Thứ Năm, 14 tháng 3, 2019

Hôn nhân hạnh phúc hay không xem cung PHU THÊ?

Phụ nữ có nốt ruồi ở "cung phu thê" thì hôn nhân hay trắc trở không thuận lợi (Nốt ruồi càng to càng khổ)


Trong tử vi phong thủy và xem tướng mặt (cho cả phụ nữ và đàn ông), các chuyên gia nhân tướng học có căn cứ vào thống kê thực tế và kinh nghiệm người xưa để lại để đưa ra những bộ phận trên gương mặt phản ánh khá chính xác mức độ hạnh phúc trong hôn nhân của mỗi người: Đó là cung Phu thê và cung Tài bạch.
Cung Phu thê còn được gọi là Gian môn, chính là phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân mai. Nhìn vào cung Phu thê kết hợp với huyệt vị Thái Dương, ta sẽ nhận định được gần như 90% về cuộc sống gia đình của người nam/người nữ đối diện.
Cung Tài bạch ở đây nhắc đến chính là vùng mũi, nói rộng ra bao gồm từ đầu mũi, cánh mũi đến sống mũi và hình dạng tổng thể của chiếc mũi trong xem tướng ngũ quan.
Biết xem tướng mặt chính xác, chỉ cần nhìn cung Phu thê và vũng mũi của người nam hay nữ sau khi yên bề gia thất hoặc từ khi họ còn trẻ (sau 18 tuổi sẽ là chính xác nhất) ta có thể dự đoán được sự sâu đậm hay dầy mỏng trong duyên phận vợ chồng.
Cụ thể như sau:
Xem tướng cung Phu thê
1. Người nào có cung Phu thê thấp, ít thịt nhiều xương (mặt gầy gò, mắt nhô cao), các chuyên gia nhân nướng học và xem tướng mặt nhận định, họ là người dễ có đời sống hôn nhân không thuận, họ dễ bị đối phương chi phối, tình cảm vợ chồng ít khi hạnh phúc.
Nếu quá khắc khẩu hoặc gia đình hai bên không môn đăng hộ đối, vợ chồng không biết bảo ban nhau làm ăn thì khả năng ly hôn là rất dễ xảy ra. Để hóa giải, vợ chồng cần cùng nhau phối hợp, giải tỏa tâm lý căng thẳng, chia sẻ và thấu hiểu với nhau nhiều hơn, đồng thời điều chỉnh lại vị trí đầu giường trong phòng ngủ.
Tối kị để mở cửa phòng ngủ ra là thấy toàn bộ giường ngủ, đầu giường không được kê áp vào nhà vệ sinh sát với bồn cầu. Cũng tuyệt đối tránh kê đặt giường ngủ ở nhà cao tầng mà ngay bên dưới là bếp nấu, phía trên là phòng thờ.

2. Cung Phu thê của người nam hoặc nữ nếu có nốt ruồi đen hoặc vết sẹo đậm, dài thì vợ chồng sẽ dễ khắc khẩu, hôn nhân bất hòa vì gia đình không êm ấm.
Để phòng tránh nguy cơ có người thứ ba chen vào, cần đặc biệt chú ý không bao giờ bày biện hoa tươi trong phòng ngủ, không bày các vật phẩm phong thủy hoặc đồ dùng nhọn, sắc ở đầu giường (như dao, kiếm, kéo…).
Nếu hai vợ chồng đều có nốt ruồi đen ở cung Phu thê thì hai vợ chồng đều dễ vượng vận đào hoa. Để khắc chế sự đổ vỡ trong hôn nhân sau này cần chú ý tới việc bài trí nội thất trong nhà, không để các vật dụng quá thiên về phía Tây Bắc, phía Tây Nam bị nhấm chìm, sơ sài khiến uy lực của người nam được gia tăng, sức mạnh của phái nữ bị giảm sút.
Người vợ cần khéo léo kê đặt lại các đồ đạc trong nhà cho cân đối, hài hòa, tránh tình trạng nhất bên trọng nhất bên khinh. Tuyệt đối tránh trang trí phòng ngủ bắt mắt rối rắm, cách thiết kế này sẽ chỉ khiến tình cảm vợ chồng thêm nhạt nhòa.

Xem tướng mũi
1. Người nữ có sống mũi cao và thẳng, đầu mũi tròn vừa được các nhà tử vi phong thủy và nhân tướng học nhận định là người có hạnh phúc hôn nhân tốt đẹp. Nếu kết hợp với khuôn miệng tròn đầy, môi không quá rộng, khi cười răng không bị hở lợi thì dễ lấy được chồng đại gia trải qua cuộc sống vinh hoa phú quý.
Có thể nói đây là tướng vượng phu ích tử, vượng vận quý nhân, người nữ này vừa được gia đình chồng nâng niu, lại dễ được hỗ trợ giúp đỡ trong công việc và cuộc sống. Hai vợ chồng hợp mệnh và không lấy nhau quá sớm, mỗi người đều có sản nghiệp riêng thì thường khi ngoài 45 tuổi, họ sẽ có sản nghiệp không hề nhỏ, gia đình yên ấm, thuận hòa.

2. Người nam hoặc nữ có mũi quá thẳng hoặc sơn căn quá cao, trong xem tướng mặt được gọi là tướng người giỏi giang nhưng có phần kiêu ngạo, tự mãn và hơi bảo thủ, tuy là cát tướng nhưng cần bồi dưỡng tâm tính. Họ hợp lấy người cương nhu hài hòa, biết nhẫn nhịn và kiên trì, như vậy hôn nhân mới viên mãn ấm êm.
Nếu cả hai vợ chồng đều có tướng mũi này hoặc tính tình quá giống nhau, e rằng, hôn nhân sẽ trải qua không ít sóng gió nhưng may mắn vẫn thuận hòa khi bước vào tuổi vãn niên.
3. Người có đầu mũi tròn đầy, nốt ruồi đen mọc ở sống mũi, nếu là nam thì vượng vận gia đình, yêu thương vợ con, sau khi yên bề gia thất (tốt nhất nên kết hôn muộn), vợ chồng ân ái thắm thiết, biết bảo ban nhau làm ăn kinh doanh nên dự đoán ngoài 40 tuổi sẽ dư dả tài lộc.
Ngược lại, người nữ có phần mũi như miêu tả, cần chọn người bạn đời hơn nhiều tuổi, chín chắn, đứng đắn, vóc dáng cao ráo, khi kết hôn đã có không ít sản nghiệp thì cuộc sống gia đình sẽ dễ bề an ổn. Tốt nhất nên lập gia đình nơi phương xa, tuy ít được gần nhà đẻ nhưng càng ở xa sẽ càng hạnh phúc.

4. Người nữ có sống mũi thấp, mũi không tẹt nhưng cánh mũi to, thường sẽ tài giỏi hơn chồng, lập gia đình với người hiền hậu, trung trực nhưng không giỏi làm ăn. Họ sẽ đóng vai trò làm trụ cột gia đình, chèo lái con thuyền hôn nhân đi đúng đường nên vẫn luôn hòa thuận, vợ chồng yêu thương nhau cả đời.
5. Mũi quá to so với tổng thể gương mặt, diện mạo hơn người, răng cười hở lợi là đặc điểm của người nữ dễ lấy chồng trẻ hơn tuổi, hôn nhân sẽ chỉ hạnh phúc nếu người chồng tu chí làm ăn. Muốn khắc chế bất hòa hoặc sự đào hoa của người nam trong gia đình, (nên thỉnh vòng tỳ hưu hoặc đặt vật phẩm thủy tinh hợp mệnh người vợ ở đầu giường).
6. Mũi quá nhỏ so với tổng thể gương mặt, vóc dáng cao to, đôi mắt to tròn là nhân diện của người nam hoặc nữ lấy vợ/chồng hơn nhiều tuổi, vợ chồng đều giỏi giang, hạnh phúc, gia vận khá giả, ấm êm. Vãn niên thường để lại nhiều điền sản, của cải cho con cháu.
( Theo Tướng Pháp)

 



Thứ Hai, 11 tháng 3, 2019

Câu lạc bộ Phong thủy Thăng Long Hà Nội đầu năm Kỷ Hợi về miền tâm linh


Câu lạc bộ Thăng Long Hà Nội-Chùa Thi xã Thi Sơn-Kim Bảng-Hà Nam 

CLB Phong thủy Thăng Long Hà Nội hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo và cung cấp dịch vụ tư vấn thuộc các bộ môn cổ học Phương Đông như: Dịch học, Phong thủy, Tử vi đẩu số, Tứ trụ, Trạch nhật, Văn hóa dân gian, Phong tục tín ngưỡng,….Do vậy hàng năm CLB thường tổ chức  nhiều chuyến du lịch để tìm hiểu phong tục tín ngưỡng  của nước Việt Nam.Năm nay  Thầy Nguyễn Trọng Tuệ chủ nhiệm và Thầy Trần Mạnh Thắng Phó Chủ nhiệm CLB  đưa đoàn du xuân  đền và chùa thuộc các tỉnh đồng bằng Băc bộ.

Chụp ở đền Quan Điều -Quỳnh Phụ-Thái Bình

Điểm đến đầu tiên là đền Quan Tuần Tranh Đền Tranh, còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh, là một ngôi đền cổ Việt Nam, thờ vị thần sông nước cai quản khúc sông ở gần bến đò Tranh, thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.



Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên cổ gọi là Đền Tranh.

Theo lược sử: Quan Tuần Tranh chính là vị Tướng Cao Lỗ. Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa. Xưa xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, sử viết thành Cổ Loa rộng ngàn trượng (1 trượng = 1,65 m, như vậy chiều rộng khoảng 1,650.mét)quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành, lại có tên là Tử Long Thành. Người Trung quốc gọi là Côn Lôn thành vì thành rất cao – Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.
 Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).

Sau khi Thục Phán hợp nhất Văn Lang và Tây Âu Lạc thành nước Âu Lạc về đóng đô ở Cổ Loa theo ý kiến của Cao Lỗ. Ông được An Dương Vương trọng dụng giao cho việc xây đắp thành Cổ Loa, tổ chức và luyện tập quân đội trở nên hùng mạnh. Ông cũng là người phát minh ra nỏ liên châu, loại vũ khí đánh xa rất có uy lực thời cổ. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà.
 Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu.Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.
Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét sàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).
Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn. Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân ( năm 179 Tr.CN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 Tr.CN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rắc lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát, trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ). Nơi đây còn được coi là quê nhà của Quan Lớn Tuần Tranh vì cho rằng ông là quan văn ( Thái thú) ở Hồng Châu, có vợ là Dương thị, mà cơ sở là lấy từ truyện “ Chuyện đối tụng ở Long Cung” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào thời nhà Mạc.
Hải Dương xưa vào thời Hùng Vương là bộ Thanh Tuyền, đời Tần Hán thuộc Giao Chỉ. Đến đời nhà Trần đổi là Lộ Hải Đông vì đất ấy có chỗ là biển. Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Nam Sách thừa tuyên gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ hồng, Nam sách và Kinh Môn có tất cả 18 huyện. Phủ Hạ Hồng có 4 huyện là Trường Tân, Tứ kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện – Theo Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn. 
Đại Nam nhất thống chí ghi về tỉnh Bắc Ninh có Đền Cao Công:” Ở bờ sông xã Đại Than, huyện Gia Bình, bên cạnh đền có tảng đá lớn dựng đứng. Ngoại kỷ Sử ký ghi đời Đường, Cao Biền đi đánh phương Nam qua châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy thần về xưng là Cao Lỗ nói ngày trước ta giúp An Dương Vương chế nỏ thần gọi là Linh quang kim trảo thần nỗ, có công đánh lui giặc, rồi bị Lạc Hầu gièm pha, sau khi mất, Thượng Đế thương là người trung nghĩa cho cai quản ở đây. Cao Biền tỉnh dậy đêm việc ấy nói với thuộc hạ rồi đề thơ ở miếu. Sách Tục bác vật chí viết An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông chế nỏ mỗi lần bắn giết được 200 người”. 
Hơn hai nghìn năm qua, hàng năm có lễ hội rất lớn ngày sinh của ông là ngày 14/2 Âm lịch, và ngày giỗ kỵ 25/5 Âm lịch. Ông hiển Thánh là một Vị quan lớn là Đức Thánh Vương quan đệ Ngũ của Đạo Thánh Mẫu Việt. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao như khi ông còn sinh thời đánh giặc ngoại xâm.


Đền Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ chính tại đền Đồng Bằng; thuộc xã An Lễ – Quỳnh Phụ – Thái Bình. Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình là Đền trung tâm trong Khu Du lịch Tâm linh Đền Đồng Bằng.
Trước đây; vào thời Vua Hùng; có hai vợ chồng họ Phạm và họ Trần ở Thụy Anh; Thái Bình có bắt gặp một cô gai nhỏ bên sông. Họ đã nhận cô bé về làm con. Họ đặt tên cô là Quý Nương.Năm Quý Nương 18 tuổi; Cô ra sông tắm có con Hoàng Loang quấn chặt lất người cô. Quý Nương có thai và sinh ra 1 cái bọc. Từ bọc sinh ra 3 con rắn. Một con chui vào giếng nước đó là giếng thiêng của Đền Đồng Bằng ngày nay. Khi giặc Thục sang xâm chiếm nước ta. Vua Hùng lập đàn cầu trời được thần linh mách bảo về nơi Đền Đồng Bằng mà triệu thì sẽ có dị nhân đứng lên giúp đánh tan quân thù;
Vua Hùng làm theo. Đúng như vậy; tại giếng thiêng đền Đồng Bằng ngày nay; Hoàng Xà lền hiện ra và biến thành một tràng trai lực lưỡng; tuấn tú hơn người. Ngài nhận chỉ dụ của Vua Hùng; sau đó triệu 2 em (hai Hoàng Long trong cái bọc nàng Quý Nương đã sinh ra); mười tướng cùng các binh sĩ. Sau mười ngày triệu tập quân sĩ; Ngài dã xuất quân và đánh tan quân Thục trên cả 8 của biến chỉ trong vòng có 3 ngày. Ngài có tên là Vĩnh Công; và sau này được Vua Lý Thánh Tông phong là Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình. Vì thế; dân gian gọi ngài là: Vua Cha Bát Hải Động Đình. 
Như vậy; theo truyền thuyết này thì sự tích về Vua Cha Bát Hải Động Đình có vẻ hư cấu và thần thánh hóa. Tuy nhiên; vẫn có thể nói rằng Vua Cha bát Hải Động Đình và các tướng lĩnh cua Ngài là các nhân vật có thật trong cuộc chiến đấu chống quân Thục của dân tộc Việt Nam trên 2000 năm trước. Chỉ tiếc rằng cuộc chiến đã quá lâu chúng ta không còn sử sách nào lại về các chiến tích của các nhân vật lịch sử này. Vì thế; chiến tích của các nhân vật này đã được thần thánh hóa cũng là điều hiển nhiên mà thôi. Cũng theo lưu tryền trong dân gian thì 10 tướng của Vua Cha bát Hải sau này được coi là con của Đức Vua Cha Bát Hải. Một số các tướng lĩnh này tiếp tục được giáng trần để giúp đời. Các tướng này hầu hết là các Thánh Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng như: Quan Hoàng Bẩy; Quan Hoàng Mười….
Đền Quan lớn Điều Thất:


theo quan điểm của Giáo hội Hoàng Thiên Tiên Thánh Giáo thì có 5 vị như vậy, Quan đệ Lục, Quan điều thất, Quan điều bát, Quan Hoàng Triệu và Quan đệ thập Bắc Quốc.

Các Thầy đang:  trình "sớ"

Nếu như Ngũ vị Tôn ông là các vị Thống quản trực tiếp các miền Thiên Địa Thủy Nhạc thì các Quan trong Thống phủ Tôn ông làm nhiệm vụ giúp việc cho Bốn phủ Vua cha chứ không quản lí trực tiếp.



Các Quan lớn trong Thống Phủ Tôn quan thường không hay ra ngự đồng.
·  Quan lớn đệ lục Bố Cái Đại vương: Ngài tên thật là Phùng Hưng, người là thủ lĩnh cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự cai trị của Nhà Đường, Ngài đánh đuổi giặc phương Bắc.

Xuất thân từ dòng dõi quý tộc ở Đường Lâm, Sơn Tây, Ngài sinh ngày 25 tháng 11, xuất thân cao quý, dung nghi tươi sáng, đặc biệt khí phách hơn người.
Ngài ngự áo đai mạng màu đen chỉ khai quang và ngự tửu, phụ trách công việc cho vua Địa phủ.

·  Quan lớn Điều Thất: Còn gọi là Quan Điều Đào Tiên, ngài là thủ phủ đền Đồng Bằng, là con trai thứ bảy của Đức Vua Cha Bát Hải. Ngài là vị văn quan được giao nhiệm vụ biên sổ, coi giữ kho tàng ở Thủy cung, trông coi nội điện của Vua Cha.
Khi xưa Ngài theo đức Vua Cha phù giúp Hùng Vương đánh giặc, khi hoàn thành nhiệm vụ Ngài liền hóa ngay. Quan Điều Thất không giáng trần nhưng Ngài vẫn thường hiển linh phù giúp dân nước nên nhân dân lập đền thờ, các triều đại có sắc phong, Đền Ngài là đền Công Đồng (hay còn gọi là đền Quan Điều Thất) ở Thái Bình gần đền Đức Vua Cha Bát Hải.

Ngài ngự đồng mặc áo đai mạng đỏ, tấu hương khai quang và phất cờ (có thể cờ là khăn tấu).
           

Thụ lộc ở đền Quan Điều Thất 

Đền Trúc ở thôn Quyển Sơn-xã Thi Sơn-huyện Kim Bảng –tỉnh Hà Nam: Sự tích Đền Trúc Hà Nam. Đền nằm bên bờ sông Đáy, có quả núi nhỏ mang tên Núi Cấm, nhô lên giữa rừng trúc bạt ngàn. Tương truyền xưa kia nơi đây bạt ngàn trúc mọc. Năm 1089, đoàn chiến thuyền của Lý Thường Kiệt khi chinh phạt phương Nam đi qua thôn Quyển Sơn, bỗng một trận gió lớn ào ào thổi tới, bẻ gãy cả cột buồm rồi cuốn lá cờ lớn của đoàn quân lên đỉnh núi.  


Lý Thường Kiệt bèn cho thuyền dừng lại, cùng quân sĩ lên bờ sửa lễ tế trời đất cầu đại thắng. Lần đó, thắng lớn trở về, Lý Thường Kiệt đã cùng đoàn quân lên đây làm lễ tạ ơn, khao thưởng ba quân, mở hội cho dân làng mừng chiến thắng và đặt tên cho ngọn núi là Cuốn Sơn. Về sau, để tưởng nhớ công lao của vị tướng tài, dân làng Cuốn Sơn đã lập đền thờ Lý Thường Kiệt ở chính nơi ông đã mở hội đền thờ, đó chính là Đền Trúc bây giờ.Lần ra quân ấy thắng lớn trở về, 


Lý Thường Kiệt đã cùng quân sĩ lên đây làm lễ tạ ơn, khao thưởng ba quân và mở hội cho dân làng cùng mừng chiến thắng. Lễ hội kéo dài hàng tháng, không khí tưng bừng, náo nhiệt. Trong thời gian ở đây, ông còn dạy nhân dân nuôi tằm dệt vải. Về sau, để tưởng nhớ công ơn của vị tướng tài, dân làng đã lập đền thờ Lý Thường Kiệt ngay tại nơi ông đã mở hội, giữa rừng trúc nên thơ.

Kề bên Đền Trúc là ngọn Núi Cấm vốn gắn bó với điềm linh ứng năm xưa, mang ý nghĩa tâm linh đối với dân trong vùng. Cũng vì thế mà núi Cấm vẫn giữ được nhiều nét nguyên sơ với hệ sinh thái phong phú. Theo đường mòn leo lên đỉnh Núi Cấm, du khách sẽ thấy có một bàn cờ thiên tạo bằng đá, tương truyền là nơi các vị tiên thường rủ nhau về chơi cờ, ngắm cảnh nhân gian. Từ trên cao, du khách còn có dịp ngắm nhìn bức tranh toàn cảnh đẹp mắt.


Trong lòng Núi Cấm còn có hệ thống hang động độc đáo gồm 5 hang nối liền nhau, tạo thành một dãy động liên hoàn dài hơn 100m, gọi là Ngũ Động Sơn hay Ngũ Động Thi Sơn Hà Nam. Cấu trúc các động rất đa dạng: Động 1 có ánh sáng hắt vào mang màu xanh nhạt của buổi sáng, màu tím huyền ảo của buổi chiều. Động 2 có nhũ đá mang hình chiếc trống nằm, trống treo, dàn mõ... Động 3 có nhũ đá ẩn sâu trong bóng tối, gặp ánh sáng rọi vào thì lung linh như ngọc. Động 4 rộng nhất với sức chứa hàng trăm người. Động 5 có những nhũ đá từ trên rủ xuống như bức rèm the. Tất cả tạo nên một không gian huyền bí, cho trí tưởng tượng bay xa.


Bên cạnh khu đền trúc tọa lạc ngôi chùa Thi. Từ khu ngũ động Thi Sơn sang Chùa Thi men theo con đường nhỏ đầy bóng mát của cây trúc  là đến Chùa Thi ẩn mình cạnh núi cấm sừng sững vươn cao, ngôi chùa mang dáng dấp tiên cảnh bên cạnh con sông Đáy hiền hòa. 

Trước đấy là một ngôi chùa nhỏ, nay đã được xây dựng lại  to và đẹp; đây cũng là điểm đến khi du khách tham quan đền Trúc và ngũ động Thi Sơn.


Mỗi năm câu lạc bộ Phong Thuỷ Thăng Long-Hà Nội thường  tổ chức cho hội viên và người nhà hội viên  đi  du Xuân và Lập đàn cúng Cầu An tại các đền để mong “Quốc thái dân an nhà nhà hạnh phúc có cuộc sống ấm no và An lac”.
Chuyến đi thành công viên mãn.Thời tiết thuận lợi-xuất nhập bình an-nhân tâm hoan hỉ./.

Bảng tra Mệnh quái, Mệnh niên, Hướng sinh của mỗi người

CLB Phong thủy Thăng Long-Hà Nội du xuân đầu năm Kỷ Hợi 2019 

(ảnh CLB tại chùa Thi ở Kim Bảng-Hà Nam)

Bảng tra Mệnh quái, Mệnh niên, Hướng sinh của mỗi người

Năm sinh
Giới tính
Mệnh Quái
Mệnh niên
Hướng sinh khí
Dương lịch
Âm lịch
2053
Quý  Dậu
Nam Nữ
Khảm
Cấn 
Kim
(Vàng đầu mũi kiếm)
Đông Nam
Tây Nam 
2052
Nhâm Thân
Nam Nữ
Khôn
Tốn 
Đông Bắc Bắc
2051
Tân  Mùi
Nam Nữ
Chấn
Chấn 
Thổ
(Đất giữa đường)
Nam            Nam
2050
Canh Ngọ 
Nam Nữ
 Tốn
khôn
Bắc
Đ.Bắc
2049
 Kỷ Tị
Nam Nữ
Khôn
Khảm 
Mộc
(Cây trong rừng lớn)
Đông Bắc Đông Nam
2048
Mậu Thìn 
Nam Nữ
Càn
Ly 
 Tây         Đông
2047
 Đinh Mão
Nam Nữ
 Đoài
Cấn
Hỏa
(Lửa trong lò)
 Tây Bắc    Tây Nam
2046
 Bính Dần
Nam Nữ
Cấn
Đoài 
Tây Nam    Tây Bắc
2045
Ất Sửu 
Nam Nữ
 Ly
Càn
Kim
(Vàng dưới biển)
 Đông        Tây
2044
Giáp Tý 
Nam Nữ
Khảm
Cấn 
 Đông Nam
Tây Nam
2043
Quý Hợi 
Nam Nữ
Khôn
Tốn 
Thủy
(Nước đại dương)
Đông Bắc Bắc
2042
Nhâm Tuất 
 Nam Nữ
Chấn
Chấn 
Nam            Nam
2041
Tân Dậu  
Nam Nữ
Tốn
Khôn 
Mộc
(Cây Thạch lựu)
 Bắc
 Bắc
2040
 Canh Thân
Nam Nữ
 Khôn
Khảm
Đông Bắc Đông Nam
2039
Kỷ Mùi  
Nam Nữ 
Càn
Ly  
Hỏa
(Lửa trên trời)
Tây         Đông
2038
Mậu Ngọ 
Nam Nữ
Đoài
Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
2037
Đinh Tị 
Nam Nữ
Cấn
Đoài 
Thổ
(Đất lẫn trong cát)
Tây Nam    Tây Bắc
2036
Bính Thìn 
Nam Nữ
Ly
Càn 
Đông        Tây
2035
Ất Mão 
Nam Nữ
Khảm Cấn 
Thủy
(Nước dưới khe lớn)
Đông Nam
Tây Nam
2034
Giáp Dần 
Nam Nữ
Khôn
Tốn 
Đông Bắc Bắc
2033
Quý Sửu 
Nam Nữ
Chấn
Chấn 
Mộc
(Gỗ cây dâu)
Nam            Nam
2032
Nhâm Tý 
Nam Nữ
Tốn
Khôn 
 Bắc
Đông Bắc
2031
Tân Hợi
Nam Nữ
Cấn Đoài
Kim 
(Kim trang Sức)
Đông Bắc Đông Nam
2030
Canh Tuất
Nam Nữ
Càn 
Ly
Tây         Đông
2029
Kỷ Dậu
Nam Nữ
Đoài Cấn
Thổ 
(Đất Vườn lớn)
Tây Bắc    Tây Nam
2028
Mậu Thân
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
2027
Đinh Mùi
Nam Nữ
Ly 
Càn
Thủy             (Nước Thiên Hà)
Đông        Tây
2026
Bính Ngọ
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam
Tây Nam
2025
Ất Tỵ
Nam Nữ
Khôn Tốn
Hỏa 
(Ngọn lửa đèn)
Đông Bắc Bắc
2024
Giáp Thìn
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
2023
Quý Mão
Nam Nữ
Tốn Khôn
Kim 
(Bạch Kim )
Bắc       Đông Bắc
2022
Nhâm Dần
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc Đông Nam
2021
Tân Sửu
Nam Nữ
Càn 
Ly
Thổ                 (Đất trên vách)
Tây         Đông
2020
Canh Tý
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
2019
Kỷ Hợi
Nam Nữ
Cấn Đoài
Mộc 
(Cây đồng bằng)
Tây Nam    Tây Bắc
2018
Mậu Tuất
Nam Nữ
Ly
 Càn
Đông        Tây
2017
Đinh Dậu
Nam Nữ
Khảm Cấn
Hỏa 
(Lửa chân núi)
Đông Nam  Tây Nam
2016
Bính Thân
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
2015
Ất Mùi
Nam Nữ
Chấn Chấn
Kim           
(Vàng trong cát)
Nam            Nam
2014
Giáp Ngọ
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
2013
Quí Tỵ
Nam Nữ
Khôn Khảm
Thủy 
(Nước giữa sông)
Đông Bắc Đông Nam
2012
Nhâm Thìn
Nam Nữ
Càn 
Ly
Tây         Đông
2011
Tân Mão
Nam Nữ
Đoài Cấn
Mộc 
(Gỗ tùng bách)
Tây Bắc    Tây Nam
2010
Canh Dần
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
2009
Kỷ Sửu
Nam Nữ
Ly 
Càn
Hỏa 
(Lửa trong chớp)
Đông        Tây
2008
Mậu Tý
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam
2007
Đinh Hợi
Nam Nữ
Khôn Tốn
Thổ 
(Đất mái nhà)
Đông Bắc Bắc
2006
Bính Tuất
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
2005
Ất Dậu
Nam Nữ
Tốn Khôn
Thủy 
(Nước trong suối)
Bắc       Đông Bắc
2004
Giáp Thân
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc Đông Nam
2003
Quý Mùi
Nam Nữ
Càn 
Ly
Mộc 
(Gỗ dương liễu)
Tây         Đông
2002
Nhâm Ngọ
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
2001
Tân Tỵ
Nam Nữ
Cấn Đoài
Kim
 (kim giá nến)
Tây Nam    Tây Bắc
2000
Canh Thìn
Nam Nữ
Ly 
Càn
Đông        Tây
1999
Kỷ Mão
Nam Nữ
Khảm Cấn
Thổ   
(Đất trường thành)
Đông Nam  Tây Nam
1998
Mậu Dần
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1997
Đinh Sửu
Nam Nữ
Chấn Chấn
Thủy 
(nước dưới khe)
Nam            Nam
1996
Bính Tý
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1995
Ất Hợi
Nam Nữ
Khôn Khảm
Hỏa 
(Lửa ngọn núi
Đông Bắc Đông Nam
1994
Giáp Tuất
Nam Nữ
Càn 
Ly
Tây         Đông
1993
Quý Dậu
Nam Nữ
Đoài Cấn
Kim 
 (Sắt mũi kiếm)
Tây Bắc    Tây Nam
1992
Nhâm Thân
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1991
Tân Mùi
Nam Nữ
Ly 
Càn
Thổ 
(Đất ven đường)
Đông        Tây
1990
Canh Ngọ
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam
1989
Kỷ Tỵ
Nam Nữ
Khôn Tốn
Mộc 
(Gỗ rừng cây)
Đông Bắc Bắc
1988
Mậu Thìn
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
1987
Đinh Mão
Nam Nữ
Tốn Khôn
Hỏa 
 (Lửa trong lò)
Bắc       Đông Bắc
1986
Bính Dần
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc Đông Nam
1985
Ất Sửu
Nam Nữ
Càn 
Ly
Kim 
(Vàng trong biển)
Tây         Đông
1984
Giáp tý
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
1983
Quý Hợi
Nam Nữ
Cấn Đoài
Thủy 
(Nước biển lớn)
Tây Nam    Tây Bắc
1982
Nâm Tuất
Nam Nữ
Ly
 Càn
Đông        Tây
1981
Tân Dậu
Nam Nữ
Khảm Cấn
Mộc  
(Gỗ thạch lựu)
Đông Nam  Tây Nam
1980
Canh Thân
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1979
Kỷ Mùi
Nam Nữ
Chấn Chấn
Hỏa 
(Lửa trên trời)
Nam            Nam
1978
Mậu Ngọ
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1977
Đinh Tỵ
Nam Nữ
Khôn Khảm
Thổ 
(Đất trong cát)
Đông Bắc Đông Nam
1976
Bính Thìn
Nam Nữ
Càn 
Ly
Tây         Đông
1975
Ất Mão
Nam Nữ
Đoài Cấn
Thủy 
(Nước khe lớn)
Tây Bắc    Tây Nam
1974
Giáp Dần
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1973
Quí sửu
Nam Nữ
Ly 
Càn
Mộc 
(Gỗ cây dâu)
Đông        Tây
1972
Nhâm Tý
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam
1971
Tân Hợi
Nam Nữ
Khôn Tốn
Kim 
(Kim trang sức)
Đông Bắc Bắc
1970
Canh Tuất
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
1969
Kỷ Dậu
Nam Nữ
Tốn Khôn
Thổ  
(Đất vườn lớn)
Bắc       Đông Bắc
1968
Mậu Thân
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc  Đông Nam
1967
Đinh Mùi
Nam Nữ
Càn
 Ly
Thủy 
(Nước thiên nhiên)
Tây         Đông
1966
Bính Ngọ
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
1965
Ất Tỵ
Nam Nữ
Cấn Đoài
Hỏa
(Lửa ngọn đèn)
Tây Nam    Tây Bắc
1964
Giáp Thìn
Nam Nữ
Ly 
Càn
Đông        Tây
1963
Quý Mão
Nam Nữ
Khảm Cấn
Kim 
(Bạch kim)
Đông Nam  Tây Nam
1962
Nhâm Dần
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1961
Tân Sửu
Nam Nữ
Chấn Chấn
Thổ 
(Đất trên vách)
Nam            Nam
1960
Canh Tý
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1959
Kỷ Hợi
Nam Nữ
Khôn Khảm
Mộc 
(Cây đồng bằng)
Đông Bắc Đông Nam
1958
Mậu Tuất
Nam Nữ
Càn
 Ly
Tây         Đông
1957
Đinh Dậu
Nam Nữ
Đoài Cấn
Hỏa 
 (Lửa chân núi)
Tây Bắc    Tây Nam
1956
Bính Thân
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1955
Ất Mùi
Nam Nữ
Ly
 Càn
Kim
(Vàng trong cát)
Đông        Tây
1954
Giáp Ngọ
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam
1953
Quí Tỵ
Nam Nữ
Khôn Tốn
Thủy 
(Nước giữa sông)
Đông Bắc Bắc
1952
Nhâm Thìn
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
1951
Tân Mão
Nam Nữ
Tốn Khôn
Mộc 
(Gỗ tùng bách)
Bắc       Đông Bắc
1950
Canh Dần
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc Đôn Nam
1949
Kỷ Sửu
Nam Nữ
Càn 
Ly
Hỏa 
(Lửa trong chớp)
Tây         Đông
1948
Mậu Tý
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
1947
Đinh Hợi
Nam Nữ
Cấn Đoài
Thổ 
(Đất mái nhà)
Tây Nam    Tây Bắc
1946
Bính Tuất
Nam Nữ
Ly 
Càn
Đông        Tây
1945
Ất  Dậu
Nam Nữ
Khảm Cấn
Thủy 
(Nước trong suối)
Đông Nam  Tây Nam
1944
Giáp Thân
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1943
Quý Mùi
Nam Nữ
Chấn Chấn
Mộc
 (Gỗ dương liễu)
Nam            Nam
1942
Nhâm Ngọ
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1941
Tân Tỵ
Nam Nữ
Khôn Khảm
Kim
 (Kim giá nến)
Đông Bắc Đông Nam
1940
Canh Thìn
Nam Nữ
Càn 
Ly
Tây         Đông
1939
Kỷ Mão
Nam Nữ
Đoài Cấn
Thổ 
(Đất trường thành)
Tây Bắc    Tây Nam
1938
Mậu Dần
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1937
Đinh Sửu
Nam Nữ
Ly Càn
Thủy 
(Nước dưới khe)
Đông        Tây
1936
Bính Tý
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam
1935
Ất Hợi
Nam Nữ
Khôn Tốn
Hỏa 
(Lửa ngọn núi
Đông Bắc Bắc
1934
Giáp Tuất
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
1933
Quý Dậu
Nam Nữ
Tốn Khôn
Kim 
(Sắt mũi kiếm)
Bắc       Đông Bắc
1932
Nhâm Thân
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc ĐôngNam
1931
Tân Mùi
Nam Nữ
Càn 
Ly
Thổ
(Đất ven đường)
Tây         Đông
1930
Canh Ngọ
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
1929
Kỷ Tỵ
Nam Nữ
Cấn Đoài
Mộc 
(Gỗ rừng cây)
Tây Nam    Tây Bắc
1928
Mậu Thìn
Nam Nữ
Ly 
Càn
Đông        Tây
1927
Đinh Mão
Nam Nữ
Khảm Cấn
Hỏa 
(Lửa trong lò)
Đông Nam  Tây Nam
1926
Bính Dần
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1925
Ất Sửu
Nam Nữ
Chấn Chấn
Kim  
(Vàng trong biển)
Nam            Nam
1924
Giáp tý
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1923
Quý Hợi
Nam Nữ
Khôn Khảm
Thủy
(Nước biển lớn)
Đông Bắc Đông Nam
1922
Nâm Tuất
Nam Nữ
Càn
 Ly
Tây         Đông
1921
Tân Dậu
Nam Nữ
Đoài Cấn
Mộc
(Gỗ thạch lựu)
Tây Bắc    Tây Nam
1920
Canh Thân
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1919
Kỷ Mùi
Nam Nữ
Ly
 Càn
Hỏa
(Lửa trên trời)
Đông        Tây
1918
Mậu Ngọ
Nam Nữ
Khảm Cấn
ĐôngNam  Tây Nam
1917
Đinh Tỵ
Nam Nữ
Khôn Tốn
Thổ
(Đất trong cát)
Đông Bắc Bắc
1916
Bính Thìn
Nam Nữ
Chấn Chấn
Nam            Nam
1915
Ất Mão
Nam Nữ
Tốn Khôn
Thủy 
(Nước khe lớn)
Bắc       Đông Bắc
1914
Giáp Dần
Nam Nữ
Khôn Khảm
Đông Bắc Đông Nam
1913
Quí sửu
Nam Nữ
Càn 
Ly
Mộc 
(Gỗ cây dâu)
Tây         Đông
1912
Nhâm Tý
Nam Nữ
Đoài Cấn
Tây Bắc    Tây Nam
1911
Tân Hợi
Nam Nữ
Cấn Đoài
Kim
(Kim trang sức)
Tây Nam    Tây Bắc
1910
Canh Tuất
Nam Nữ
Ly 
Càn
Đông        Tây
1909
Kỷ Dậu
Nam Nữ
Khảm Cấn
Thổ
(Đất vườn lớn)
Đông Nam  Tây Nam
1908
Mậu Thân
Nam Nữ
Khôn Tốn
Đông Bắc Bắc
1907
Đinh Mùi
Nam Nữ
Chấn Chấn
Thủy 
(Nước thiên nhiên)
Nam            Nam
1906
Bính Ngọ
Nam Nữ
Tốn Khôn
Bắc       Đông Bắc
1905
Ất Tỵ
Nam Nữ
Khôn Khảm
Hỏa
(Lửa ngọn đèn)
Đông Bắc Đôn Nam
1904
Giáp Thìn
Nam Nữ
Càn 
Ly
Đông         Tây
1903
Quý Mão
Nam Nữ
Đoài Cấn
Kim
(Bạch kim)
Tây Bắc  Tây Nam
1902
Nhâm Dần
Nam Nữ
Cấn Đoài
Tây Nam    Tây Bắc
1901
Tân Sửu
Nam Nữ
Ly 
Càn
Thổ
(Đất trên vách)
Đông        Tây
1900
Canh Tý
Nam Nữ
Khảm Cấn
Đông Nam  Tây Nam

(Phát hiện sai chỗ nào ....xin sửa ngay ạ)