CHÚ ĐẠI BI-Giảng từng câu của Hòa thượng Tuyên Hóa
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày chúng ta
vẫn thường tụng Nam mô A – di - đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni
Phật. Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không? Chắc là rất ít người
biết được. Cách đây vài năm, có lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội
nhưng chưa một người nào có được câu trả lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô, phiên âm
chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính
đầu”. Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con về nương tựa vào chư
Phật”. Cái bản ngã của chính mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn vẹn thân
mạng mình lên chư Phật. Nếu chư Phật cho con sống thì con sống; bảo con chết
thì con chết. Con hoàn toàn tin vào chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.
Còn “Kính đầu” có
nghĩa là hết sức cung kính và nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam –
mô.
Còn “Quy y” có
nghĩa là đem hết thân và tâm của mình, đem hết cả mạng sống của mình trở về
nương tựa vào đức Phật.
Nói tổng quát. Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận
trong khắp mười phương”.
Đó chính là bản thể
của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là
bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy y với toàn thể chư
Phật trong mười phương, suốt cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi quí vị
trì niệm thần chú này. Không những chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường
trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu
tình khi nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính lễ mười phương ba
đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có biết Tam
bảo là gì không? Đó là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng,
trên thế gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo và Tăng bảo là
điều cao thượng và quý báu nhất. Không những cao quý ở thế gian mà còn cao quý
đối với những cảnh giới xuất thế gian, cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi
phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong
mười pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên chúng ta cần phải cung
kính quy ngưỡng và tín thọ nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và
thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã quy y
rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh tấn thực hành các việc lành, tương ứng với
lời dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu quí vị vẫn còn giữ
nguyên các tập khí ngày trước như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối,
nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để thỏa mãn ngũ dục thì quí vị không thể
nào tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh). Bở vì trong
Phật pháp không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói: “Tôi đã quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì tôi muốn…”
Quí vị phải thay
đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của mình và tích cực thực hành những việc
thiện, dứt khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị còn tiếp tục
làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật không
giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng: “Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có
niềm tin thì dù có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường. Còn ngược
lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi
vào hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính quy y
Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi
lầm. Như một người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm thuần túy
những việc lành. Không làm những việc xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích
thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa
là: “Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp mười phương”.
Khi quí vị trì niệm
chú này, cũng có thể giúp tiêu trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai
chướng, quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da thì tai
chướng ấy liền được tiêu trừ. Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và nếu gặp
tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”, là
một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc ra đát
na đá ra dạ da cũng còn được gọi là “Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay
quí vị đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường trì tụng chú này, thì
thiện căn của quí vị sẽ tăng trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể xiết.
Nên chú này được gọi là “Tăng ích pháp”.
Quí vị có thể niệm
toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra
đát na đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn điều gì, thì sở
nguyện sở cầu của quí vị đều được thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có con
trai mà muốn cầu sinh con trai, hay niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da sẽ
sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì niệm với tâm trí thành, không phải
chỉ niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít nhất là trong ba năm.
Nếu quí vị không có được bạn tốt, mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô
hắc ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm
được toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu không chỉ cần niệm câu đầu tiên
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những công đức không thể
nghĩ bàn.
Câu chú này cũng
còn được gọi là “Hàng phục pháp”. Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục
thiên ma, chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu chú
này không phải là “Câu triệu pháp”. Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong
“Câu triệu pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều đến trình
diện và có thể bắt giữ, hoặc sai khiến được chúng.
Vậy nên, câu chú
Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này có công năng rất mạnh, không thể suy lường
được. Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại, trong câu
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da, thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”.
Hắc ra đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa toàn câu là:
“Xin đem hết thân, tâm, tính mạng của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô
biên trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta phải cúi đầu đảnh lễ
thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi là vô
tận vô biên? Vì chư Phật trong thời quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong
thời hiện tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là vô cùng vô tận.
Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam mô a
rị da
Nam mô như đã giảng
ở trên, nghĩa là “đem hết thân tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư
Phật và chư Bồ – tát”.
A rị có nghĩa là
“Thánh giả”. Có nghĩa là người xa lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có
nghĩa là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả các pháp bất thiện.
3. Bà lô
yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế có
nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang”
từ danh hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang Minh Biến Chiếu –
hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh
giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có
nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn câu là
quán chiếu quán sát một cách rộng khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh
hiệu Bồ – tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là quan sát, lắng
nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu độ một cách tự tại.
4. Bồ đề
tát đỏa bà da
Mọi người đều biết
Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát đỏa có nghĩa là
“độ” là vượt qua (bể khổ) cũng như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải
thoát.
Bồ Đề tát đỏa bà da
có nghĩa là một vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng
sinh được giác ngộ giải thoát như mình.
Bà da có nghĩa là
“đảnh lễ”.
Da có nghĩa là khấu
đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai? Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải
thoát cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được giác ngộ giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha
tát đỏa bà ha
Ma – ha có 3 nghĩa:
Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.
Ma – ha với nghĩa
là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.
Ma – ha với nghĩa
là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma – ha với nghĩa là
Thắng: tức nói đến những người đã phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành
tựu viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng.
Tát - đỏa nghĩa của
chữ Tát - đỏa trong câu chú này không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu
chú trên, Tát - đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên kia. Có nghĩa là giải
thoát. Còn trong câu chú này. Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là người
can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất
siêng năng.
Bà - Da Hán dịch là
“Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là
những người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ hãi, và nguyện phát
tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát này.”
Các vị đại Bồ – tát
đã tự giác ngộ, giải thoát cho chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số
chúng sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình.
6. Ma ha ca
lô ni ca da
Ma – ha có 3 nghĩa:
lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.
Ca – lô Hán dịch là
“Bi”.
Ni – ca nghĩa là
“Tâm”.
Hợp lại, Ma ha ca
lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.
Da có nghĩa là đảnh
lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi
đầu đảnh lễ thần chú Đại bi tâm Đà - la – ni.”
7. Án
Án nghĩa là “Bổn
mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của
tất cả chư Phật.
Mẹ của chư Phật có
nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng
sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn
mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ
nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”.
Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là
“Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là “Trí”:
là trí tuệ, dùng thanh gươm trí tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là
pháp môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ viên mãn nhất. Còn “quán”
là lưu xuất từ pháp môn Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là
“Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu là
“Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện, nương theo giáo pháp chân chính mà tu
hành.
7. Thứ bảy là
“Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không
nương theo lời dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu hành đến nhiều
kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể
nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên, để có
thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân chính của đức Phật thì trước hết, quí vị
phải thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám là “Lý”:
nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có
được sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị không khế hội được diệu
pháp này, thì quí vị chỉ là người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị có tu
hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt được sự thành tựu.
9. Thứ chín là
“Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo trồng những nhân thù thắng, nhân tốt
lành, nhân thanh tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù thắng, quả vi
diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười là
“Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả,
quả vị giác ngộ tối thượng.
Như vậy từ chữ án,
xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu. Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi,
niệm đến chữ án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng cung kính,
không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại
Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác
thần đều phải cung kính chấp trì. Công năng của thần chú thật to lớn, thần lực
thật không thể nghĩ bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra, Hán
dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên
vương đều đến làm Hộ pháp cho quí vị.
Phạt duệ, Hán dịch
là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên câu chú này
có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng
tán Phật bảo.
9. Số đát
na đát tả
Chữ Số có hai âm là
Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số Đát Na có nghĩa
là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là
“Cao thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội hơn pháp này nữa.
Thắng sinh có nghĩa là từ pháp này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn có một cách
dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành
giả sẽ trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ – tát.
Đát Na là biểu
tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu
tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn thể
câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có
nghĩa là chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của Tam bảo. Nên khi trì
niệm đến câu thần chú này, có nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia trì
của Tam bảo.
Đát tả còn có nghĩa
là dùng giáo pháp để răn dạy các loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập
quỷ thần đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa nay dường như
quí vị luôn luôn Nam mô với một người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với
chính mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một khách thể nào khác mà phải
Nam mô ngay với chính mình.
Nam mô có nghĩa là
tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô còn có nghĩa
là đem tự ngã của chính mình thể nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười
phương. Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả mười phương.
Tất kiến lật có
nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam
bảo.
Đỏa y mông có nghĩa
là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý
đảnh lễ bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô ngã. Như thế có
nghĩa là không có mình hay sao? Ví như khi có người đánh quí vị, quí vị không
cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ, quí
vị thấy như thể không có việc gì xảy ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn
nhục, vì nếu dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị nghĩa” rồi.
Trong trường hợp này, quí vị không nhất thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có
một bản ngã để dùng pháp nhân và không có một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác
động tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngã của
vô ngã vậy.
A lị da ở trên đã
giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”. ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái
ngã” ấy của Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy Thiên Long bát bộ
đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm
khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây,
tôi sẽ giảng rõ.
11. Bà lô
kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà lô kiết đế
dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch
là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ –
tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm, cũng chính là Quán
Tự Tại. Hai danh hiệu này không nhất định phải là Bồ – tát Quán Thế Âm mới được
gọi là Quán Tự Tại hay Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đã đạt được tự tại rồi,
thì quí vị chính là Bồ – tát Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ
tất cả mọi loài chúng sinh, thì quí vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy, một
khi quí vị đã thể nhập và vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí vị là
hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận dụng
pháp này thì chính tôi cũng là hóa thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi Phổ Đà (Potala), nơi
Bồ – tát Quán Thế Âm thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở nước Trung Hoa.
Phổ Đà có nghĩa là “hoa trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở rất
nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở trong hang đá gọi là “Cung Từ
Bi”, đó là nơi Bồ Tát Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang hoàng bằng
bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não. Nhưng
không phải ai cũng đến được nơi cung điện này.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện
đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường
thị hiện.
12. Nam
mô na ra cẩn trì
Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và
“quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ
Tát.
Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình thương yêu. Trong ý
niệm lòng Từ Bi bảo hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ bi của bậc Hiền
giả (Bồ – tát) thường đem đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh. Trước đây tôi
đã giảng về 10 loại tâm được đề cập trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị
nên y cứ theo mười loại tâm này mà công phu tu tập.
Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện hộ” có liên quan đến
nghĩa thứ nhất, nghĩa là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại Tâm: Đó chính là
Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính và Tâm Vô Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị
ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có nghĩa là
“Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong 10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm.
Tâm này giúp cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình. Khi quí vị khởi
tâm niệm tham, sân, si, mạn, nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm, không còn
thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì tâm
quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là
“Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế nghĩa
là sao? Nếu tôi không nói, chắc chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị
muốn biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới hiểu được. Quí vị
mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế có nghĩa
là “đại quang minh” nghĩa là hào quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế lại
còn được dịch là “Trường chiếu mệnh” nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng
khắp mọi nơi.
Nguyên câu Hê rị ma
ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm
lực, quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi mãi siêu việt cả không
gian vô cùng, thời gian vô tận; từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế giới
đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ nói: “à,
cái đại quang minh của tâm ấy, tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi,
và…”
Vâng, nhưng trừ phi
quí vị không nghe tôi giảng giải thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết
được. Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người nào có thể giảng
giải về Chú Đại Bi một cách rõ ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực tình mà
nói, không mấy người thể nhập được rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc là
chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi:
“Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi cần
phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao
mà tôi biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không biết, tôi không thể
nào giảng giải cho quí vị nghe được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại biết.
Thay vì quí vị hỏi
tại sao tôi biết, thì quí vị hãy quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại
không biết? Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không biết, thì quí vị sẽ
rõ được tại sao tôi biết. Trái lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại sao
quí vị không biết, thì quí vị cũng không thể nào rõ được lý do tại sao tôi
biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu vậy.
Chẳng hạn có người
đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu
hỏi đó mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất gia? Nếu anh biết
được lý do vì sao anh không xuất gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại xuất
gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao
mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình
không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao mình không biết thì quí vị sẽ
hiểu được tại sao tôi lại biết được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người có
nhiều thiện căn nên được dự pháp hội giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ
trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy
để tu học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài phí một phút giây nào cả.
Hiện tại chúng ta
đang sống vào thời mạt pháp. Chư Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian.
Thời gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang liêu, điêu tàn, không dễ
gì gặp được chánh pháp, cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi bảo các
đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu
thỉnh để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết nhiều người ở Đài
Loan nói với họ rằng: “Chẳng cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu đạo
nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời rằng: “Chúng tôi cũng là những con người như
những con người khác, nếu không chịu tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật
đạo? Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được chánh pháp”. Nếu quí
vị nói rằng không cần phải dụng công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì
trước đây đức Phật chẳng cần vào núi Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó đến
ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa
mọc thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn phải
tu hành mới thành tựu chánh giác. Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không
tinh tấn tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai cũng đều biết phải
nhờ vào tu hành mới đạt được Phật quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất
ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu hành thì đều có thể bị đọa vào địa
ngục, nhưng người không chịu tu hành thì không sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian
thật là không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử! Sống
trong thời mạt pháp mà có được điều kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng
mãnh tinh tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công phu, tinh cần đạo
nghiệp mới mong có ngày thành tựu. Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành
tựu đạo nghiệp thì không thể nào có được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan,
khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh
lên để cho tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công phu mới mong có
ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói về sự
vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu
việt thì đạo lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí vị có thể thâm
nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ của
thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật pháp,
điều gì quí vị cũng muốn diễn bày cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất
những nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết về diệu lý của Phật
pháp, nhưng nếu quí vị không tin sâu và không hành trì thì điều tôi giảng không
còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi lúc,
mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều
khẩn thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về phía trước mà nỗ lực
công phu thì nhất định một ngày kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính
mình.
Bàn đà sa mế dịch
nghĩa là “đại quang minh” hay “trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm
trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”. Thông qua “quán tâm không”,
hành giả mới có được trí tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang minh. Có
được quang minh, mới tỏa chiếu, soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là không
còn tối tăm, mê muội, tức là không còn vô minh.
Sao gọi là “vô
minh”, vì tâm của quí vị không có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp
giới, do vì quí vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được “đại
quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp
giới, có nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô minh. Một khi vô minh đã bị
chuyển hóa sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây chính là trí tuệ chân thật
của quí vị.
Thuở xưa vào triều
đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không
sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau
rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây
cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về
nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay,
móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng
được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong
tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng
vậy.
Thời ấy, vua Lương
Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận
khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới
hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia
đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người
con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng
trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến
nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật
cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ quái”
nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa
nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ.
Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì
không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em,
bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau
trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời
trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội
của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời này.
Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc
đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà này,
chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại
với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái
ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và
đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương
lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay
không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu
nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung
có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người
chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không
nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo
âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu
nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay
trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà ta
được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người
cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có
phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái
luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà
ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ
lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm
sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã
đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được
ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một
niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của
đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi
trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết
bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn
trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói:
“Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em
bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước
bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con
mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào
kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn
các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt
bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa
này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở
trên”
Ngài thấy có vô số
loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con
thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát
sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị
giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau.
Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những
oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với
trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn
trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng
với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những
món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần
vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con
lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên
thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc
cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa
chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành
hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào
không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất
luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta
vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa
với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con
không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho
con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này
chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe.
Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng
con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ
được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu
thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp
trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả
tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp
này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa
(chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ
cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà
mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau
báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn
đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi
người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy
chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta
tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi
ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại
việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai
người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh
chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta
để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau
tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai
đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời
trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc
của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa,
biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai
con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ
câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này
với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay
không? một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ
câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi
mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và
hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm
trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há
miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị
mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu
này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không
phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế nên Ngài có năng
lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không
phải là Bồ – tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư.
Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há
miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh
giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao
giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa
chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong
khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ –
tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành
xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi
hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho
người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ
đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo
làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác
ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi đang
giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.
14. Tát bà
a tha đậu du bằng
Câu chú này chia
làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu dịch
nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý,
Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là
“như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là
ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là
sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm
thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch là
“nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh
tịnh, cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ
chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là
khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ
lấy. Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là trạng thái không có mảy may vọng
động về sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể cũng như khách thể;
đối với ngoại cảnh cũng như dòng chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ
dựng
A thệ dựng la tiếng
Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”. Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp
này. Còn có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo giáo nào có thể so sánh
được. Câu chú này biểu tượng cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”, là tâm
rất cung kính và tùy thuận bất kỳ người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu
tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh,
không chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại tâm này
là tướng của Đà - la – ni, chúng ta phải đem những đạo lý này hành trì không
xao nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của kinh Đại bi tâm Đà
la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà
tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là
tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na ma bà tát đa.
Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là
hàng Bồ – tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai sĩ” cũng là một
danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp
thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ
– tát.
Na ma bà già. Hán
dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát –
nhã ba – la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô lượng chú,
vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có thể hỏi:
“Cái gì không thể sánh bằng?” “Đó là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là
chư Phật thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt
đạt đậu
Ma phạt đạt đậu
dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu chú này có
nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các
Ngài hãy là thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn ở cõi thế gian
này của chúng con, để hộ trì cho mọi thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh
nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát
điệt tha - án
Trong Bát nhã tâm
kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha Hán
dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng
Tâm đại bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của Phạm Thiên.
Đát điệt tha còn có
nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là
khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát điệt tha lại
còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý
nghĩa của “Sở vị”.
Chữ án như đã nói ở
trước, khi quí vị trì niệm trì niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay
cung kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có công năng lưu xuất
nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô
hê
A bà lô hê chính là
Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là “quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm
thanh oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh. Bồ – tát Quán Thế Âm
quán sát âm thanh, tiếng kêu than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian khi họ
không thể vượt qua nổi những khổ nạn.
20. Lô ca
đế
Lô ca đế nghĩa là
“Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là
Bồ – tát dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính là danh hiệu của
Bồ – tát Quán Thế Âm.
21. Ca ra
đế
Ca ra đế dịch là
“Bi giả” là người có lòng từ bi rộng lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi
khổ đau và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng sinh vơi bớt khổ đau
là một người “đại bi”. Ca ra đế còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể làm cho
đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát nguyện
làm những việc khó làm như hành Bồ – tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.
22. Di hê
rị
Di hê rị dịch nghĩa
là “Thuận giáo”. Khi quí vị trì tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát
nguyện: “Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ – tát Quán Thế Âm, sẽ
giáo hoá cho tất cả chúng sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài đã dạy mà
tu hành”.
Di hê rị còn có
nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng
như Quán Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì.
23. Ma ha
bồ đề tát đoả
Ma ha có nghĩa là
“đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là
“giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.
Tát đoả. Hán dịch
là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại
bồ - đề rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề tâm nghĩa là gieo
trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống bồ -
đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị Vô
thượng bồ - đề.
Đây là ý nghĩa của
câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm
viên mãn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi Định đã lắng trong thì
Huệ cũng được chiếu sáng. Khi Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì Bồ – tát
Quán Thế Âm đã đạt được định lực viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt. Vì
Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn, nên Ngài mới đạt được định lực lắng
trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ thì chẳng đạt được Định.
Nên gọi định huệ không hai là vậy.
Do nhờ tu tập vô số
công hạnh mà Bồ – tát được trang nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một
pháp nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện nhỏ nhất, cho đến lớn
nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc
thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc
ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ – tát
thường siêng năng làm các điều thiện và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát
bồ - đề tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề. Chư vị trang nghiêm
pháp thân bằng vô số công hạnh. Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp vô
duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị
Bồ – tát, tự bản tánh và bản thể của các Ngài không hề gợn một mảy may tướng
trạng của chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể chúng sinh có đồng
một thể tánh, không hề phân hai. Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà
ước nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá
tất cả mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không hề dính mắc chút nào vào việc
mình có độ thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu độ cho
anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi. Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh
phải tỏ ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư vị Bồ
– tát không có tâm niệm như vậy, nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai
thân tướng, để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài chúng sinh. Chẳng
hạn như cần ứng hiện thân Phật để độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát liến
ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo pháp cho chúng sinh khiến họ được giải
thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân
Bích Chi Phật để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát. Cũng như vậy,
các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán, vua chúa... để giúp cho chúng sinh được
độ thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa hiện thành ba mươi hai ứng thân để
cứu độ các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được mười bốn pháp vô uý và bốn
pháp bất khả tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô
thượng bồ - đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát Quán Thế Âm.
24. Tát bà
tát bà
Tát bà tát bà. Hán
dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp,
nghĩa là mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách hành trì
ấn pháp này, quí vị có khả năng đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài
chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều chấp hành theo người trì
tụng ấn chú này. Quí vị bảo họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương liền
tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này cũng như
ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có
trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống
lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí
vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt
được sự an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết lợi lạc”.
Người Trung Hoa đều
biết có một vị Tiên, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con
của Quảng Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn này vậy. Đạo Lão
gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ – tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị dụng
công hành trì thì nhất định sẽ thành tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có
người vừa mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và
viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha cho
anh ta trở về dương gian”. Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn
có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước
hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì
chẳng có kết quả gì.
Thế nào nghĩa là
thành tựu công phu tu hành? Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào
tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học
vị Tiến sĩ.
Tu tập để thành tựu
Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ
Bảo ấn này không có gì so sánh được.
Tát bà tát bà nghĩa
là “lợi lạc cho tất cả mọi loài chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên
đến như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này
thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ là một
trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà thôi.
Có người nghe tôi
giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng: “Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc
nào có người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho Diêm vương không được
bắt người ấy chết”. Quí vị cứ thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi
chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì chẳng có người nào giúp quí vị thoát
khỏi chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có dịp sử
dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu
là trường hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ chết nếu tôi không
sử dụng Bảo ấn này. Vào một chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch. Một người
tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước
tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để
cúng dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan hay không? Dĩ nhiên là quá
ngu dại. Tuy nhiên sự ngu dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo. Quí vị
biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh ta
nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng
không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì. Đầu lưỡi đã trở sang màu
đen, môi miệng nứt nẻ. Bác sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn chữa
trị được. Nhưng người con trai của bà nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con
nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng dường chư Phật. Với lòng chí thành, con
nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi chàng trai
sắp chặt tay, có người nắm tay anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì
thế, anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ chặt tay
cúng dường chư Phật, cầu nguyện cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai chống
lại, nhưng người kia không để cho anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho
Hoà thượng trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm sao, Ngài liền
phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy, tôi vẫn
còn là chú Sa – di. Tôi được giao nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ
dưới Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng không giống như những
chú tiểu cùng ăn chung nồi, cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi người
và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn
một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời. Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm
vi tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình
còn thiếu năng lực trong công phu.
Hoà thượng trụ trì
giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu
Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho
con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi vốn chẳng ngại khó
nhọc, nên khi nghe những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời vừa xế bóng. Anh
ta đi theo đường lộ chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh ta cách chùa
chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy tôi ngồi
đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay
truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi
đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể nào cứu sống bà ta
được. Nhưng tôi vẫn quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi dùng Bảo ấn viết
mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí thành, nguyện chặt tay
cúng dường chư Phật để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta chặt tay. Bằng mọi
cách, xin cho mẹ anh ta được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn đã nằm bất động suốt
bảy, tám ngày nay, chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không nghe mẹ gọi. Nay cực
kỳ vui sướng. Anh ta chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ
rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy trong một cái hang
tối đen thăm thẳm không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao hay đèn đuốc gì
cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết ngày này qua ngày khác để tìm đường về nhà mình. Mẹ
có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh
mang y cà sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ ăn tí cháo loãng
để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ
cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều
quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại. Nay toàn gia đình
chúng con cầu xin được quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa có việc gì,
con nguyện đem hết sức mình xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy của Thầy
để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi
chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu
thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt người bệnh nằm
xuống, đánh một người ba hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn Châu. Lần thứ 2 tôi
dùng Bảo ấn này là ở Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79 tuổi bị bệnh.
Các vị bói toán đều bảo rằng ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm nay. Ông ta
đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít
năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời
gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12
năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm
nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải
thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có ai dùng Bảo ấn này
để giúp được cả. Nếu quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo ấn để cứu mình
khỏi chết là quí vị lầm. Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi dao, tự nó
không thể cắt đứt được chuôi dao của chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường
cùng, thì cũng giống như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong khi sử dụng ấn pháp
này, cũng phải công phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít để ý đến việc
riêng của người khác nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”. Cũng có nghĩa là
“như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm tăng trưởng
phước huệ, làm cho mọi việc đều được tốt lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp này không? Vì vậy
nên công năng ấn pháp này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Diệu
dụng của Như ý Châu thủ nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo thủ nhãn ấn pháp
này. Một khi đã thành tựu rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và không còn bận
tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị luôn luôn giàu có và được vô lượng phước lạc.
26. Ma hê
ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán
dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là
không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là
ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê cũng
còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không
phiền, không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng là
“Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là “Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn
pháp này thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và được mười phương
chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu
thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp
khó tìm cầu!
27. Cu lô
cu lô yết mông
Cu lô cu lô. Hán
dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là
“xuy loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn pháp.
Nay chúng ta đang
sống trong thời mạt pháp. Nhiều người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là
khế hợp với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra không phải thế. Chú Đại
Bi là gọi thay cho bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú Đại Bi là
diệu dụng của bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú Đại
Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có chân, nên không thể đi được. Mặt
khác, nếu quí vị chỉ biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không trì
niệm chú Đại Bi thì cũng như người có chân mà không có tay, không làm gì được
cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị
phải thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa,
mới được gọi là người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa
mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế cũng
chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như người có thân thể nhưng chẳng có tay chân
gì cả. Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho chúng hoạt động
phối hợp với nhau mới làm nên phước đức được.
Bảo loa thủ nhãn ấn
pháp là dùng để tác pháp khi quý vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa
ấn pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh vang lên tận cõi trời,
thấu tận địa ngục. Khắp cõi nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng. Bất kỳ
mọi nơi nào nghe đến âm thanh này đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn
pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn
gọi là sự kiết giới.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta đã
hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là tiếng
Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ,
nhưng văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của Đại phạm thiên.
Yết mông là tiếng
Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả
mọi việc có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc công đức cho mọi
người cũng chính là tạo công đức cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư lợi
và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho mình và giác ngộ giải thoát cho người
khác.
Câu chú này nói đến
sự thực hành lục độ và vạn hạnh. Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp.
Hãy tưởng tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng. Tay quí vị cầm
cành hoa sen và miệng trì niệm chú Yết mông yết mông...
Không những quí vị
trì tụng chú mà còn hành trì mật ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới
có thể tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại Bi, đồng thời cũng
thông hiểu được cách hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có
thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết
được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy thì nó phải có ngần mé. Mà những
điều mầu nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu và kết thúc. Với
sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể thành tựu được vô lượng công đức. Trong
nhiều đời sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi hương thơm của hoa sen
trắng và luôn luôn được hộ trì.
Sự vi diệu, mầu
nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng
tận.
28. Độ lô
độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô. Hán
dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh
tịnh”.
Khi đã vượt qua
biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể
thanh tịnh, đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong bản thể sáng
suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả mọi
pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí
vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi quí vị có được định lực chân chánh
thì có thể vãng sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là Nguyệt Tịnh
Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang
tuyên thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công năng đưa mọi người đến
chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là
Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt Già Ra đế. Hán
dịch là “Quảng bác trang nghiêm”, còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ
sinh tử”. Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp này thì quí vị có
thể vượt qua biển khổ sinh tử, có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không công
phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ
sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha
phạt già da đế
Câu chú này có
nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là quảng đại,
tối thắng và đạo cũng quảng đại, tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên
tất cả mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo Kích thủ
nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại
đạo. Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp này có thể bảo vệ
quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu
quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
30. Đà la
đà la
Tiếng Phạn rất khó
hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu
được mật chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một chút ít thần chú
Đại Bi mà thôi.
Đà là đà la là Tịnh
bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế
Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh trong sáu đường.
Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới
nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai nạn ấy.
Đà la đà la. Hán
dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát
Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp và Dương
chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn thể
chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ
ni
Địa lỵ ni. Hán dịch
rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là “thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có
nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng
tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng
tĩnh.
Còn dịch là “Gia
trì và thôi khai”.
- “Gia trì” có
nghĩa là làm cho các ác pháp đều được chuyển hoá, hướng về phụng hành theo
thiện pháp.
- “Thôi khai” là
làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu thi thiết
câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả
quỷ thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu quí vị công phu hành
trì thành tựu thủ nhãn này, thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có mưa
ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió
đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ hết ngay.
Quí vị sẽ nói: “Tôi
không tin như vậy”. Đúng vật! Đó chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị
nghe, tất cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và không ở trong
cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu muốn, quí vị có
thể hỏi những người vừa mới từ Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài
Loan. Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện thoại, họ cho biết
trời đang mưa và rất lạnh. Họ mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi
bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra. Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể
khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn
tắt:
- Quí Phật tử hãy
đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay khi tôi vừa
cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ.
(Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện
này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53
ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự viện không còn chất đốt, một
khi củi đã bị ướt rồi, thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy
nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm
dứt cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra, bầu trời trở nên sáng trong và khí
trời trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó chẳng
phải là gì khác, chính là năng lực của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ
cần kiết ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời sẽ dứt mưa ngay.
Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu ấn
pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn
pháp này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí vị sẽ nghĩ là
tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy. Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe
và tôi đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là chuyện nói đùa.
32. Thất
phật ra da
Mỗi khi quí vị niệm
Thất Phật ra da thì toàn pháp giới này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi
niệm Thất Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra da
được dịch là “phóng quang”. Còn dịch là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn
“Isara” như trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”, vì có quán
chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu quí vị không có sức quán chiếu thâm
sâu, thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự tại.
Quán chiếu nghĩa là
hướng vào bên trong tự tâm mà công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên
ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta
có hiện hữu hay không?”. Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị hay
không? Quí vị có làm chủ được mình hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có hiện
hữu hay không? Thường trụ chơn tâm thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không?
Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là quí vị đạt được tự tại. Còn nếu
không hiện hữu, có nghĩa là quí vị không có được tự tại.
Sự phóng quang cũng
mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể
phóng quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không thể phóng quang được.
Thất Phật ra da
cũng được dịch là “Hoả diệm quang”, cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng
không phải là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị thường nói: “Tôi
vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn
nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ
trí tuệ tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ chân chính hiển lộ khi lửa vô
minh bị dập tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi quí vị trì tụng
Thất Phật ra da tức là quí vị đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có
được năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị không thể nào phóng
quang được. Hãy nhớ kỹ điều này.
Đây là Nhật Tinh Ma
Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy
rõ. Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra
giá ra
Giá ra giá ra dịch
nghĩa là “hành động”. Đó là hành động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành
quân. Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân hành, có nghĩa là chống
lệnh.
Đây là Bảo đạc thủ
nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông
cả thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực hiện việc gì, chỉ cần
rung chuông lớn, các loài chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều tuân theo
mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung chuông
lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất không được rung lên như vậy”, trái đất trở về
trạng thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma
phạt ma la
Ma ma. Hán dịch là
“ngã sở thọ trì”. Đó chính là một loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi
việc tôi làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma ma là Bạch phất
thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa, các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng
phất trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng bảo toạ để thuyết
pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn
ấn pháp có rất nhiều công dụng, nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất
ít. Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình thường, tôi
chẳng muốn đến phi trường nhưng trong chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật,
nên tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không phải để đón các đệ tử
của tôi. Các đệ tử của tôi cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ
đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ rằng:
“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải tự độ
chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ
phi trường về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó, đi theo đường
này, đó là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất
là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên kinh chẳng
có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là không có ai trong các con bị bỏ
quên”. Năm người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về. Sao vậy? Vì tôi đã
mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát, nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều
không thể chấp nhận được. Nếu một người không về, tức là chư vị Bồ – tát không
thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ
trở về và dịch vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh toán hợp
đồng.
Quí vị nên nhớ một
điều. Những người thọ giới Cụ túc trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của
Phật giáo Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất chân thực. Đừng như
những kẻ tự cho mình là Phật tử, chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại
gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát
tặng cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật chán khi nghe ông hát”. Ông ta
chỉ bật lên: “ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt ma ra là “Hàng
ma kim cang hộ pháp”, tay cầm bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân
lớn như núi Tu Di.
Phạt ma ra. Hán
dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả
mọi cấu nhiễm ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không có gì có thể
sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.
Đây là Hoá cung
Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời
đời quí vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như trong một cung điện),
không còn phải thọ sinh vào các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh nữa.
Công dụng của sự thành tựu ấn pháp này là đời đời được sống cùng chư Phật.
35. Mục đế
lệ
Mục đế lệ là Dương
chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật. Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ –
tát Quán Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh bình. Nhành
dương này được Bồ – tát nhúng vào tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi chúng
sinh bị đau khổ. Nước này không như nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh
nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho
mọi chúng sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được thanh lương.
Mục đế lệ còn dịch
nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng
ngại. Nên Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn ấn pháp này để
giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất như
ý. Bề ngoài, chú này dường như không có gì quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị
công phu hành trì ấn pháp này thành tựu rồi, thì không những quí vị có thể giúp
giải thoát cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể hàng phục cả
thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma ngoại đạo được thấm nhuận nước cành
dương này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện, thực hành theo chánh pháp. Do vậy,
Dương chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn.
Giọt nước cam lồ từ
bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi
bệnh tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một người sắp chết, nếu có
phước duyên, được Bồ – tát Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại. Tất cả
các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được
hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy
mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là loài hữu tình sẽ được lợi lạc
biết bao. Đó là diệu dụng của Dương chi thủ nhãn ấn pháp.
36. Y hê y
hê
Y hê y hê là Độc
lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một khi
quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để
giáo hoá, họ đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”. Nghĩa là trong
tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ năng lực của chú này đều được thành tựu.
Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la vương, là một Thiên ma ngoại đạo
thường cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải cung kính chắp tay đến nghe lời
chỉ giáo khi nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái nghịch. Thế
nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê, thì Ma – hê – thủ – la vương liền đến,
bất kỳ tâm nguyện của hành giả như thế nào, vị này liền thi hành ngay, đáp ứng
đúng như sở nguyện của người trì chú.
37. Thất na
thất na
Câu chú này được
dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là “Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ
nhãn ấn pháp. Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ là gì?
Đó là khi chúng sanh không còn dính mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì
mỗi niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm đều lưu xuất từ Đại
Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn nếu
chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh là ánh
sáng dương, còn bóng tối vô minh là âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm
trồi lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt? Bởi vì ánh sáng dương
lớn mạnh hơn.
Những người có trí
tuệ không có lối suy nghĩ như những kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ
ràng chính tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều ngay nơi tự
thân của mình. Họ không đi vào con đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và hạ
thủ công phu. Trong khi hành trì, trước tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi
quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi mới tiến vào con đường chánh lộ và
tránh con đường tà vạy.
Nhưng quý vị không
thể nào biết rõ việc làm nào hư ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý
vị kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới, nên cứ thế mà làm,
ráng hết sức để làm cho được, cứ muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những thứ
chướng ngại. Những hành vi như thế là sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn
sự non yếu trí tuệ.
Ồ! Không – Quý vị
có thể phản đối – Tôi là người có trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời
thôi!
Chỉ sai lầm một lần
thôi cũng có nghĩa là vô minh, không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không
hề có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp
điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ
hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con
tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng
cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã phát
nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm
kiếp nhưng trong vô số kiếp.
Nhưng tại sao trong
tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng
tưởng khác kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng sau lại sinh
khởi tiếp nối. Giống như sóng trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại dương là
vật vô tình, nhưng thực sự nó chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà có. Biển
cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm của chúng sanh. Sóng biển không ngừng
nổi lên rồi chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của chúng sanh
chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng tưởng
sau liền tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương tục,
nối theo nhau không dứt, như dòng thác không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng
nào muốn rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng vọt lên phía
trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không
có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng
cũng không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành
thổi đến,
Biển không còn
sóng xao”.
Khi trong công phu
mà quý vị đạt được định lực, cũng như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định
lực thì nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng còn một niệm vọng
tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất
nhiễm
Vạn lự giai
không”
Thực vậy, khi một
người không còn bị vướng dù chỉ một hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ
một điều gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó chính là biểu hiện
của đại trí tuệ.
Người có trí tuệ
thường thành công trong bất kỳ mọi việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị
thất bại trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên trí tuệ là vô
cùng quan trọng.
Ngu muội là gì? Vô
minh chính là ngu muội. Ngu muội cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh
khởi, con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi một người vừa mới
làm một việc sai lầm xong thì rõ:
-
Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rõ
nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng suốt, thiếu trí tuệ.
Nhưng dù họ hành động mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không chịu từ bỏ vô minh.
Họ lại khăng khăng:
- Tôi biết
chứ. Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con người mê muội chỉ do vì không có
trí tuệ, không đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu
hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ
không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén, chặt ngay mọi vọng
tưởng vừa lóe lên. Đại trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn được ví như
thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ
gì cầm kiếm ấy được”! Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực ra, sử dụng
kiếm này chẳng cần sử dụng chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng cầm nó lên
thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị
không chịu cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu cầm lên, thì nặng
biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ rất quan trọng,
nhưng quá nặng. Tôi không thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới gươm. Thế
nên gươm trí tuệ càng nặng thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm, đã vung
gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một
chút rắc rối nào nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính là phát xuất từ đạo
lý này. Nếu quý vị gặp nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm trí
tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy, thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc
rối nữa cả. Màu nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế giới y báo cũng như
chánh báo đều không vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng ta.
Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất liền, lâu đài nhà cửa
gọi là thế giới y báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của chúng ta, chính là
nơi mà con người chúng ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu được sự báo
ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn
vô minh nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là: “Vật đến
liền chiếu. Vật biến hoàn không”. Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí
thường thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà lòng chẳng còn vướng bận
điều gì.
Mặc dù kẻ trí chẳng
lưu giữ điều gì lại trong lòng, nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó
thường tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là hàng
phàm phu, chưa có được đại trí tuệ, phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng
chú Đại Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng một lần
rồi là không còn quên nữa, đã tụng được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng
thể nào quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn khi quý vị chỉ cần
nhìn hoặc nghe lướt qua một lần rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải dụng
công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ của quý vị chiếu sáng như một đài gương
trong.
Người có trí tuệ
đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu
được điều này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Sao vậy? Vì
mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình, nên những thứ vui buồn giận ghét đều là
sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu, cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói về cảnh
giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần
phải có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những người không có công
phu sẽ nói:
“Đối với tôi,
chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài thì như
thế, nhưng vấn đề rắc rối đang phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong.
Những người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng nên
phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn
gọi là Thế trí biện thông, là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi
nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ có thể tạo dựng ra, khiến mọi người
nghe rất hợp lý. Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập
đến những đạo lý rất đúng”. Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý vị sẽ không bị đắm
chìm trong mớ lý luận ngu muội của họ. Người ta thường nói: “Trong dương có
âm”.
Cũng vậy, trong trí
tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có
dương. Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn như quý vị có thể
thấy một người chẳng nói năng gì cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát, nhưng anh
ta làm những việc chân chính. Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê muội,
nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý. Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát người
khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt
hay không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị không bị người klhác
sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm. Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ bị
người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và ngu muội
có một mối quan hệ trực tiếp. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô
minh thì trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng trí tuệ. Trong
vô minh có trí tuệ và chính trong trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại như
thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ.
Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng
thanh gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi quý vị buông thanh gươm
ấy xuống thì đó là vô minh. Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị
đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh.
Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy ví dụ
của bàn tay để biểu tượng cho trí tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu
quý vị muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì không thể nào làm
được cả, nhưng nếu quý vị dùng chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ vật.
Việc không lấy được đồ vật là biểu tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay để
lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ. Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa
chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay
tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”. Lại sai lầm
nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ. Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính là bàn
tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người thấy mặt trăng. Đừng
nhầm lẫn ngón tay chính là mặt trăng.
Thất na
thất na là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện” – là phát nguyện
rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến
cùng. Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh giác, khi đang tu tập nhân địa
với hình tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ
Hiền cũng đã phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm cũng phát vô số lời
nguyện cũng như các vị Tổ sư đã từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị
nghe về việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay không là do ở quý vị.
Tôi đưa đề tài này ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa được thông hiểu.
Nhưng không phải là tôi bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý vị đang tu
học Phật pháp, mỗi người nên tự mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập
nguyện càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng ta đều đang tu nhân
và chưa ai thành Phật cả, chúng ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà tu
hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện
một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng
sanh”.
Thật chứ? Làm sao
quý vị có thể độ chúng sanh được. Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được
ăn ngon, mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng sanh trước hết là độ
chúng sanh nơi cái miệng chuyên nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng ham
ăn, độ cái thân ham thích sung sướng của chính mình trước đã. Cho nên quý vị
phải thẳng thắn và minh bạch trong khi phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện
gì? Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta có thể quên lãng những
gì đã từng ứng dụng tu hành. Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều
gì? Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời phát nguyện. Nay ở trong nhân địa,
lời phát nguyện càng lớn thì trong tương lai, kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị
đặt tất cả nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì quý vị có thể phát một
thệ nguyện lớn ngay từ trong lỗ chân lông.
Phát nguyện là một
lời hứa thiêng liêng mà mọi người Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất
quan trọng, vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống như đi
đường mà không biết mình sẽ đi hướng nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo
trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện, cũng như khi du lịch có người hướng
dẫn đường đi và nơi đến.
Tại sao chư Phật và
chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự
mình hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ tát Địa Tạng khi tu
hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ
đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ
hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu
còn
Con chưa thành
Phật”.
Nguyện lực này cực
kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện
phù hợp với những việc hằng ngày quý vị thích làm.
38. A ra
sam Phật ra xá lợi
A ra sam dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là
vị Đại Pháp Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên thuyết diệu nghĩa
Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm vi diệu, không ai có thể diễn nói tường tận
được, nhưng hiện nay quý vị đang được nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.
Đó là ý nghĩa của
câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý
vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền
thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp.
Có rất nhiều cách
để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn
này là danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng: Chưởng thượng hóa
Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Đây chính là
trường hợp sai một ly đi một dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một vị Bồ
tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng kinh điển nếu quý vị muốn nhưng
sẽ chẳng thấy vị Bồ tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát
cả.
Có thể nói như thế
này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là pháp tu của chư vị Bồ
tát, chứ không thể gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu gọi như thế là
một sai lầm.
Nên khi nói Bảo
bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát không phải là danh hiệu của một vị Bồ
tát. Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi
sang, trong kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp là danh hiệu của
bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
trong kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học Phật pháp nên ghi nhớ kỹ
điểm này, không nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực hiển nhiên. Trong khi
giải thích Phật pháp cho người nghe, quý vị phải có một lập trường vững chãi,
chính xác về những gì mình đưa ra, còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.
A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn
pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.
Quý vị lại hỏi: “Bồ
tát nào?”
Đây chẳng phải là
một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào không tu tập bốn
mươi hai ấn pháp thì người ấy không phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự
vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá
lợi dịch là “giác
thân tử”. Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn
pháp, là pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi Bồ tát tu tập thủ nhãn này
thành tựu, thì chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và tiếp dẫn hành giả đến
các thế giới Phật khắp trong mười phương.
39. Phạt sa
phạt sâm
Phạt sa,
phạt sâm dịch là
“Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là
“Đại trượng phu” và “Vô thượng sĩ”.
Đây là Bảo cung
thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu là người tại gia
thì có thể được làm quan cận thần, người xuất gia có thể chứng được quả vị A la
hán.
40. Phật ra
xá da
Ở câu trên, Phật
ra xá lợi. “Xá lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong
câu Phật ra xá da, “xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa là
khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý vị được ví như một con voi chúa,
còn được gọi là Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao trong tất cả
các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng
vương cao quý.
Phật ra xá
da là nói về bổn thể
của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ
tát Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên Bồ tát đã đảnh lễ đức
Phật A Di Đà trong khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A Di Đà phóng hào
quang để tiếp độ cho người trì chú này.
Phật ra xá
da là Tử liên
hoa thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên hoa thủ
nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn, Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì
thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ được diện kiến mười phương chư Phật. Vì
vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
41. Hô lô
hô lô ma ra
Hô lô hô lô
ma ra. Hán dịch là
“Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là Kim trọc
ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp. Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả
hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý”
nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn
pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn “Tác pháp mạc
ly ngã” có nghĩa chính hành giả là người tu tập, không phải người nào khác. Nên
khi hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không
rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có
ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly ngã”.
Hành trì “Kim
trọc ngọc hoàn ấn pháp”. Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng theo sự
giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không sai
lệch.
42. Hô lô
hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch
là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra đã giảng
ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn
trong câu chú Hô lô hô lô hê rị thì vắng bặt sự khởi niệm khi
tác pháp. Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi niệm tức là còn vọng tưởng.
Nếu hành giả không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt được khả năng
“tác pháp tự tại” và trở thành người có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ
tát thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu độ một cách tự tại, Bồ tát Quán
Thế Âm.
Câu chú này là Bảo
bát thủ nhãn ấn pháp, là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn
pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai ương
bệnh hoạn.
Các vị xuất gia khi
gặp người bệnh, trì chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể
được khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại toàn bộ nhân duyên.
Nếu gặp duyên lành, khi quý vị uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được lành
bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không được lành
bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin nơi Bồ tát.
Sự thực là như vậy,
nay tôi sẽ truyền pháp này cho quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi,
có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này,
mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay
kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được
khỏi hẳn. Có khi bệnh không lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc
vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày
với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi
bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã
trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không
được lành hẳn.
Nói chung có vô
lượng nhân duyên để tạo thành pháp duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công
phu hành trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú vào là liền khỏi
bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin tưởng
vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý
vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi nữa, thì khi uống nước đã trì chú
cũng có được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được
uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của
họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát
sinh năng lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên trì niệm chú Đại Bi, đã
tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Thế nên bất luận
trường hợp nào, có trùng trùng duyên khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ
rằng: “Tôi đã hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, tôi đã trì chú Đại Bi
vào trong nước, tại sao chẳng có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó chẳng phải là
nước trì chú Đại Bi không có hiệu nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được
đắc lực, nên hiệu quả không được bao nhiêu.
Có một số phái
ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công
hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người
được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại
đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.
Dùng nước Đại Bi để
chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu
pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn
luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng:
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành
bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô
cùng lớn lao”.
Nếu quý vị khởi
niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị
rơi vào ma chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất dễ bị gặp ma
chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng.
Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu
bệnh do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ có nghĩa là quý vị tuyên chiến
với ma vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý vị chưa đầy đủ, quý
vị có thể bị thu phục vào cảnh giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và
tạo được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để
đánh bại quý vị.
Tôi vốn thích chữa
bệnh cho mọi người nên khi có ai bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ.
Nhưng sau đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở Mãn Châu, có một
loài thủy quái muốn dìm chết tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 – 60 người
bị chết và hơn 800 căn nhà bị thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên đường đi từ
Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi,
chỉ chút xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi khi đi hoằng hóa
đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế nên chữa bệnh
là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà
ma. Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị làm việc đó mà tâm
niệm không vướng mắc vào bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị
có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm
niệm của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất dễ rơi vào ma chướng. Cho nên,
kết duyên với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một vấn đề đòi hỏi năng
lực tu tập rất cao.
43. Ta ra
ta ra
Quý vị nghe âm vang
của câu chú này rất hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch là “Kiên
cố lực”, là thần lực rất mạnh mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển được.
Kiên cố lực này có
thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây là Kim cang
xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các
loại ma oán.
44.
Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ
Tất lỵ có ba nghĩa:
Thứ nhất là “dõng mãnh” như trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn
luôn chiến thắng, không hề bị đánh bại. Nghĩa thứ hai là “thù thắng”
nghĩa là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba
nghĩa là “cát tường”. Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới có được
sự thắng vượt mọi chướng ngại, mới có được sự cát tường.
Tôi thường nói với
các đệ tử của tôi rằng khi làm bất kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát
tâm dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái thất. Nếu ai lui sụt,
đừng trở về gặp mặt tôi nữa. Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì? Họ
chẳng khác gì một thứ mà người Quảng Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da
đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi là “thảo bao”, là cái túi rơm để
đựng hạt giống mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai muốn phát
nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có
tâm kiên cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy bì” và “thảo bao” thì không
thể nào theo nổi.
Tất lỵ tất
lỵ là Hợp chưởng
thủ nhãn ấn pháp. Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang, sư tử, nhân
cùng phi nhân ph1t tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự có tâm
dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối chuyển. Công năng của ấn pháp này không
phải là ở chỗ ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô
tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là
“cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước đây
tôi đã giảng về diệu dụng của nước cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ đói
được no đủ và mọi tâm nguyện đều được như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ
nhận được nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ này còn
gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được
sống lại. Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không có duyên lành.
46. Bồ đề
dạ - Bồ đề dạ
Bồ đề dạ. Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn thành tựu
giác đạo thì trước hết, quý vị phải có được giác tâm. Nếu không có giác tâm,
thì không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác ngộ. Hành giả trước hết phải có
tâm liễu ngộ chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo nghiệp được.
Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là
tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển.
Từ nay cho đến khi
thành tựu quả vị Phật, quý vị phải phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn.
Đừng nên dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe giảng kinh, hãy
khởi tâm niệm rất khó có dịp được nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được gặp
pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng
suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử xem có nơi đâu trên thế giới này có
được một pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây để nghe giảng
kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới mà pháp âm tuôn trào như thác, như sông
mãi không ngừng như ở đây?
Nên khi đã có duyên
ngặp gỡ được pháp hội, quý vị phải thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu,
bất luận pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến nghe. Đừng có
phân biệt giữa pháp sư giảng hay và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe người
giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu
ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập được vào dòng đạo lý chân thật.
Dù ai giảng đi nữa, quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu một
tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên
lười biếng!
Pháp môn này khó
gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải
nên tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề” kiên cố dõng mãnh vậy.
Nếu bỏ mất tâm Bồ
đề mà mong ngày thành đạo thì không khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên
trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy:
“Vong thấ Bồ đề
tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.
Nghĩa là: “Bỏ quên
tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việ ma vậy”.
Về bất thối, có ba
dạng:
- Thứ nhất là vị
bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A la hán tồi, thì không còn trở lại hàng
phàm phu nữa, Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn rơi lại hàng A
la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại
hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví
dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi
muốn hiện thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn toàn đúng.
- Thứ hai là niệm
bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi
không còn muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là niệm thoái thất.
Khi hành giả khởi niệm thoái thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma vương
rất vui khi người tu hành khởi niệm lui sụt.
Một khi quý vị đã
đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất thối là
tâm lượng của hành giả không còn bị trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác
vọng động nữa”, không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm khởi
nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm
kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố
là nền tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà
tự niệm “niệm vô niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật hiện tiền,
không thể suy lường. Niệm bất thối luôn luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là hạnh
bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới
mà không hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối. Niệm Kim cang
nguyện, thực hành Kim cang hạnh không thể nghĩ bàn.
Đứng trên nhân thừa
mà luận, thì hạnh bất thối là sự hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn
dõng mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì
Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp, thì từ nay cho đến khi thành tựu
quả vị Phật, quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải tinh tấn hành
trì!
47.
Bồ đà dạ - Bồ đà dạ
Câu chú này với câu
trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là
“trí giả” và “tác giả”.
- Trí là hiểu
biết chân chính, là trí tuệ.
-
Giác là sự tỉnh thức.
Người có được sự
hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí tuệ.
Đây là Đảnh
thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa
Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”. Vị Bồ tát hành trì thành tựu
Đảnh thượng hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí giả”. Cơ bản, “trí” và “giác”
vốn chẳng khác nhau.
Giác là sự giác
ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí).
Tri là cái biết
toàn triệt, là giai đoạn trước của giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa
Phật ấn pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ chân chính, là
người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương
chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho quý vị trong tương lai sẽ chứng được
quả vị Phật.
Trong khi đang niệm
Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền, hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh
đầu, như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy, nhưng khi quý vị lấy tay
sờ đầu thì thấy không có gì lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc ấy,
chính chư Phật trong mười phương đến xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu
Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị chưa có được thiên nhĩ thông nên
không nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông nên quý vị không thấy được.
Tuy vậy, chư Phật trong mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo tràng
xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị có phước duyên gặp được, thì đây
là một cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của quý vị. Nhưng quí vị không
được khởi tâm mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa
đầu thọ ký hộ trì cho tôi”. Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện vì
điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu chứng tốt lành, mà khi quý vị
đã khởi tâm đắm chấp rồi, thì cũng trở nên xấu.
Trong chương cuối
của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là
cảm ứng xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu hành giả nghĩ rằng
mình đã chứng được cảnh giới vi diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và
liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này,
quý vị phải tự an trú trong trạng thái “như như bất động”. Cho dù có gặp cảnh
giới tốt hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm không dao động, là quý
vị có được định lực, trí tuệ sẽ phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở
thành “trí giả” và “tác giả”.
48.
Di đế rị dạ
Di đế rị dạ.
Hán dịch là “ chánh
lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”; nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được.
Còn dịch là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng lớn, không có ngằn mé.
Tâm từ bi này bảo hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh và giúp cho họ được
an vui, khiến cho chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình, thoát khỏi sợ hãi
và tránh xa mọi tai ương.
Đây là Tích
thượng thủ nhãn ấn pháp. Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn bằnh đồng.
Lúc xưa, người xuất gia đi đâu cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi đường,
chín vòng kim loại này sẽ tạo nên âm thanh, báo động cho các loài côn trùng
tránh xa để khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại pháp khí trong
Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường dùng tích trượng như là chìa khóa để mở cửa các
địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi
rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn thể mọi loài chúng sanh.
49.
Na ra cẩn trì
Na ra cẩn
trì. Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch
là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu trong các bậc Thánh hiền,
họ là thượng thủ, là bậc khó tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng sanh, khéo độ
thoát cho chúng sanh đến quả vị tối cao.
Đây là Bảo bát
thủ nhãn ấn pháp. Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước này có thể tẩy
trừ mọi uế trược ở thế gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh khổ. Bồ tát tu
tập thành tựu ấn pháp này sẽ có năng lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi
quý vị tu tập pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng cứu giúp mọi
loài chúng sanh, giúp họ ngăn ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên còn được
gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50.
Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt
ni na. Hán dịch là
“Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp.
Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp
này có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ, võng lượng. Khi quý vị utu tập
thành tựu ấn pháp này rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng lượng
đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp Bảo kiếm này của hành giả. Ấn
pháp này rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại đạo nào không tuân phục ấn
pháp, hành giả có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.
51.
Ba da ma na
Ba da ma na có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là
tên của hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới. Nghĩa thứ hai là
“Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều vui mừng khen ngợi công đức của hành giả.
Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh
tiếng, mọi công hạnh đều được thành tựu thật nghĩa và rốt ráo.
Đây là Bảo tiễn
ấn pháp. Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu sẽ liền gặp được thiện
hữu tri thức.
52.
Ta bà ha
Trong chú Đại bi,
câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười
bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất
hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ nhất là
“thành tựu”. Khi trì niệm câu chú này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả
đều được thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi hành trì, là do vì
tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu quý vị có tâm chí thành và có niềm tin kiên
cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu. Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm
không tin vào chú này, thì không bao giờ được thành tựu.
Nghĩa thứ hai là
“Cát tường”. Khi hành giả niệm câu chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở
thành tốt lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu quý vị có lòng
thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì
thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến chỗ thành tựu thì trước hết phải có
niềm tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị có bệnh, muốn cha mình được khỏi
bệnh thì quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng chú này mới có
cảm ứng.
Hoặc khi quý vị
nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh
ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý
vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”. Quý vị
trì chú này một cách thành tâm và liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả gặp
được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta
bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị Tỳ kheo
xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ
“viên tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu chú Ta bà ha là
để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch” có
nghĩa là “công vô bất viên”. Là công đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức
vô bất tịch” là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm. Chỉ có chư
Phật và Bồ tát mới biết được công hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu
không suy lường được.
Nghĩa thứ tư
là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là
“tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà
ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi
lạc an vui.
Nghĩa thứ sáu của
câu này, tôi thiết nghĩ trong quý vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa
từng nói bao giờ.
Ta bà hà có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này
nằm trong ý nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là
không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú là không
có một niệm chấp trước vào việc gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận
với mọi việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường hợp: “Vô vi nhi
vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô
trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị vừa móng
khởi lên một niệm tưởng, đừng nên vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ
sáu của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào các niệm tham, sân,
si, mạn, nghi. Nếu quý vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải nhanh chóng hàng
phục chúng, chuyển hóa chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm nào cả. Hàng
phục, chuyển hóa được những tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì
để chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để hàng phục. Quý vị
nói rằng tâm quý vị bị đầy dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo kiếm này để
cắt sạch. Nếu tâm quý vị có đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này đuổi
sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt
đứt chúng từng mảnh.
Tôi sẽ chặt đứt tất
cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để
hàng phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo thì trước hết quý vị phải
chuyển hóa được mọi vọng tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được vọng tưởng
trong tâm mình, thì thiên ma ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù chúng
có muốn đến để quấy phá, chúng cũng chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu
nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta
bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
53.
Tất đà da
54.
Ta bà ha
55.
Ma ha tất đà da
56.
Ta bà ha
Chữ Tất đà
da có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là
“thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết
nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.
Thành tựu đốn kiết
nghĩa là khi sử dụng thần chú này, thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền
tức khắc (đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.
Có người hỏi: “Tại
sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”? Vì sự trì
niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu không có
sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng,
dung thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được thành tựu.
Tất đà dạ còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là
hành giả làm bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.
Cũng gọi là “thành
lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa
thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung xưng tán có
nghĩa là mọi người đều đến khen ngợi, cung kính tán dương công đức của hành
giả.
Ma ha tất đà
dạ. Ai cũng đều biết
Ma ha có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là hành giả đạt
được mọi sự nghiệp to lớn, thành tựu được công đức thù thắng và đạo nghiệp viên
mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả hai câu chú hợp
lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh
thủ nhãn ấn pháp. Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh điển, chính là
Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận.
Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ rất tinh anh. Nghĩa là có
được khả năng “bác văn cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký ức của chúng ta
thường hoạt động theo một lối riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây
gậy. Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ ràng hết được. Chỉ khi
nào cần cho sự học tập của mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay tra cứu lại
những ghi chép. Tại sao trí nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa từng hành
trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này. Nếu quý vị hành trì ấn pháp
này, quý vị sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức rất đa dạng. Giống
như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan
đã hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi ngờ gì. Ngài đã thành tựu
ấn pháp này từ vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều gì, thì không còn quên
nữa. Ngay cả Ngài có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng nghe. Tại sao tôi
nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành
đạo. Như thế nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất gia, thì những bài
thuyết pháp của đức Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì làm sao A Nan có thể
kết tập toàn bộ Kinh điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A Nan được nghe
các vị trưởng lão giảng lại những bài Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc
chính do đức Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định nên A Nan thừa
biết rõ nguyên nhân của sự nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ
nhãn ấn pháp thành tựu.
Có người hỏi tôi:
“Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo
kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp
này.
Ở trong đồ hình mạn
đà la, đây là ấn pháp Bồ tát phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm
một tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những luồng hào quang sáng
chói biểu tượng cho sự khai mở trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng kiến
và công đức thành tựu viên mãn.
57.
Tất đà du nghệ
58.
Thất bà ra dạ
59.
Ta bà ha
Tất đà. Hán dịch là “thành tựu lợi ích”.
Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra
dạ. Hán dịch là “Tự
tại”. Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp. Hành giả thành tựu ấn pháp này
có thể sử dụng lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để làm lợi
ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng ở nơi thể tánh mà thường được tự
tại và thành tựu vô lượng công đức.
60.
Na ra cẩn trì
61.
Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ
lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi.
Đây là Bảo bình
thủ nhãn ấn pháp.
62.
Ma ra na ra
63.
Ta bà ha
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
Đây là Quyến
sách thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý
đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
Quyến sách thủ
nhãn ấn pháp có rất
nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến
sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các
loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy
thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây
là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng
thật khó lường.
Trong đạo giáo gọi
ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65.
Ta bà ha
Tất ra tăng. Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa
là thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”.
Bất không có nghĩa
là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.
Bất xả có nghĩa là
“Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp.
Nên có câu kệ:
“Chân như lý thượng
bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung
bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên phương
diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ
là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự
tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào
cả”.
A mục khư da còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”.
Nghĩa là thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng sanh.
Câu chú này còn có
nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh
công đức thường vẫn tròn đầy.
Đây là Bảo phủ
thủ nhãn ấn pháp. Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành giả có thể
tránh được nạn tù tội, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều không bị
vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa.
Quý vị sẽ hỏi: “Nếu
tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay
sao?”
Không! Là Phật tử,
quý vị không được phạm pháp. Nếu quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu
học Phật pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu quý vị làm chuyện
phạm pháp, tất nhiên phải bị bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi
có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ
thủ nhãn ấn pháp này.
66.
Ta bà ma ha a tất đà dạ
67.
Ta bà ha
Như quý vị đã biết,
thế giới chúng ta đang sống là thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”.
Còn được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết, thiện đáo”.
Kham nhẫn có nghĩa
là chúng sanh như chúng ta khó có thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi
giới Ta bà này.
Nhẫn ái có nghĩa là
chúng sanh thế giới Ta bà này không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn
sanh khởi lòng thương yêu mọi loài nữa.
Thiện thuyết, thiện
đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà.
Cùng khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa,
tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ. Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa
là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có công năng đưa hành giả đến bờ bên
kia một cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công đức.
Đây là Bồ đào
thủ nhãn ấn pháp. Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này thì trong miệng
hành giả thường có vị ngọt của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý vị hãy chú ý
điểm này, trong khi hành trì ấn pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa
là bắt đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi, khi quý vị có trồng
trọt các loại nông sản, ngũ cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá hoại mùa
màng của quý vị. Còn các loại cây ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh
trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này
rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.
Tất la tăng
a mục khư da. Ở
trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ
tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha
a tất đã dạ ta bà ha là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường dùng vô số phương
thuốc để chữa lành bệnh cho chúng sanh.
68.
Giả kiết ra a tất đà dạ
69.
Ta bà ha
Giả kiết ra
a tất đà dạ. Hán
dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này có
hình tròn nhưng có khác so với Kim cang luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là
“Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn sinh khởi xung khí và bất bình thì
gọi là ma. Khi ấy họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường làm
những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng
đều như thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học đối với tất cả mọi điều. “Tất cả
đều là tà vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý gì đến pháp luật nữa. Họ
luôn xung khắc với toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này là điên
cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người này được gọi là Ma. Nộ khí của loài
ma oán này thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận dữ: :Ai cũng đều quá vô
lễ với ta!”. Hoặc nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ tát hay A la hán ta
cũng hạ gục luôn. Còn loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì ta sẽ chà nát
dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này
thật ghê rợn.
Đây là Bạt
chiết la thủ nhã ấn pháp. Với Kim cang luân, hành giả có thể đập tan các
loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại ma
nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi hành giả dùng Kim cang luân để thi hành
ấn pháp này. Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con nguyện quy phục
ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật, không dám xâm hủy”.
Kim cang luân
ấn pháp không những chỉ
có công năng hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh
chấn động. Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh Đảnh”.
Sấm sét vốn thường
phát sinh từ trên Trời, nhưng các Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ
lòng bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi. Tiếng sấm sét vang
ra khiến cho thiên ma bị chấn động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó bị tan
tành từng mảnh.
Khi giảng Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, tôi có nói về một người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp
này. Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm sét sẽ vang rền khi
quý vị sử dụng ấn pháp và tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả các loài
ma oán.
A tất đà dạ. Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả
trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất lớn; không có gì so sánh được, cho
nên mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu phục thiện.
70.
Ba đà ma yết tất đà dạ
71.
Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”.
Yết tất đà
dạ. Hán dịch là
“Thiện trắng”.
Hồng liên hoa này
là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng
liên hoa thủ nhãn ấn pháp này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở cõi
Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành tựu như ý.
72.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73.
Ta bà ha
Na ra cẩn
trì. Hán dịch là
“Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn,
canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán
Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô
úy thủ nhãn ấn pháp mà Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ chúng
sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74.
Ma bà lợi thắng yết ra da
75.
Ta bà ha
Ma bà lợi
thắng. Hán dịch là
“Đại dõng”, cũng dịch là “anh hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại anh
hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi như thế.
Yết ra da. Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn
tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại
anh hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là do hành trì Tổng nhiếp thiên
tý thủ nhã ấn pháp, ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán
không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên thế giới.
Hành giả tu tập ấn
pháp này nên biết đây là ấn pháp quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn
pháp. Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai ấn pháp kia đều có
đủ trong ấn pháp này.
Quý vị có thể thắc
mắc: “Thế thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này thôi cũng đủ, chẳng cần
hành trì bốn mươi mốt ấn pháp kia nữa”.
Nếu quý vị lười
biếng thì cứ làm. Nếu không phải là kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn
mươi hai ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và thích tu tập để
trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn mươi
hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy nhiên,
vì quý vị là người lười biếng nên sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển
nhiên. Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không muốn trở thành một vị
Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn
pháp này.
76.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu này đã được
giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi. Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi
sẽ giảng lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được rõ ràng, nghe
lại lần này sẽ được rõ thêm. Những người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này
nữa lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu tôi giảng chưa
rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc, vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với
các Pháp sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy
y Tam bảo.
Hắc ra đát
na có nghĩa là
“bảo”: quý báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn câu nghĩa là
con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như
những Phật tử tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là quy y Tam
bảo.
Quy y Tam bảo tức
là quy y với toàn thể chư Phật trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư
không pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong ba đời, mười phương,
cùng tận hư không pháp giới. Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy y với
tất cả các bậc Hiền thánh tăng trong ba đời, mười phương, cùng tận hư không
pháp giới.
Hư không, chẳng bao
giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười
pháp giới, trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu cõi giới của
chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh
văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm
phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười phương là:
Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm
phương trên và phương dưới tất cả là mười.
Ba đời là quá khứ,
hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba
đời. Những lời đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển được diễn
đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói ra
được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian
mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp giới.
Khi nào quý vị có
được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có
nghĩa là quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất kỳ lúc nào
thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:
“Khi mê Pháp Hoa
chuyển
Khi ngộ chuyển
Pháp Hoa”.
“Vô tự” không có
nghĩa là Kinh không có chữ. Mà chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy
nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có thể thấy được chư Phật đang
tụng Kinh. Một số vị đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh Thủ Lăng
Nghiêm và một số vị khác đang tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang tụng Kinh
và trì chú như thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các thời
khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư
không pháp giới.
Chúng ta cũng quy y
Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành
Hiền Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la hán, các đại Tỳ kheo
tăng.
Đá ra dạ có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với
Tam Bảo trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung
kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam mô a lị da
Nam
mô. Hán dịch là “quy y”.
A lị da. Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa
là “Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy y với tất cả các Hiền Thánh Tăng.
78.
Bà lô kiết đế
Bà lô kiết
đế. Hán dịch là
“quán”.
79.
Thước bàn ra da
Thước bàn ra
da. Hán dịch là “tự
tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán
Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80.
Ta bà ha
Bồ tát Quán Tự Tại
đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành
tựu công đức vô lượng vô biên.
81.
Án tất điện đô
Nay phần kinh văn
của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ
Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án
mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô. Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng,
lãnh thổ, cương vực của mình đã được kiết giới thành tựu. Phạm vi kiết đại giới
là 800 do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do tuần. Trong phạm vi đã được
kiết giới này, hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi công đức đều
được thành tựu và bản nguyện đều được như ý.
Chẳng hạn như khi
tôi đã kiết giới đạo tràng trong phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn)
thì trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc những thiên tai khác.
Vì các vị hộ pháp, thiện thần đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng được
thành tựu.
Phạm vi và ý nghĩa
kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi
trần của hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới, và vô lượng vi
trần trong thế giới cũng chỉ hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một vi trần
hoại diệt thì vô lượng vi trần đều hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô
lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi diệu của sự kiết giới.
82.
Mạn đà ra
Mạn đà ra. Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là
“Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội
của hành giả nhất định phải thành tựu.
83.
Bạt đà da
Bạt đà da dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn
như khi tôi muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu tôi muốn tất
cả các vi trần không bị tan hoại thì các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau.
Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha với
tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc
nếu có nạn động đất lớn thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến thành không
có. Nhờ vậy nên không có nạn động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi là sự
thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu quý
vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu nhiệm. Còn nếu quý vị không tin,
là vì quý vị chẳng thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84.
Ta bà ha
Ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì?
Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý
vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà
ha.
Những vị khi làm lễ
thế phát xuất gia cũng trì niệm câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất
gia tu học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì Kinh
Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã
giảng hết bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại Bi Tâm Đà
La Ni. Còn phần sau nữa là khoa nghi hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi
không nhắc lại nữa.
Năm trước, một số
đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần
một năm. Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi nguyện rằng quý
vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà
da ta bà ha, tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của mình. Mỗi người
có sự phát nguyện khác nhau, nên sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên
mãn cả.
Nguyện cho tất cả
Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả
vị Phật, vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một khi quý vị đã
chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.
(Hà Nội 3/2/2018-88 Năm ngày thành lập Đảng CSVN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét