000 dân công được huy động. Về phân phối
lực lượng của Trung Quốc: hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55; hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50; hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14; hướng Lai Châu có quân đoàn 11; hướng Quảng Ninh ; Hà Tuyên (nay là Hà Giang và Tuyên Quang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn”.
Mặt trận ở Hà Giang phải
nói là ác liệt nhất là: huyện Vị Xuyên như “chảo lửa” bị quân Trung bắn khoảng 800.000 quả đạn; xã Pà Vầy Sủ , Chí Cà huyện Xín Mần
giáp huyện Hoàng Su Phì ngày đêm dền vang tiếng đạn pháo của quân Trung Quốc .
Xã Bản Máy huyện Hoàng Su Phì, nơi
tôi công tác là chiến tranh cũng rất ác liệt ,ban ngày tiếng đạn pháo, tiếng súng dền vang, ban đêm Trung
Quốc cho thám báo sang đất ta bắt cóc dân thường, bắt cóc dân quân tự vệ ở các
điểm chốt. Thời kì này huyện Hoàng
Su Phì xác định “vừa công tác vừa phục vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
từng tấc đất biên giới”. Đến đầu năm 1985 chiến tranh diễn ra ác liệt huyện sơ
tán về tuyến 2 ở xã Nam Sơn cùng huyện ; Đến tháng 10/1991 hòa bình đã lập lại trên
miền biên giới của huyện Hoàng Su Phì. Cuộc sống mới đã hồi sinh nơi đây; mười
năm sau chiến tranh biên giới huyện Hoàng Su Phì ngày nay đang phát triển đi
lên “huyện ngày càng to đẹp hơn và đàng hoàng hơn”.
Tôi về nghỉ hưu tháng 9 năm 2010.
Trong 31 năm sống, công tác ở huyện vùng cao biên giới đã làm được: Trong
thời kì chiến tranh bảo vệ biên giới là một “chiến sĩ giao thông” hoàn thành
nhiệm vụ trên giao. Được kết nạp vào đảng cộng sản Việt Nam. Là cán bộ lãnh
đạo, quản lí cấp phòng gương mẫu, là Ủy viên Ủy ban nhân dân huyện 1 khóa; luôn đi đầu trong các phong trào thi yêu nước
, hai lần tham dự hội nghị thi đua cấp tỉnh; đã được tham gia 2 khóa (15 và 16) vào Ban chấp hành
Đảng bộ huyện, đại biểu tham dự đại hội Đảng bộ tỉnh; tham mưu xây dựng chuyên
đề và biện pháp về phát triển giao thông miền núi. Trong đó có mô hình
“Vận động nhân dân mở đường giao thông dân sinh với hình thức “Nhà nước và Nhân
dân cùng làm và dân làm là chính, nhà nước hỗ trợ vật liệu nổ công nghiệp và
dụng cụ lao động”. Đến năm 2003 huyện
Hoàng Su Phì “áp dụng mô hình mở đường
trên” huy động sức dân đã có 100% các xã mở đường giao thông cho ô tô đi được từ trung tâm huyện về trung tâm xã ; mở khoảng 300 km trong đó có 200 km ô tô đi
được. Trong phong trào mở đường giao thông thời kì này có xã Tiên Nguyên
là lá cờ đầu: được Bộ Giao thông vận tải “tặng cờ xã xuất sắc nhất về “Phát
triển đường giao thông miền núi” (năm 1998); đây là lá cờ đầu tiên về thành
tích phát triển giao thông ở Hà Giang . Trong xây dựng cơ bản, tham mưu và làm
điểm mô hình “Xây dựng các điểm trường ở thôn, bản rẻo cao” (Nhà nước-tỉnh Hà
Giang cấp cho gạch, xi măng nhân dân đóng góp cát, sỏi, vật liệu địa phương và
nhân công), thí điểm xây dựng 20 điểm trường và đây cũng là mô hình điểm đẩu
tiên ở Hà Giang sau đó nhân ra toàn tỉnh Hà Giang (năm 2000).
Trong thời kì
chiến tranh biên giới có nhiều sáng kiến trong việc thi công cầu dân sinh phục
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của bộ đội ta. Được tặng thưởng nhiều: danh
hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh” ba lần
; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp huyện”
mười lần; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, huy
chương 3 bộ, Kỉ niệm chương 4 bộ; Nhiều Bằng và Giấy khen của các Bộ ngành và
UBND tỉnh, huyện Hoàng Su Phì. Với thành tích xuất sắc trong phục vụ chiến đấu ở mặt trận Hoàng Su Phì được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng 3 năm 2010 ; Xứng danh với hình ảnh “anh Bộ đội cụ hồ” trong
các thời kì.
Còn chuyện về Vũ kể từ khi chia tay sáng sớm 2/4/1976 tại căn cứ thiết giáp Chi Lăng ở huyện Tri Tôn ; tỉnh An Giang, lúc này cả Tôi và Vũ đều là Binh nhất;
khi về an dưỡng ở Hà Nam Ninh tôi lên Hạ Sĩ; còn Vũ vẫn là Binh Nhất.
Khoảng tháng 6/1976 do tình hình biên giới Tây nam có nhiều biến động. Đơn
vị và Vũ di chuyển về huấn luyện tại căn cứ pháo binh ở tỉnh Rạch Giá; tập bắn các tọa độ biển.
Đến năm 1977; Cuộc tấn công đầu tiên
của quân Khmer Đỏ diễn ra vào tháng 4 năm 1977, tiến sâu 10 km vào lãnh thổ
Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường.
Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào tháng 10 cùng năm, lần này quân Khmer Đỏ tiến
sâu đến 15 km trong lãnh thổ Việt Nam. Hơn 30 vạn người dọc biên giới phải tản
cư về phía sau, 6 vạn hecta đất sản xuất bị bỏ hoang.
Theo nhiều tài liệu:“Ngày 1/2/1978, Trung ương Đảng
Cộng sản của Pôn Pốt họp bàn chủ trương chống Việt Nam và
quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần
mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có
thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia
để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư
đoàn quân chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh
thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ
đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc
vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Từ tháng 12 năm 1977 đến
14 tháng 6 năm 1978, phía Việt Nam bị thương vong nhiều người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về
phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất.
Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của
Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000
quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh
vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự
(Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô,
Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách
lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer”.
Trong thời
gian đơn vị huấn luyện ở Rạch Giá Vũ được đi học sĩ quan và lên đến chức đại
đội phó với quân hàm trung úy; và tham
gia giải phóng Campuchia và đơn vị đã tiến đến tỉnh Siêm Diệp (Siem Reap) của
Campuchia: đơn vị vẫn trực thuộc sư đoàn 4 –quân khu 9. Theo tài liệu triển
khai lực lượng của quân khu 9: “ Đơn vị hành quân tham gia chiến dịch giải phóng Campuchia trong đội
hình thế trận của sư đoàn 4-Quân khu 9, quân ta phản kích địch ở nhiều nơi. Sư
đoàn 339 tổ chức nhiều trận đánh ở khu vực Gò Rượi, Gò Viết Thuộc, Gò Châu
Giang, Đứt Gò Suông, đuổi địch về bên kia biên giới. Sư đoàn 4, Trung đoàn 2
(Sư đoàn 8) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 330) phối hợp với các lực lượng vũ trang
đỉa phương tập trung đánh địch, khôi phục toàn bộ khu vực Rộc Xây. Sư đoàn 8
(thiếu Trung đoàn 2) mở cuộc phản công khôi phục lại khu vực bắc Hà Tiên.
Sau khi hành quân vào vị trí tập kết ở khu vực xã Tri Tôn, huyện Bảy Núi (tỉnh Kiên Giang),
Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306) được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9), được
Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phối hợp với Quân khu 9 và hiệp đồng
với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển
và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng Tây Nam.
Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là Quân khu Đông Nam
của địch (lực lượng có 4 sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính
thủy đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên với 5 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu
đoàn xe tăng và hơn 100 tàu, xuồng chiến đấu). Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn
2 và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng đánh địch ở khu vực kênh Vĩnh Tế,
thu hồi phần đất cuối cùng của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm trái phép.
Trong 9 ngày
đêm (từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 12 năm 1978), bằng các đòn phản công, tiến
công quyết liệt kế tiếp nhau, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đánh đuổi quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ vùng chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị
kẻ thù lấn chiếm, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và nhân dân
Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước”.
Như vậy là Nguyễn Thế Vũ , người đồng đội –cựu chiến binh
quân đội nhân dân VIệt Nam đã vinh dự
tham gia hai cuộc chiến và hai chiến dịch: Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam và Chiến dịch
tấn công vào sào huyệt bọn Pôn pốt giải phóng biên giới Tây nam và giúp Đảng
nhân dân cách mạng Campu chia giải phóng khỏi ách diệt chủng ; lập ra nhà nước
mới: ngày 8/1/1979 nhà nước cách mạng và nhân dân Campuchia ra đời.
Sau nhiều lần đi tìm và ngày 29/4/2012 chúng tôi đã
gặp nhau trên quê của Vũ: Thôn 1 –Đức Thành, xã Xích Thổ huyện Nho Quan tỉnh Ninh Bình; như thế là tròn 36 năm mới gặp lại đồng đội cũ. Niềm vui dâng tràn
trong ngày đất nước kỉ niệm 37 năm ngày chiến thắng 30/4 Miền Nam hoàn toàn giải phóng non sông
thu về một mối.
Và một tuần sau tôi đã chủ động đưa Mẹ tôi tới nhà Vũ
và Vũ cũng mời hai bà mẹ : Mẹ Vũ và Mẹ Tôi đến giao lưu thăm nhà ở của vợ chồng Vũ, trong ngày này Vũ thông tin cho
tất cả con cái nghỉ việc để cùng liên hoan. Như mọi người thường nói là kết
thúc có hậu và ở chúng tôi đúng như vậy. Hạnh phúc đời thường giản dị và đẹp
như vậy đấy./.
Xem bài : Gặp lại người Tiểu đội trưởng năm xưa (Bấm vào)
Xem bài : Gặp lại người Tiểu đội trưởng năm xưa (Bấm vào)
(Ngô Lê Lợi- Hồi kí về cuộc kháng chiến chống Mỹ -Ngụy- Hà Nội
6/2012)
Gặp lại nhau ngày 29/4/2012 tại nhà Nguyễn Thế Vũ |
Anh Vũ Đình Đảng tiểu đội trưởng-gặp nhau sau 35 năm (năm 2011 tại nhà Anh Đảng)- và Tác giả |
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TẠI NHÀ NGUYỄN THẾ VŨ
Chụp ảnh với hai bà Mẹ và các cháu của Nguyễn Thế Vũ |
Vợ chồng Nguyễn Thế Vũ |
Nhà của Nguyễn Thế Vũ
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HÀNH QUÂN (ảnh tư liệu)
Pháo vác vai |
Trinh sát pháo binh và thông tin đang làm nhiệm vụ |
Chuẩn bị vượt sông bằng xuồng máy co-le |
Hành quân bộ trên đất Cam phu chia |
Hành quân trên đất Canm pu chia |
Nghỉ trên đường hành quân |
Hành quân về quân quản thành phố Cần Thơ |
Kênh rạch ở Sóc Trăng những năm đánh Mỹ |
Hòa bình đơn vị chuyển quân bằng xe GMC chiến lợi phẩm |
"đại pháo" 105 trang bị cho quân ta |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét