Ngô Gia Tự (1908- 1935) sinh tại làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tham gia cách mạng và bị đày ra Côn Đảo, vượt ngục sau đó mất tích. Nhưng ít người biết rằng, Ngô Gia Tự là hậu duệ nhiều đời của Ngô Quyền và cha, anh của ông đều làm quan.
Hiện nay, một số người cháu của Ngô Gia Tự đã và đang sinh sống ở TP HCM, trong đó có những người nổi tiếng như cố GS.TS Ngô Gia Hy.Danh gia vọng tộc
Ông Ngô Gia Lễ là anh của ông Ngô Gia Tự. Làm tri huyện Ninh Bình, ông Ngô Gia Lễ sống rất thanh liêm, hết lòng vì dân, tận tụy với công việc. Ông mất vì bạo bệnh khi đang cùng dân chống vỡ đê.
Chúng tôi gặp ông Ngô Gia Thạch, con út của ông Ngô Gia Lễ cùng một người cháu của ông Ngô Gia Lễ là ông Ngô Gia Lương. Ông Lương là con trai cố GS.TS Ngô Gia Hy. Cả hai ông hiện sống ở TP Hồ Chí Minh. Nhờ họ, chúng tôi được biết về những câu chuyện rất thú vị về con cháu của Ngô Quyền, về tổ tiên, cha ông họ.
Theo lời ông Ngô Gia Lương (Thạc sĩ Quản trị học, hiện làm việc ở Trường Đại học Hùng Vương, con ông Ngô Gia Hy, cháu gọi ông Ngô Gia Thạch là chú), dòng họ Ngô của họ xuất xứ từ Ngô Quyền. Tổ tiên của dòng họ Ngô có từ thời Hùng Vương dựng nước.
Theo phả tộc họ Ngô, khởi tổ của họ là cụ tổ Ngô Nhật Đại vốn là một hào trưởng ở châu Phúc Lộc (Cửa Sót, Hà Tĩnh). Tham gia khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722), khi cuộc khởi nghĩa thất bại, cụ Nhật Đại đã chuyển cư vào châu Ái (Thanh Hóa) sống bằng nghề nông. Con cụ là Ngô Nhật Du, đến đời thứ 5 là Ngô Mân (tên khác là Ngô Đình Mân, thân phụ Ngô Quyền) đã chuyển đến sinh sống ở Đường Lâm, Hà Tây (nay là Hà Nội).
Sau loạn 12 sứ quân, con cháu Ngô Quyền phải đi nơi khác ẩn cư. Ngô Xương Sắc (con của Ngô Xương Xí, cháu nội Thiên sách Vương Ngô Xương Ngập, chắt nội của Ngô Quyền) vào châu Ái (Thanh Hóa), truyền tới đời 18, 19 là Ngô Kinh và Ngô Từ (con Ngô Kinh). Ngô Kinh là gia thần của Lê Khoáng (cha của Lê Lợi - Lê Thái Tổ). Ngô Từ là công thần của Lê Lợi, con gái Ngô Từ là Ngô Thị Ngọc Dao, vợ của vua Lê Thái Tông, mẹ của vua Lê Thánh Tông.
Ngô Ích Vệ (con của Ngô Xương Xí, cháu nội Thiên sách Vương Ngô Xương Ngập, chắt nội của Ngô Quyền) vào châu Hoan (Nghệ An) ẩn cư, sau ra Thăng Long đầu triều Lý làm quan, sinh hai con là Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt) và Ngô Chương (Lý Thường Hiến).
Chi phái của ông Ngô Gia Thạch và ông ngô Gia Lương có nguồn gốc từ người con trưởng của Ngô Quyền là Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập. Vào đời thứ 21, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, ông Ngô Bá Di, vì tránh nạn kiêu binh nên về Tam Sơn, Đông Ngàn, Bắc Ninh để sinh sống. Ông Di đổi tên thành Ngô Hải Sơn, đó là ông tổ của chi phái của hai ông Ngô Gia Thạch và Ngô Gia Lương.
Theo tài liệu của dòng họ Ngô, cũng vào đời 21, ông Ngô Sử Hậu lánh nạn về vùng Tả Thanh Oai, Hà Đông, Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông Hậu đổi tên thành Ngô Phúc Cơ là ông tổ của chi phái Ngô Thời ở đây, tổ tiên của danh thần Ngô Thời Nhiệm...
Cũng theo con cháu họ Ngô, còn nhiều chi phái họ Ngô khác cũng có gốc từ Ngô Quyền, trong đó có dòng họ Ngô Đình với Tổng thống của Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Nhà thơ Xuân Diệu, tên thật là Ngô Xuân Diệu cũng có gốc từ Ngô Quyền…
Trở lại với câu chuyện của ông tổ chi phái họ Ngô ở Tam Sơn, Đông Ngàn, Bắc Ninh. Đời thứ 4 của chi phái này là ông Ngô Gia Du (chắt của ông Ngô Hải Sơn), là một nhà Nho dạy học, từng tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục. Ông Du có 10 người con, 6 trai và 4 gái. Con trưởng của ông Du là ông Ngô Gia Lễ, người con thứ 9 của ông Du là Ngô Gia Tự. Ông Lễ có 5 người con trai, 1 người con gái. Con trưởng của ông Lễ là ông Ngô Gia Hy (cha của ông Ngô Gia Lương).
Ông Ngô Gia Lễ (1897- 1943) từng làm tri huyện ở nhiều nơi, nơi cuối cùng là huyện Kim Sơn, Ninh Bình dưới triều Nguyễn vào thời Pháp thuộc. Ông nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, yêu dân. Ông Ngô Gia Lễ đỗ bằng thành chung, thông thạo Pháp văn, giỏi Hán văn, thi đậu Thạm biện tài chính ở Hà Nội rồi làm tri huyện ở huyện Yên Mỹ (Hưng Yên), ở huyện Tam Nông (Phú Thọ), ở huyện Gia Viễn rồi phủ Kim Sơn (đều thuộc tỉnh Ninh Bình).
Bữa cơm hàng ngày của ông rất đạm bạc, chủ yếu là rau dưa, tương cà, thi thoảng mới có thịt, cá. Mỗi lần đi kinh lý, ông cho người giúp việc mang theo gạo, bánh chưng hoặc cơm nắm, muối vừng, cà muối. Nếu phải nghỉ lại, ông thường ghé nhà những ông huấn đạo, ông giáo, hoặc vào đình chùa, miếu mạo. Ông và người giúp việc tự nấu ăn. Mỗi khi đi ông thường đi bộ hoặc đi xe kéo, không có xe hơi như những vị quan khác.
Là một vị quan thanh liêm, ông ngăn cấm cấp dưới ăn hối lộ, nhũng nhiễu người dân. Ông nói với các chức sắc trong làng xã như chánh tổng, lý trưởng rằng: “Tôi không ăn hối lộ của ai thì dưới quyền tôi không ai được ăn hối lộ. Tôi sẽ thẳng tay trừng trị những người ăn hối lộ của dân”.
Tính giản dị, không thích nghi lễ cầu kỳ của ông cũng trở nên nổi tiếng. Lúc ông về nhận chức ở Gia Viễn, nha lại và người dân làm cổng chào để đón ông. Thế nhưng ông đã vào đến công đường rồi mà không ai hay biết. Ở Kim Sơn hồi đó có lệ là nhiều phủ huyện khác, các chánh tổng, lý trưởng thường đặt tiền vào đĩa để dâng lễ ra mắt quan phủ mới. Khi họ dâng lễ cho ông, ông từ chối không nhận và nói: “Tiền này nếu không phải là của các thầy đóng góp thì cũng là lấy của dân. Từ nay tôi nghiêm cấm, không được bắt dân đóng góp”.
Người dân hồi đó kể rằng, mẹ ông mỗi khi từ quê Tam Sơn lên thăm ông thường đến các quán nước ở chợ hỏi dò về ông huyện mới có thanh liêm hay không, có thương yêu dân không, có ăn hối lộ mà ức hiếp dân không… Khi biết ông không có tai tiếng gì, bà mới vào thăm con mình.
“Hồi đó, các quan phủ huyện mới nhậm chức thường mở tiệc mời các quan chức cấp trên về dự. Ông không mở tiệc mời ai mà các quan huyện, quan phủ khác mời ông dự tiệc, ông cũng từ chối không dự. Không phải vì ông không nể trọng họ, nhưng vì ông sống liêm khiết, không chịu lấy tiền của dân để cung phụng quan trên, do vậy ông không tới dự vì sợ không có khả năng “trả nợ miệng”, phải mời tiệc lại họ. Quan Pháp về kiểm tra công việc, ông cũng không mời ăn, họ phải về tỉnh rồi sau đó lại xuống làm việc. Từ những việc làm, cung cách sống và lối hành xử như thế nên dân chúng ở những nơi ông làm việc thời đó đều nói rằng ông chủ trương làm cách mạng trong giới quan trường”, ông Ngô Gia Lương kể.
Năm 1939, vùng Kim Sơn bị vỡ đê, nước lũ tràn ngập khắp vùng, dân tình nheo nhóc, nhốn nháo vì đói rét, cực khổ. Suốt ngày nắng chang chang, ông ở trên đê. Buổi trưa, ông ăn cơm nắm muối vừng với cà do người nhà chuẩn bị cho ông từ sáng sớm. Sau nhiều ngày đêm vật lộn với chuyện vỡ đê, lũ lụt, ông bị kiệt sức, nhiễm bệnh lao nặng rồi qua đời sau đó. Nhân dân hai huyện Gia Viễn và Kim Sơn đã khóc thương ông rất nhiều. Họ gọi ông là “đại cách mạng gia”.
Nhiều giai thoại của người dân nơi ông nhậm chức cho biết ông là một vị quan khảng khái, không khuất phục quan Pháp. Nhiều lần bị quan Pháp khiển trách là lười biếng không chịu di dân theo mức đã ấn, không chịu truy lùng Cộng sản, Việt minh, ông trả lời là: “Không biết Việt minh ở đâu cả” và viết đơn xin từ chức. Quan Pháp đã phải nhượng bộ, không cho ông thôi việc. Khi làm tri huyện ở Tam Nông, Thông sứ Pháp bắt các huyện phải xem xét những người nào nghi là Cộng sản hay có hành động phá rối an ninh thì phải có tờ trình với tỉnh để bắt họ đi phát vãng ở Lai Châu và những vùng nước độc. Ông đã viết báo cáo bằng tiếng Pháp nhưng rồi lại xé đi, vì sợ những người đi phát vãng sẽ phải chết, làm khổ cho gia đình họ nên ông báo lên cấp trên là nơi ông không có ai như thế.
Tri huyện Ngô Gia Lễ muốn em cố học để ra làm quan, nhưng đồng chí Ngô Gia Tự kiên quyết đi theo con đường cách mạng, cứu dân, cứu nước. Đồng chí Ngô Gia Tự hoạt động cách mạng ở nhiều nơi, trong đó có vùng Nam Kỳ, Sài Gòn cũ. Đến cuối năm 1930, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Ngày 2-5-1933, sau hơn hai năm bị giam cầm ở nhiều nơi, thực dân Pháp đưa đồng chí Ngô Gia Tự ra phiên tòa “đại hình đặc biệt” xử cùng với 120 chiến sĩ cộng sản và đày ra Côn Đảo.
Vào một đêm năm 1935, chi bộ nhà tù tổ chức cho đồng chí Ngô Gia Tự cùng một số đồng chí nữa vượt ngục Côn Đảo, về khôi phục lại phong trào. Nhưng chuyến vượt ngục đó không thành, Ngô Gia tự cùng các đồng chí mất tích giữa biển.
Ông Ngô Gia Lương cho biết, vào khoảng những năm 1960, một đoàn khách nước ngoài người Đông Nam Á là khách mời của Chính phủ Việt Nam đã đến Tam Sơn, Bắc Ninh. Trong đó có một người đã về thăm nhà thờ họ Ngô ở đây và dừng lại rất lâu mới đi.
*Trong dòng họ Ngô, nhiều thế hệ thành danh và phát đạt về nghiệp Y - Giáo. Một trong số đó là Giáo sư, bác sĩ Ngô Gia Hy, một người nổi tiếng về chuyên môn và y đức. Em của GS Ngô Gia Hy là GS.TS Ngô Gia Thạch cũng theo nghiệp y. Tiếp xúc với ông Thạch và ông Ngô Gia Lương, chúng tôi nhận ra tâm nguyện của cha anh họ về đạo đức của nghề giáo, nghề y, thật đáng khâm phục.
Góp sức dựng nên bệnh viện Bình Dân
Giáo sư Ngô Gia Hy (1916-2004) là con trưởng của cụ Ngô Gia Lễ. Mẹ mất sớm khi sinh người con út, cậu bé Ngô Gia Hy quyết tâm theo học nghề y chữa bệnh cứu người. May mắn là cụ Lễ khi làm tri huyện, đi đâu cũng sưu tầm sách thuốc nên từ nhỏ cậu bé Hy đã có những yêu thích và hiểu biết sơ khởi về nghề y học cổ truyền. Lớn lên Ngô Gia Hy theo học trường Bưởi ở Hà Nội (nay là trường Chu Văn An) rồi sau đó học Đại học Y Hà Nội.
Năm 1954, ông vào Nam cùng với một số người xây dựng Bệnh viện Bình Dân từ một phòng thương thí cùng với đội ngũ các bác sĩ, như: Bác sĩ Ninh, bác sĩ Biểu Tâm trong việc biến một trại tạm cư thành Bệnh viện Bình Dân ngày càng khang trang, to đẹp, với tôn chỉ “phục vụ người nghèo, người lao động ít tiền”. Rất nhiều bệnh nhân nghèo đã được ông cứu sống, đem lại sự lành mạnh, hạnh phúc cho gia đình người bệnh. Học trò chuyên khoa Niệu của Giáo sư Ngô Gia Hy có mặt khắp miền Nam, nhiều người hiện nay là giáo sư của nhiều trường đại học, là bác sĩ chuyên khoa của các bệnh viện lớn. Giáo sư Ngô Gia Hy công tác ở Bệnh viện Bình Dân trong 40 năm.
Thời gian sau, ông tham gia giảng dạy về y khoa ở Đại học Y khoa Sài Gòn. Năm 1967, ông trở thành Khoa trưởng - Đại học Y khoa Sài Gòn. Năm 1965, ông đề xuất việc học trong trường Y khoa từ tiếng Pháp chuyển sang tiếng Việt. Năm 1984, ông được phong hàm Giáo sư.
Ông đã có thời gian đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ và đã từng là thành viên trong Hội Phẫu thuật học của Hoa Kỳ, từng tham gia Hội Niệu học Quốc tế, là thành viên Hội Niệu học Pháp, và là sáng lập viên Hội Niệu học Đông Nam Á. Cho đến tận cuối đời, ông vẫn là Chủ tịch danh dự của Hội Niệu học Việt Nam và Hội Niệu học TP Hồ Chí Minh.
Cố vấn tách cặp song sinh Việt - Đức
Nguyễn Việt sinh ngày 25-2-1981, mất ngày 6-10-2007 và Nguyễn Đức sinh ngày 25-2-1981 tại tỉnh Kon Tum, là cặp sinh đôi dính liền đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam. Họ bị dính với nhau là tác động của chất độc da cam của quân đội Mỹ.
Từ tháng 3-1988, Giáo sư Hy được giao chỉ đạo chuyên môn trong êkip mổ tách đôi Việt - Đức. Một êkip được huy động đến 70 bác sĩ và các nhà chuyên môn giỏi từ nhiều đơn vị y tế khác nhau. Một trong số đó là bác sĩ Trần Đông A. Giáo sư Hy là cố vấn cho kíp mổ này.
Ca mổ đã thành công mỹ mãn. Bác sĩ Trần Đông A phát biểu sau ca mổ rằng: “Tập thể mổ đã tiên đoán đúng cấu trúc sinh học của Việt - Đức tới 90%, 10% ngoài tiên đoán, đó là sự xuất hiện một tĩnh mạch trên đường tách đôi và nó đã được xử lý nhanh đúng theo chỉ thị tại chỗ của GS Ngô Gia Hy...”.
Khi đã nghỉ hưu, Giáo sư Ngô Gia Hy vẫn dành phần lớn thời gian để sâu sát, thúc đẩy học trò mình nắm bắt những thành tựu trên thế giới, ứng dụng những kỹ thuật cao trong điều trị, như nội soi điều trị các loại bướu tiền liệt tuyến, tán và lấy sỏi niệu quản qua da, tạo hình bọng đái bằng ruột non…
Giáo sư Ngô Gia Hy đã hướng dẫn trên 70 luận án bác sĩ, phó tiến sĩ, viết rất nhiều bài báo... Ngoài viết báo, ông còn cho ra đời nhiều cuốn sách. Ông được tặng các giải thưởng: Giải thưởng khoa học Tôn Thất Tùng (2004), Huân chương Lao động hạng ba (1999), danh hiệu Nhà giáo ưu tú (1990), Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục (1997), Huy chương Vì thế hệ trẻ (1988).
Từ nghiệp binh sang nghiệp y
Cũng theo nghiệp y như người anh Ngô Gia Hy, TS Ngô Gia Thạch cũng là người tận tâm với nghề Y. Ở tuổi ngoài tám mươi, nhưng trông ông vẫn còn minh mẫn, khỏe mạnh. Ông sinh năm 1933 ở huyện Tam Nông, Phú Thọ là nơi thân phụ ông là cụ Ngô Gia Lễ đến làm tri huyện ở đó. Vào thời Pháp thuộc, các quan chức của ta phải luân chuyển công tác luôn chứ không làm mãi một nơi. Năm ông 11 tuổi thì cha mất, ông phải từ giã Hà Nội về quê Tam Sơn, Bắc Ninh sinh sống.
Thời gian này ông tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Chiến dịch Hoàng Hoa Thám là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ do quân Liên hiệp Pháp kiểm soát. Đây là một trong ba chiến dịch lớn trong Đông-Xuân 1950-1951.
Sau đó, ông tham gia chiến dịch Tây Bắc giải phóng Sơn La. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, ông cùng Sư đoàn 316 về đóng quân ở vùng hậu cứ Phú Thọ. “Khi đánh đồn Mộc Châu, ta bắt được nhiều tù binh, chúng tôi phải lo chăm sóc cho họ cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi cũng phải chăm sóc cho thương bệnh binh của ta nữa. Thời đó gian khổ lắm, đói là chuyện bình thường. Mỗi ngày chỉ có nắm xôi hoặc nắm cơm ăn với muối”, ông Thạch nói.
Thời gian sau, ông thi vào Trường Đại học Y Hà Nội. Năm 1962, tốt nghiệp Trường Đại học Y Hà Nội, ông được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy bộ môn Ký sinh trùng và sinh học. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ lúc ấy đang là Trưởng bộ môn này. Sau này, bộ môn được tách ra làm hai môn riêng là bộ môn Ký sinh trùng và bộ môn Sinh học. Ông Thạch làm giáo vụ của bộ môn Sinh học, sau đó được bầu làm Chủ nhiệm bộ môn. Năm 1986, ông Thạch vào công tác ở Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh đến năm 2003 thì nghỉ hưu.
Nghiên cứu khoa học
Thời kỳ theo học Đại học Y Hà Nội, ông Thạch nghiên cứu về bệnh sán máng vịt. ËÂu trùng của loại sán này sinh sống trên cơ thể của vịt, thậm chí chui vào trong máu của vịt nên nếu ăn tiết canh vịt là có thể mang bệnh. Bệnh này gây ngứa cho người.
Qua nhiều thực nghiệm nữa ông đã tìm ra nguyên nhân của căn bệnh và công bố cho giới khoa học và mọi người biết. Lúc đó Giáo sư Đặng Vu Hỷ chuyên gia về bệnh da liễu ở Pháp mới về liền cử học trò yêu của mình tìm đến ông Thạch để nghiên cứu tìm ra thuốc trị cho căn bệnh này. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, họ tìm ra cách chữa cho căn bệnh này là dùng dầu rái (loại dầu dùng để bôi, quét lên nón cho bóng, tránh bị ngấm nước và bền hơn) bôi lên da thì vi trùng sẽ không xâm nhập được.
Thời gian sau, ông nghiên cứu nếp vân da để tìm dấu hiệu nhận biết một số bệnh về di truyền của con người. “Một số bệnh di truyền thường ảnh hưởng đến nếp vân da, thể hiện ra nếp vân da nên tôi nghiên cứu về nếp vân da để giúp nhận biết biểu hiện của một số loại bệnh. Chẳng hạn bệnh rối loạn nhiễm sắc thể biến đổi và có đặc trưng gì không, biểu hiện như thế nào ra nếp vân da. Việc nghiên cứu nếp vân da giúp chẩn đoán một số bệnh, tuy nhiên kết quả không cao”, ông Thạch nói. Công trình này sau đó được ông viết thành cuốn sách mang tên “Nếp vân da”.
Ngoài ra, Giáo sư Ngô Gia Thạch còn nghiên cứu về các loại bệnh ngoài da để phân loại các loại nấm, xem xét người Việt Nam thường mắc loại nấm nào… Đề tài nghiên cứu về các loại bệnh ngoài da là đề tài ông Thạch bảo vệ luận án Tiến sĩ. Và nó được hai người thầy Đặng Văn Ngữ, Đặng Vu Hỷ đánh giá cao.
Tâm nguyện của hai thế hệ
Trò chuyện cùng chúng tôi, Thạc sĩ Ngô Gia Lương cho biết, cha mình, Giáo sư Ngô Gia Hy, sinh thời rất tâm huyết với ngành giáo dục. Giáo sư Hy đã thành lập trường đại học dân lập đầu tiên ở Việt Nam theo mô hình bất vụ lợi, nhưng tiếc rằng đến nay, ý tưởng đó đã bị một số cổ đông của trường này, phá vỡ.
Thạc sĩ Ngô Gia Lương sinh năm 1960, là con thứ 3 của Giáo sư Hy. Sau khi đi dạy ở Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh được một thời gian, ông Lương qua trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Năm 1988, ông Lương qua công tác ở khoa Quản trị bệnh viện của Trường Hùng Vương, là phó khoa này từ năm 2004 đến 2012.
“Ở Việt Nam hiện chưa có nhà quản lý bệnh viện được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Những người quản lý ở các bệnh viện chủ yếu lấy từ những bác sĩ trong bệnh viện lên. Họ có thể rất giỏi về chuyên môn nhưng về nghiệp vụ quản lý thì chưa được đào tạo. Nhận thấy điều đó, khi theo học ở Pháp, cha tôi đã để ý nghiên cứu và tìm hiểu về ngành này. Khi về Việt Nam, ông bắt đầu truyền bá nó. Tâm huyết của cha tôi là thông qua việc đào tạo về nhân lực của ngành Quản trị bệnh viện sẽ giúp cho chất lượng quản lý trong bệnh viện được nâng cao. Bởi vì chỉ có quản lý bệnh viện tốt thì mới có bệnh viện chất lượng tốt”, Thạc sĩ Lương cho biết.
Nhận ra điều đó, từ năm 2013, Bộ Y tế đã ứng dụng tiêu chí chất lượng bệnh viện (tức áp dụng Thông tư 01). Nó giúp có căn cứ đánh giá chất lượng bệnh viện. Trong đó quy định mỗi bệnh viện phải có phòng đảm bảo chất lượng ở bệnh viện. Tuy nhiên, về bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện để làm cơ sở đánh giá thì lại ít thấy được nhắc tới. (Phạm Huy Văn)- Đăng từ Báo Công an.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét