I – Sự ra đời của Phật
Lý luận khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo nói về đặc điểm tôn giáo “Tôn giáo vừa là một hình thái kinh tế xã hội, vừa là một thực thể xã hội. Với tư cách một hình thái kinh tế xã hội, tôn giáo luôn phản ánh tồn tại xã hội. Vì vậy muốn tìm hiểu đặc điểm của một tôn giáo cũng như hệ thống tín ngưỡng của một quốc gia, một khu vực không thể không nghiên cứu đặc điểm của mảnh đất hiện thực đã nảy sinh ra nó”(Đặc diểm của tôn giáo Việt Nam-PGS Nguyễn Đức Lữ). Đảng cộng sản Việt Nam tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nguyên tắc. Quyền ấy không chỉ thể hiện về mặt pháp lý, mà còn được thực hiện trên thực tiễn. Đó là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, lâu dài của Đảng mác-xít. Căn cứ vào bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy luật của quá trình chuyển biến về mặt tư tưởng của con người. Đó là sự chuyển biến về mặt tự giác, dần dần. từ thấp lên cao, mà cần tôn trọng và bảo đảm những quyền chính đáng ấy. Bất kỳ ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo lành mạnh mà mình thích hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận và đảm bảo cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Những người có tín ngưỡng, tôn giáo đều phải thực hiện các nghĩa vụ của công dân, phấn đấu sống “Tốt đời, đẹp đạo”; nhà nước nghiêm cấm những tổ chức, những người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ nhãn quan tích cực đối với tôn giáo lành mạnh, những người sáng lập ra các tôn giáo, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng, kính phục và khuyên mọi người theo gương các vị sáng lập ra những tôn giáo lành mạnh; theo Hồ Chí Minh chúa Giê-xu, Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Khổng Tử là những con người vĩ đại, họ là những “Thánh nhân”,”Vĩ nhân” suốt đời hy sinh vì nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Họ luôn mơ ước tới một xã hội, một thế giới tự do, đại đồng, không có chiến tranh, bất công, đau khổ. Các vị đó luôn khuyên con người nên và phải làm điều thiện, chống lại hoặc triệt tiêu cái ác. Những đức tính đó mang tính nhân bản, hướng thiện, vì con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh có thể thấy trong tư tưởng của người về một số vị tiêu biểu:
+ Về đức Khổng Tử: Đó là nhà hiền triết vĩ đại, ông là người khởi sướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản; đến nay không ít tư tưởng của ông về đạo đức có vai trò quan trọng đặc biệt cho sự ổn định và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh viết: “Khổng Tử vĩ đại…khởi sướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng nói: “ Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu, chỉ sợ có không đều. Bình đẳng sẽ xóa bỏ nghèo nàn”.
+Xem Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một vị thánh nhân, là người luôn mơ ước giải thoát con người khỏi bể khổ trầm luân. Đức Phật là đại từ bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma.
+Đối với Chúa Giê-xu: Hồ Chí Minh đánh giá rất cao tư tưởng bác ái và sự hy sinh cao cả của chúa Giê-xu, suốt đời ngài chỉ hy sinh phấn đấu cho tự do, cho dân chủ.
Như vậy, có thể thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni người sáng lập ra Phật giáo đến nay đã tồn tại trên 2500 năm , có một hệ thống quan điểm đạo đức khá hoàn thiện. Những quan điểm và chuẩn mực đạo đức như thập thiện (10 điều thiện, hay 10 nghiệp lành), thuyết luân hồi, quả báo..vv. Với đức Chúa Giê-xu từ ngày giáng sinh đến nay đã trên 2000 năm nhưng tinh thần bác ái của Ngài chẳng những không phai nhạt mà tỏa ra khắp, thấm sâu. Từ chỗ đánh giá cao những người sáng lập ra các tôn giáo, Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người hãy học tập và làm theo tấm gương của các vị đó.
Do vậy việc nghiên cứu của bài viết này thấy rằng thế giới xung quanh ta luôn có những điều gọi là thần bí, mà khoa học chưa thể giải thích được, “Điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước; điều chúng ta không biết mênh mông như đại dương” (Nhà bác học A.Anhstanh). Việc phân biệt ranh giới giữa hai trường phái Duy tâm và Duy vật chỉ là tương đối, mà sự hiểu biết của con người là quá ít ỏi, chưa có sự kiểm chứng. Cho nên những hiện tượng gọi là chuyện lạ, bí ẩn đã và đang xảy ra mà khoa học chưa chứng minh được thì chúng ta phải đón nhận với sự trân trọng nhất và tiến hành nghiên cứu sáng tỏ, không vội vàng quy kết, không thể nói là dị đoan, mê tín; bởi vì: “Có một thuyết nói rằng con người không chỉ là một sinh vật, mà còn là một “Tiểu vũ trụ”, mà đã là một “Tiểu vũ trụ”, dù là “tiểu” chăng nữa thì cũng có biết bao nhiêu điều bí ẩn, biết bao nhiêu điều phải khám phá.
Hàng ngàn năm qua tất cả chúng ta, trẻ hay già đều băn khoăn về cùng câu hỏi liên quan tới chúng ta ngày nay. Đôi khi họ cố đoán con người từ đâu đến và con người đi về đâu sau cuộc sống. Họ cũng đặt them vấn đề như chúng ta. Thế giới được tạo ra như thế nào và tiếp tục ra sao?Mục đích của thế giới là gì? Sự khác biệt giữa đúng và sai là gì? Tôi là gì? Vị trí của tôi trong thế giới này là gì? Làm sao tôi có thể tìm ra chính tôi?
1- Các đạo giáo lớn:
Trên thế giới hiện nay có bao nhiêu tôn giáo lớn? Trên thế giới hiện nay có 3 tôn giáo lớn là:
1.1-Phật giáo:
Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Ma sinh năm 563 TCN( trước Công Nguyên). Đức Phật tên là Siddhatta (Tất-đạt-đa)(tiếng Sanskrit là Siddhafrtha), họ là Gotama (Cồ-đàm), sống ở Bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI TCN. Phụ than ngài là Suddhodana (Tịnh-Phạn) người cai trị vương quốc của những người Safkyas (ở Nepal ngày nay). Mẹ ngài là hoàng hậu Maya (Ma-gia). Theo tục lệ thời bấy giờ Ngài kết hôn rất sớm, vào năm 16 tuổi, với một công chúa xinh đẹp đức hạnh tên Yasodhara; Thái tử trẻ sống trong cung điện với đầy đủ những xa hoa lộng lẫy. Nhưng bỗng nhiên va chạm với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài người, Ngài quyết định tìm giải pháp- con đường ra khỏi nỗi khổ bao la này. Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất Rafhaula ra đời, Ngài từ bỏ cung điện và trở thành một người khổ hạnh ra đi tìn giải pháp ấy. Trong 6 năm, nhà khổ hạnh Gotama (Cồ-đàm) lang thang khắp thung lũng song Hằng, gặp những vị thầy danh tiếng, học hỏi và theo những hệ thống và phương pháp của họ, khép mình vào những kỷ luật khổ hạnh khắt khe. Nhưng ngài không được thỏa mãn với những lý thuyết và thực hành ấy. Bởi thế Ngài từ bỏ tất cả những tôn giáo cổ truyền và những phương pháp của chúng, theo con đường của riêng Ngài. Dần dà, một buổi chiều ngồi dưới một gốc cây (từ đấy cây này được gọi là cây Bồ-đề, Bodhi, hay cây bồ, có nghĩa là “cây trí huệ”) trên bờ song Neranjarà (Ni liên thuyền) ở Buddha-Gaya (Bồ-đề Đạo Tràng, gần Gaya trong xứ Bihar ngày nay), Gotama đạc Giác Ngộ và từ đấy Ngài được tôn xưng là Đức Phật, “ Người đã Giác Ngộ”. Năm ấy Ngài 35 tuổi. Sau khi chứng đạo, Đạo Phật Gotama thuyết pháp lần đầu cho một nhóm 5 người khổ hạnh, những người bạn cũ của Ngài tại vườn Nai( Lộc Uyển) ở Isipatna (Sarnath ngày nay), gần Benarès (Ba Lai Nại). Từ ngày ấy Ngài giáo hóa suốt 45 năm cho tất cả mọi tầng lớp đàn ông, đàn bà, vua chúa và thường dân, giai cấp Bà-la-môn và dân thường, thương gia và kẻ ăn mày, những người thánh thiện và bọn cướp đường- hoàn toàn không phân biệt hạng người này với hạng người kia. Ngài không công nhận di biệt về giai cấp hay tập đoàn xã hội, và Đạo Ngài thuyết ra được mở rộng cho tất cả mọi đàn ông và đàn bà sẵn sang hiểu và theo. Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông đã phát hiện ra con đường “trung đạo” , một con đường có thể dẫn con người đến sự giải thoát về cõi cực lạc hay luân hồi. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày chìm đắm trong những suy tư sâu thẳm, ông tuyên bố đã đạt đến chân lý và hiểu bản chất của sự tồn tại của nhân sinh. Từ đó ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni- tức là người đã giác ngộ chân lý đầu tiên. Ông bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các tăng đoàn Phật giáo. Ông viên tịch năm 483 TCN, hưởng thọ 81 tuổi. Ông là Phật tổ của Đạo phật- Phật tổ: Thích Ca Mâu Ni. Khi sinh ra ông có 32 tướng quý của Đức Phật- Thái tử có:
1.Lòng bàn chân bằng phẳng;
2.Gót chân thon;
3. Ngón tay, ngón chân thon dài;
4.Tay,chân mềm mại;
5.Chân có màn da lưới;
6.Mắt cá tròn như con sò;
7.Ống chân như chân con dê rừng;
8. Tay dài đến đầu gối;
9.Tướng mã âm tang;
10. Da trơn mượt, bụi không thể nào dính;
11. Mỗi lỗ chân long có một long mọc;
12.Màu da như đồng, màu sắc như vàng;
13.Lông mọc xoáy tròn về phía bên phải;
14.Thân hình cao thẳng;
15.Bảy chỗ tròn đầy;
16. Nửa mình trước thân sư tử;
17.Không có lõm khuyết giữa hai vai;
18. Thân cân đối như cây bàng (Nigrodha), bề cao của thân bằng bề dài của hai sải tay dang rộng;
19.Nửa thân trên vuông tròn;
20. Vị giác hết sức bén nhạy;
21. Quai hàm sư tử;
22.Có 40 răng;
23.Răng không khuyết hở;
24. Răng trơn láng;
25.Răng đều đặn;
26.Lưỡi rộng và dài;
27.Giọng nói êm ả như tiếng chim Ca-lăng-tần-già;
28.Đôi mắt màu xanh đậm;
29.Có lông mi như con bò cái;
30.Có một sợi lông trắng mịn giữa hai lông mày;
31.Hai lòng bàn chân có hai hình bánh xe với một ngàn tăm xe; 32.Có nhục kế trên đầu.
Hồ Chí Minh: Nghiên cứu cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều chúng ta dễ dàng bắt gặp là ở chỗ Người có nhiều mối quan hệ gắn bó với Phật giáo, không chỉ ở mặt tư tưởng, tình cảm mà cả chính bằng những việc làm cụ thể. Trên bình diện tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều mặt gần gũi, gặp gỡ với giáo lý Phật giáo. Cốt tủy của Phật giáo là: “Từ bi hỷ xả, Vô ngã vị tha, Cứu khổ cứu nạn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh (Lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội. Là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969, Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Đảng Lao Động Việt Nam trong thời gian 1951-1969, kiêm Tổng Bí Thư Ban chấp hành Trung ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sung. Lăng của ông được xây ở Hà Nội. Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa quảng trường Ba Đình. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét. Lăng được xây dựng theo sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Mặt tiền hướng về phía đông, phía sau là di tích lịch sử văn hóa quốc gia: Chùa Một Cột, chiều cao từ mặt sàn đến đỉnh mái là Chùa Một Cột, chiều cao từ mặt đất sàn cho đến đỉnh mái là 2, 20 mét, chỉ bằng 1/10 chiều cao của lăng. Khu vực lăng đã hình thành trung tâm chính trị Ba Ðình bao gồm khu tứ giác phố Hùng Vương, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Diệu và Ðiện Biên Phủ cũng là nơi tập trung các cơ quan đầu não của trung ương Ðảng và Nhà nước như:văn phòng trung ương Đảng, hội trường Ba Ðình, phủ Chủ tịch, phủ Thủ tướng, bộ ngoại giao, bộ quốc phòng, bộ kế hoạch đầu tư, bộ nông nghiệp và phát triển...Nhìn một cách tổng thể hơn, đây cũng là nơi giao thoa của tất cả tuyến đường đi đến khắp mọi miền đất nước như: QL.1A đi Ninh Bình, Miền trung.QL.5 đi Hải Phòng. QL. 1 A đi Lạng Sơn. QL.3 đi Hồ Ba Bể, Thái Nguyên, Cao Bằng .QL.2 đi đền Hùng, Lào Cai. QL.32 đi Láng Hòa Lạc đi Sơn Tây và mở rộng Hà Nội. QL.6 đi Hòa Bình. Sơn La, Lai Châu. QL.21B đi chùa Hương –Trung tâm Phật của Việt Nam- cũng là Trung tâm: Tâm linh của cả nước. Do vậy, khu vực lăng hay trung tâm chính trị Ba Ðình nếu được xây dựng thành một quần thể kiến trúc văn hóa, kinh tế để tiếp nhận sinh khí của mọi miền đất nước đổ vào chắc chắn rằng đất nước sẽ phát triển nhanh chóng.
Mang khát vọng giải phóng nhân dân ra khỏi cảnh khổ đau, Thái tử Tất Đạt Đa đã rời bỏ cảnh sống vương giả, xuất gia tìm đạo: “Ta không muốn sống trong cung vàng điện ngọc, Ta không muốn sống trong cảnh vương giả trị vì thiên hạ, hưởng cuộc đời sung sướng cao sang trên mồ hôi nước mắt của lê dân. Ta không muốn sống trong xã hội bất công mà Ta đã chứng kiến. Ta quyết định ra đi, dù phải xông pha trên gió bụi lao lung, Ta cố tìm ra mối đạo giải thoát cho nhân loại muôn loài”.Cùng với hạnh nguyện trên đây của Thái tử Tất Đạt Đa, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, đã sớm nhận ra cảnh: Trên đời nghìn vạn điều cay đắng ,Cay đắng chi bằng mất tự do. Điều đó thôi thúc Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi gian khổ hiểm nguy, bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đường cứu nước, cứu dân. “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”. Với ý chí và quyết tâm đó, nên ngay giữa thủ đô Paris, trong sự bủa vây của mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc vẫn không hề nao núng về lý tưởng cứu nước, cứu dân của mình: “Tôi thích làm chính trị thì tôi chẳng sợ chết, cũng chẳng sợ tù đày. Trong đời này chúng ta chỉ chết có một lần, tại sao lại sợ?”.Cách đây trên 2.500 năm, khát vọng công bằng xã hội đã được Phật tổ-Đức Thế Tôn nêu lên như một quy luật xã hội, cô đọng lại trong lời dạy nổi tiếng, mang tính vượt thời gian: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người khi mới sinh không phải có sẵn dấu tin-ca (tilca) trên trán, không đeo sẵn dây chuyền trong cổ”. Phật dạy các đệ tử: “Này các Tỳ kheo! Hãy tu hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người” (Tương Ưng Bộ kinh); “Này các Tỳ kheo! Xưa và nay Ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ” (Trung Bộ kinh).Với Hồ Chí Minh thì “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Vì vậy đối với Người, “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm sao ích quốc lợi dân. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn đau khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Phật giáo chủ trương: “Dĩ chúng tâm kỷ tâm”. Đối với Phật giáo, con người là cao hơn tất cả: “Nhân thị tối thắng”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chúng công nông là gốc cách mệnh” và “nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục vụ lợi ích cho nhân dân”.Trong Phật giáo, các vị Bồ tát xem nỗi đau khổ của chúng sinh là nỗi đau khổ của mình, bao giờ nỗi đau khổ của chúng sinh chưa dứt thì thề chưa thành Phật, ngài Địa Tạng Bồ tát.
"Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ đề,
Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”.
(Chúng sinh độ hết mới chứng đạo Bồ đề,
Địa ngục nếu còn thề không thành Phật).
Theo Phật giáo thì những vị Bồ Tát: Có nhiều ý chí vô cùng to lớn. Những ý chí ấy được gọi là nguyện hay nguyện lực ; Phật A Di Đà có 48 nguyện ;Đức Địa Tạng có 10 nguyện ;Đức Phổ Hiền Bồ Tát :có 10 nguyện. Mỗi vị có nhiều điều mong mỏi cứu độ chúng sinh khác nhau như Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:mong bất cứ ai đến với ngài đều có được trí tuệ siêu việt; Đức Phật A Di Đà:muốn chúng sinh sau khi chết đến được cõi an lành tịnh độ và thành Phật đạo. Những vị Bồ Tát là những vị Phật đáng lý nhập Niết Bàn nghĩa là đã thoát khỏi sự tái sinh, luân hồi, nghiệp quả, nhưng vì họ còn thấy chúng sinh đau khổ trong bể trầm luân nên không nỡ nhắm mắt bước vào hẳn trong cõi Niết Bàn an lạc mà tự nguyện đầu thai trở lại mong cứu giúp kẻ phàm trần thấy rõ con đường phải đi, không còn lầm lạc.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “suốt đời, tôi chỉ có một ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nhân bản Hồ Chí Minh nói theo cách nói của Phật giáo là sự “kết tinh bằng Từ bi, Trí tuệ, Dũng mãnh, hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích Giác ngộ và Giải thoát, chuyển cõi Sa bà này thành cõi Tịnh độ, và cuộc đời cơ cực này thành nếp sống Cực lạc”.Nhận rõ những giá trị cao đẹp của Phật giáo, có sự gần gũi, gặp nhau với tư tưởng Phật giáo trên những nét lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng nhìn Phật giáo với một thái độ trân trọng: “Nền tảng và truyền thống của triết học Ấn Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, tư tưởng của Phật giáo, nghệ thuật khoa học Ấn Độ đã lan khắp thế giới”. Năm 1958, khi sang thăm Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi rất sung sướng được thăm quê hương Đức Phật, quê hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới”. Nhà thơ Huy Cận viết: “Khi bình sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có một tấm lòng kính mộ sâu sắc và cảm động đối với Đức Phật Thích Ca - người sáng lập ra đạo Phật, cũng như đối với tất cả các vị sáng lập những tôn giáo lớn. Người đã cảm nhận ở các vị giáo chủ này trước hết là lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận của những chúng sinh và ý muốn thiết tha làm sao giảm nhẹ hoặc xóa bỏ những nỗi đau khổ của con người trên trái đất”.Trong hành động cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều gắn bó với Phật giáo. Theo nghị sĩ Thái Lan Si-pha-nôn Vi-shit Va-ra-ron, năm 1927, khi hoạt động ở Thái Lan, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công đóng góp xây dựng điện Phật to nhất của chùa Phô-thi-sôm tỉnh U-đon, Đông Bắc Thái Lan. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã vận động Việt kiều góp sức, góp của và đứng ra chủ trì việc xây dựng. Cũng thời gian này, chùa Lô-ka-nu-kho (Băng-cốc) là cơ sở hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở đây, Người đã được Hòa thượng Thích Bình Lương hết lòng giúp đỡ.Khi nước nhà được độc lập, nhà sư về nước. Lúc nhà sư lâm bệnh điều trị ở Bệnh viện Việt - Xô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm. Khi nhà sư viên tịch, Người đã gửi vòng hoa đến viếng với nội dung: “Kính viếng Hòa thượng Thích Bình Lương”, dòng chữ nhỏ dưới đề: “Đồng chí Hồ Chí Minh”. Giáo sư Trần Văn Giàu cũng cho biết thêm khi hoạt động cách mạng ở Thái Lan, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống rất giản dị và kham khổ như một nhà tu hành, có khi Người đã mặc áo cà sa của nhà sư.Năm 1941, khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong điều kiện hết sức khó khăn giữa núi rừng Pắc Bó, Nguyễn Ái Quốc đã vẽ ảnh Phật treo trên vách đá để quần chúng có nơi chiêm ngưỡng vào những dịp lễ Tết.Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, mặc dầu bề bộn với nhiều công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian đến thăm chùa Quán Sứ, chùa Bà Đá. Nói chuyện với Tăng Ni, tín đồ Phật tử ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước chúng tôi luôn luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một. Tôi mong các Hòa thượng, Tăng Ni và Phật tử hãy tích cực thực hiện tinh thần Tư bi, Vô ngã, Vị tha trong sự nghiệp cứu nước, giữ nước và giữ đạo để cùng toàn dân sống trong Độc lập, Tự do, Hạnh phúc". Đối với Người, làm được như vậy tức là “đã làm theo lòng Đại từ, Đại bi của Đức Phật Thích Ca”. Trong thời gian từ năm 1954 đến lúc qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm nhiều chùa, nhiều cơ sở Phật giáo ở miền Bắc, tiếp xúc với nhiều Tăng Ni, Phật tử. Ngày 19-5-1960, trong lúc Hoà thượng Thích Thanh Chân, trụ trì chùa Hương, đang chuẩn bị vào Phủ Chủ tịch để chúc thọ Hồ Chủ tịch tròn 70 tuổi, thì 5 giờ sáng hôm đó, Người lại vào thăm chùa Hương. Tại đây, Người đã chỉ thị cho chính quyền địa phương phải sửa lại những con thuyền, bắc thêm cầu phao và làm thêm một con đường mới, để các Tăng Ni, Phật tử đi lại chiêm bái được dễ dàng và an toàn.
Và Hồ Chí Minh với công lao trời biển có công trong giải phóng dân tộc Việt Nam đưa nước ta có vị thế như ngày nay trên trường quốc tế; ngày nay được nhân dân Việt Nam suy tôn là Thánh nhân, được thờ phụng trong các ngôi đình và đền thờ từ Bắc tới Nam với lời ca tụng thành kính: Thánh phật ngọc Hồ Chí Minh.
Phật giáo hiện nay là tôn giáo lớn nhất thế giới có khoảng 2,6 tỷ đến 3,1 tỷ Phật tử.
1.2-Công giáo: (Ki-tô giáo hoặc Cơ đốc giáo) : Ki-tô giáo ra đời sau Phật giáo khoảng 500 năm. Các tôn giáo sùng thờ đức chúa Giê-su (Ki-tô) có tên gọi chung là Ki-tô giáo, gồm Công giáo, chính thống giáo, tin lành và Anh giáo ( Ở nước ta gọi là Thiên Chúa giáo). Đạo Ki-tô giáo xuất hiện đầu tiên ở vùng Palextin vào thế kỷ I đầu công nguyên, khi đó vùng đất này thuộc đế quốc La Mã. Palextin là vùng đất nằm ở bờ cực đông của Địa Trung Hải và Trung Cận Đông; là khu vực giáp 3 châu lục: Á- Âu- Phi, gần gũi với những nền nền văn minh: Văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà, văn minh Hi Lạp. Palextin có một vị trí hết sức quan trọng về địa chính trị và do đó luôn là khu vực tranh chấp của nhiều quốc gia, đến đầu công nguyên Palextin trở thành một bộ phận của đế quốc La Mã ( nằm trong tỉnh Si Ri - Đế quốc La Mã).
Đạo Ki-tô gắn chặt với người sáng lập là Đức chúa Giê-su. Giê-su , cũng được gọi là chúa Giê-su Ki-tô hoặc Chúa Giê-su cơ đốc , là người sáng lập ra Ki-tô giáo (Christianity). Giê-su là người Do Thái có tên là Yehoshua – có nghĩa là “ Thiên Chúa là Đấng cứu độ” trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua, sinh vào khoảng năm 7-6 TCN, mất khoảng năm 30. Đối với người đương thời, Giê-su còn được biết dưới tên Giê-su người xứ Nazareth, hoặc Giê-su con ông Giu-se. Từ “Ki-tô” (Tiếng Latinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós) có nghĩa là “ Người được xức dầu” để ám chỉ một vị lãnh đạo, chính trị cũng như tôn giáo, được chọn bởi Thiên Chúa. Từ “Cơ Đốc” cũng là một danh hiệu của Giê-su. Những gì chúng ta biết được về Giê-su được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt trong 4 sách Phúc Âm. Giê-su, theo các sách Phúc Âm, là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá theo phán quyết của Chính quyền Đế quốc La Mã.
Là tôn giáo đang phát triển, với số tín đồ hiện nay là 2,1 tỷ người, xếp sau Phật giáo.
1.3Hồi giáo:
Hồi giáo tiếng Ả Rập:Còn gọi đạo Håi là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham. Đây là tôn giáo lớn thứ ba trên thế giới, sau Kitô giáo, và là tôn giáo đang phát triển nhanh nhất, với số tín đồ hiện nay là 1,5 tỷ người.Nguồn gốc: Đối với người ngoài, đạo Hồi ra đời vào thế kỷ thứ 7 tại bán đảo Ả Rập, do nhà tiên tri Muhammad sáng lập. Đạo Hồi chỉ tôn thờ Allah Đấng Tối Cao, Đấng Duy Nhất . Đối với tín đồ, Muhammad là vị Thiên Sứ cuối cùng được Allah mặc khải Thiên Kinh Qur'an (còn viết là Koran) qua Thiên thần Gabriel. Điều đầu tiên chúng ta nên biết và hiểu rõ về Islam là từ “Islam” có nghĩa là gì. Tên Islam không được đặt theo tên người như trong trường hợp Cơ đốc giáo, được đặt tên theo Giê-su, Phật giáo được đặt tên theo Đức phật Gotama, đạo Khổng được đặt tên theo Khổng Tử, và chủ nghĩa Mác được đặt tên theo Các Mác. Nguyên nghĩa của « Hồi giáo » trong tiếng Ả Rập là Islam và có nghĩa là "vâng mệnh, quy phục Thượng Đế". Người theo Islam, trong tiếng Ả Rập gọi là Muslim, do đó có các chữ muslim, moslem tiếng Anh và musulman tiếng Pháp. Danh từ “Hồi giáo” xuất xứ từ dân tộc Hồi Hột. Hồi Hột là nước láng giềng phương bắc của Trung Quốc từ năm 616 đến 840. Lúc rộng lớn nhất lãnh thổ họ đông đến Mãn Châu, Tây đến Trung Á , và họ đã giúp nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn. Với thời gian, cách gọi đổi thành “Hồi Hồi”. Tài liệu xưa nhất dùng danh từ “Hồi Hồi” là Liêu Sử, soạn vào thế kỷ 12. Đời nhà Nguyên (1260 - 1368), tại Trung Quốc, cụm từ « người Hồi Hồi » được dùng để chỉ định người Trung Á, bất luận theo tín ngưỡng nào. Đến đời Minh (1368 - 1644), cụm từ “người Hồi Hồi” mới dần dần đổi nghĩa để chỉ định tín đồ Islam. Trước đó, người Hán thường gọi Islam là “Đại Thực giáo” hay “đạo A-lạp-bá”. “A-lạp-bá” là phiên âm tiếng Hán của danh từ “Ả Rập”. “Đại Thực” là phiên âm của chữ “Tazi”, tiếng Ba Tư dùng gọi người “Ả Rập”, vì “Tazi” là tên một bộ tộc người “Ả Rập” tiếp xúc nhiều với Ba Tư thời xưa.
Các tôn giáo có những tên gọi khác nhau và những hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung tôn giáo nào cũng dạy con người thương yêu nhau và đối xử tốt đẹp với nhau. Ví dụ như :
+ Ấn Độ giáo được thành lập từ hơn ba ngàn năm về trước có 10 điều răn như sau:
1-Không bạo động;
2 -Thành thật, không dối trá,
3-Không trộm cắp;
4-Không tà dâm;
5-Không tham lam;
6-Trong sạch từ ý nghĩ, lời nói, tới việc làm;
7-An phận;
8-Khổ hạnh, kiên nhẫn, sám hối;
9-Chuyên cần học đạo
10-Thương yêu và cầu nguyện Thượng Đế.
+ Phật giáo cũng có 10 điều răn (gọi là 10 giới cấm):
1-Không sát sinh;
2-Không trộm cắp;
3-Không tà dâm;
4-Không nói dối hại người;
5-Không say sưa (Cấm uống rượu say sưa);
6-Không ăn uống quá độ
7-Không ca múa thái quá;
8-Không trang sức;
9-Không xa hoa;
10-Không nhận vàng bạc.
Năm giới cấm đầu tiên áp dụng cho tất cả mọi người, năm giới cấm sau chỉ áp dụng cho các tu sĩ, càng tu cao thì giới cấm càng nhiều, như tỳ kheo thì có 250 giới cấm, còn hàng bồ tát thì có 348 giới cấm.
+ Đạo Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, và Hồi giáo đều áp dụng 10 điều răn do Đức Chúa Trời ban cho thánh Moses:
1-Không thờ các thần khác;
2-Không thờ phụng hình tượng;
3-Không lấy danh đức Chúa Trời mà chơi;
4- Nhớ nghỉ ngày Sa Bát;
5-Phải hiếu kính với cha mẹ;
6-Không sát sinh;
7-Không tà dâm;
8-Không trộm cắp;
9-Không làm chứng gian;
10-Không tham lam.
+ Đạo Cao Đài: có 5 giới cấm giống như Phật giáo, và 5 giới cấm được tóm tắt bằng hai nguyên lý quan trọng ; mét là; tình thương yêu và sự công bằng. Tình thương yêu ở đây là tình thương yêu chân thật, không vụ lợi. Ví dụ như một cô gái yêu thương một chàng trai chỉ vì chàng trai giàu có sang trọng, có xe hơi nhà lầu, và hột xoàn v.v…, thì tình thương yêu này không phải là tình thương yêu chân thật, và có thể bị tan vỡ khi các yếu tố vật chất như tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, không còn nữa. Còn khi một người thấy một em bé nhỏ bơ vơ đứng khóc bên đường, người này dừng lại vổ về giúp đỡ, thì tình thương yêu này mới chính là tình thương yêu chân thật. Hai là; sự công bằng là đừng làm cho kẻ khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình. Những giới cấm khác như không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, v.v… đều phát xuất từ hai nguyên lý căn bản này mà ra. Nếu mình không muốn người khác sát hại mình, trộm cắp của cải mình, làm chứng gian đối với mình, v.v… thì mình đừng làm cho người khác.
1.4-Về những giới cấm quan trọng nhất:
Thứ nhất là cấm sát hại sinh vật. Đạo Cao Đài quan niệm rằng mọi chúng sinh trên thế gian đều thọ một điêm chân linh của Phật tổ-Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn có dạy rằng: “ Khi lập Càn Khôn Thế Giới, Thầy lại phân tính Thầy mà sinh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, và con người gọi là chúng sinh. Các con đủ hiểu rằng cái gì hữu sinh cũng do bởi chân linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống.” Do đó sát hại sinh vật tức là sát hại Đức Thượng Đế vậy. giới cấm này quá ư quan trọng, ta không hề có thể tưởng tượng rằng giết hại một sinh vật chính là giết hại Đức Chí Tôn. Nhưng trong đạo Thiên Chúa giáo, hình như sát hại sinh vật để ăn thì không bị cấm, bằng chứng là các tín đồ Thiên Chúa giáo được phép ăn thịt. Đức Chúa Trời ban cho loài người quyền quản trị các loài thú cầm và ban cho con người mọi thứ cỏ kết hạt, và các loài cây sinh quả có hạt giống để làm đồ ăn. Có lẽ nhiều người hiểu Thánh Kinh bằng nhiều cách khác nhau,nên tín đồ Thiên Chúa giáo cho rằng con người được quyền ăn thịt. Một điều chắc chắn là tín đồ Cơ Đốc giáo luôn luôn quảng bá sự ăn chay. Ngoài giới cấm này, còn giới cấm nào có được tầm quan trọng như vậy không ?
Thứ hai là Còn một giới cấm nữa cũng quan trọng không kém, đó là vọng ngữ (ý nghĩ của con người).Đức Phật dạy rằng: “Nơi thân phàm các con mỗi đứa Thầy đều cho một chân linh gìn giữ cái chân mạng sinh tồn, Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rõ rằng đấng chân linh ấy vốn vô tư, mà lại được phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên Phật và các đấng trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhất nhất điều lành và việc đều ghi chép không sai đặng dâng vào Toà Phán Xét, bởi vậy một mảy không qua, dù lành đều có trả; lại nữa các chân linh ấy có tính Thánh nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe người đời gọi là lộn lương tâm là đó.”Vì vậy như chúng ta nói dối, trước chưa dối với người, mà mình đã nói dối với chính mình, với chính lương tâm của mình, tức là nói dối với Trời rồi vậy.
1.5-Tại sao Phật giáo cấm ăn thịt chó:
Đức Phật giải thích: "Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay, lần lượt theo nhân duyên là lục thân quyến thuộc với nhau, suy nghĩ thịt này là người (thân) kiếp trước của mình, do đó không nên ăn thịt.Thịt lừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v.. vì nhiều hàng thịt bán lẫn lộn, do đó không nên ăn thịt. Như thợ săn, đồ tể, cầm thú ngửi mùi họ liền sinh kinh sợ, chó thấy oán ghét sủa vang, do đó không nên ăn thịt.Vì khiến người tu hành chẳng sinh khởi từ tâm, do đó không nên ăn thịt. Phàm phu ham thích hôi thối bất tịnh, có tiếng tăm xấu xa, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng thành , do đó không nên ăn thịt nói chung.Vì người sát sinh thấy hình súc sinh khởi thức phân biệt, ham đắm mùi vị, do đó không nên ăn thịt. Kẻ ăn thịt bị chư Thiên chê bỏ, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến miệng hôi hám, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người có nhiều ác mộng, do đó không nên ăn thịt. Vì đến chỗ rừng hoang vắng lặng, cọp, sói ngửi được mùi hương gây sự nguy hiểm, do đó không nên ăn thịt. Vì làm cho ăn uống thất thường, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sinh chán lìa, do đó không nên ăn thịt. Ta thường nói rằng: Khi muốn ăn uống, nên nghĩ đây là thịt của con mình hoặc nghĩ là thuốc độc, do đó không nên ăn thịt. Cho Phật tử ăn thịt là không đúng”. Do vậy, cấm ăn tất cả thịt động vật.
Nghiên cứu thấy: Giới tu hành cho rằng có ba nguyên nhân chính tại sao không nên ăn thịt chó: Lẽ thứ nhất: là con chó là vật nuôi trông giữ nhà, đình, chùa nó như người vệ sĩ trung thành nhất bảo vệ an nguy cho chủ. Thứ nhì: Con chó là con vật ăn rất bẩn, ăn tạp và ăn cả phân người rất hôi thối bẩn thỉu, nên người tu hành phải “tịnh” nên không ăn. Thứ ba: thịt chó rất giàu chất đạm, khó tiêu mà người thu hành phải “tịnh” nên không nên ăn chất khó tiêu.
Những người đã đi tu và học tu thì cũng không nên ăn các con vật khác như : các loại da trơn như thịt ba ba, kỳ đà, thịt rắn... vì sao, theo Phật giải thích như con rắn là con vật cũng ví như vệ sĩ bảo vệ Phật, thần trong các chùa, đền suy tôn là ở hàng "ông"như các mãnh tướng:ông bên phải gọi là "Thanh xà" , ông bên trái gọi là "Bạch xà"; tất cả các chùa , đền đều thờ như vậy.
2-Sự ra đời của Phật- Phật giáo:
Có thể nói Phật giáo ra đời ở Ấn Độ cổ đại. Là một quốc gia rộng lớn ở miền nam châu Á, có lịch sử lâu đời và có một nền văn minh rực rỡ. Chủ nhân chính của nền văn minh Ấn Độ cổ đại là người bản địa Ddravida và người châu Âu nhập cư Aryan từ trung Á tới vào khoảng 2000 năm TCN. Trải qua nhiều xung đột với người bản địa, người Aravida chiến thắng sau đó chuyển vào hướng Đông và dần định cư ở lưu vực song Hằng. Và xây dựng nơi đây là một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội của Ấn Độ. Sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ cổ đại là cực kỳ khắc nghiệt, tầng lớp cầm quyền bên trên được đề cao, tầng lớp nhân dân bị bíc lột. Xã hội Ấn Độ khi đó được chia ra: Brahman (Ba-la-môn) là đẳng cấp cao nhất, thống trị xã hội Ấn Độ, được tôn là “Thần của nhân gian”. Ksatơri (Sát đế lợi) tứ là tầng lớp võ sĩ, quý tộc, người chấp hành quyền lực được coi là ngươi bảo hộ nhân dân. Vaisya(Phệ xá) bao gồm nông dân, thợ thủ công, nhà buôn là lực lượng tạo ra của cải chính cho xã hội, và có nghĩa vụ nộp thuế nuôi tầng lớp đẳng cấp trên. Suđra(Thủ đà la) tức là nô lệ có nghĩa vụ phục vụ cho tầng lớp đẳng cấp trên. Xã hội Ấn Độ khi có sự phân biệt đẳng cấp, đây là cơ sở quan trọng làm cho Phật giáo- với tư cách là một trào lưu tư tưởng chống lại sự “Nghèo nàn hiện thực” và đưa ra chủ trương hiện thực “Bình đẳng xã hội”, và Phật giáo cũng là sự tự nhiên của con người (Ấn Độ khi đó) lựa chọn. Phật giáo ra đời sau 2 thế kỷ, dưới thời vua Dục Anh (Thế kỷ III TCN), Phật giáo đã lan rộng khắp cả Ấn Độ, và nhiều quốc gia châu Á phật giáo phát triển rất mạnh. Như ở Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Srilanca, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malayxia…
Ngày nay tín đồ Phật giáo trên thế giới có trên dưới 3 tỷ người (trên 1/3 dân số thế giới).
Phật giáo là chủ thuyết về sự khai sáng tinh thần, có những “Vô thường” thần linh bí hiểm do Thích ca Mâu Ni đã được bí truyền từ vũ trụ qua cơ cấu vô thức vào người (theo cận tâm lý). Phật Thích Ca Mâu Ni đề ra thuyết “Tứ diệu đế” đã giác ngộ và nhận trách nhiệm làm người khai sáng Đạo Phật. Đạo Phật- tiếng Phạn gọi Boudism do chữ Boda là cây Bồ đề (Đạo Cây Bồ Đề). Phật Thích Ca Mâu Ni- Phật tổ là người sáng lập ra Đạo phật.
3- Phật giáo và hướng thiện của người Việt Nam:
Phật giáo được truyền vào nước ta từ đâu công nguyên, khi đó nước ta bị phong kiến phương Bắc đo hộ. Người truyền bá đầu tiên phải kể đến là nhà sư Ấn Độ tên là Tỳ Ni Đa Lưu Chi thuộc phái Thiên Tỳ Ni Đa lưu truyền vào đời hậu Lý Nam Đế (580- 594). Ông tu ở chùa Pháp Vân( Bắc Ninh) truyền thừa 18 đời với 24 vị Thiên sư, từ Pháp Hiền (626) đến Yên Sơn(1216); tiếp đến phái Thiền Vô Ngôn Thông (?-820) do nhà sư Vô Ngôn Thông truyền thừa 15 đời từ Cẩm Thành(860) đến Ứng Vương (1287).Sau năm 938, nước Việt Nam bước vào thời kỳ tự chủ. Phật giáo được các triều đại phong kiến nâng đỡ nên phát triển mạnh và đạt cực thịnh. Buổi đầu của kỷ nguyên độc lập, thiền tông chiếm ưu thế tôn cao uy thế của Phật, trong đó có sự cứu vớt của Bồ Tát, nhất là phật bà Quán Thế Âm Bồ Tát. Phật giáo của thời kỳ này phát triển rực rỡ với sự ra đời của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông sáng lập: Thì Trúc Lâm Điều Ngự- Trần Nhân Tông là đệ nhất tổ, lịch sử chép rằng Trần Nhân Tông là con vua Trần Thánh Tông (Trần Cảnh), Ngài sinh năm 1258, thế kỷ XIII.
Khi sinh ra thân sắc vàng như sắc Phật. Lớn lên năm 16 tuổi, được vua cha lập làm thái tử, đến năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi, ngài hai lần cố truyền ngôi cho em trai là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì thấy ngài có khả năng gánh vác việc nước. Khi làm vua, từ năm 1279 đến năm 1293, sau ba lần lãnh đạo dân quân Đại Việt đánh thắng giặc Nguyên- Mông, trong lịch sử ghi lại hội nghị Diên Hồng, vua cho mời các bô lão lấy ý kiến quyết tâm đánh giặc. Khi thắng trận rồi, đất nước thanh bình. Làm vua ở bậc cao sang, quyền quý, nhưng nhà vua lại thích ăn chay, sống đạm bạc không được hưởng cao lương mỹ vị, tấm thân ốm yếu gầy còm, thấy nhà vua gầy quá vua cha Thánh Tông gọi lại than rằng “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác sự nghiệp tổ tiên”. Nhưng ngài vẫn không màng sự sống sung sướng vẫn quyết chí đi tu. Năm 1293 Ngài nhường ngôi cho con. Sáu năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, từ năm 1293 đến năm 1298 Ngài thấy con là vua Anh Tông, đã đủ sức trị nước, Ngài liền xuất gia đi tu. Trong thời gian là Thái Thượng Hoàng, Vua ăn chay, giữ tịnh giới, không gần cung tần mỹ nữ.
Đến tháng 7 năm 1299, ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am, đến tháng 10 năm 1299 Vua xuất gia tu hành trên Yên Tử và sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đến năm 1304 Ngài mới bắt đầu đi giảng Đạo ở các nơi. Chuyện kể rằng lúc xuất gia tu hành, quần thần và gia quyến ở Phủ Thiên Trường- Nam Định, nơi có cung Vua Thái Thượng Hoàng đi đến chùa Long Động- Quảng Ninh mới chia tay. Với cung nữ, Ngài cho tự do về quê lập gia đình hoặc làm gì tùy ý, dứt khoát buông xả hết không coi là của mình.Đây mới thật sự cắt đứt ái ân, xuất gia hành đạo. Phải chăng hạt giống Phật đã ngầm gieo trong Ngài, việc này lại trùng lặp với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng từ bỏ ngai vàng đi tu và thành Phật. Đến năm 1308 Ngài viên tịch thành Phật, hưởng thọ 51 tuổi.
Như vậy có thể thấy Vua Trần Nhân Tông cũng là người có nhân duyên với Phật, có sự quyết tâm đi tu, hẳn Ngài cũng nhận được lệnh bí truyền từ vũ trụ là khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đất nước thì Ngài phải đi tu? Nay Ngài là Phật, thành Tổ của phái Thiền Trúc lâm Yên Tử. Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử ngày nay thuộc phái Thiền Tông là còn gọi là Tổ sư Thiền, đã phát triển ở Yên Tử(Yên Tử 1), Trúc Lâm Đà Lạt (Yên Tử 2), đang phát triển thêm Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên ở huyện Tam Đảo Vĩnh Phúc…
II- Linh hồn và quả báo
1-Linh hồn là gì và Tâm linh là gì?
Trước hết ta hiểu về tâm linh: Tâm linh chính là phần phát sáng của trí tuệ dẫn ta tới vô thức; nó là mối giao cảm giữa con người và vũ trụ. Nếu tước bỏ phần tâm linh đó đi cũng có nghĩa là tước bỏ cái thần minh cao cả của con người. Vì vậy trong một thời gian khá dài ta bị khuôn vào cơ chế xã hội duy vật vô thần một cách khắt khe, máy móc lµm cho tâm thức con người bị ức chế (Thời kỳ mà nhận thức về Tâm linh chưa tốt, nơi nơi phá đình, phá chùa…dài khoảng trên 30 năm). Còn trong thực tế đời sống lại có rất nhiều chuyện kỳ lạ mà con người - những người đại diện cho chủ nghĩa duy vật lại không lý giải nổi. Hơn nữa vũ trụ lại bao la , thế giới lại vô cùng vô tận; đó là thế giới vô hạn mà khả năng của con ngưêi lại có hạn. Bên cạnh việc con ngưêi phải bươn trải để sống và tồn tại giữa thiên nhiên còn bao nhiêu điều bí ẩn, tiềm tàng, hiểm hoạ; cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác còn gay gắt, con ngưêi còn phải tìm đến các lực lượng khác hỗ trợ. Những hiện tượng xẩy ra ngẫu nhiên, xẩy ra trùng hợp và cả những hiện tượng mà những nhà ngoại cảm đã làm là nối thông tâm linh giữa hai cõi âm-dương và phù hợp với lòng mong muốn của con ngưòi thì niềm tin của con người như thấy đây là lực lượng siêu nhiên hỗ trợ giúp con người vững tin trong con đường đi tới.
Còn về Linh hồn của con người (hay còn gọi là “tinh lạc”, dân gian gọi là “vong”, “hồn”, “hồn ma”, một số dân tộc phía bắc như dân tộc Tày-Nùng còn gọi là “Phi” (Phi lành và Phi ác). Tất cả gọi chúng là “linh hồn”, về khái niệm này trong triết học hay văn học rất mơ hồ. Gần như nó chỉ là khái niệm của các tôn giáo như Thiên chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, và các tôn giáo thờ vật linh, ngẫu tượng khác... Theo các tôn giáo khái niệm về “Linh hồn” là cái gì đó tồn tại sau khi chết, và chính cái này đi tái sinh. (Còn tái sinh làm cái gì đó còn phụ thuộc chính vào chính vào Nghiệp của con người khi còn sống).
Các tôn giáo hữu thần đều cho rằng có một linh hồn bất tử trong con người. Nếu khi sống làm như lời Chúa dạy, thì sau khi chết người ấy được Chúa cứu rỗi lên Thiên Đàng hoặc ngược lại thì bị đày xuống địa ngục. Cái phần phi vật chất được lên thiên Đàng hay xuống địa ngục đó, họ gọi là “linh hồn”. Điều này chúng ta có thể kiểm chứng qua các tài liệu như Kinh điển gốc, sách sớ giải hoặc sách của các chuyên gia viết về tôn giáo học hoặc các loại từ điển về tôn giáo. T.W. Rhys Davids đã viết trong bộ từ điển của mình về quan niệm “linh hồn” trong các tôn giáo thời cổ như sau: “Linh hồn được trình bày trong các học thuyết vật linh vào thế kỷ thứ VI, thứ VII trước Tây lịch ở Bắc Ấn Độ. Linh hồn được mô tả trong các bộ Upanisad (Áo Nghĩa Thư) như là một sinh vật nhỏ có hình dáng giống con người, thường an trú trong tim. Nó sẽ rời bỏ thân thể khi ngủ hoặc trong các trạng thái xuất thần. Khi nó trở lại xác thân thì sự sống và tình cảm của con người tái hiện. Nó thoát khỏi thân thể sau khi chết, rồi tiếp tục một đời sống vĩnh hằng khác”. Bài nghiên cứu “Các Khái Niệm về Linh Hồn ở Ấn Độ” của William K. Mahony trong bộ Từ Điển Bách Khoa về Tôn Giáo cũng nhận định học thuyết linh hồn trong văn học Veda và Upanisad như sau: “Linh hồn (àtma), được giải thích theo quan điểm thần học, hiện diện trong một hữu tình thần linh tối thượng, như các thần Ì's, Ísa, hoặc I'svara: Ngài là chúa tể của quá khứ và tương lai. Ngài là hôm nay và cũng sẽ là ngày mai. Ngài chính thật là Linh Hồn.
Người Việt Nam và Trung Hoa thường hiểu nôm na “linh hồn” là tâm thức tồn tại sau khi chết. “Linh hồn” có nghĩa là một dòng chảy của các ý niệm, sau khi chết do sự thúc đẩy của tập quán tạo tác của thân tâm đời trước, nó tạo thành một động lực dẫn đến tái sinh, như vậy nó có nghĩa tương đồng với chữ “kiết sinh thức” trong đạo Phật. Phật giáo không nói đến “Linh hồn” mà chỉ cho là dòng tâm thức liên tục của con người, ta hiểu như là quan niệm về “linh hồn”.
V.Hugo nhà đại văn hào Pháp viết: “Nắp quan tài đóng lại/ Vòm trời xanh hiện ra/ Cứ tưởng chết là hất chuyện/ Ngờ đâu một cuộc sống mới bắt đầu”. Những nhà ngoại cảm đã chứng kiến thế giới huyền bí của linh hồn.
Những người tu hành đã chính quả đã đạt đến độ thiên nhãn thông (Nhìn thấy) hay nhà ngoại cảm đã nhìn thấy những người đã hấp hối, khi hồn lìa khỏi xác bay là là ra khỏi phần xác. Ở một số nước phương tây đã nghiên cứu và thấy hồn của người mới qua đời đang “ cựa quậy trong hai bàn tay trông như con cá nhỏ”.
Theo nhà ngoại cảm Thanh Hải có văn phòng ở ngõ 93...,phố Trung Kính, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội thì linh hồn (hay còn gọi là vong), đi bình thường (vận tốc bay) một phút là 1.752 km và tháng 10 năm 2002, liên hiệp khoa học công nghệ và tin học ứng dụng (UIA) đã tổ chức thực nghiệm khoa học “nói chuyện với người âm”, trong nhân gian thường gọi là “gọi hồn”. Đây là đề tài khoa học thực nghiệm của 3 cơ quan: Liên hiệp UIA, Viện khoa học hình sự Bộ công an, trung tâm văn hóa Kỹ thuật truyền thông.
Đặc điểm của cuộc giao tiếp là: Một người đều có thể cầu được người quá cố từ 4 đời (tứ đại) trở lại. Theo bộ môn cận tâm lý thuộc liên hiệp UIA, Viện khoa học hình sự Bộ công an, Trung tâm văn hóa kỹ thuật truyền thống, về lý thuyết, linh hồn là vật thể chuyển động không theo bất cứ một quỹ đạo xác định nào, có nghĩa là chúng có thể chuyển từ vị trí này sang vị trí khác theo vô số con đường cùng một lúc.Cũng như vậy, vật thể có thể cùng một lúc có mặt tại vô số vị trí khác nhau, cùng một lúc ở vô số trạng thái khác nhau. Thế giới huyền bí mà các nhà ngoại cảm tiếp cận được chính là thế giới này. Thế giới này không phải là năng lượng, tốc độ, tự nhiên nữa mà là siêu năng lương, siêu tốc độ, siêu tự nhiên. Như vậy, đối với thế giới huyền bí mà các nhà ngoại cảm bàng khả năng đặc biệt có thể tiếp cận được sẽ không còn khái niệm thời gian, không gian nữa.
Có những nghiên cứu trong tử thi Ai Cập cho thấy “linh hồn” người chết đang hấp hối thoát ra từ từ, từ một huyệt đạo ở đỉnh đầu tuy nhiên không đứt hẳn mà được nối với thân xác người chết bằng một sợi dây lung linh mờ sáng rất yếu, rất khó nhìn, chỉ những người tu hành đạt đến một mức độ cao siêu hoặc nhà ngoại cảm sẽ nhìn thấy rõ. Lúc này để cho linh hồn mau siêu thoát tốt nhất là người nhà tụng kinh niệm phật “nam mô a di đà phật”, (trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay có thể mua đài ghi băng tụng kinh A DI ĐÀ mở cho người ốm hoặc người mới mất nghe) ; đối với người theo đạo phật hoặc kinh cầu nguyện với các tôn giáo khác. Mục đích là để cho “linh hồn” –đệ tử đang trong tình trạng mê man học hỏi được những gì ở bên kia “cửa tử” .
Những nhà tu hành đắc đạo kể rằng sợi dây lung linh mờ sáng rất yếu đó có phần khói mờ đục thoát ra lơ lửng gần cơ thể người vừa qua đời, nhìn có hình dạng hình người, gọi là “thân trung ấm” cao khoảng 90 cm (như một đứ trẻ), nhưng rất mỏng mảnh, xuất hiện trong các tư thế ngang, thẳng đứng, nghiêng hay ngược xuống. Đối với những người chết lâm sang thì sợi dây đó không đứt ra, còn những người đã chết thi sợi dây đó đứt ra hồn lìa khỏi xác và bay lên phía trên. Như vậy chết không phải là hết mà chết là chuyển đổi kiếp đời này sang một kiếp đời khác mà thôi. Đối với những người đã chết theo nghiên cứu của bác sĩ Duncan MacDougall. Những kiêm chứng khoa học đã cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng các thí nghiệm khoa học. Sau khi tiến hành thí nghiệm trên với 7 người chết, ông phát hiện rằng ngay sau khi qua đời, cân nặng của người chết giảm đi từ 11 đến 43 g. Ông cho rằng đó là phần vật chất mà người ta thường gọi là “linh hồn” thoát ra khỏi thi thể. Sau này, nhiều người khác cũng thử lập lại thí nghiệm của Duncan, câu trả lời cho sự tồn tại của linh hồn được làm sáng tỏ. Một bác sĩ khác cũng cố gắng chứng minh sự tồn tại của linh hồn bằng những thí nghiệm khoa học, đó là Gerard Nahum. Ông đã bỏ ra 20 năm chỉ để nghiên cứu lĩnh vực này theo Nahum, vấn đề khó nhất là xác định sự tồn tại của linh hồn là phải tìm được những chuỗi điện từ phát ra từ thi thể người chết. Ông đặt hàng lọat máy dò hiện đại xung quanh thi thể ( máy viba, máy dò tia hồng ngoại, tia gama, điện từ,…)để tìm ra “linh hồn” . Nahum chắc chắn rằng sau khi chết, tất cả những gì thuộc về người đó khi họ còn sống không thể ngay lập tức mất đi hoàn toàn được. Nó sẽ phải qua một quá trình chuyển biến đến một nơi nào đó trong không gian. Tại những nơi đó, chúng sẽ được giữ gìn và tồn tại vĩnh cửu.
Nghiên cứu các dân tộc ít người, trong “các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc ) do nhà xuất bản khoa học xã hội – hà nội năm 1978” thì các dân tộc đều có một đặc điểm chung là tin con người sau khi chết đều có “linh hồn” . Dân tộc mường tin rằng người chết sang “thế giới bên kia” vẫn có một cuộc sống tương tự như ở trần gian. Trong dân gian tin rằng một số người có ma chài, ma ếm, có thể dung thuật, thần chú để hãm hại người khác. Dân tộc chức tin ngoài rừng có ma rừng, ma suối, trong không trung có ma lơ lửng trên không trung, dưới đất có ma đất. Ở bốn phương và giữa trời có năm ông thổ công được coi là chủ của đất, thần trông coi và bảo vệ đất rừng, người và vật của đất, đây là vị thần cao nhất trong hệ thống thần linh. Dân tộc Thổ thờ các loại ma: ma trầy, ma cận, ma cõi, ma đất, ma lôi, ma mục đồng. Dân tộc Khơ mú tin rằng mọi hành động của họ trong cuộc sống hàng ngày đều do các lực lượng siêu nhiên chi phối, có tên gọi là ma, có ma dữ và ma lành. Ma trời là ma to nhất, dưới đất có ma đất, ma nương, ma rừng, ma bản. Đối với các ma làm hại thường dùng bùa phép, nếu người bị ốm đau phải cúng ma. Dân tộc Kháng, trong hôn nhân khi còn sống là vợ chồng, khi chết hồn tiếp tục sống với nhau ở “bên kia thế giới”. Do vậy người Kháng có tục sắm sửa cho người chết những thứ cần thiết như khi còn sống để tiếp tục “sống ở thế giới bên kia”. Quan niệm bởi 5 hồn. Hồn chính ở trên đầu, cồn các hồn khác ở tứ chi. Khi người chết 5 hồn thành ma. Hồn trên đầu ở trong nhà phù hộ con cháu, gọi là ma nhà, hồn tay phải trở thành ma coi mùa màng ở trên nương, hồn tay trái thành ma gốc cây làm quan tài, hồn chân phải biến thành ma nhà mồ, hồn chân trái thăng thiên thành ma trời. Xung quanh bản, làng còn có ma rừng, ma nguồn nước, ma đống mối, ma bản… Dân tộc Ơ đu, khi người chết hồn biến thành ma, hồn gốc ở chỏm tóc trên đầu sẽ ở lại làm ma nhà; hồn ở thân thể sẽ liền với xác ở bãi tha ma. Ma nhà hoặc vì nhớ vợ, nhớ con, hoặc vì muốn bản thân mình hay một người thân đã chết đầu thai trở lại làm người thì buộc phải một trong những người con cháu của mình phải chết; nên dân tộc Ơ đu có lễ đút lót ma nhà xin ở lại trần gian nếu bói thấy ma nhà có ý định làm hại mình, họ làm lễ cầu xin ma nhà (theo dân tộc ơ đu vì thấy trẻ con sinh ra có nhiều đứa trẻ giống những người đã khuất, đầu thai trở lại làm người? ). Dân tộc Lào tin là có ma bản và được cúng dưới gốc cây to. Dân tộc Lự, theo chủ nghĩa đa thần và đạo phật, người Lự tin rằng mỗi vật mỗi cở thể sống đều có hồn. Các siêu linh, ma quỷ có thể sống trong người, trong nhà, dưới nước trên trời. Các siêu linh này chia 2 nhóm, nhóm bảo hộ và nhóm làm hại. ma bản mỗi năm cúng một lần, trong rừng già. Ma mường là ma lớn nhất có công xây dựng bản, 3 – 4 năm cúng một lần. Trong các gia đình đều có ma phù hộ cho gia chủ khỏi trộm cắp, ốm đau. Các loại ma ác là ma gây nên cái chết, ốm đau, phá hoại mùa màng cho người Lự. Người Lự tin con người có nhiều hồn. Hồn chính ở đầu, các hồn các ở mũi, mắt, mồm và ở trong các bộ phận khác của cơ thể. Đồng bào tin rằng con người sau khi chết linh hồn vẫn tiếp tục sống. Đối với người Lự cái chết bình thường và đẹp nhất là chết già, cái chết xấu nhất là chết “bất đắc kỳ tử” như chết đuối, chết trong rừng… sau khi chết những người này sẽ biến thành ma. Người chết sau một thời gian gia đình làm lễ để đưa linh hồn người chết vào chùa. Dân tộc Tày theo tam giáo: đạo giáo,Phật giáo và Khổng giáo, với hệ thống tín ngưỡng như thế nên dân tộc tày tin con người có linh hồn, cho nên khi chết phải làm những lễ phá ngục cứu hồn, lễ rửa tội, để hồn được lên then đàng. Khi cha mẹ chết con cháu phải làm các lễ điểm trà, dâng rượu cho vong linh, kể lể công đức của cha mẹ bằng các bài văn than… Dân tộc Nùng quan niệm có linh hồn và ma quỷ; ma quỷ có mặt ở khắp mọi nơi trong thế giới quanh ta, ma trời, ma phật. ma đất, ma rừng, ma tổ tiên… có ma lành và ma dữ tức là phúc thần và hung thần. Phúc thần là ma tổ tiên, ma mụ, ma bếp, ma bản, hung thần là ma tác quai tác quái, gây phiền toái, giáng họa cho con người. Dân tộc Cao lan- Sán chỉ, khi người nhà chết người ta mặc cho người chết những bộ quần áo đã cắt hết khuy và cắt một nhát ở gấu gọi là làm giấu cho ma. Sau đó họ lấy bẩy đồng xu buộc lại với nhau sao cho chúng đặt đúng vị trí: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và mồm. Theo đồng bào làm như vậy, bẩy đồng xu tượng trưng cho bảy ngôi sao dẫn đường cho hồn về bên kia thế giới. Họ còn đặt vào tay phải một que hương hoặc một chiếc que để dung làm gậy đuổi chó và đặt vào tay trái vài hào bạc trắng hoặc vàng mã để vong linh tiêu dùng trên đường về với Tổ tiên. Dân tộc Giáy, quan niệm thế giới có 3 tầng: tầng trên trời, tầng con người đang sống, tầng dưới đất. Tầng trên trời được mô tả đẹp đẽ, sung sướng. Tầng dưới dất thì nhỏ bé, khác với tầng giữa như người địu con ở bắp chân,đeo dao ở cổ chân. Tổ tiên ở tầng trên trời. Mỗi người chết được cúng làm đủ nghi thức thì sẽ lên trời sống với tổ tiên. Ai chết không được cúng lễ hẳn hoi sẽ bị đẩy xuống âm ty hoặc biến thành con vật, hồn vía sống lởn vởn quanh con người. Vì vậy những người lớn, nhất là đã có vợ con, chết gia đình cố làm ma chu đáo để hồn được về tầng trời sống với tổ tiên. Dân tộc La Ha , quan niệm sau khi chết vợ chồng sẽ sang “Thế giới bên kia” để tiếp tục “đoàn tụ”, vì vậy khi chết phải làm đủ nghi thức hôn lễ với bữa cơm rượu lớn, nếu chưa có điều kiện làm lúc chết thì sau này con trai phải làm tiếp để ma bố mẹ sum họp. Dân tộc Pu Péo, cho rằng trên trời và dưới đất đều có người ở, người trên trời là người đỏ mặt. Tin vào sự tồn tại của linh hồn, nam cũng như nữ đều có tám linh hồn. Đồng bào tin rằng hồn mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào sức khỏe của con người. Vì thế khi đưa trẻ em đi chơi xa, đi đêm, đi lúc giữa trưa trời nắng người ta phải làm dấu bằng nhọ nồi ở trên trán cho những đứa trẻ dưới 13 tuổi để hồn ma không nhập vào. Khi ốm đau và các dịp lễ tết còn có tục cúng và gọi hồn, quan niệm rằng do làm ăn vất vả, mọi người đi lại nhiều nên hồn đi chơi khắp nơi, nên phải gọi hồn về. Dân tộc Bố Y, quan niệm người có 36 hồn hay phương mệnh, lúc chết hồn có thể phân tán và lìa khỏi xác. Hồn sống trong không gian và thời gian vô hạn, có khả năng biến háo và sức mạnh vô cùng. Chia linh hồn làm hai loại, hồn dại và hồn khôn, những hồn dại thường tụ lại mồ mả với thể xác, những hồn khôn trở về bàn thờ với tổ tiên để răn dạy và phù hộ với con cháu, hoặc dong chơi đâu đó. Hồn khôn có thể nhập vào bất cứ ai ngoài những người thuộc gia đình kẻ đã khuất để dạy khôn hoặc làm hại. Dân tộc Tu Dí, khi có người chết người ta mặc cho người chết bộ quần áo mới nhất, trước linh cữu, thầy cúng làm phép trừ tà và đọc mấy câu thần chú đưa hồn người chết về “Thế giới bên kia”. Dân tộc Thủy tin rằng người chết hay bép xép chuyện của con cái khi về “Thế giới bên kia” do vậy người ta đặt vào miệng người chết một hào bạc trắng.Họ kiêng không đẻ đầu người chết quay vào nhà, tin vào các loại ma, khi ốm đau hoặc làm một công việc quan trọng hay nhờ thấy bói cúng ma. Dân tộc Tống, khi có người chết người ta đặt trên đầu áo quan một bát cơm và một con gà luộc. Khi hạ huyệt con gà được băm nhỏ trộn lẫn cơm trắng rắc xung quanh quan tài, cho rằng như thế để người chết ăn lúc lên “thiên đường”. Vì đồ tang là màu trắng cho nên trong đám cưới kiêng mặc màu trắng. Quần áo tang khi giặt không được vỗ to sợ động đến linh hhoonf người chết. Dân tộc Mèo (H’Mông), khi người chết phải mặc cho áo dệt bằng cây lanh, thì mới được về đoàn tụ với tổ tiên; do vậy cây lanh người Mèo trồng với diện tích rất lớn. Quan niệm vạn vật có hồn, người mà con vật chết biến thành ma, có ma lành ma ác. Người ốm là do hồn lìa khỏi xác , nên kiêng không xoa đầu trẻ em. Mỗi họ của dân tộc Mèo có nghi lễ cúng tổ tiên, ma chay, cách chon cất riêng. Xưa kia đám ma thường để 5 đến 7 ngày, ngày nay để 2 đến 3 ngày. Chôn cất xong làng xóm dân bản đến chơi với gia chủ vài ba buổi tối và chủ nhà cắm cành lá ở đường nếu người chết là nam thì 9 cành, là nữ thì 7 cành theo phong tục để hồn người chết không biết đường quay về làm hại gia đình. Còn có lễ cúng đưa hồn người chết về với tổ tiên sau chôn cất một hay vài năm. Nếu trước đây khi làm đám ma đã mổ trâu, bò thì nay chỉ cần mổ lợn là được. Trong một đời người mỗi người đàn ông Mèo chỉ cần cúng báo hiếu bố mẹ một lần, do vậy lễ này làm rất to phải mổ trâu, bò; yêu cầu trâu bò mạnh khỏe không dùng trâu bò ốm yếu, có thể chung nhau làm lễ này, nhưng mỗi người phải có lễ riêng...v.v
Những chuyện kỳ bí về linh hồn "sống lại" ở tỉnh Hòa Bình Việt nam
Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) đang tồn tại nhiều câu chuyện khá ly kỳ. Một cháu bé cứ nằng nặc nhận mình là đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều “bằng chứng” chứng tỏ mình là người đã chết, cháu bé đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó.
Linh hồn sống lại
Anh Tân và chị Thuận đều là cán bộ công tác tại thị trấn Vụ Bản. Anh chị kết hôn năm 1987, đến năm 1992 chị Thuận sinh cháu trai đặt tên là Nguyễn Phú Quyết Tiến, Tiến khoẻ mạnh bụ bẫm và lớn lên trong sự vui mừng khôn tả. Tai họa ấp đến trong một lần ra sông chơi, Tiến chẳng may chết đuối, khi ấy cháu 5 tuồi. Lúc này chị Thuận cũng không thể sinh thêm con vì lý do sức khỏe.
Có kiếp luân hồi?
Con mất, vợ chồng anh Tân suy sụp. Anh nghỉ việc, ra làm tự do. Vợ chồng anh tưởng như sẽ phải sống với nhau trong sự côi cút không con, thì một ngày đầu năm 2006, bỗng có một cháu bé tự khẳng định cháu chính là cháu Tiến, người đã bị chết đuối năm 1997!
Nhấp chén nước, thả những vòng khói thuốc lá chậm rãi, anh Tân đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện ly kỳ này. Khi Tiến mất, cháu đang là học sinh trường mầm non Hoa Hồng ở thị trấn Vụ Bản. Cô giáo dạy cháu Tiến là cô Đông và chính cô Đông là người đã phát hiện ra cháu Tiến đã “lộn về nguyên bản” ở cháu Bình con anh Hoan, chị Dự, người trong bản. Cháu Bình sinh ngày 06/10/ 2002.
Lần đầu tiên cô Đông thấy cháu Bình có những biểu hiện rất lạ, cô hỏi chuyện, cháu bảo cháu không muốn học ở đây, cháu muốn được học ở trường của cháu. Cô Đông hỏi lại, thế trường cháu ở đâu? "Trường Hoa Hồng ở ngoài thị trấn", cháu Bình trả lời.
Sao lại là trường Hoa Hồng, làm sao cháu biết trường đó, cô Đông thắc mắc. “Nhà cháu ở ngoài đó, nhà cháu gần nhà ông Lai”. Nghe Bình nói đến đây, cô Đông sởn hết cả tóc gáy. Cạnh nhà ông Lai là nhà anh Tân, và lẽ nào…
Thời gian tiếp theo, cô Đông âm thầm tìm hiểu và biết thêm. Một lần chị Dự mẹ cháu Bình đánh cháu vì cháu nghịch bẩn hết áo quần. Rơm rớm nước mắt, thằng bé bảo: “Mẹ đừng đánh con, bẩn áo quần thì mẹ đưa con về nhà con để con lấy”.
Chỉ nghĩ trẻ con nói nên chị Dự không để ý gì. Những lần khác chị Dự có đánh Bình lại bảo “con đã chết một lần rồi, mẹ đừng đánh con lại chết lần nữa đấy”. Sau mỗi lần bị mắng là cháu lại đòi được về nhà.
Một lần cháu Bình đòi chị đưa về nhà, điên tiết chị Dự bảo "thích thì ngồi lên xe tao chở đi". Bình ngồi sau xe bảo mẹ chở ra thị trấn, từ chợ thị trấn Bình bảo mẹ chở đến cuối sân vận động và rẽ vào phố Hữu Nghị. Đến số nhà 25, chính là nhà anh Tân, Bình xuống xe nói với mẹ “nhà con đây”.
Tuy nhiên nhà đóng cửa, chị Dự lại chở Bình về. Một lần nữa, chị Dự đi chợ thị trấn và cho Bình đi cùng. Khi đến chợ, Bình lại nằng nặc đòi mẹ “đưa về nhà con”, hai mẹ con lại đến trước nhà anh Tân. Sau khi thấy cửa đóng then cài, mẹ con lại ra về.
Mặc dù Bình nói vậy nhưng chưa bao giờ bao giờ chị Dự để ý gì vì nghĩ Bình chỉ là một đứa trẻ mới 4 tuổi. Câu chuyện thực sự “nóng” từ ngày cô Đông phát hiện ra những biểu hiện lạ ở Bình cùng với lời chị Dự kể. Từ đó, cô Đông mới hoài nghi thực sự.
Cô Đông đem chuyện kể lại với những giáo viên trong trường, trong đó có cô Phương. Là người quen biết với chị Thuận, nên cô Phương đã lập tức kể lại câu chuyện ly kỳ này cho chị Thuận nghe: “Cô vào trong bản Cọi xem sao, nghe nói thằng Tiến nó “lộn” về vào cháu Bình đang học ở trường trong đó”.
Cũng chẳng dám tin và đem chuyện kể lại với chồng, anh Tân lập tức giục vợ phải vào xem sao. Trước đây, khi cháu Tiến mới mất có một bà xem bói người Mường nói với anh rằng: “Anh đừng buồn, cháu Tiến linh thiêng lắm rồi sẽ quay về với anh thôi”. Lần khác anh đi xem bói tận Hoà Bình, ông thầy cũng nói điều tương tự.
Là người không mê tín nên lúc đó anh chỉ nghĩ rằng người ta động viên mình. Thế nhưng lúc nghe vợ kể lại câu chuyện Tiến "lộn" về trong bản Cọi, anh Tân cũng bán tín bán nghi và phân vân liệu lời thầy bói năm xưa có chăng lại là sự thật? Anh đã quyết định phải một lần đi tìm hiểu xem sao.
Hành trình tìm lại con
Một ngày sau, anh Tân đã cùng với chị Thuận tìm đến bản Cọi, tìm đến nhà vợ chồng Hoan - Dự. Vốn chưa biết nhau, nhưng khi đến nhà, anh Tân cứ làm như đã quen biết gia đình từ lâu lắm. Không nhận ra ai nhưng chị Dự, anh Hoan cũng không dám hỏi vì nhỡ đâu người quen lâu rồi mình không nhận ra nếu hỏi lại…vô duyên.
Sau mấy câu hỏi thăm anh Tân bắt đầu hỏi đến cháu bé: Thằng bé Bình đâu nhỉ bác ngắm tý xem lớn đến đâu rồi? Chị Dự cho biết cháu đang đi chơi cùng chúng bạn, một lát sau chị Dự cũng gọi cháu về để anh Tân gặp mặt. Về đến nhà thằng bé cứ lấm lét nấp sau cảnh cửa.
Anh Tân buông lời: Có nhớ bác không, bác mua nhiều bi cho cháu đây này. “Biết rồi, lúc nãy thấy hai người đi đầu làng, biết rồi”. Nghe thằng bé nói vậy anh Tân phát hoảng. Sao nó lại biết mình vào đây cơ chứ.
Sau vài câu chuyện hai bên trở nên thân tình, anh Tân ngỏ ý muốn đưa cháu Bình về nhà chơi, anh Hoan chị Dự đồng ý. Riêng thằng bé nghe nói được đi là leo tót lên xe và chiều hôm đó anh Tân đưa cháu Bình về nhà mình.
Trên đường về, để thử thằng bé, anh Tân dừng xe trước một ngôi nhà cao tầng bảo cháu, nhà bác đấy cháu vào đi. Lập tức Bình bảo, đây không phải, nhà ở dưới kia cơ. Đi qua rất nhiều đường trong thị trấn, anh Tân không đi theo đường chính vì muốn thử thằng bé. Ngạc nhiên là Bình cứ chỉ rành rọt và cho đến ngôi nhà anh Tân thì mới thôi.
Vừa mở cửa nhà, Bình lập tức xuống xe và chạy tót vào trong và mở tủ bới đồ đạc. Chị Dự đi cùng đã định ngăn lại vì sợ vợ chồng anh Tân đánh giá con mình thiếu giáo dục, nhưng anh Tân đã ngăn lại. Mặc cho cháu Bình tìm kiếm.
Anh Tân hỏi: “Cháu đang tìm gì?” - “Tìm cái máy bay và cần cẩu”. Nghe Bình nói, anh Tân giật mình vì đây là hai món đồ chơi anh đã mua cho cháu Tiến trước đây. Đến lúc cháu qua đời anh mới mang vứt đi. “Bác cất đi rồi, để lúc nào bác tìm lại cho cháu”, anh nói với cháu Bình.
Sau bữa cơm, anh Tân bảo cháu ra xe để chở hai mẹ con về, nhưng thằng bé bảo, nhà ở đây, không về đâu. Nói rồi Bình chạy vào nhà leo lên giường:
- Đây là giường con, chỗ con nằm ở đây.
- Thế cháu hay nằm thế nào?
- Con nằm thế này này (nói rồi Bình nằm sấp xuống giường).
Nhìn cái dáng Bình nằm y như Tiến năm xưa, vợ chồng anh Tân lặng người, chị Thuận chỉ còn biết úp mặt vào lưng chồng khóc sụt sùi, bởi thằng bé có những cử chỉ giống con mình năm xưa quá.
Trước sự tha thiết của thằng bé đêm hôm đó chị Dự đã miễn cưỡng cho con ở lại với gia đình anh Tân. Biết chuyện thằng bé, đêm hôm đó hàng xóm láng giềng kéo đến chật kín nhà. Ai cũng thử Bình bằng những câu hỏi để xem nó kể lại chuyện ngày xưa có chính xác không...
Từ lời đồn trở thành sự thật
Cũng đêm đó, anh Tân giả vờ gọi lớn "Tiến ơi!", lập tức ở trong nhà Bình "Dạ" và còn hỏi lại "Bố gọi gì con?". Anh chỉ vào chị Thuận hỏi đây có phải là mẹ con không, cháu cũng trả lời "phải". Những lời nói, những hành động rất giống Tiến đã làm cho anh Tân - chị Thuận nghĩ rằng Bình chính là do Tiến “lộn” về.
“Việc cháu gọi chúng tôi cũng hoàn toàn tự nhiên, chẳng ai bảo với cháu cả”, anh Tân nhớ lại.
Đưa cháu Bình trả về với bố mẹ đẻ của cháu, anh Tân vẫn canh canh trong lòng. Nghĩ đến chuyện thằng bè khóc lóc khi phải bắt về, anh lại thương nó vô cùng, từ ngày nó đến với gia đình, anh cứ nghĩ nó chính là Tiến. Thế nhưng, nó là con nhà người ta, mình nói ra không chỉ vợ chồng Hoan - Dự mà cả thị trấn này sẽ nói là muốn cướp con người ta nên dựng chuyện.
Bao nhiêu suy nghĩ cứ giằng xé trong con người anh Tân. Về phần nhà chị Dự, mặc dù con cứ nằng nặc đòi ở với anh Tân chị Thuận nhưng đó là điều không thể. Anh chị lấy nhau cũng sáu năm mới có được cháu Bình, chị cũng không thể sinh được con nữa. Nhà anh Tân lại giàu có, nếu cho cháu về ở dư luận lại cho rằng mình bịa chuyện chỉ vì hám tiền.
Ba ngày hôm sau, vì nhớ thằng bé anh Tân lại vào bản Cọi thăm. Vừa thấy anh Tân, Bình đã nhảy tót vào lòng anh như người thân thiết từ lâu lắm, mặc cho bố mẹ, bà nội vẫn đang ngồi bên cạnh. Điều ngạc nhiên là chính bà Thỉn - bà nội cháu Bình nói với anh Tân: “Từ ngày thằng Bình bắt đầu bi bô tập nói, tôi đã biết nó không phải người Mường mà là người Kinh. Nó nói tiếng Kinh rành rọt, điều mà chưa một đứa bé người Mường nào giống thế”.
Chính Bình cũng đã có lần nói với mẹ: “Con là người Kinh, con không phải người Mường. Mẹ không đưa con về con sẽ chết”. Bà Thỉn đưa Bình đi học, cháu khóc và nói: “Cháu không học trường này đâu, cháu học trường gần nhà cháu cơ, trường ở ngoài thị trấn”.
Một thời gian sau đó, Bình liên tục đòi bố mẹ “đưa về nhà con” và doạ “không đưa về con sẽ chết”. Một lần Bình ốm nặng, anh Hoan - chị Dự đã rất lo lắng, sợ điều thằng bé nói sẽ linh, nó sẽ chết thật.
Dù được mỗi mình cháu nhưng không còn cách nào khác, cuối năm 2006 anh chị đã đồng ý cho Bình về ở hẳn với nhà anh Tân - chị Thuận. Từ ngày về với “nhà của con”, Bình chơi vui vẻ và không còn bệnh tình gì nữa.
Ở Lạc Sơn, chuyện “con lộn” xưa nay không phải là hiếm, không có gì là quá lạ lẫm. Thế nhưng, “con lộn” về ở hẳn với bố mẹ người đã chết như Bình thì chưa từng xảy ra. Sau khi Bình về ở với anh Tân - chị Thuận, cả hai gia đình đã làm thủ tục cho nhận con nuôi.
Bình được chuyển về trường mầm non Hoa Hồng nơi Tiến ngay xưa học và tiếp tục đi học. Kể từ ngày về ở với bố Tân, mẹ Thuận, Bình cũng được đổi thành tên Tiến và mang họ Nguyễn Phú Quyết Tiến, tên họ trùng với cháu Tiến con anh Tân đã chết đuối cách đây hơn 10 năm.
Chị Thuận bảo, thời gian cháu Bình về ở với vợ chồng chị, câu chuyện này đã trở thành đề tài bàn tán xôn xao. Không chỉ ở thị trấn Vụ Bản, cả tỉnh Hoà Bình đi đâu cũng nghe nói về chuyện “lộn con” có một không hai này.
Những “bằng chứng” khó giải thích.
Trong cuốn sách phật Hương Hiếu Hạnh xuất bản năm 2007, câu chuyện về “con lộn” Tiến - Bình đã được đưa vào sách với nhan đề “Một trường hợp tái sinh ở Vụ Bản”. Cuốn sách không đưa ra sự phủ nhận hay khẳng định mà chỉ ghi nhận đó là trường hợp người thật việc thật đang hiện diện tại Vụ Bản. Và câu chuyện kỳ lạ nay cũng đã đến tai những người nghiên cứu về tâm linh.
Anh Tân cho biết, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã nhiều lần điện thoại gặp anh chị để xin được tìm hiểu, nhưng anh Tân từ chối. Hiện Bình - Tiến đã đi học lớp 1 và cũng bình thường như bao đứa trẻ khác. Anh Tân không muốn sự việc lại trở nên phức tạp và được thêu dệt thêm.
Trước khi gặp gia đình anh Tân, tôi thật sự ái ngại khi đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, trái hẳn với lo lắng của tôi, anh Tân rất vui vẻ kể lại câu chuyện một cách tỷ mỉ. Thậm chí, đang giờ hành chính nhưng anh vẫn gọi chị Thuận về để hai vợ chồng kể chuyện Tiến - Bình cho tôi nghe.
Tuy nhiên, hôm tôi đến nhà, Tiến đang đi học, cháu học cả ngày và trưa ở lại trường. Để giúp tôi hiểu rõ hơn, trưa đó chị Thuận đã đón cháu về nhà.
Vừa về đến cổng, Tiến đã nhanh miệng gọi bố, thấy tôi, Tiến khoanh tay chào rất lễ phép. Cháu rất khôi ngô, nói chuyện tự nhiên. Vừa vào nhà là kể chuyện cô, chuyện lớp, hết chuyện này sang chuyện khác. Cháu cứ ôm lấy anh Tân mà kể, chẳng biết ngại ngùng mặc cho lúc đó trong nhà có rất nhiều người, và cả mẹ đẻ của cháu, chị Dự.
- Bình này, chú ở trong bản Cọi ra đưa cháu về với mẹ Dự đây? (Tôi hỏi cháu)
- Cháu là Tiến chứ
- Không. Cháu là Bùi Văn Bình, hôn nay trong bản có lễ hội chú ra đưa cháu về xem
- Không về đâu, cháu là Nguyễn Phú Quyết Tiến, cháu không phải Bình, cháu ở với bố Tân mẹ Thuận cơ!
Anh Tân ngồi cạnh cháu cũng thêm vào:
- Chú nói đúng đó, con là Bình không phải Tiến đâu
- Bố nói dối, con là Tiến. Bố đừng đuổi con nghe bố, bố thương con mà!
Nói rồi thằng bé rơm rớm nước mắt, hai tay ôm chặt lấy anh Tân như van xin trông đến tội nghiệp.
Lúc mới về, Tiến còn vui mừng nói cười và mỗi lần thấy tôi cầm máy ảnh lên cháu lại làm dáng. Thế nhưng khi nói đưa cháu đi về bản Cọi cháu chẳng còn nói cười nữa mà chỉ ôm lấy bố Tân.
Câu chuyện đang dang dở với Tiến thì cũng là lúc cháu phải vào lớp. Trước lúc đi, Tiến lại khoanh tay dõng dạc chào chú và không quên dặn “cháu không về bản Cọi đâu nhé!”. Thời gian tiếp xúc với cháu không được bao lâu nhưng tôi thật sự ấn tượng với thằng bé. Tiến thật khôn và lanh lợi nhất là khi tiếp xúc với người lạ, mới 6 tuổi hiếm có cháu nào được như Tiến.
Bây giờ, mỗi tuần anh Tân lại đưa Tiến - Bình về ở với mẹ đẻ của mình một lần. Dù Tiến chẳng muốn về, nhưng anh Tân buộc phải làm như vậy, bởi anh muốn cháu luôn biết rằng: chị Dự mới là người sinh thành ra cháu. Anh Tân luôn khẳng định, Tiến giờ hoàn toàn bình thường như các bạn cùng trang lứa. Chuyện của cháu ở Vụ Bản ai cũng biết, anh cũng chẳng có ý định dấu giếm điều gì.
Trước, đây là đề tài “hot” được bàn tán từ đầu làng đến cuối ngõ, nhưng bây giờ mọi người cũng đã quen với sự hiện diện của Tiến - Bình tại nhà anh Tân, chị Dự.
Khi con trai "lộn" vào thành con gái.
Không đến mức đòi về ở hẳn như Bình về với gia đình anh Tân - chị Thuận, nhưng câu chuyện "con lộn" của Bùi Thị Hồng Thắm, ở xóm Cọi cũng được người dân ở Lạc Sơn bàn tán xôn xao. Thắm là con gái nhưng người “lộn” vào cháu lại là con trai.
Tôi tìm đến nhà Thắm khi bóng chiều đã khuất dần sau núi. Nhà cháu nghèo lắm, căn nhà gỗ bé xíu nằm chênh vênh bên sườn núi. Thắm sinh năm 1991, trước Thắm còn có một chị gái. Cũng vì nhà nghèo nên hai chị em đang phải làm phụ hồ ở Hà Nội, bố cháu anh Bùi Thanh Minh cũng đi làm ăn nơi xa thỉnh thoảng mới về một lần.
Chị Bùi Thị Toàn, mẹ cháu Thắm.Hôm tôi đến, một mình chị Bùi Thị Toàn, mẹ Thắm ở nhà. Đã mấy năm nay, chỉ có những ngày lễ tết gia đình chị Toàn mới được tề tựu đông đủ. Ngày thường, chỉ có mỗi chị Toàn vò võ mong ngóng chồng con, ba bố con đi làm ăn xa thế nhưng nhà nghèo thì vẫn hoàn nghèo.
Khi tôi hỏi đến chuyện “con lộn”, chị Toàn nhớ lại rồi cười ngặt ngẽo. Chị bảo ngày mới phát hiện Thắm bị “lộn”, cháu có những biểu hiện lạ lùng, nhưng cũng buồn cười lắm.
Chị Toàn kể: Khi Thắm bi bô biết nói, một lần hai mẹ con đang chơi đùa bỗng cháu “xị” mặt rồi nằng nặc đòi: “mẹ đưa con về nhà”, dù lúc đó đang ở trong nhà mình. Nghĩ trẻ con chưa hình dung được đâu là nhà mình nên chị Toàn đã cố diễn giải đây chính là nhà. Thế nhưng Thắm vẫn không chịu, chị Toàn nghĩ chắc cháu đòi sang nhà bà nội ngay sát vách. Chị bế cháu sang nhà bà nhưng vẫn không phải. “Nhà ở ngoài kia cơ”, Thắm bảo.
Kiếp trước của Thắm là "con trai"?"Thì ra con bé này đòi đưa đi chơi nên nói thế", chị Toàn nghĩ vậy và quát Thắm. Sợ mẹ, cháu không dám đòi nữa.
Một hôm, ở ngoài nhà kho của thôn chơi, hôm đó là ngày hội làng nên người trong làng tụ tập tại đây rất đông. Đang chơi đùa ở sân bỗng nhiên Thắm nói với bà nội: “Mẹ cháu kia kìa”.
Đó là bà Nguyễn Thị Nghe, người ở đầu làng. Do xóm Cọi rộng, nên nhà chị Toàn và nhà bà Nghe dù cùng xóm nhưng cũng chỉ biết nhau qua loa. Mới 3 tuổi, Thắm có thể nhận nhầm mẹ nên bà nội nói với cháu: đó không phải mẹ cháu, mẹ hôm nay lên nương.
Lúc Thắm được 5 tuổi, hôm đó cháu được bố mẹ cho ra đồng. Khi trở về, đi qua nhà bà Nghe, cháu chỉ tay rồi bảo với bố mẹ “nhà con đây này”. Nghĩ buồn cười quá, chị Toàn bảo lại con “con thích thì mẹ đưa vào nhà con”, thế nhưng khi vừa bước vào cổng Thắm đột nhiên dừng lại: “Con không vào nữa đâu, chị Hằng đang ở trong đó, con ghét chị ấy vì chị đã xui con trèo cây làm con ngã chết”.
Nghe con nói vậy, chị Toàn bèn hỏi lại nửa đùa nửa thật: “Thế con là ma Ly à”. Người Mường thường gọi người chết là “ma”, vì biết Ly, con trai bà Nghe đã chết nên chị Toàn mới hỏi vậy. Tưởng trêu vậy thôi, ai ngờ con bé gật đầu. Từ hôm đó, chị Toàn mới “xâu chuỗi” lại toàn bộ những biểu hiện lạ thường từ ngày con bé cứ đòi chị “đưa về nhà con”.
Chị bắt đầu nghĩ đến chuyện thằng ma Ly nó đã “lộn” về con Thắm nhà mình. Người Mường vốn xem đây là chuyện bình thường nên vợ chồng chị Toàn chẳng sợ sệt một chút nào, thậm chí ngày ngày vẫn hỏi chuyện và trêu đùa con bé.
Nói thêm về ma Ly, bà Nghe sinh được bốn người con, trong đó Ly và Hương (con gái) là cặp song sinh. Một hôm Ly và Hương (lúc đó 7 tuổi), được chị gái tên Hằng dẫn đi hái ổi ở bên triền núi. Là con trai nên Ly được phân công trèo lên hái quả. Quả ổi nằm tít ngoài xa, Ly rất vất vả nhưng vẫn không tài nào hái được.
Hằng ở dưới cứ động viên em cố lên và trong một phút sẩy chân, Ly ngã rơi xuống đất. Cháu bị chấn thương sọ não và mất ngay sau đó.
Có nhiều trường hợp khác.
Có một câu chuyện mà mãi đến khi Thắm nói rằng cháu chính là ma Ly thì chị Toàn mới nhớ lại. Đó là ngày còn mang thai Thắm, chị vốn là người yếu nên khi mang thai ốm đau liên miên. Một hôm đi chợ ngoài thị trấn về chị bị cảm, trong cơn mê man chị mơ một giấc mơ rất sợ.
Một đứa bé rách rưới cứ đuổi theo làm chị chạy trốn mãi, thế nhưng vì mệt quá nên đến lúc thằng bé cũng đuổi kịp và bắt lấy chị. Giật mình tỉnh dậy, đem câu chuyện vừa mơ kể lại với chồng nhưng anh bảo mệt trong người mơ thấy những điều sợ hãi là chuyện bình thường.
Chị Toàn sau đó cũng chỉ nghĩ vậy và cho đến ngày Thắm nhận mình là ma Ly chị mới nghĩ lại và cho rằng đó không chỉ là giấc mơ. Có thể thằng bé trong giấc mơ đó chính là ma Ly và nó đã theo chị về nhà từ đó.
Chị Toàn đã có lần hỏi Thắm, sao con không theo về những nhà giàu cho sướng lại theo mẹ nghèo mà khổ. Thắm bảo, hôm đó mẹ đi chợ về, con nhìn thấy mẹ xinh nên đi theo mẹ. Như vậy, giấc mơ của chị Toàn ngày đó là đúng sự thật.
Chuyện ma Ly “lộn” vào Thắm cũng nhanh chóng lan toản ra khắp nơi. Mọi người lạ ở chỗ, đây là trường hợp đầu tiên một người con trai lại “lộn” vào người con gái. Trước đây, Thắm học cùng với cậu út nhà bà Nghe và chơi rất thân với cháu này. Ban đầu mọi người không biết chuyện nên cứ trêu “chắc con bé này nó thích con bà Nghe”.
Sau khi mọi người đã biết không còn ai trêu đùa nữa. Thắm giờ đã đi lại với gia đình bà Nghe và nhận bà làm mẹ. Thắm được gia đình bà Nghe xem như người con ruột rà trong nhà. Dù không về ở cùng nhưng tình cảm giữa Thắm và gia đình bà Nghe là rất sâu đậm.
Ông Bùi Văn Tỉnh, xóm trưởng xóm Cọi cho biết: “Ở xóm Cọi đã ghi nhận ba trường hợp con lộn. Người Mường quan niệm, những đứa trẻ dưới 12 tuổi bị chết bất đắc kỳ tử có khả năng “lộn” về và vào một người nào đó. Người bị lộn sẽ có khả năng nhớ và kể lại những gì diễn ra trước khi chết một tháng. Thế nhưng, sau 12 tuổi người được “lộn” lại trở về trạng thái bình thường”.
Trái với những gì ông Tỉnh nói, theo như lời chị Toàn kể thì Thắm nhớ được rất nhiều chuyện. Có lần Thắm tự dưng nói với chị hàng xóm cạnh nhà bà Nghe rằng “ngày xưa em trèo ổi nhà chị bị chị đánh mấy lần”. Chị này khẳng định đúng là ngày xưa Ly hay trèo ổi nhà chị và bị chị đuổi thật.
Một hôm Thắm gặp người trong làng, người đó bằng tuổi Ly và hơn cháu rất nhiều tuổi và bảo: “Mày nhớ tao không, ngày trước tao với mày toàn đi đá bóng với nhau nhỉ”. Người này nghe Thắm xưng mày tao, ban đầu nghĩ cháu hỗn, nhưng sau biết đó là Ly lộn về nên cười xoà bởi cháu nói hoàn toàn chính xác.
Thắm hiện nay vẫn được mọi người trong gia đình, bạn bè và cả xóm bản gọi bằng cái tên thân thương -Ma Ly. Chị Toàn bảo cháu rất vui với cái tên đó. Chị cũng thoải mái cho cháu đi lại vì nhà bà Nghe cũng rất nghèo. Thắm đi lại vì cái tình của… người con lộn, chứ không vì mục đích gì khác.
Ngoài Bình, Thắm, tại bản Cọi còn có cháu Thu con cô giáo tiểu học Quách Thị Đức. Thu cũng được một người chết trong bản lộn về từ bé. Ngày bé, Thu cũng nằng nắc đòi “về nhà con”. Tuy nhiên, vì nhà có người chết đó rất giàu có nên chị Đức đã không cho cháu về ở cùng gia đình đó, chị sợ mang tiếng hám tiền nên bịa ra chuyện này.
Thu hiện nay cũng được gia đình nhà đó nhận làm con và đi lại rất gần gũi. Chị Đức bảo: “Nếu tôi không ngăn cấm quyết liệt từ bé thì nó về ở hẳn bên đó thật”. Hiện Thu đã lớn và đang học lớp 9 trường huyện.
Khi đi tìm hiểu thực hư câu chuyện “con lộn” tại Vụ Bản, chúng tôi cũng thật sự bối rối và không biết khẳng định thế nào. Tiếp xúc với những người trong cuộc như bố mẹ những người chết, bố mẹ những cháu được coi là có “con lộn” họ đều khẳng định đó là câu chuyện có thật.
Kể cả cô giáo Đông, cô Đức cũng khẳng định điều đó. Cả ba trường hợp vẫn đang là “người thật việc thật” ở Lạc Sơn chứ không chỉ là câu chuyện kể hay truyền thuyết gì. (Kiên Trung )
"Người chết đầu thai" làm náo loạn cả làng
Theo báo An ninh Thủ Đô: Trưởng phòng Tôn giáo (Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình), ông Nguyễn Trường Sơn cũng xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là “đầu thai” ở huyện Mai Châu là có thật...
“Mẹ ơi. Con đây”. Chuyện lạ xảy ra khi cô bé Hà Thị Mai Anh mới 4 tuổi khi đang đi cùng cha mẹ đẻ của mình bỗng nằng nặc đòi theo “mẹ” là một phụ nữ lạ tình cờ gặp mặt. Thấy chuyện lạ, mọi người xúm vào hỏi han thì cháu bé khóc ròng, đọc vanh vách họ tên, địa chỉ, thậm chí miêu tả chính xác đến từng đồ đạc trong ngôi nhà của người phụ nữ lạ mà mình từ khi sinh ra chưa một lần tới. Chiều hôm ấy, từ đầu đến cuối bản lại xôn xao “Lại có người Trời đâu thai rồi”.
Đó chỉ là một trong những trường hợp người địa phương gọi là “đầu thai” tại bản Chiềng Châu (xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, Hòa Bình) diễn ra từ hàng chục năm nay. Những đứa trẻ khi sinh ra hoàn toàn bình thường, đến khi 3 - 4 tuổi lại nhận mình là… con của những gia đình khác xa đến cả chục cây số, dù trước đó hai bên gia đình không có bất cứ mối quan hệ nào.
“Kiếp trước cháu là con trai”
Hà Thị Mai Anh (SN 1995, hiện đang học lớp 9, trường phổ thông cơ sở thị trấn Mai Châu), con gái duy nhất của anh Hà Văn Bái và chị Hà Thị Tý là một trường hợp như thế. Anh Bái cho biết, vợ chồng anh lấy nhau từ năm 1990 nhưng hiếm muộn, mãi 5 năm sau mới sinh được Mai Anh. Từ lúc mới sinh cho tới khi cháu 4 tuổi, mọi biểu hiện cũng bình thường như những đứa trẻ khác và vì chỉ có một mình con nên đi đâu vợ chồng cũng cho con đi cùng.
Trong một lần đi dự đám cưới một người quen tại bản Nhót (xã Nà Mèo là xã kế bên), vợ chồng anh bận giúp chủ nhà làm cỗ nên gửi cháu cho mọi người trông giúp. Khi công việc đã xong, anh quay ra tìm thì thấy cô con gái của anh đang lẵng nhẵng theo một phụ nữ tầm tuổi vợ anh khóc mếu “Mẹ ơi”.
Lạ lùng ở điểm nhìn thấy cha mẹ đẻ thì cô bé cứ “bơ” đi mà bám chặt lấy người phụ nữ lạ mặt liên rục gọi “mẹ”. “Lúc đầu vợ chồng tôi nghĩ chắc con mình tưởng nhầm. Thấy lạ, mọi người trong đám cưới xúm vào hỏi thử: “Vậy bố mẹ cháu tên là gì, nhà ở đâu?”. Chúng tôi chết điếng người khi rõ ràng mình đẻ ra nó mà nó không nhắc đến, lại nhận là con của ông bà Lường Văn Tuấn - Hà Thị Ân lạ hoắc nào đó. Nó còn nói “Cháu có anh trai tên Lường Văn Tú còn cháu tên là Lường Văn Hải nhà ở bản Nhót, trước nhà có cây muỗng to, nhà được làm bằng đất 2 tầng (ý nói nhà sàn - PV)”. Đến lúc này mọi người trong đám cưới mới ồ lên kinh ngạc”, anh Bái thuật lại.
Nghĩ con mình bị… dở hơi nhưng anh vẫn phải chiều theo ý con, đưa cháu theo người phụ nữ lạ về nhà thì càng ngạc nghiên hơn khi mọi điều cháu nói đều chính xác. Ông bà, cô bác tới chơi cháu đều gọi tên chính xác từng người, cháu còn nhận ra quần áo, nơi “con là Lường Văn Hải thường ngủ”. Cả làng xôn xao: “Đúng là nhà này trước đây 4 năm có đứa con trai tên Lường Văn Hải đã mất, đúng vào dịp sinh con bé này”.
Lòng dạ của anh Bái rối bời, đợi đến gần tối thì con gái anh mới chịu theo về nhà. Trên đường đạp xe trở về, vừa sợ chuyện lạ kỳ vừa sợ mất con, anh ngã dúi dụi mấy lần. Người mẹ đẻ của cháu gái lúc về đến nhà ngồi trấn tĩnh lại mới nhớ lại đúng là có lần chị đi qua bản Nhót mua hàng và đó cũng chính là thời điểm chị có mang cháu.
Mấy hôm sau, bé gái liên tục bị ốm sốt cao, chẳng chịu ăn uống, miệng luôn đòi về “nhà ở kiếp trước”. Cuối cùng anh chị cũng phải chở cháu về nơi cháu đòi và vừa đến “nhà kiếp trước”, dù vừa ốm lăn lóc nhưng nay đã không còn biểu hiện gì của ốm sốt nữa, sắc mặt tươi tỉnh hẳn lên.
Anh Bái trầm ngâm: “Tôi phải mổ lợn làm 10 mâm cỗ để xin vía cháu về dưới này, tôi cũng chỉ có duy nhất mình cháu là con. Từ đó hai gia đình từ chỗ không quen biết nay trở thành thân thiết như hai anh em. Con bé khi nào thấy nhớ “bố mẹ” trên ấy là lại lên với bố mẹ, với anh, chán thì lại về đây. Những dịp lễ Tết, nghỉ hè có khi nó lên ở cả tuần, nếu lâu không lên là lại lăn ra ốm”.
Khách lạ lấm lét, len lén nhìn mặt cô bé “người Trời đầu thai” Mai Anh thì cô bé chợt khanh khách cười khiến khách đến chơi giật thót mình: “Kiếp trước cháu là con trai đấy. Cháu có tới hai bố, hai mẹ và một anh trai, mọi người đều yêu thương cháu”.
Bỗng dưng con mình thành… con người khác
Trường hợp “người Trời đầu thai” trong nhà anh Hà Văn Tuốt và chị Hà Thị Tuỗn thì xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Anh chị năm nay đã ngoài 40 tuổi, có cậu con duy nhất là Hà Văn Dược (21 tuổi) hiện đang theo bố làm nghề dựng nhà sàn. Mọi người cho biết chàng trai này cũng là “con truyền kiếp”.
Mẹ đẻ của Dược cho biết vợ chồng chị lấy nhau từ năm 1990, một năm sau đó thì sinh con trai. Năm lên 3 tuổi, đang chơi với các bạn ngoài sân, thấy một người thu mua sắn là anh trai của một người trong làng đi qua, Dược nói với các mọi người: “Đấy là bác của em đấy”.
“Nghe bọn bạn nó nói lại nhưng vợ chồng tôi nghĩ là trẻ con nói nhảm nên cũng không để ý đến. Chuyện lạ xảy ra tới khi đi học mẫu giáo, mỗi lần bố mẹ đưa Dược đi học qua nhà một người tên Vì Văn Xiêm thì cậu bé đều nhắc đi nhắc lại: “Nhà của con đây này””.
Thấy con nói liên thiên, cha mẹ đẻ thậm chí còn khi phát con đến đỏ mông nhưng sau đó, cậu bé bỗng lăn ra ốm và ngày ngày đều đòi bố mẹ đưa ra “nhà bố Xiêm”. Anh chị cũng đánh liều bế con đến nhà lạ và kỳ lạ thay, mọi bệnh tình của cậu bé đều biến mất. Cậu bé không chỉ biết hết mọi người trong gia đình lạ mà còn nói rõ mình chết từ lúc mới được 5 tháng tuổi và bố mẹ chưa kịp đặt tên con.
Vợ chồng ông hàng xóm tên Xiêm cũng ngã ngửa người ngạc nhiên bởi những điều bí mật sâu kín đó chỉ có ông bà mới biết. Vậy là ông hàng xóm cũng làm lễ xin được nhận bé Dược làm con nuôi.
Cậu bé Dược nay đã thành người trưởng thành vẫn khăng khăng mình là người “đầu thai”. Khi được hỏi: “Em có cảm giác gì khi nhận gia đình nhà lạ hươ lạ hoắc làm bố mẹ, các em”, cậu trả lời: “Em cũng chẳng biết vì sao nữa, nhưng khi gặp bố mẹ em ở “kiếp trước” thì em nhận ra một cảm giác gần gũi, thân thiết và sau đó em cứ nhớ dần đấy từng là bố mẹ và các em mình.
Khi lớn một chút, nhiều lúc đi học các bạn cũng trêu chọc: “Không phải bố mẹ đẻ mà cứ nhận vơ như thế” nhưng em cũng chẳng ngại ngùng gì vì em biết đó là bố mẹ em. Những lần bố mẹ bên ấy đau ốm em cũng đều có linh cảm báo trước”.
Bà mẹ “kiếp trước” của Dược cũng khăng khăng: “Nó chính là đứa con đầu của tôi đã chết. Vợ chồng tôi sinh cháu đầu năm 1982 được 5 tháng thì cháu bị bệnh vàng da, dù đã đi bệnh viện, nhờ nhiều thầy lang nhưng cháu không qua khỏi. Thật bất ngờ là cháu lại lộn vào làm con gia đình nhà hàng xóm. Với linh cảm của người mẹ, tôi nhận thấy Dược cũng giống như hai đứa con đẻ của tôi.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh của gia đình bên ấy cũng rất neo người, cho nên gia đình tôi cũng chỉ nhận cháu làm con nuôi, khi nào nhà có công việc thì cháu mới tới”.
Con nhiều tuổi hơn… bố mẹ
Thế nhưng hàng chục năm qua, trường hợp “đầu thai” rùng rợn nhất mà mọi người thường nhắc đến là trường hợp xảy ra tại gia đình anh Khà Văn Ôn (bản Nà Sài). Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về trường hợp bất thường trong gia đình, anh Ôn xúc động thắp nén nhang, thì thầm đến trước di ảnh cô con gái Khà Thị Dịu Hiền (SN 2007) khấn con bằng tiếng dân tộc Thái. Trong di ảnh trước bàn thờ là một bé gái kháu khỉnh, được anh giới thiệu là “con đầu thai” của mình.
Anh Ôn nhẩm tính, nếu con mình còn sống thì đến nay đã được khoảng 5 tuổi 1 tháng. “Khi mới sinh ra cháu hoàn toàn bình thường như những đứa trẻ khác trong bản. Lạ là lúc lên 3 tuổi, ai hỏi “Cháu con nhà ai, ở đâu?” thì cháu lại chẳng nói tên vợ chồng tôi mà nói: “Tên bố là Lò Văn Chún, mẹ là Hà Thị Nguyên, anh chị là Lò Văn Ngọc, nhà ở xóm Vãng, trên thị trấn Mai Châu” (cách đó gần chục cây số). “Thực sự trước đó đến tôi cũng chẳng biết những người này là ai, chứ nói gì đến nhà người ta như thế nào”, vẫn lời anh Ôn buồn rầu thuật lại.
Dù trước đó ở địa phương đã có những trường hợp “con đầu thai” nhưng anh chị vẫn không tin và chỉ nghĩ cháu còn nhỏ nên nói vu vơ. Thế nhưng thấy cháu nhắc nhiều quá thì buộc họ phải lần theo địa chỉ cháu “hướng dẫn” để tìm hiểu.
Cặp vợ chồng vô cùng kinh ngạc vì cháu bé mới hơn 3 tuổi nhưng cháu kể chính xác tên những người trong gia đình này, còn còn nói rõ trước nhà có cây dừa, nhà rộng 3 gian và tả cụ thể đường vào nhà như thế nào, phải qua bao nhiêu khúc quẹo. Anh Ôn khi đó ướm hỏi con: “Vì sao con lại theo bố mẹ về đây?”. “Con đã ở nhà cũ nhiều năm thì bị đuổi đánh nên chạy ra khỏi nhà. Lúc ấy gặp mẹ đang nấu cơm bên đường nên con theo mẹ về”.
Nghe con nói, anh chị giật mình, ngồi xâu chuỗi lại thời gian thì đúng là vào thời điểm đó anh chị đi công nhân làm đường trên địa bàn xóm đó và chị chuyên nấu cơm cho tổ công nhân. Đó cũng chính là thời điểm vợ anh mang thai.
Anh kể tiếp, khi con gái mình được 4 tuổi thì cháu có những hành động rất lạ như lục tìm và cắt nát hết những tấm ảnh của mình. Thời gian sau cháu kên đau đầu gối, anh chị đưa cháu lên bệnh viện khám, qua chụp X quang, theo kết luận của bệnh viện cháu bị khuyết xương đầu gối và viêm khớp. Bệnh viện khuyên anh chị nên đưa cháu về Hà Nội chữa trị.
Tại bệnh viện Nhi trung ương, các bác sỹ đã điều trị và bó bột rồi cho về, hẹn gia đình sau hai tuần cho cháu lên kiểm tra lại. Tuy nhiên, đến ngày 5/6/2010, thấy cháu bệnh tình không giảm lại kèm theo sốt cao, anh chị đưa cháu xuống khám ở bệnh viện K. Qua khám bệnh kết luận, các bác sĩ khuyên gia đình nên đưa cháu về nhà chăm sóc, vì cháu bị bệnh bạch cầu cấp (ung thư máu) hiện y học trên thế giới vẫn đang bó tay trước căn bệnh nan y này.
“Có điều lạ là dù cháu đau thế nào nhưng cháu đều mím môi chịu đựng không để bố mẹ và mọi người trong gia đình biết. Ông ngoại đến làm vía (cúng vía theo phong tục địa phương - PV) cho cháu thì cháu bảo: “Con không khỏi bệnh đâu, ông cho con đi chơi nhà các cô, các bác”. Đến hôm sau thì cháu mất”, anh Ôn thuật lại.
Thế nhưng điều kinh hoàng nhất với vợ chồng anh Ôn xảy ra khi gia đình mời ông thầy mo trong bản đến làm lễ cúng ma cho con theo phong tục địa phương. “Ông thầy mo ban đầu gọi “hồn” là cháu thì kiểu gì cũng cúng không thành, phải đến khi gọi cháu là… chị thì mới ngồi làm lễ được. Thầy mo bấm tuổi rồi bảo chúng tôi: “”Người trời”” này hơn 40 tuổi, là con chúng mày nhưng còn… nhiều tuổi hơn cả chúng mày”, anh Ôn sợ hãi.
Anh Ôn hiện đang là cán bộ UBND xã Chiềng Châu, anh buồn rầu: “Vợ chồng mình làm cán bộ nên cũng không tin vào những chuyện ma quái. Nhưng thật sự chuyện con mình là như vậy. Nó là đứa con đầu thai, nó chê nhà mình nghèo, nó không ở thì mình cũng đành phải chịu”.
Để kiểm chứng câu chuyện của anh Ôn, chúng tôi cũng đã vượt quãng đường hơn 10 cây số tìm đến nhà anh Lò Văn Ngọc tại xóm Vãng được cho là người có cô em gái đã “đầu thai” làm con anh Ôn. Đúng như lời anh Ôn kể, đó là một căn nhà sàn 3 gian, phía trước nhà có cây dừa. Anh Ngọc cho biết: “Bố mẹ tôi chỉ sinh được hai anh em. Tôi sinh năm 1964, còn cô em gái sinh năm 1966 nhưng nó bị bạo bệnh mất sớm. Đêm con anh Ôn mất, chẳng hiểu vì sao mà cả gia đình tôi không ai ngủ được, cứ lục sục xuốt đêm. Về sau mới biết tin em gái mình đã “đầu thai” vào nhà dưới ấy”.
Cơ quan chức năng cũng chưa thế giải thích?
Những “nghi án đầu thai” không phải là chuyện mới, và cũng đã từng có ý kiến cho rằng người ta dựng chuyện “đầu thai” để lợi dụng việc cho nhận con nuôi hay mục đích vụ lợi gì khác. Đem ý kiến này đến những người cao tuổi trong bản Chiềng Châu để hỏi, chúng tôi được cụ Hà Văn Thẩm (80 tuổi) cho biết: “Chuyện con đầu thai ở đây không phải giờ mới có, mà trước đây cũng đã có nhiều trường hợp như vậy.
Trước năm 1954, thời lang đạo và thực dân Pháp cai trị, có những người vì nhận nhà lang làm nhà mình nên cả gia đình bị nhà lang hãm hại vì sợ tranh giành quyền thế, nhiều gia đình phải bỏ đi biệt xứ hoặc bị đánh đến chết. Còn bây giờ muốn nhận con nuôi thì Nhà nước mình có cấm đoán gì đâu mà họ phải bịa chuyện để lách luật?”.
Một thầy lang cao tuổi khác trong xã cho biết: “Tôi đi chữa bệnh nhiều, gặp trường hợp như vậy nếu các cháu muốn nhận bố mẹ mà lại hay đau ốm luôn thì tôi cũng khuyên gia đình nên cho các cháu nhận. Điều lạ là hầu như các trường hợp con đầu thai đều rơi vào trường hợp con một và những bệnh các cháu mắc phải đều khó tìm ra nguyên nhân, nhưng khi nhận bố mẹ, anh em “kiếp trước” thì bệnh tình đều qua khỏi”.
Theo ông Hà Trọng Lưu Chủ UBND xã Chiềng Châu cho biết: “Con luân hồi, đầu thai ở địa phương không phải là trường hợp cá biệt. Trong xã đã có nhiều trường hợp xảy ra trường hợp như thế và hai bên gia đình đều nhận anh em hoặc con nuôi. Tôi cũng nghe có nơi người ta nhận như thế cho hợp lý hóa việc nhận con. Nhưng ở Chiềng Châu, tôi khẳng định không có một trường hợp nào mang tính vật chất hay đánh đổi. Gần như những gia đình có con “truyền kiếp” đều có kinh tế khá hơn những gia đình các cháu nhận là gia đình “kiếp trước””.
Cũng theo Chủ tịch xã Hà Trọng Lưu, việc nhận con nuôi như thế đã diễn ra nhiều năm nay ở địa phương, dù xôn xao dư luận nhưng không gây ảnh hưởng xấu đến đời sống, phong tục tập quán của người Thái ở đây.
“Vì vậy chúng tôi coi đó cũng là những câu chuyện hết sức bình thường giống như chuyện cây lúa trên nương, con thú trên rừng vậy. Có chăng bà con trong bản cũng chỉ nói: “Thì ra con nhà ấy lại là con ông bà ở bản này, bản kia lộn về”. Các gia đình sau đó đều nhận bố mẹ, anh em, con cái và coi nhau như người một nhà, quây quần đù bộc nhau qua sợi dây luân hồi – tiền kiếp”, nguyên văn lời ông Lưu.
Trưởng phòng Tôn giáo (Sở Nội vụ tỉnh Hoà Bình), ông Nguyễn Trường Sơn cũng xác nhận: “Những trường hợp người dân gọi là “đầu thai” ở huyện Mai Châu là có thật. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hoà Bình còn một vài trường hợp ở huyện Lương Sơn và Lạc Sơn. Tôi cũng đã từng đến tận nơi tìm hiểu nhưng kết quả chỉ là ngạc nhiên và không giải thích nổi. Có những đứa trẻ khi sinh ra chẳng đi đâu mà biết rõ gia đình nhà người khác cách hàng chục cây số như trong lòng bàn tay, như việc mình đã trải qua”.
Theo ông Sơn, trong những trường hợp này dân gian sẽ dựa vào quan điểm Phật giáo để giải nghĩa. “Phật giáo không cho rằng con người chết là hết mà có linh hồn bất tử tiếp tục đầu thai vào kiếp khác. Cứ như thế con người vào vòng luân hồi không ngừng từ đời này qua đời khác, từ kiếp này sang kiếp khác. Con người của quá khứ là nhân của con người hiện tại, con người hiện tại là nhân của con người tương lai. Dù khoa học chưa chứng minh được quan niệm này là đúng hay sai, nhưng những người tin theo quan điểm Phật giáo thì vẫn cho rằng có kiếp trước – kiếp sau”, ông Sơn cho biết. (Theo Pháp luật và Thời đại)
Hiện tượng luân hồi và những bí ẩn trên Thế giới: Câu chuyện về những “kiếp trước”
Đã có ai trải qua một cảm giác dường như "đã từng nhìn thấy" hay "đã từng ở" một nơi mà cả đời bạn chưa từng biết? Nhiều nhà khoa học khẳng định, chúng ta đã từng trải qua nhiều tiền kiếp trong quá khứ, và sẽ còn những kiếp sau.
Dưới đây là một số trường hợp được nghiên cứu bởi các chuyên gia về lĩnh vực luân hồi.
Luân hồi là gì?Theo quan điểm của nhiều người, cuộc sống chưa kết thúc khi con người qua đời, mà linh hồn sau khi thoát ra khỏi thể xác chết, đã đầu thai trở lại một kiếp sống khác theo bánh xe luân hồi, cứ mãi như thế cho đến khi nó được đến cõi Niết Bàn. Cuộc sống của con người trên trần thế thực ra chỉ là một "kiếp", thân xác chỉ là nơi cư trú của linh hồn mà thôi. Nhưng điều ngạc nhiên là không phải chỉ Phật giáo mới có khái niệm luân hồi và ý niệm về sự đầu thai, mà các khái niệm đó cũng tồn tại ở nhiều tôn giáo khác.
Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn Độ giáo, trong quan niệm của người cổ Hy Lạp, và nhiều vùng miền trên thế giới. Điều đáng kinh ngạc là nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quyển sách Bible của đạo Thiên Chúa nguyên thủy có nhiều khác biệt so với hiện nay, trong đó từng có cả những nội dung về sự luân hồi đầu thai, nhưng đã bị một số thế lực chỉnh sửa và lược bỏ đi vào khoảng thế kỷ 4 và 5 vì những nguyên do bí ẩn.
Trường hợp tiêu biểu và nổi tiếng nhất về sự đầu thai và luân hồi chuyển kiếp có lẽ là việc đi tìm Đạt Lai Lạt Ma hay Ban Thiền Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng sau khi các Lạt Ma ấy qua đời. Những vị sư phụ trách việc này tiến hành tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào thời điểm Lạt Ma qua đời. Họ dựa vào những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt của đứa trẻ mà tương hợp với vị Lạt Ma đó khi còn sống, và cả những mô tả của vị Lạt Ma trước khi viên tịch về kiếp sau của mình, để xác định xem đứa trẻ có phải là vị Lạt Ma ấy đầu thai hay không.
Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều thời gian và công sức nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Kết quả là: Không ai giải thích nổi tại sao những người "kiếp sau" lại có cách cư xử, thói quen rất giống những người đã khuất, thậm chí biết cả những bí mật riêng tư của họ, có những vết bớt khi mới sinh tương hợp kỳ dị với những vết thương của người đã khuất, hoặc những đứa trẻ đi còn chưa vững đã biết ngoại ngữ, biết làm toán, biết chơi đàn… giống y như những người mà chúng nói là chính chúng trong tiền kiếp, mặc dù không ai chỉ dạy chúng cả.
Các kết quả thu được đó đã gây ra luận chiến dai dẳng giữa một bên thừa nhận, và một bên phủ nhận hiện tượng luân hồi. Những người thừa nhận nói rằng, cách duy nhất để lý giải bí ẩn này là khoa học buộc phải công nhận hiện tượng luân hồi như một thực tại khách quan hiển nhiên mà thôi.
Những hiện tượng kỳ bí
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp kỳ lạ đã xảy ra và thật khó có thể giải thích nổi tại sao những người ở "kiếp sau" lại có cách cư xử, thói quen, thậm chí họ biết cả những bí mật của những người ở "kiếp trước". Mặc dù một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước - theo nhiều người đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được.
Theo khoahoc.com.vn, thì vào ngày 29-4-2005, vợ chồng anh Chaudhary sống tại Ahmedabad (Ấn Độ) vô cùng đau xót khi đứa con trai 13 tuổi tên là Rakesh bị tai nạn xe máy và mất 5 ngày sau đó. Vài giờ trước khi Rakesh qua đời, vợ anh Chaudhary là Minaben bắt đầu có ảo giác, cô nói với chồng là Rakesh về nhà tạm biệt mẹ và hứa sẽ quay lại. Một năm sau đó, vào ngày 22-4-2006, cô Minaben sinh hạ một bé trai và đặt tên con là Rakesh.
Rakesh và người anh đã mất giống nhau như đúc, và có cách cư xử giống hệt nhau. Điểm đặc biệt hơn là cậu biết tất cả những chỗ anh trai mình để đồ chơi, nhận ra những người họ hàng chưa bao giờ gặp. Không chỉ có vậy, khi được đưa về quê của anh Chuadhary ở Palanpur, cậu bé cũng biết luôn tên của người chị họ Anila mới gặp lần đầu, cô bé này vốn ngày xưa là bạn thân của người anh trai đã mất của cậu. Rakesh cũng rủ cô bé chạy ra cái cây nơi 2 người thường chơi với nhau ngày xưa.
Cách đây hơn một thế kỷ, một ác quỷ đã xuất hiện giữa thế gian ngay tại nước Pháp. Tên của hắn là Gilles de Rais với chức vụ Thống chế. Hắn giết người không gớm tay, giết người với hăng say thích thú. Lúc bị đưa lên giàn hỏa "con quỷ dữ" đã gào lên khủng khiếp cùng với lời nguyền: "Ta sẽ trở lại thế gian này…". Và mới đây, tại Hoa Kỳ xuất hiện một kẻ sát nhân kỳ dị với phương cách giết người hệt như Gill de Rais khi xưa.
Con "quỷ" này đã gieo bao khủng khiếp trong một ngôi nhà vắng lặng thay vì tòa lâu đài bí mật của thời xưa cổ, con quỷ dữ này có tên là C. Jeffrey Dahmer, cách giết người của hắn y hệt ác quỷ Gilles de Rais nhưng kinh khiếp hơn, rùng rợn hơn, ghê tởm hơn. Điều này khiến người ta nghĩ đến lời nguyền ghê gớm của tên sát nhân cách đây hơn một thế kỷ.
Tiền kiếp và hậu kiếp vẫn là điều bí ẩn
Đại tướng George Smith Patton (11-11-1885 - 21-12-1945) là một trong những viên tướng vĩ đại nhất lịch sử Hoa Kỳ, một nhà chiến lược kỳ tài lừng danh thế giới. Một bộ phim đã được làm năm 1970 để vinh danh ông. Tính ông nghiêm khắc và luôn luôn chủ trương "kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân đội". Người hùng ấy, lạ lùng thay, rất tin vào sự luân hồi. Ông thường bảo: "Cuộc đời và cuộc sống là một vòng tuần hoàn chuyển tiếp. Ðời tôi cũng nằm trong một vòng tuần hoàn chuyển tiếp nào đó". Một sĩ quan cao cấp của quân đội Hoa Kỳ kể lại câu chuyện mà ông nhớ mãi về tướng Patton.
Hôm đó, tướng Patton đến thăm một địa danh lịch sử tại Ý. Ðó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận chiến ác liệt giữa những đoàn quân dũng mãnh của đế chế Carthage và đế chế La Mã, đã để lại trên chiến trường hàng ngàn tử thi, mặc dù hai bên đều do những chiến lược gia và danh tướng chỉ huy.
Hình ảnh bi tráng ấy đã đi vào quá khứ, và cách thời của tướng Patton đến hơn 1800 năm, nhưng khi tướng Patton cùng các tướng lĩnh và một số nhà sử học đến thăm vùng đất này, và thử luận bàn về những chiến thuật và chiến lược của trận đánh ấy thì điều kỳ dị đã xảy ra. Trong khi tướng Patton nghe một viên Đại tá trình bày những địa điểm đóng quân của hai phe Carthage và La Mã, ông nhiều lần tỏ ý không hài lòng. Sau cùng, tướng Patton cắt ngang lời viên Đại tá và nói: "Xin lỗi Đại tá, mặc dù Ðại tá là chuyên gia nghiên cứu các trận chiến trong cuộc chiến tranh La Mã, nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ binh của tướng Hasdrubul trong trận này không phải đóng tại địa điểm đầu kia mà Ðại tá đã trình bày.
Tôi quả quyết điều này vì một lẽ rất dễ hiểu là vào lúc ấy, chính tôi đã có mặt tại đó…". Và rồi, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếc can cầm ở tay lên chỉ về một địa điểm trước mặt và nói thật chậm rãi, rõ ràng: "Ðó là địa điểm mà đoàn kỵ binh của Hasdrubul đã đóng quân, và tôi nhắc lại, lúc ấy tôi đã ở đó!…", "Nó đây, chiến trường là đây. Những người Carthage đã phòng thủ thành phố trước cuộc tấn công của 3 quân đoàn La Mã. Người Carthage kiêu hùng và can đảm, nhưng họ đã không trụ vững được. Họ đã bị tàn sát. Những người đàn bà Ả Rập đã lột quân phục, kiếm và những ngọn giáo của họ. Những người lính đã nằm trần trụi dưới mặt trời, 2.000 năm trước đây. Và tôi đã ở đó!".
Trong những lần dừng chân nơi chiến trận hay những lúc nghỉ ngơi, tướng Patto thường nói đến những địa danh và những chiến trường cổ xưa mà ông đã từng có mặt, tuy những nơi đó đã đi vào quá khứ xa xăm hay chỉ còn lại trong các pho sử liệu của các thư viện. Trong nhật ký của mình, tướng Patton thường ghi lại những cảm nghĩ lạ lùng của mình về kiếp trước.
Có đoạn ông viết: "Tôi tin là có tiền kiếp và hậu kiếp. Tôi tin, thật ra là tôi biết, rằng tôi đã có ít nhất là một quãng đời trước đây trong binh nghiệp và hiện nay tôi lại đầu thai lần nữa vào đời binh nghiệp". Về sau, nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng nổi tiếng Aldons Huxley (26-7-1894 - 22-11-1963) đã trình bày trường hợp của tướng Patton cùng câu chuyện lạ lùng xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mã cổ xưa ấy, trong một hội nghị quốc tế có chủ đề "Ứng dụng của Khoa tâm lý học" tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961. Aldons Huxley phát biểu: "Không riêng gì tướng Patton mà ngay cả chúng ta, đôi lúc ở những thời điểm nào đó trong đời bỗng ta có những cảm giác, những suy nghĩ, cái nhìn kỳ lạ mà ý thức của chúng ta như bỗng nhiên hé mở, có khi ta bắt gặp một hình ảnh, một sinh hoạt, một tiếng nói, một cảnh tượng, một con người mà hình như ta có lần đã thấy, đã nghe, đã ở, đã đi qua, mặc dù trong cuộc đời chưa bao giờ gặp.
Ðó là quá khứ, quá khứ ấy không phải trong một cuộc đời hay nói khác đi là trong "một kiếp" mà là trước đó nữa. Cảm nhận ấy đôi khi vượt ra khỏi những cảm nhận của các giác quan thông thường của con người chúng ta, mà thuộc về quá khứ xa xăm, hay có thể gọi là tiền kiếp". Tờ báo Paris Match danh tiếng đã đăng tải trường hợp của Đại tướng Patton vào ngày 23-3-1989.
Những câu chuyện kì bí.
Không chỉ có trường hợp của tướng George Smith Patton được lịch sử ghi nhận mà còn có nhiều những trường hợp khác trên thế giới như trường hợp của Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12-10-1908 ở miền trung Thái Lan, tên thường gọi là Choti. Cha cậu tên là Nai Pae, mẹ là Nang Rieng. Ngay khi mới biết nói, cậu bé đã khẳng định mình là Nai Leng (tên người bác ruột của cậu bé đã mất từ trước khi cậu bé ra đời). Đáng chú ý, cậu có thói quen gõ bàn giống hệt như người bác trai, có thể nói và đọc được các thứ tiếng mà người bác lúc sinh thời từng học, và biết chính xác từng chi tiết một trong cuộc đời ông ta. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở Bangkok và sau đó xuất bản cuốn sách về cuộc luân hồi chuyển kiếp của chính mình.
Tờ báo Pattaya Daily News cũng công bố một trường hợp khác xảy ra tại làng Nathul, phía bắc Myanmar, cô gái Ma Tin Aung Myo sinh ngày 26-12-1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé luôn tự xem mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật đã bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m. Cô bé rất sợ máy bay, nhất định không chịu mặc quần áo con gái, nói tiếng Myanmar rất khó khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của người Nhật, và luôn buồn nhớ quê hương Nhật Bản. Ma Tin Aung Myo cho biết gia đình trước kia của "cô" ở miền Bắc nước Nhật.
Trước khi nhập ngũ, "cô" là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào quân đội thì làm đầu bếp. Cô sống độc thân không chịu lập gia đình, bởi cô "là đàn ông" và chỉ có thể kết hôn với phụ nữ mà thôi. Những trường hợp như trên vẫn là bí ẩn với thế giới loài người cho đến khi nào khoa học có thể chứng minh một cách đầy đủ nhất bản chất của hiện tượng này. Những câu chuyện đầu thai khó tin trên Thế giới.
Mặc dù vẫn chưa có lời giải đáp cụ thể về hiện tượng đầu thai nhưng những câu chuyện có thật và tưởng chừng như khó tin khiến các nhà khoa học phải đau đầu.
Cậu bé Cameron Macaulay ở thành phố Glasgow (Anh) thường xuyên khiến mẹ mình sởn gai ốc khi vẽ những bức tranh về một ngôi nhà màu trắng bên bờ biển Barra và nói rằng đó là nơi mà kiếp trước mình từng sống ở đó.
Cô Norma, mẹ Cameron cho biết từ khi biết nói Cameron luôn cố gắng kể về câu chuyện thời thơ ấu của mình trên đảo Barra và những người thân trước kia của cậu, đó là một cuộc sống luôn đầy ắp tiếng cười chứ không buồn tẻ như hiện tại.
Cameron còn miêu tả chi tiết trong ngôi nhà “cũ” của cậu có 3 nhà vệ sinh, bố cậu là Shane Robertson đã mất, còn mẹ là một người hay cười. Cậu bé thường xuyên khóc và đòi được về nhà thăm bố mẹ mình. Nhưng vì một phần nghĩ Cameron bịa chuyện, một phần vì không dư dả nên Norma không thể đáp ứng ngay yêu cầu của con. Cho tới tháng 2/2006, được sự tài trợ của một kênh truyền hình, mẹ con Cameron và tiến sỹ Jim Tucker, chuyên nghiên cứu về các trường hợp đầu thai kỳ lạ, đã tới đảo Barra.
Vừa tới nơi, Cameron đã lập tức nhận ra căn nhà quen thuộc từ xa. Quả nhiên, trong nhà có 3 nhà vệ sinh đúng như Cameron từng tả và chủ của ngôi nhà này họ Robertson, tuy nhiên từ khi ông này qua đời, người trong gia đình đã chuyển đi nơi khác ở.
Không giống với Cameron được “đầu thai” tới một nơi xa xôi, cậu bé Rakesh ở Ấn Độ lại được “đầu thai” vào chính người em trai của mình.
Năm 13 tuổi, cậu bé Rakesh, con trai của anh Chaudharys đã lâm vào trạng thái hôn mê bất tỉnh sau một vụ tai nạn vào ngày 29/4/2005. Vợ anh Chaudharys, chị Maniben đã đau khổ đến nỗi không làm chủ được bản thân và bắt đầu gặp ảo giác. Chị nói với chồng mình rằng, Rakesh đang đứng trước mặt chị và muốn nói lời từ biệt, cậu bé hứa sẽ quay trở lại nếu chị nở một nụ cười. Chaudharys đã thuyết phục vợ bình tĩnh và chia tay con trai sau khi cuộc đối thoại giữa hai mẹ con kéo dài khoảng 1 tiếng. Vài phút sau đó, bệnh viện gọi điện thông báo Rakesh đã qua đời.
Ngày 22/4/2006, Maniben sinh hạ một bé trai và cũng đặt tên là Rakesh. Thật kỳ lạ là cậu bé giống hệt người anh trai quá cố của mình từ dáng vẻ tới tính cách, thậm chí là nhận ra những người cậu chưa từng gặp. Trong một lần đưa bé Rakesh về quê chơi, cậu bé đã gọi tên Anila, chị họ của mình và kéo Anlia tới cái cây mà trước kia hai người từng chơi . Anlia (15 tuổi) là bạn của Rakesh anh.Điều đó khiến vợ chồng anh Chaudharys tin rằng Chúa đã trao trả lại Rakesh cho họ.
Cũng giống như vợ chồng Chaudharys, nỗi đau khổ tột độ khi mất đi một người con và niềm hạnh phúc khi sinh thêm được một người con khác khiến bà Olga Leonicheva (Nga) có linh cảm rằng con mình đã được đầu thai. Bà luôn khẳng định rằng cậu con trai đầu lòng chết khi mới 19 tuổi đã được đầu thai vào đứa con gái mới sinh bởi trước đó con trai bà, Dmitriy thường xuyên xuất hiện trong những giấc mộng mị kỳ quái và hứa rằng sẽ có ngày trở lại trong hình hài một bé gái.
Dmitriy là con riêng của Olga Leonicheva với người chồng thứ nhất. Từ khi Olga tái hôn và có thêm một cậu con trai nữa, Dimitriy thường xuyên tỏ ra xa lánh với cha dượng và người em cùng mẹ khác cha của mình, thậm chí cậu cũng không hòa đồng với những đứa trẻ cùng trang lứa. Vì vậy, sau khi tốt nghiệp trung học, cậu đã gia nhập quân đội phục vụ tận miền Viễn Đông. Cuộc sống hà khắc trong quân đội và thường xuyên phải chịu cảnh đánh đập khiến Dmitriy rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng và đã đào ngũ 2 năm sau đó. Cậu đã treo cổ tự tử trước cửa nhà khi mẹ và cha dượng đi ra ngoài có việc. Olga tưởng chừng như không sống nổi và đã hai tìm cách quyên sinh sau cái chết bí ẩn của con trai.
Hai năm sau đó, đúng vào ngày sinh của Dmitriy (26/1/2006), Olga đã sinh hạ một bé gái đặt tên là Kseniya mặc dù bác sỹ đã chẩn đoán bà sẽ sinh vào ngày 15/1. Kỳ lạ hơn là bà đỡ bé Kseniya cũng chính là bà đỡ đã đón Dmitriy 21 năm về trước. Vì thế, Olga càng tin tưởng rằng đứa bé này chính là Dmitriy cho dù Kseniya không có đặc điểm nào giống người anh quá cố của mình. (theo Sầm Hoa (Tổng hợp)
Những câu chuyện kể về bóng ma nhà trắng .
Nhiều câu chuyện kể về những cuộc viếng thăm lại nhà trắng của bóng ma cố tổng thống đã và đang được lưu truyền. Tuy nhiên, câu chuyện phổ biến và được nhiều người biết đến nhất là về Abraham Lincoln. Bóng ma Lincoln, hay còn gọi là bóng ma nhà trắng, được tương truyền là luôn xuất hiện tại nhà trắng kể từ cái chết của ông. Nhiều người còn tin rằng khi còn là đương kim tổng thống, Lincoln đã dự đoán trước được về vụ ám sát.
Nỗi ám ảnh về linh hồn và thế giới siêu nhiên.
Tại sao những câu chuyện về bóng ma tổng thống Mỹ lại có sức hút kì lạ đến vậy? Câu trả lời chính là mối quan hệ giữa tổng thống và thế giới siêu nhiên trong suốt cuộc đời ông, và cả khi ông đã mất. Lincoln thường có những giấc mơ tiên tri và niềm tin mạnh mẽ vào thế giới tâm linh. Do đó, cho đến nay, vẫn có nhiều người dân Mỹ tin vào việc Lincoln có mối tâm giao người chết.
Abraham Lincoln luôn là một người u sầu. Cái chết của mẹ khi ông vẫn còn là một đứa trẻ; và việc lao động khó khăn để đấu tranh cho sự sinh tồn và giáo dục đã tạo nên một người đàn ông nghiêm túc. Cuộc nội chiến đã khiến ông đau khổ và mất mát nặng nề. Trong những năm đó, ông ngủ rất ít và hiếm khi rời khỏi nhà Trắng.
Có rất nhiều câu chuyện kể về sợi dây nối giữa tổng thống Lincoln và thế giới siêu nhiên. Một trong số đó là câu chuyện khi ông còn đang sống tại Springfield trong thời kì bỏ phiếu tổng thống năm 1860.
Ngày bầu cử tại thành phố diễn ra với những tiếng pháo nổ nồng nhiệt, âm nhạc và sự phấn khích. Lincoln đã dành cả ngày và đêm với bạn bè tại một văn phòng điện báo. Đến nửa đêm, ông nhận được tin đã trúng cử. Một bữa ăn đêm đã được tổ chức để vinh danh ông và sau đó ông trở về văn phòng để cập nhập thêm thông tin. Súng bắn trong lễ kỷ niệm suốt đêm.
Sáng sớm hôm sau, Lincoln trở về nhà và nằm dài trên ghế trường kỉ. Trước mặt ông là một tấm gương lớn. Một hình ảnh kì lạ xuất hiện. Ông thấy trong gương, khuôn mặt mình xuất hiện với hai hình ảnh riêng biệt. Đỉnh mũi của hai hình ảnh này cách nhau 3 inch. Hình ảnh biến mất rồi lại xuất hiện ít phút sau đó và trở nên rõ ràng hơn. Một hình ảnh dường như nhợt nhạt hơn hình ảnh kia, và ám màu người chết. Đó là một điềm báo, thế nhưng Lincoln cho rằng ông đã bị ảo giác do quá phấn khích và mệt mỏi sau một đêm dài thiếu ngủ.
Tuy nhiên, hình ảnh đó tiếp tục xuất hiện vào những đêm sau đó. Vợ ông không bao giờ nhìn thấy, nhưng bà tin những gì ông kể lại. Bà cũng nhận ra điều tiên đoán ẩn dưới hình ảnh kì lạ đó. Khuôn mặt khỏe mạnh là khuôn mặt thật của Lincoln trong suốt nhiệm kì tổng thống đầu tiên. Và ngược lại, khuôn mặt của một xác chết chính là điểm gở tiên đoán về cái chết trong nhiệm kì thứ hai của ông.
Cái chết của những cậu con trai đã khiến Tổng thống Lincoln tê liệt. Đầu tiên là Eddie, sau đến Willie và cuối cùng là Tad. Câu chuyện về cái chết của Willie vẫn còn là một điều bí ẩn. Nhiều câu chuyện ghi lại là cả Willie và Eddie đều bị nhiễm trùng cấp tính hoặc thương hàn do uống phải nguồn nước ô nhiễm. Trong năm 1860, Washington đã mở một số cống rãnh và kênh đào bẩn thỉu để kiếm nước uống. Rác thải của thành phố đã đổ vào nguồn nước cách Nhà Trắng không xa. Ban đầu, Lincoln định chôn Willie bên cạnh Eddie tại Springfield, thế nhưng sau đó ông thay đổi ý và quyết định an táng con trai mình tại nghĩa trang của gia đình Carroll do không chịu nổi ý nghĩ phải rời xa cậu bé.
Sau tang lễ, Lincoln cố gắng tập trung vào công việc của mình, nhưng tinh thần của ông đã bị đè bẹp bởi cái chết của Willie. Một tuần sau đám tang, ông giam mình trong phòng cả ngày và khóc. Vào thời điểm này, Lincoln đã trên bờ vực tự tử, nhưng không ai dám chắc chắn về điều đó. Ông sống thu mình hơn và bắt đầu đi sâu hơn nữa vào các vấn đề tâm linh mà ông đã quan tâm từ rất lâu.
Abraham Lincoln đã không chỉ tin vào siêu nhiên mà ông còn thực sự tham gia vào trong đó. Có những người khác nói rằng ông đã tham gia vào các lễ chiêu hồn được tổ chức tại Nhà Trắng. Nhiều nhà linh hồn học đã trở thành khách tại đây, một vài người trong số họ thậm chí còn cảnh báo Lincoln về bóng tối bao trùm lên cuộc đời ông.
Lincoln cũng bắt đầu kể về linh hồn Willie. Ông luôn cảm nhận được sự hiện diện của cậu con trai nhỏ tại nhà cũng như phòng làm việc. Một số lý thuyết cho rằng chính nỗi ám ảnh của Lincoln đã khiến linh hồn Willie nán lại và không chịu đi về thế giới bên kia.
Lincoln hiếm khi nói về niềm tin vào thế giới tâm linh, nhưng Mary vợ ông thì ngược lại. Bà gặp rất nhiều nhà linh hồn học, mời họ tới Nhà Trắng khi họ tuyên bố có thể “vén bức màn mòng” cho phép bà trò chuyện cùng Willie. Nettie Colburn Maynard, nhà linh hồn học thân thiết nhất của Mary đã tổ chức một lễ chiêu hồn kì lạ vào năm 1863. Trong buổi lễ siêu nhiên đó, các nhạc cụ đều tự dưng bay lên khỏi sàn nhà. Lincoln và Đại tá Simon Kase đều leo lên cây đàn piano đang lơ lửng, và chỉ nhảy xuống khi nó nhảy và lắc lư quá mạnh. Từ sự kiện đó, Lincoln bắt đầu tin vào "sức mạnh vô hình."
Giấc mơ về cái chết
Có lẽ câu chuyện siêu nhiên nổi tiếng nhất có liên quan tới Lincoln chính là giấc mơ tiên tri về vụ ám sát ông.
Ward Hill Lamon, vệ sĩ và cũng là một người bạn cũ của Lincoln đã nhiều lần xin từ chức bởi Lincoln không bao giờ để tâm tới sự an toàn của mình. Thế nhưng cuối cùng đều bị Lincoln thuyết phục và tiếp tục làm việc. Lamon đã thật sự bị ám ảnh sau vụ ám sát tổng thống. Ông đặc biệt không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân mình bởi vụ ám sát này đã nhiều lần được cảnh báo trước.
Nhiều năm sau vụ ám sát, Lamon nhớ lại việc Lincoln đã nhìn thấy ma trong gương vào năm 1860. Tổng thống cũng kể lại cho ông và Mary rằng ông đã có một giấc mơ kì lạ về cái chết trước khi vụ ám sát xảy ra.
"Khoảng mười ngày trước, tôi ngủ muộn và nhanh chóng chìm vào giấc mộng mị. Một sự im lặng chết người bao trùm lấy tôi. Sau đó là tiếng khóc thổn thức. Tôi nghĩ tôi đã rời khỏi phòng và lang thang ở tầng dưới. Tôi đi từ phòng này qua phòng khác, không có bóng dáng một ai cả. Tất cả mọi căn phòng đều được thắp sáng, tất cả đồ vật đều rất quen thuộc. Thế nhưng, tôi vẫn không thể tìm ra căn phòng nơi có tiếng khóc bi thương đó. Tôi cứ đi tiếp tới căn phòng phía Đông, Trước mắt tôi là một đám tang, trên đó có một xác chết đang mặc áo quan. Xung quanh là những quân nhân đứng canh và một đám đông đang khóc lóc thảm thiết.
Ai chết vây? Tôi hỏi một người lính
Tổng thống. Ngài bị ám sát. Người lính trả lời.”
Lincoln bị ám sát chỉ vài ngày sau đó. Lễ truy điệu diễn ra tại Phòng phía Đông của Nhà Trắng
Bóng ma Lincoln
Bóng ma Lincoln dường như xuất hiện nhiều nhất dưới thời của tổng thống Franklin Roosevelt do cả hai có điểm tương đồng là đều nắm trong tay quyền lực điều khiển cuộc chiến tranh lớn của Hoa Kỳ. Trong thời gian 13 năm sống tại Nhà Trắng, Roosevelts đã biến phòng ngủ của Lincoln thành phòng nghiên cứu cho Eleanor. Mặc dù khẳng định chưa bao giờ trông thấy linh hồn của vị cố tổng thống, nhưng bà vẫn luôn cảm nhận được sự hiện hữu của ông lúc đang làm việc. Eleanor tin rằng Lincoln đã luôn ở trong căn phòng đó với mình.
Một kế toán trẻ của Roosevelt khẳng định chắc chắn anh đã nhìn thấy bóng ma Lincoln đang ngồi trên giường và cởi giày.
Cũng dưới thời tổng thống Roosevelt, nữ hoàng Wilhelmina của Hà Lan trong một cuộc viếng thăm và nghỉ lại Nhà Trắng đã có cơ hội trông thấy bóng ma nổi tiếng này. Nửa đêm, bà đã bị đánh thức bởi 1 tiếng gõ cửa phòng ngủ. Bà trả lời, và sững người khi trông thấy bóng ma Abe Lincoln đang nhìn chằm chằm mình từ hành lang.
Từng là một quý ông lịch lãm nên Lincoln thường xuyên gõ cửa. Các tổng thống Theodore Roosevelt, Herbert Hoover và Harry Truman đều kể lại rằng họ đã nghe thấy những tiếng gõ lên cửa phòng ngủ lúc nửa đêm mà không thể giải thích nổi. Họ tin đó là do bóng ma Lincoln, nhưng không một ai dám khẳng định điều đó vì không có cơ sở.
Trong thời kì nắm quyền tổng thống, Lincoln đã luôn trăn trở vì cuộc cuộc nội chiến. Ngay cả khi đã qua đời, linh hồn ông cũng không hề yên nghỉ. Vợ của Calvin Coolidge cho biết bà đã nhiều lần nhìn thấy bóng ma của Lincoln đứng bên cửa sổ phòng Oval, hai bàn tay siết chặt sau lưng, ánh mắt đăm chiêu như đang chìm đắm trong dòng suy ngẫm về các chiến trường đẫm máu trên Pototmac.
Trong nhiều lần viếng thăm Mỹ, Winston Churchill đã có một cơ hội ngủ lại Nhà Trắng. Ông có thói quen thức khuya, nhâm nhi một ly scotch, hút xì gà và thư giãn khi nằm trong bồn tắm lúc nửa đêm. Lần này, ông rời khỏi bồn tắm, chưa mặc quần áo để đi lấy điếu xì gà ở phòng ngủ kế bên. Thế nhưng, ông đã giật mình khi nhìn thấy Abraham Lincoln đang đứng bên lò sưởi, dựa người vào lớp phủ. Churchill đã nhanh chóng lấy lại bĩnh tĩnh và nói “xin chào tổng thống. Hình như ngài gặp tôi trong trường hợp không tiện cho lắm.” Lincoln cười nhẹ rồi biến mất.
Tổng thống Harry Truman thì khẳng định đã nghe thấy tiếng bước chân của Lincoln. Một đêm, ông nghe thấy tiếng gõ cửa nhưng không có một ai bên ngoài cả. Những người hầu phòng kể lại rằng họ đã trông thấy bóng ma Lincoln vào lúc đó.
Mục sư Norman Vincent Peale kể lại rằng một diễn viên đã trông thấy Lincoln trên sàn nhà và cầu xin sự giúp đỡ. Ông từ chối nêu tên người đàn ông đó.
Tuy nhiên, kể từ đời tổng thống Truman, rất ít khi hồn ma Lincoln xuất hiện bởi nhiều người tin rằng nguyên nhân là do có sự thay đổi trong Nhà Trắng khiến cố tổng thống không thể đi vào trong như trước. Nhiều người khác cho biết họ vẫn thường nhìn thấy Lincoln xung quanh lăng mộ tại Springfield, Illinois.
Một số cũng khẳng định đã nhìn thấy chuyến tàu ma tang lễ của ông nhiều năm sau khi nó đưa thi thể của ông trở lại Springfield. Theo các nhân chứng, có hai xe lửa. Chuyến tàu đầu tiên kéo theo một dòng ô tô màu đen và chuyến thứ hai chỉ kéo một chiếc ô tô chở quan tài của cố tổng thống. (Thanh Loan tổng hợp từ prairieghosts)
2- Quả báo:
Đền ân nghĩa, trả oán thù. Phật giáo đòi hỏi mọi người không được quên ơn người khác và không nên báo oán; chủ trương "oán nghi giải, bất nghi kết", nghĩa là oan nên giải, không nên kết nối. Đạo Phật rất coi trọng việc báo ân. Có bốn ân mà Phật tử phải đền đáp: ân cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng; ân tam bảo (Phật, pháp, tăng); ân đất nước (ân quốc độ); ân chúng sinh. Tăng ni Phật tử cần luôn nhớ bốn ân nặng đó để đền đáp. Ác: Hung dữ, làm hại người, nghịch đạo lý, trái với Thiện. Giả: Là, ấy là, tiếng trợ từ. Báo: Ðáp lại. Ác giả ác báo là làm điều ác thì bị việc ác báo đáp lại. Ðó là luật nhân quả, nhân nào quả nấy.
Ác: Hung dữ, làm hại người, nghịch đạo lý, trái với Thiện. Nghiệp: Những việc làm thiện hay ác trong kiếp trước tạo thành một lực vô hình, ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, làm cho kiếp sống hiện tại gặp may mắn sung sướng hay rủi ro đau khổ.
Có hai thứ nghiệp: Thiện nghiệp và Ác nghiệp. Nếu đời trước mình làm nhiều việc phước thiện thì nó tạo nên Thiện nghiệp, nó sẽ theo ủng hộ mình, nâng đỡ mình trong cuộc sống hiện tại, làm cho mình gặp may mắn tốt đẹp. Nếu đời trước mình làm nhiều việc ác độc thì nó tạo nên ác nghiệp hay bất thiện nghiệp, và cái ác nghiệp ấy nó sẽ theo báo hại mình, xui khiến mình gặp hoạn nạn tai ương. Những người nghèo đói khổ sở, đau ốm triền miên, đừng đổ thừa Trời gây ra cho mình, mà phải nghĩ rằng đó chỉ là sự báo đáp của ác nghiệp mà mình tạo ra trong đời trước. Cho nên, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết: “Ðã mang lấy nghiệp vào thân/Thì đừng trách lẫn Trời gần Trời xa ”. Muốn giải trừ ác nghiệp, chỉ có cách duy nhất là làm thật nhiều việc phúc, thiện, dứt khoát từ bỏ việc làm ác dù là việc ác nhỏ.
Tất cả những con người trên thế gian này đang sống giữa quãng đời đua chen, tranh đấu, tìm đủ mọi thủ đoạn để giành hơn thua lẫn nhau, kẻ giầu còn muốn giầu thêm, mọi người từ già đến trẻ, ai ai cũng ngày đêm suy nghĩ, tìm ra trăm phương ngàn kế để lo cho ta, cho gia đình rồi lại lo cho thân bằng quyến thuộc, làm sao cho hơn người khác, cứ như thế ai ai cũng mang trong người cái nghiệp, nghiệp tham(lam), sân si (nóng giận).. Ít có ai nghĩ đến quả báo, một ngày nào đó rồi ta cũng phải chết, chỉ gặp một chút nghịch cảnh là hồn lìa khỏi xác.
Bạn bè thân hữu như kẻ bạn đường, vàng bạc, châu báu tiền của chỉ là phương tiện sinh nhai nào có chi chắc thật.
Cái còn lại là “linh hồn”, còn gọi là “thần thức”, chỉ có linh hồn mới có thật, tất cả các tôn giáo: Phật Giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Nho giáo, Cao Đài Giáo, Hồi Giáo, Hoà Hảo ...Các vị thánh nhân sáng lập ra các thuyết giáo, để truyền bá cho mọi người chỉ nhắm mục đích, răn dậy, khuyên bảo cho nhân loại trên thế gian loại bỏ các ý nghĩ và hành động gây nghiệp báo.
Thật vậy, nếu ta chịu khó đọc sách, nghiên cứu và dành thì giờ đi nghe thuyết pháp của các vị chân tu truyền giáo, ta có thể cải đổi được bản ngã và hiểu được linh hồn là phần quan trọng đối với ta khi nhắm mắt ngàn thu.
Hiện nay chúng ta đang đứng giữa hai con đường, con đường nuôi thân ích kỷ, tham lam, ác độc, si mê dẫn đến địa ngục khổ đau, con đường khác là nuôi tâm vị tha, bố thí, từ bi, sáng suốt dẫn đến thiên đàng, an lạc. Nếu ta theo con đường nuôi thân tội lỗi thì bản thân chúng ta phạm ba tội : Sát sinh, trộm cắp và dâm dục. Miệng (Khẩu) phạm 4 tội: nói láo, vu oan giá hoạ, nói thêm bớt và chửi rủa. Ý (suy nghĩ) ta cũng phạm 3 lỗi : Tham lam, sân hận (nóng giận) và cuồng si (ngu si dốt nát). Bây giờ chúng ta quay về đường thiện thì thân, miệng và ý sẽ quay đầu trở lại:Thân không sát sinh mà phóng sinh, giúp người không cầu lợi, miệng nói lời chân thật, đứng đắn, hoà giải và dịu dàng, ý không tham lam mà phải bố thí, từ bi và sáng suốt. Ở đây, vì đức mỏng, tội dầy nên chúng ta chưa giám nghĩ đến cảnh niết bàn của chư Phật đầy đủ 4 đức : “Chân thường, chân lạc, chân ngã, và chân tịnh” mà nói đến ác và thiện. khổ và vui để định rõ hai con đường giúp chúng ta cùng đi.
Chúng ta sinh ra và lớn lên hấp thụ trong một môi trường và gia đình được hưởng nhiều điều tốt đẹp cả về cuộc sống và lý tưởng đó là Chủ nghĩa xã hội.
Mọi người không bao giờ quên được những điều đã học về đạo đức, học sinh phải kính yêu cha mẹ, đối với thầy phải tôn kính, trọng thầy như cha đẻ, sống thì tết chết chì giỗ.
Nếu chúng ta cứ lấy ân oán, để trả thù lẫn nhau thì không bao giờ hết. Khổng Tử cũng đã dậy cho ta rằng “Oan oan tương báo, ác giả ác báo, thiện ác đáo đầu chung hữu báo”.
Nếu ai cũng cứ nghĩ đến hơn thua, ân oán giang hồ thì nghiệp chướng oan gia cứ chồng chất, không bao giờ hết nạn binh đao, không bao giờ hết được cái tội lỗi của con người đã gây ra. Mạnh Tử cũng đã phát huy chủ thuyết Khổng Tử để khuyên răn người đời cần phải có Đức. Đức được tạo dựng bởi Đạo, Đạo là một con đường hướng dẫn ta đi đến Chân, Thiện, Mỹ để đạt được cái Đức, cho nên ngài đã nói “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo”.Đạo không thể xa con người, người không thể xa Đạo, tất cả ai ai trên thế gian này cũng phải có Đạo. Đạo đây là đạo ông bà, cha mẹ đã để lại những lời vàng thước ngọc và các Đạo Phật, Đạo Khổng...
Những lời dậy của Đức Phật làm kim chỉ nam cho cuộc đời của mình là :“Lấy ân báo oán thì oán tiêu tan. Lấy oán báo oán, thì oán chồng chất”. Không phải ta tạo ra tội mà cứ chịu quả báo nhất định, mà theo Phật dậy, ta còn có phương pháp cải thiện được, không có gì khó, một anh đồ tể nếu biết ăn năn hối cải buông dao xám hối cũng có thể thành Bồ Tát được.
Nho giáo có câu :
Thế sự vô vạn sự.
Đô lại tâm bất chuyên,
Tạc sơn thông đại hải,
Phi vụ đỗ thánh thiên.
Tạm dịch :
Ở đời không có việc gì khó,
Đều do Tâm không chuyên mà thôi,
Có thể đục núi thông ra biển,
Vén mây núi thấy trời xanh.
III- Tu để có nghiệp thiện
Thông thường; Phật tổ khẳng định rằng bất cứ ai có TÍN, TÂM NGUYỆN và có ĐỨC TIN thì đều học Phật và tu được. Đức tín còn là khởi điểm của con đường vào đạo, là nguồn cội của mọi hành động chí thân, chí thiện, chí mỹ, khi đặt niềm tin ấy theo đúng hướng không mơ hồ với lý trí.. Cuồng tín và mê tín cùng đứng chung một bình diện, nghĩa là khởi phát từ thứ tâm vô minh, hẹp hòi chưa được khai mở. Đức tín là một tác động có tính cách toàn diện, là đắm mình trong lý tưởng đang tôn thờ, sống trọn vẹn với lý tưởng đó. Người có đức tín chân chính là người đang bơi lội trong dòng sông mát chứ không phải là đứng ngắm vẻ đẹp của dòng sông.Đạo Phật là đạo trí tuệ. Đó là con đường tâm linh thể nghiệm. Bởi vì , tin là đức tính mang lại hạnh phúc cho mọi người. Đó là quyền lợi thiêng liêng cần thiết cho đời sống. Con đường tu và theo Phật có thể khẳng định là con đường chân chính của những người sáng suốt và có trí tuệ. Khi đã xác định con đường đi đúng đắn thì phải có niềm tin, niềm tin chính là một nguồn năng lượng nuôi dưỡng tâm hồn, người không có niềm tin là kẻ bất hạnh, một tâm hồn cằn cỗi, chai đá, không bình thường, mất định hướng. Đức tin có khả năng chuyển hóa giúp con người thoát khỏi những trở ngại, rủi ro, đôi lúc còn tỏa ra xung quanh một cách linh diệu và hiệu nghiệm mà chỉ người có đức tin mới cảm nhận được. Kinh của Phật thì rộng lớn bao la; đối với những người mới theo và học Phật thì có quá ít thời gian, điều kiện để học. đọc và tụng kinh; Xin giới thiệu một số kinh thông dụng như sau: Kinh Di Đà, Kinh Phổ Môn, Kinh Dược Sư, Kinh Thủy Sám, Kinh Địa Tạng,Kinh báo Ân, Kinh Lương Hoàng, Kinh Pháp Hoa. Tất cả các bộ kinh thường tụng, mỗi chữ, mỗi câu đều có ý nghĩa cao siêu, thậm thâm vi diệu; khó hiểu, muốn thông hiểu thì phải gia thông tìm đọc, học để biết. tụng niệm; chứ không phải chỉ để biết để khoe khoang, lòe đời, hoặc để tỏ ra là mình cũng biết nhưng phẩm hạnh đạo đức thấp hèn, chỉ sống bon chen ở đời thường.
+KINH DI ĐÀ: nội dung kinh di đà có công năng siêu độ cho người quá cố muốn được sinh thác về (thác về) về cảnh giới cực lạc ở Phương Tây. Cảnh giới này do Đức Phật Di Đà là Giáo chủ, Ngài phát 48 đại nguyện, lời đại nguyện 19 là: “Nguyện độ cho chúng sinh nào tâm muốn sinh về nước ngài là “Phương Tây cực lạc quốc” thì niệm PHẬT A DI ĐÀ Từ 1 đến 10 niệm mà được nhất tâm bất loạn thì chắc chắn được vãng sinh về Phương Tây”.
+KINH DƯỢC SƯ: nội dung kinh do Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni giới thiệu một thế giới khác ở Phương Tây do đức Phật Dược Sư làm giáo chủ. Ngài có 12 đại nguyện; Kinh Dược Sư có công năng làm tăng trưởng chính tín, tự tin để tiêu trừ bệnh tật, oan nghiệp, tâm trí buồn phiền, dục vọng, lo sợ… Nhờ đó mà bệnh tật cũng đỡ phát sinh và không có môi trường phát triển.
+KINH ĐỊA TẠNG: nội dung Kinh do Bồ Tát Địa Tạng nguyện “Còn một chúng sinh trong địa ngục ngài nguyện chưa thành Phật”. Do nguyện lực đó nên ngài thường cứu độ chúng sinh trong cảnh ngục tù tối tăm. Nên kinh có công năng siêu độ vong nhân khổ ách. Ngài dùng nguyện lực để thần giao cách cảm linh ứng với vong linh người quá cố để nhờ uy đức qua câu tụng kinh và thần lực của Bồ Tát Địa Tạng người chết sẽ siêu thoát nhanh,
+KINH BÁO ÂN: nội dung kinh báo hiếu, kinh này tụng vào các dịp hiếu sự, giỗ chạp, ma chay và mùa Vu Lan Báo Hiếu để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha, mẹ, người nuôi dưỡng.
+KINH THỦY SÁM: lấy nước thế gian để rửa sạch mọi như bẩn của thế gian. Kinh này đối với người tu hành phải can đảm, chí thành sám hối, quyết tâm dứt bỏ mọi lỗi lầm nhất là diệt trừ cái ác(niệm bỏ không làm điều ác); và phát huy sức mạnh bản thân, làm nhiều điều thiện có như vậy chuyển hóa được đời sống tối tăm trong gia đình và xã hội.
+KINH PHÁP HOA: Kinh đức Phật tuyên truyền khuyến cáo cho chúng sinh “ngô nhập Phật trì kiến”. Phật dùng nhiều dẫn dụ chúng sinh, khuyến hóa chúng sinh tu phật để đạt đến “Quả vị Phật thừa” như Phật.
+KINH PHỔ MÔN (KINH CỨU KHỔ): Nội dung Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói đến danh xưng và hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm. Do hạnh nguyện cứu khổ của Ngài nên Ngài thường xuyên hiện lên để cứu khổ, cứu nạn chúng sinh. Có cảm mới có ứng nên rất nhiều trường hợp Ngài cứu độ mà sách vở kim cổ đông tây đã ghi chép . Muốn ngài cứu độ những người tu hành ngoài việc thành tâm còn phải phát tâm đại từ đại bi (làm thật nhiều điều thiện cứu giúp người) theo hạnh nguyện như ngài thì rất có hiệu quả. Đối với những người hay đi (di chuyển) trên các phương tiện giao thông: Máy bay, tàu thuyền, ô tô, xe máy… thì nên mang trong người một quyển “Kinh cứu khổ” để được đức Quán thế Âm bồ Tát phù hộ độ trì, che chở đi đến nơi, về đến chốn an toàn.
Kì II: Con người chết đi về đâu?
Sau đây là một số câu chuyện cứu khổ, cứu nạn của đức
Quán Thế Âm Bồ Tát.
1- Đức Quán thế âm Bồ tát
cứu nạn, cứu khổ: Cứu 7 nạn
1.1- Cưú nạn đi trên
sông, biển ( thuỷ ách):
Anh Đáo người làng An Truyền, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, năm 1953
được lệnh động viên anh phải nhập ngũ. Năm ấy Huế gặp trận lụt to nhất xưa nay
chưa từng có. Anh Đáo với 8 người bạn đồng đội gác tại lô cốt gần cửa biển
Thuận An. Đêm 24 sáng 25, gió to nước dâng lên cao vùn vụt không kịp trở tay.
Anh em đồng đội đều là người khác đạo kêu gào cầu cứu nhưng vô hiệu quả, giữa
sóng to gió lớn không thấy tăm dạng một bóng người, một ghe thuyền nào cả, lại
thêm trời tối như mực, mưa đổ như xối. Cả đội đều khoanh tay đợi chết vậy!
Riêng Đáo bình tĩnh chí thành niệm danh hiệu Quán thế âm Bồ tát, chết sống phó
mặc cho ba đào! Nước mỗi lúc một cao, gió mỗi lúc một lớn. Lô cốt đổ nhào theo
dòng nước cuốn đi. Tự nhiên Đáo thấy mình tấp vào một ghềnh đá cao, gió rét
thấu xương, tưởng mình đã chết rồi, nhưng không dứt tiếng niệm Phật, thế rồi
ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Bỗng thấy có người đánh vào vai bảo dậy mà về.
Bừng mắt dậy thấy trời đã chiều, xa xa có chiếc đò đi vớt củi, liền kêu cứu,
được đò ấy đến chở về. Còn bạn đồng đội chẳng biết trôi dạt vào đâu! Sau khi
thoát hiểm, Đáo lên chùa Báo Quốc lạy Phật và kể rõ lại sự việc đã gặp. Sự này
được ghi chép lại theo lời Đáo thuật. Ghi chép lại theo lời Đáo thuật.
Ngài Thích Đạo Hiền ở về
đời nhà Đường, nhân ông thứ sử nhờ vẽ giúp bảy bức tượng Quán thế âm, ngài kêu
thợ vẽ đến bắt phải trai giới trước đã rồi dùng trầm nhũ làm keo, đốt hương lễ
bái xong mới vẽ. Khi vẽ rất là tôn nghiêm trang trọng đầy đủ tướng hảo. Về sau
nhân qua sông chìm đò ngã xuống nước, vội vã niệm danh hiệu Quán thế âm Bồ tát,
liền trông thấy dưới nước có hào quang, hai bên là bảy vị tượng đã vẽ trước nói
rằng: Cứ niệm Phật A di đà đi. Đạo Hiền lật đật niệm Nam mô A di đà Phật, bảy
vị Bồ tát đỡ hai chân, ngài liền nổi lên mặt nước, đi chừng 40 dặm mới đến bờ.
1.2- Cứu nạn
lửa cháy (Hoả tai)
Năm dân quốc năm thứ 11, nạn động đất ở
Nhật Bản: Dân số Nhật chết trong nạn địa chấn này ước chừng hơn ba mươi vạn
người, thi hài chất cao như núi! Cứ riêng một địa phương mà nói thì khu vực
Thiền thảo ở Đông Kinh là hoàn toàn trở thành tiêu thổ! Ở trong khu vực Thiền
thảo ấy có một công viên, trong công viên có một hồ nước và một tòa Quán âm các
ba gian, kiến trúc theo lối Nhật Bản cũ. Khi nhân dân bị hỏa tai, bốn phía bao
bọc lửa cháy. Không biết trốn tránh vào đâu, nhân dân đua nhau chạy vào công
viên. Tất cả tụ tập vào tòa Quán âm các ước chừng hơn ba vạn người; trong lúc
tình hình bức thúc, mọi người đều niệm danh hiệu đức Quán thế âm Bồ tát, chí
thành cầu nguyện may ra thoát khỏi tai nạn! Từ trong ra ngoài, dị khẩu đồng âm,
vang dội tiếng niệm Nam
mô Đại từ đại bi Cứu khổ cứu nạn Linh cảm ứng Quán thế âm Bồ tát. Lửa lan đến
hồ, đốt cháy khô cả hồ nước rồi dừng lại. Thật là một việc chưa từng có! Không
những đám dân không ai bị tai nạn mà luôn cả ba gian nhà kia hiện nay vẫn còn.
Chính phủ Nhật hiện bảo tồn để làm nơi thánh tích kỷ niệm. Ai là người đã đến
Nhật Bản chắc không khỏi đến tham bái ở đó. Đức từ bi cứu khổ của Bồ tát Quán
thế âm thật cùng khắp đúng như lời Phật dạy trong kinh Phổ môn.
Về đời Mãn Thanh, ông Thái Ân Tường làm chức
vận lương, có một công quán cho nhân dân đến nộp thuế, bốn phía không có vách
tường, liên tiếp với nhà của dân chúng. Một hôm nhà hàng xóm bị cháy, mọi người
lo khuân vác của cải, thì Thái Ân Tường vẫn điềm nhiên bất động! Bao nhiêu
người la, thúc ông tránh thoát, ông ta vẫn bình tĩnh hình như không để ý. Lạ
nhất là ngọn lửa đang cháy qua Đông, bỗng nhiên trở về Tây, tứ hữu bốn mặt đều
bị lửa cháy tràn lan, chỉ còn sót lại khoảng giữa nhà ông ta là không cháy. Bao
nhiêu người xúm lại hỏi ông ta có phép thuật gì, ông ta đáp: Tôi chỉ biết niệm
chú Đại bi. Có người nói: Vạn nhất mà thần chú Đại bi không linh nghiệm, luôn cả
tánh mạng ông cũng khó bảo tồn thì ông tính sao?
Đáp: Gia đình tôi đã nhiều
đời trì tụng chú Đại bi, thảy đều có linh nghiệm và thảy đều thoát qua bao
nhiêu tai nạn về đao binh, thủy hỏa không thể kể xiết! Chính bản thân tôi đã
trì tụng hơn hai mươi năm nay, mỗi khi gặp phải tai nạn gấp rút, đều được cảm
ứng che chở. Tôi còn nhớ về niên hiệu Càn Long, nhà tôi ở Bắc Bình bên phía Nam
có nhà hàng xóm bị cháy, lại gặp phải gió Nam, ngọn lửa theo gió vùn vụt táp
đến nhà tôi. Bấy giờ muốn thoát thân e cũng không kịp. Tôi cứ điềm nhiên y theo
thường lệ trì tụng chú Đại bi, chưa hết một biến, rất lạ là ngọn gió thổi vật
trở về. Nhà tôi thoát nạn, vì thế mà tôi không có gì sợ hãi cả và rất tin tưởng
đức từ bi bất khả tư nghì của Bồ tát. Có sợ chăng là sợ lòng mình không chí
thành và đã gây nhiều tội lỗi mà thôi. Chúng ta nên chí thành sám hối những tội
lỗi đã lỡ lầm và mỗi ngày trì tụng ít biến chú Đại bi, chắc chắn sẽ được cảm
ứng không sai.
Triều nhà Minh có một người họ Uông, nhà ở gần
núi Côn Sơn thuộc tỉnh Giang Tô. Anh ta phát nguyện ăn chay ba năm và trì niệm
danh hiệu Quán âm. Sau khi hoàn nguyện lại đi chiêm bái núi Nam Phổ đà, nơi đức
Quán âm thị hiện. Đến ngày nguyên đán thì xuống thuyền đi. Khi thuyền đã nhổ
neo, bỗng người nhà chạy đến báo tin nhà hàng xóm bị cháy đã lan đến nhà mình,
gọi anh trở về cứu chữa. Anh ta đáp: Tôi chí thành đã ba năm, hôm nay đi chiêm
bái, không lý vì cháy nhà mà đổi chí nguyện; dù cho có cháy hết nhà cửa, tôi
quyết không trở lui. Nói xong vẫn giong buồm thẳng tiến. Lễ bái rồi trở về,
trông thấy bốn phía xóm đều trở thành tiêu thổ, chỉ có một mình nhà anh vô sự.
Thật là lòng chí thành bao giờ cũng được cảm cách.
1.3
- Gió bão:
Đời Tống Thần Tông niên hiệu Nguyên Phong
năm thứ ba, chức Hàn lâm Vương Thuần Phong vâng chỉ đi sứ Tam Hàng, khi đi
ngang qua biển gặp sóng to gió lớn, lại thêm có một con rùa lớn ép vào thuyền,
vô cùng nguy hiểm! Thuần Phong rất sợ hãi liền vội vã hướng về núi Phổ đà trong
động Triều âm cầu đảo. Bỗng trông thấy hào quang vàng chói lọi: thân tướng đẹp
đẽ của Bồ tát hiện ra, ngọc báu lung linh, mây năm sắc lóng lánh, con rùa lớn
liền bỏ đi, cả thuyền đều vô sự. Sau về tâu lại, triều đình sắc phong "Bửu
đà Quán âm tự "
1.4- Gươm đao:
Thời gian đầu triều nhà Thanh, có một người
tên là Trình Bá Lân, trước là một nhà buôn các tỉnh Giang Tô, Dương Châu... thờ
đức Quán thế âm rất chí thành! Đến năm Ất dậu bị giặc đánh phá Dương Châu,
Trình Bá Lân cầu đảo ngài cứu hộ. Đêm nằm mộng thấy đức Quán âm dạy rằng: Nhà
ngươi 17 người, 16 người khỏi chết, chỉ có một mình ngươi là không thể trốn
được, vì kiếp trước nhà ngươi đã giết chết tướng giặc tên là Vương Ma Tử 26
nhát đao, nay thì phải đền trả lại mạng trước. Mười sáu người thì đi tránh chỗ
khác ắt khỏi bị giết, còn ngươi nên sắm sửa đồ ăn uống đợi đó, tối nay đúng
canh hai có người đến kêu cửa, chính là Vương Ma Tử vậy. Ông Trình rất tin nên
làm y như lời Bồ tát dạy. Đến canh hai quả có người đến la to gọi cửa, ông
Trình thung dung mở cửa nói rằng: Ông chính là Vương Ma Tử phải không? Tôi đã
sắm đồ ăn uống đợi ông từ lâu, vậy xin mời ông vào. Vương Ma Tử thấy trong nhà
đèn sáng như ban ngày, đồ ăn uống linh đình đang đợi, cho là lạ hỏi rằng:
Vì sao anh biết tôi là họ Vương? Ông Trình bày tỏ đầu đuôi sự chỉ giáo của Quán
thế âm Bồ tát trong mộng. Vương nói: Nếu quả như vậy, kiếp trước anh giết
tôi, kiếp này tôi giết anh, kiếp sau anh lại giết tôi, thế thì không biết lúc
nào mới đình chỉ? Chi bằng hai ta hòa hảo cùng nhau, may ra giải thoát được oan
khiên. Thôi anh đưa lưng lại đây tôi làm phép giả chặt anh 26 nhát để gọi là
đền nợ xưa, và xin bảo hộ toàn gia vô sự, nguyện suốt đời ăn ở tốt với nhau.Xem
thế ta biết sự cứu độ chúng sinh của Bồ tát ứng hiện đủ mọi cách không thể nghĩ
bàn được.
Đời nhà Tống tại Lâm An, có một vị tên là
Trương Công Tử, một hôm đến xem một ngôi chùa đã gần sụp, trong ấy có một pho
tượng Quán thế âm tay chân bị sứt xể, ông ta xin với vị sư ở đó đem về tu bổ để
thờ. Về sau gặp giặc ông ta nhảy xuống giếng để trốn, thấy đức Quán thế âm hiện
hình nói với ông ta: Ngươi hiện nay phải bị chết, ta không thể cứu ngươi được,
vì rằng kiếp trước ngươi đã giết một người tên là Đinh Tiểu Đại, nay y tới sẽ
giết ngươi để báo thù. Nói chưa dứt lời thì liền có một người tay cầm xà mâu
đến đứng trên giếng kêu Trương Công Tử lên. Trương Công Tử liền hỏi: Ông có
phải là Đinh Tiểu Đại không? Ông ngạc nhiên hỏi Trương Công Tử: Vì sao anh lại
biết được tên họ ta? Trương đáp: Chính là do đức Quán thế âm Bồ tát đã chỉ thị
cho tôi, tôi sẽ đem mạng cho ông. Đinh nói: Thế thì anh và tôi nên giải oan
thù, không nên kết oán nghiệp lại đời sau làm gì nữa. Hai người vui vẻ chia tay
nhau, mỗi người đi một ngả.
1.5- Ma quỷ:
Triều nhà Tùy niên hiệu Nhơn Thọ, núi
Chung Nam Sơn ở Tây An gọi là Nam
ngũ đài, trên núi có một con độc long hay biến hình thường thường hiện thân đạo
sĩ đến Tây kinh bán thuốc, tuyên bố rằng: Hễ ai uống thuốc này có thể lên trời
được. Không ngờ nó dùng phép yêu thuật bắt bao nhiêu người đem bỏ vào trong núi
để ăn thịt thật là nguy hiểm. Bỗng có một tăng sĩ không biết từ đâu đến, dựng
am tranh ở trên chóp núi. Yêu thuật của độc long từ đó không còn lộng hành nữa.
Dân chúng xa gần sùng bái rất đông! Đến năm thứ hai ngày 19 tháng 6 âm lịch, vị
tăng sĩ không bệnh mà tịch (chết). Sau khi hỏa táng, tự nhiên về hướng Đông
hiện ra một kim kiều, thiên nhân sắp hàng hai bên đánh nhạc, rải các thứ hoa
thơm ngát. Mọi người trông thấy ở trong này hiện ra trăm đạo hào quang rực rỡ
phi thường! Trên hào quang có Bồ tát hiện thân, hình tướng trang nghiêm, diện
mạo hiền từ vô cùng đẹp đẽ, đầu đội mão anh lạc, mình mặc áo kim cương, đều trông thấy rõ ràng. Giờ lâu mới ẩn vào
trong mây bạc.Ai cũng cho đó là hóa thân của đức Bồ tát Quán thế âm. Từ đó
người ta lấy ngày 19 tháng 6 Âm lịch làm ngày vía của Ngài.
Ngài Huyền Tráng pháp sư trong thời gian còn ở
Tứ Xuyên trông thấy một người bệnh, thân mình đầy cả ghẻ chốc, hôi thối không
chịu nổi. Động mối từ tâm, ngài trao cho một ít tiền, áo quần và đồ ăn. Rất lạ
là người bệnh ấy đọc thuộc lòng bài Bát nhã tâm kinh, truyền dạy lại cho pháp
sư và dặn rằng: Nếu đi đâu gặp hoạn nạn nên đọc bài kinh ấy thì khỏi. Về sau
ngài đi Ấn Độ cầu Pháp, trải qua tám vạn dặm Lưu sa hà, gặp không biết bao
nhiêu gian nan hiểm trở và vô số ma quỷ yêu quái đoanh vây, ngài chỉ niệm Tâm
kinh ấy mà đều thoát nạn. Nhờ thế ngài đạt được mục đích, đến Ấn Độ bình an vô
sự.
Tại Giang Hạ có nhà làm chay. Một em bé
gái đến xem, bỗng có một con quỷ hình thù to lớn bắt em ấy bỏ vào trong một
phòng tối đóng cửa lại. Em la hét rầm lên mà người hai bên đều không nghe thấy.
Chốc lát con quỷ dắt em bé chạy. Chạy độ một quãng đường, thoạt thấy ánh sáng
hồng chiếu đến, con quỷ sợ hãi, bỏ em bé trốn mất. Ánh sáng càng lại gần, em
trông thấy một đoàn người hộ vệ một vị cao lớn mình đeo toàn ngọc anh lạc, cất
tiếng hỏi em muốn đi về đâu và tự giới thiệu: "Ta là Nam hải đại sĩ, nên đi theo
ta." Chốc lát em thấy đi đến một chỗ đền đài lầu các lung linh tráng lệ,
không phải cảnh giới phàm trần sánh kịp. Đại sĩ cùng nhiều thị giả nói chuyện.
Trong số đó có một thị giả dắt đến một con quỷ. Đại sĩ bảo một người bận kim
giáp đuổi đi. Lại trông thấy một người đội mão vàng cúi đầu đảnh lễ đại sĩ và
thưa: "Người mẹ em bé này ăn trường trai và thờ Phật rất thành kính."
Đại sĩ nói với em bé: "Mẹ con làm lành rất đáng khen, con nên theo người
đội mão vàng này mà trở về, khi đi nên nhắm mắt lại." Em bé vâng lời nhắm
mắt đi theo người đội mũ vàng, trong nháy mắt đã đến nhà, thấy mẹ ngồi đầu
giường tay bồng một em bé giống hệt như mình. Nó bỗng mê đi rồi tỉnh lại liền
ngồi dậy bên giường mở miệng kêu mẹ! mẹ! Hỏi ra mới biết từ khi em bé đương xem
đám chay thì bị xâm ngạt nằm thiêm thiếp đã hơn một tháng nay, bây giờ mới tỉnh
lại, cả nhà rất mừng rỡ. Về sau em bé ấy lớn lên phát nguyện ăn trường trai và
thọ trì kinh Quán thế âm rất chuyên cần.
1.6- Lao tù:
Đời nhà Đường có một người tên Đổng
Hùng, ông ta làm chức Đại lý quang về triều vua Đường Thái Tôn, lúc nhỏ đã ăn
chay thờ Phật rất thành kính. Nhơn vì có hiềm khích với bạn đồng liêu, bị vu
cáo phải tống giam vào ngục. Không biết kêu cứu vào đâu, chỉ nhất tâm đọc tụng
Quán thế âm Bồ tát Phổ môn phẩm và niệm danh hiệu ngài. Rất lạ là gông xiềng tự
nhiên được cởi mở mà khóa xiềng vẫn y nguyên. Giám mục bẩm lên, ngự sử Trương
Thủ Nhất đích thân đến khám nghiệm, cho là kỳ quái, cho xiềng khóa lại rất kỹ
lưỡng. Đổng Hùng chiếu thường lệ chí thành tụng kinh, khóa xiềng lại tự nhiên
rớt xuống đất mà niêm phong vẫn như cũ. Nhờ thế được xét lại mới biết là oan,
liền được trả lại tự do.
Triều nhà Trần có một người tên là Đậu Truyền,
khi làm chức bộ binh ở Cao Xương bị Lữ Hộ bắt làm tù binh, đồng đội bảy người
đều bị giam vào ngục thất, định đến vài ngày sau sẽ đem giết. Đậu Truyền chuyên
tâm niệm danh hiệu Quán thế âm Bồ tát ba ngày đêm, xiềng xích tự nhiên được cởi
mở. Đậu Truyền nói: Cá nhân tôi tuy được nhờ đức từ bi Bồ tát cứu độ, nhưng bạn
đồng đội còn bị bắt, nỡ nào một mình thoát nạn, cầu mong Đại Sĩ rủ lòng phổ độ.
Nói xong bạn đồng đội tự nhiên cũng được tháo mở xiềng xích, cả bọn thừa lúc
đêm tối, mở cửa trốn thoát.
1.7-
Giặc cướp:
Đời nhà Ngụy có một vị xuất gia tên là
Lãng đại sư bị giặc bắt đem đi, giam tại trong vòng vây, đại sư cùng bạn đồng
học muốn trốn thoát, nhưng bốn mặt đều bị canh phòng nghiêm mật, vô lộ khả đào,
hai bên đều vách đá lởm chởm không biết mấy từng lớp, có một cây đại thọ nằm
sát ở góc thành, liền leo lên cây thòng dây tụt xuống. Đêm đã tối, dưới hồ lại
toàn gai góc chẳng biết sâu cạn, không biết để chân vào đâu mà xuống, níu dây
mà thầm nghĩ: nguy rồi vậy! Thế rồi mặc niệm danh hiệu Quán thế âm Bồ tát! Giây
lát thấy hào quang chiếu sáng. Lần tuột xuống đến đất thì thấy một con cọp to
lớn, đồng bọn hết sức sợ hãi không sao thoát khỏi miệng cọp. Đại sư nói: Chúng
ta được cứu, quyết định là nhờ oai lực của Bồ tát, cọp này chắc chắn không ăn
người, phải chăng là Bồ tát thị hiện để đem đường cho chúng ta, chúng ta cứ
theo cọp mà đi, chắc thoát được tai nạn. Lạ thay, hễ người đi chậm thì cọp cũng
đứng đợi. Trời sáng thấy được đường về thì cọp cũng biến đâu mất!
Đời nhà Minh, niên hiệu Gia Tịnh, có người
tên Hoàng Ngạn Sỹ, cùng vợ Nhan Thị gặp thời loạn ly, mỗi người chạy một ngả.
Nhan thị trốn ẩn vào chùa các ni cô, Ngạn Sỹ tìm đã ba năm không dò ra tung
tích. Một hôm đi lang thang bên cạnh một ngôi chùa trông thấy một cây dương
khô, trong cây có một cái bộng. Ông ta thò tay vào trong bộng lôi ra được một
gói vàng và một bổn phổ khuyến, tự suy nghĩ: Đây không phải là vàng rơi mà lại
là của mười phương Tam bảo. Ông ta đợi ở đó xem thử có người nào đến nhìn
không. Cách vài ngày thấy có một ni cô già đến khóc lóc than van: Ta phát
nguyện đúc một pho tượng Quán Thế âm nên đã khuyến giáo được ba ngàn lượng
vàng, vì sợ gian đạo dòm thấy nên giấu vào trong bộng cây khô này, không ngờ ai
đã lấy mất, bây giờ chỉ có nước chết để đền tội mà thôi! Hoàng Ngạn Sỹ nói: Tôi
ở đây đã hai ngày đợi người đến nhìn, nay xin y số trả lại bà. Ni cô già bái tạ
và xin mời ghé lại chùa xơi nước. Ông Hoàng theo ni cô vô chùa, đi đến cửa thì
liền thấy vợ là Nhan thị ra đón, hai người nhìn nhau chảy nước mắt kể lại sự
tình ly biệt! Kế đó có người nhà buôn nọ mời ông ta về kèm trẻ trong gia đình.
Về sau ông thi đậu làm quan lên đến chức nhị phẩm, sinh hai con, vợ chồng đều
lên thượng thọ!
2.Rèn
luyện bỏ ba chữ: Tham (lam)-Sân(nóng giận) –Si (ngu
si dốt nát):
2.1-Tham (tham
lam): Ở đời mọi tranh giành, đấu đá, giết chóc đều khởi lên từ tham lam. Người
Trung Quốc có câu: "Cùng nỗi lo thì người ta dựa cậy nhau, nhưng cùng mối
lợi, người ta cắn xé nhau".
Người Việt đã lột tả dục vọng này qua
cụm từ "chó tranh xương". Những con vật đang chơi vui vẻ, bỗng ai đó
ném cho khúc xương, thế là chúng cắn xé tranh giành nhau.Tham quyền, khiến
người ta giành giật, hất cẳng, thậm chí dùng thủ đoạn xảo quyệt triệt tiêu
nhau. Tham tiền, khiến người ta giả dối, làm hàng giả, cân điêu, gian dối, mua
rẻ bán đắt, rồi kéo hội kéo bè thanh toán nhau. Tham sắc dục, khiến người ta có
thể dùng dao, a xít, súng đạn tranh giành, đâm chém lẫn nhau vì ghen tuông, đến
mức văn hào Shakespeare đã phải la lên "phần lớn bi kịch của nhân loại
diễn ra trên giường ngủ".
2.2-Sân(nóng
giận): Người Việt nói "no mất ngon, giận mất khôn". Một khi đã mất
khôn, con người cư xử như mang bản năng bạo lực của muông thú, một câu, một chữ
cũng chẳng nhường, họ lăn vào tranh giành đấu đá lẫn nhau.Người Trung Quốc có
câu "quân tử đấu khẩu, tiểu nhân đấu nhau chân tay". Người có học hay
danh dự, một khi đã đánh mất sự kiểm so¸t của bản thân, liền cư xử như kẻ võ
biền. Còn người chỉ sống bằng cơ bắp lại càng thể hiện bản năng bạo lực mạnh
hơn. Dầu đổ thêm vào lửa, càng đẩy người ta vào thảm kịch. Nóng giận là cây cầu
bắc vào tất cả các cuộc cãi cọ hay tranh chiến của thế giới này.
2.3-Si:(ngu si): Người phương Tây có câu
"Hãy yêu như điên nhưng đừng yêu như một thằng điên". Điên tức là đã
đánh mất lý trí. Điên vì say mê cờ bạc, cay cú sát phạt, rồi đâm chém nhau.
Điên vì ma túy thì vong thân, mất danh dự, điên vì rượu thì say sỉn, đòi đánh
nhau. Điên vì tình thì thế giới đã từng chứng kiến biết bao bi kịch.LÞch sö
Trung Quèc Trụ Vương say nàng Tô Đắc Kỷ
đã đẩy cả nước Trung Quốc thời xa xưa vào các cuộc binh đao khói lửa, rồi
chính mình phải bước lên giàn thiêu. Hay như Paris cuỗm đi nàng Hê-len của Hy Lạp, mà đẩy
cả thành Tơ-roa và cuộc chiến thảm khốc chín năm dòng. Rút cục thành bị san
phẳng. Còn những người Hy Lạp chiến thắng trở về thì bị vong thân.
Đạo Phật rất đề cao nguyên lý Nhân
-Quả. Vì thế, Đức Phật cho rằng, muốn sống hòa bình với nhau, người ta phải
tiêu diệt ngay từ trong trứng dục vọng tham - sân - si, là nguån gốc khởi lên
tranh giành mâu thuẫn. Đức Phật còn dạy về nhân ngắn - quả ngắn, nhân dài - quả
dài, nghĩa là dù bất cứ lúc nào, bất cứ đâu, khi người ta làm gì thì đều gieo
nguyên nhân, hay khởi duyên nào đấy để chính nó sau này sẽ lớn lên thành kết
quả, dành cho người đã gieo. Vì thế dù làm gì người ta không nên gieo nhân xấu
để gặp quả xấu, mà nên gieo nhân tôt để hái quả tôt lành.
Người ta nên gieo nhân lành hái quả thiện. Bởi vì thiện giả thiện lai.
Chớ nên gieo nhân xấu hái quả ác, vì ác giả ác báo. Người Trung Quốc có phương
ngôn mô tả nguyên lý nhân quả như: "Giúp người nấu cơm thì được ăn, giúp
người đánh nhau thì chảy máu". Vậy đó người ta nên giúp người tốt làm việc
thiện để gặp sự tèt đẹp , chớ nên giúp kẻ xấu làm việc ác mà mang họa vào thân.
hơn thế Đức Phật chỉ dẫn sống theo Tứ diệu đế:
1-Khổ đế: Nhận thức được nỗi khổ luân hồi
của kiếp người.
2-Tập đế: Luyện tập việc tiêu trừ các dục
vọng tham sân si
3-Diệt đế: Tiêu trừ triệt để hơn những
dục vọng đó
4-Đạo đế: Duy trì khổ luyện để biến con
đường tu trì thành chân lý của đạo, diệt khổ, cứu khổ, cứu nạn cho mình và mọi
chúng sinh.
Đạo Phật có hai nhánh chính: Tiểu thừa và Đại Thừa.
Tiểu thừa: giúp đưa con người đến Tự Giác Ngộ. Đại Thừa: giúp đưa con người đến
Giác Tha. Nghĩa là sau khi đã tự giác ngộ mình, người ta phải tiến đến giác ngộ
cho người khác.
3-
Một số chuyện có thật được Phật cứu
3.1-Chiếc
thuyền giữa biển cả: Câu
chuyện linh cảm kể lại sau đây là đã nghe chính ngài trụ trì chùa Huyền Tôn ở
làng Thạnh Mỹ Lợi tỉnh Gia Định thuật lại:Ông Brillant, người Nam nhập Pháp
tịch có một bà mẹ rất tin sùng đạo Phật, thường ngày được mẹ đem những điều
hiểu biết về giáo lý và nhất là sự linh cảm của đức Quán thế âm giảng dạy cho.
Nhờ đó, ông thường niệm danh hiệu ngài những lúc lâm nguy và đều được như ý.
Lớn lên ông đi lính và năm
1940, ông được đóng lon thiếu úy Thủy phi thuyền.Một hôm ông cùng đại úy
Touppant và trung úy Letournad, ba người ngồi phi thuyền ra đảo Côn Lôn. Lúc
trở về vì hỏng máy, bị rơi xuống biển và giữa sóng to gió lớn, chiếc phi thuyền
chồm lên ngụp xuống. Có một điều lạ là chỉ chực chìm mà chưa chìm. Trong lúc
hai ông kia đành chờ chết thì thiếu úy Brillant nhất tâm cầu nguyện đức Quán
thế âm Bồ tát. Chiếc phi thuyền vẫn lững lờ trôi trong hai tiếng đồng hồ, thì
gặp chiếc tàu đánh cá của người Nhật đi đến dòng dây xuống kéo họ lên. Vừa lên
được trên tàu, ngoảnh lại nhìn thì chiếc phi thuyền đã chìm dần xuống bể sâu.
Tất cả mọi người trên tàu cho đến hai ông trung úy Letournad và đại úy Touppant
đều ngạc nhiên cho sự lạ ấy: Vì từ nãy đến giờ sao nó không chìm. Lúc đó thiếu
úy Brillant mới kể lại lời cầu nguyện của ông ta và mọi người đều cho rằng họ
thoát khỏi tai nạn là nhờ sự linh cảm của đức Quán thế âm Bồ tát.
Từ đó, đại úy Touppant
cũng trở thành một Phật tử thuần thành, và để tỏ lòng ghi ơn, ông đã lập nên
một chùa nhỏ thờ Phật tại xóm Cát Lái, làng Thạnh Mỹ Lợi tỉnh Gia Định, và ông
thường đích thân đến làm lễ.Lê Trí An (Biên Hòa).
3.2-Người dân chài Xóm
Tấn:
Chuyện xảy ra tại xóm Tấn, cửa biển Quy
Nhơn vào năm 1944. Vào độ tháng ba tiết trời bình lặng nên có mười chiếc ghe ra
đánh cá ngoài khơi. Thình lình trời trở tố, bao nhiêu ghe đều theo sóng biển mà
không về. Trong xóm nhà nào nhà nấy đều khóc rân và phát tang cả.
Thình lình mười ngày sau,
hai anh Trần Tố và Lê Bá Cảnh cùng tất cả trai bạn trong ghe trở về làm trong
nhà mừng quá đỗi. Bà con xúm lại hỏi chuyện thì các anh kể lại như sau:
"Khi trời nổi gió,
tất cả các ghe đều không kịp trở tay, ngó chung quanh thì mấy ghe kia đều mất
dạng cả, phần các anh cũng khó phương cứu thoát. Hai anh sực nhớ lại mới đồng
chấp tay niệm danh hiệu đức Quán thế âm, cứ như thế ghe trôi đi xa, người trong
ghe mê man cả, lúc tỉnh dậy thấy mình nằm trên bãi bể Nha Trang. Người trong
làng chạy ra dìu họ vô, nấu cháo cho ăn. Và sau khi rõ chuyện, giúp cho họ tiền
tàu để trở về làng."
Hồi đó, tôi là một hội viên của Phật học
Quy Nhơn ở gần xóm Tấn, nên được thấy và nghe rõ câu chuyện này. Các đạo hữu kể
trên, hiện còn ở trong xóm có thể làm chứng cho câu chuyện tôi vừa kể.Nguyễn
Văn Đảo, hiện ở Khuôn Hội, Thuận Lập, Đà Nẵng.
3.3 -Bà Lão:
Năm năm trước, tôi đã đau bàn tay rất lạ
kỳ. Trước hết nó mọc lên nhiều mụt nhỏ li ti, mụt sinh ra rất mau, kết liên lại
làm mủ, ăn phồng da lên, ăn mé vào thịt đau như dùi châm, ngứa hơn ráy chà, đêm
như ngày xói vào da thịt, khó chịu hết nổi, làm cho tôi chỉ ngồi ôm tay mà
khóc. Xức thuốc và tiêm kim rất nhiều vẫn không hiệu quả.
Tôi nhớ lại hôm đó là mồng
8 tháng 9 Âm lịch, tôi ôm tay ngồi trước bàn Phật, tính nhẩm lại còn mười ngày
nữa là vía đức Quán thế âm, mình đau tay như thế này, lấy ai mà lo sắp đặt dọn
dẹp để làm lễ. Mắt tôi nhìn lên tượng Ngài, miệng lâm râm cầu nguyện Ngài rủ
lòng độ trì cho tai qua nạn khỏi, hoặc gặp thầy hay thuốc tốt cho được mau
lành.
Vào khoảng chiều hôm đó,
trong lúc tôi đang ngồi ôm tay buồn bã, thì một bà lão ăn mày tướng mạo phương
phi bước vào cất tiếng hỏi tôi: Bà khóc vì đau tay phải không? Cho tôi
xem ra sao? Tôi đưa tay cho bà xem và nhờ bà cho biết thuốc chi hãy chỉ giùm.
Bà coi xong bày cho tôi bài thuốc sau: Lấy lá tràm và lá chổi rành nấu lên rồi
ngâm tay vào rửa cho thật sạch, lấy một ít bồ hóng nghiền cho mịn, xức trong ba
ngày, mỗi ngày ba bận là lành. Theo lời bà, tôi nhờ người làm và xức ngay tối
hôm đó, thì rất may là bớt nhức, ngủ được. Sáng ngày thấy bớt được đôi ba phần.
Liên tiếp trong ba ngày chỗ lở khô như vỏ cau khô, ở trong có lớp da non đỏ
lói. Đến ngày vía, tôi đã tự mình sắp đặt làm lễ được. Có điều rất lạ là sau
hôm đó, tôi và người nhà đã cố công tìm bà lão để tạ ơn, nhưng tìm khắp nơi mà
vẫn không gặp được.
Bàn tay tôi không đau lại
nữa, và bài thuốc trên tôi bày cho nhiều người đau tương tợ nhờ ơn Phật đều
được lành cả.(Bà Minh Hạnh, Huế).
3.4-Nhiệm màu:
Cùng trong thời kỳ kháng chiến, một ông
quận trưởng tại tỉnh Thừa Thiên, một Phật tử thuần thành am tường Phật pháp,
nhân một cuộc đi bố ráp, bị thương ở sau mông bởi một mảnh lựu đạn của địch.
Được đưa vào cấp cứu tại bệnh viện Huế, mặc dầu có sự săn sóc tận tụy của bác
sĩ, máu ở vết thương vẫn rỉ rả chảy mãi không cầm (có loại máu không thuốc gì
cầm chảy được một khi bị thương tích, ai bị bịnh này phải chịu chết). Biết sức
người không sao cứu khỏi, ông chỉ mong ở hạnh từ bi của đức Quán thế âm, một là
cứu cho khỏi bệnh, hai là nếu đã tận số thì tiếp dẫn cho về cõi cực lạc nên ông
thành tâm tinh tấn niệm danh hiệu Ngài.
Một đêm đang mơ màng, ông
thấy dạng một người đàn bà mặc đồ trắng, mở cửa phòng bước vào và nhẹ nhàng đi
ra, sau khi đưa tay thoa vết thương. Giật mình tỉnh dậy, ông hỏi bà vợ nằm bên
cạnh đấy có thấy bóng người vào không, thì bà ta nói có thoáng thấy một người
đàn bà vào và tưởng là y tá đến trông nom bệnh nhân.
Ngạc nhiên và sung sướng
thay, ông ta đưa tay vào vết thương, thấy máu ướm khô, và từ đấy vết thương
lành dần rồi khỏi hẳn.(Bùi Cúc, Nha Trang).
3.5-Bà Mẹ:
Từ mùa
Đông năm Nhâm thìn, tôi bắt đầu suy nghiệm về bốn lời dạy của ông Viên Liễu
Phàm và bài Du công tịnh ý. Tôi thấy được việc đời đều do nhân duyên mà tạo
thành; và tự ta, gây nghiệp tốt xấu cho ta.
Đến mùa Đông năm Quý tỵ,
tôi vui lòng ăn năn tội lỗi. Tôi sốt sắng giúp đỡ cho bà con xóm giềng nghèo
khổ, và hằng ngày, tôi quỳ tụng kinh chú đức Quán thế âm để cầu cho mẹ tôi sống
lâu.
Nhưng một hôm kia, bệnh
hỏa đàm trước đây của mẹ tôi phát ra nặng hơn những lần trước. Mẹ tôi cũng tin
Phật lắm, bèn gọi tôi đến bảo:
Bệnh ta trở đi trở lại đã
ba mươi mốt năm rồi, thuốc thang không lành. Nay con chuyên chú đọc kinh mà
bệnh mẹ lại nặng hơn thì là mẹ già bạc phước, nghiệp chướng nặng nề nên không
thọ cảm được, con ạ!
Tôi cảm động quá. Tôi nghĩ
rằng tất cả căn nguyên đều do tôi chưa thành tâm mấy nên vọng niệm chưa trừ mà
thôi. Tôi an ủi mẹ rồi tôi đốt hương giữa trời quỳ niệm với tất cả chí thành.
Tôi phát tâm làm mọi việc lành với hết lòng cầu nguyện đức Quán thế âm cứu mẹ
tôi mau lành. Khi đứng dậy thì thấy đầu gối tôi rơm rớm máu mà tôi chẳng biết
đau tí nào.
Hai ngày sau mẹ tôi đã
khỏe và đòi ăn cháo. Tôi mừng lắm. Hôm ấy tôi nằm mộng thấy một vị Đạo sĩ vào
nhà bảo mẹ tôi ngồi dậy và cho uống một chén nước màu xanh. Mẹ tôi uống hết
chén nước thì thấy tươi tỉnh hẳn, cám ơn Đạo sĩ vô cùng.Sáng ấy, bệnh mẹ tôi
giảm đi phân nửa và ba bốn hôm sau thì lành hẳn. Và cái cố tật của hơn ba mươi
năm về trước không còn thấy trở lại.
Điều cảm ứng trên khiến
tôi càng tin đạo nhiệm mầu. Tôi lại càng thành tâm tiếp tục tu niệm và ăn ở
theo đường lành.(Lưu Sơn Anh, người Trung Hoa).
3.6 -Ánh sáng lại về:
Đời nhà Thanh ông Đinh Truyền có người bà
tên Khổng Thái Quân bị bệnh mù mắt đã hơn hai chục năm trời, chưa phương gì
chữa khỏi.
Một ngày, vào khoảng
đầu xuân năm Nhâm tý hình như cái đau đớn khổ sở vì sự không trông thấy gì của
mình đã lên đến độ không thể kìm hãm chịu đựng được nữa, bà Thái Quân mới kêu
cháu lại gần mà than rằng: Giá gì đôi mắt ta được hé sáng trong chốc lát, chỉ
chốc lát thôi thì nguyện vọng của thân già này cũng đủ để thoải mái lắm rồi.
Thông cảm tâm sự u buồn của bà, ông Đinh Truyền chỉ còn biết âm thầm thất vọng
nhìn bà. Bỗng một ý nghĩ đột nhiên đến, Đinh Truyền bèn vui vẻ thưa rằng: Kính
thưa bà, đức Quán thế âm là đấng mẹ hiền cứu khổ, ai nhứt tâm trì tụng cầu
nguyện lên Ngài, chắc tâm thành sẽ linh ứng. Vậy theo ý con, từ nay đêm ngày bà
nên chịu khó chuyên tụng thánh hiệu Đại bi Quán thế âm Bồ tát, niệm thánh hiệu
thôi cũng đủ rồi bà ạ! Vì chú thì dài nhiều câu khó thuộc. Biết đâu ánh sáng
lại chẳng trở về trong đôi mắt đẹp thuở xưa của bà. Tin tưởng ở lời khuyên của cháu,
từ đấy Thái Quân ngày đêm tu niệm bảy chữ: Đại bi Quán thế âm Bồ tát, không
nghỉ. Chưa đầy một tháng sau, một con mắt bà bắt đầu hé mí trông rõ bàn tay.
Được nhìn cảnh con cháu quây quần vui sống, bà không khỏi thầm biết ơn đấng từ
bi cứu khổ, nguyện phát thệ tu hành cố gắng noi theo gương sáng của Ngài, giúp
đỡ kẻ bần hàn đói rách.
4- Các phương pháp tu (tu tại nhà, tu ở chùa)
Với tất cả mọi người; Đi tu thì phải ăn chay; tại sao phải ăn chay và ăn
chay như thế nào? Bản thân phật tổ Thích Ca Mâu Ni khi mới đi tu Ngài chưa ăn
chay mà cũng ăn mặn. Nhưng ăn mặn của Ngài rất khác chúng ta bây giờ; Ngài ăn
mặn theo phương pháp ngũ tịnh nhục (ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt được coi là
thanh tịnh, gồm: thịt mình ăn mà không nhìn thấy co vật bị giết; Thịt mình ăn
mà tai không nghe thấy con vật bị giết kêu la; Thịt mình ăn mà mình chắc chắn
là không phải do người ta đã làm để đãi mình; thịt của loài vật đã chết (không
phải do chết bệnh hoặc chết dịch); Thịt do con thú khác ăn còn thừa. Và một
thời gian sau thì Ngài mới ăn chay và các đẹ tử khác cũng học ngài ăn chay.
Phật tổ giải thích về ăn chay theo 3 lý do như sau:
+Một là, vì lòng từ
bi bác ái và bình đẳng. Vạn vật đều có Phật tính (tấm lòng nhân từ, độ lượng,
biết phải, trái...), do loài người là động vật cao cấp và thông minh, hiểu biết
hơn hẳn không nên bắt các loài khác hy sinh để nuôi dưỡng mình.
+Hai là, ăn chay để
tránh quả báo luân hồi. Vì ăn mặn mãi sẽ không thoát tội hiếu sát, nợ máu sẽ
không cách gì trả hết được.
+Ba là, an chay là
cách hợp vệ sinh nhất, tránh được những độc hại có thể từ thịt của các loài
động vật truyền sang con người.
Tại Việt Nam, ngoài
các nhà tu hành theo đạo Phật là ăn chay trường, có người ăn một vài bữa của
tháng, có người ăn vài tháng trong năm; tuy lý do khác nhau nhưng lý do chính
cũng là tránh sát sinh động vật. Từ những suy nghĩ khác nhau, song lý do gì
chăng nữa ăn chay cũng là một nét đẹp của dân tộc Việt đều hướng về cõi Phật.
Theo quan niệm dân gian của người
Việt Nam chúng ta, khi nói đến ăn chay là ăn những chất thanh tịnh, không ăn
thịt cá và các thứ cay nồng thuộc loại ngũ vị tân (hành, hẹ, tỏi, kiệu và hưng
cừ). Nếu dùng cá thịt và ngũ vị tân, người ta gọi là ăn mặn. Nhưng thật ra, chữ
"chay" nguyên thủy vốn là chữ “trai”, có nghĩa là thanh tịnh.
Chữ Trai còn có nghĩa là thời thực, tức là ăn trước giờ Ngọ, nếu ăn quá
ngọ gọi là phi thời thực. Thời đại Phật giáo Nguyên Thủy và thời đại Bộ phái
Phật giáo, Trai thực là chỉ bữa ăn trước giờ Ngọ. Thời đại Phật giáo Phát triển
tức Phật giáo Bắc truyền hay Phật giáo Bắc tông, phát khởi từ ý tưởng từ bi
không giết hại sinh mạng chúng sinh, Trai thực chuyển sang nghĩa Tố thực. Tố
thực nghĩa là không ăn thịt. Giờ đây nói ăn chay, trì trai là theo nghĩa
này.Đối nghịch với chữ ăn chay là ăn mặn. Ăn mặn ở đây không có nghĩa là ăn
muối nhiều mà là "ăn mạng" để chỉ sự ăn sinh mạng các loài động vật.
Lâu ngày người ta nói trại ra thành ăn mặn, hay cũng là để tránh chữ ăn mạng
(chúng sinh), nghe không được thoải mái.
Tại sao chúng ta ăn chay ? Thế nào là ăn uống
đúng cách? Hợp tự nhiên? Chẳng hạn, con voi sinh ra để ăn cỏ là hợp tự nhiên;
con cọp sinh ra để ăn thịt là hợp tự nhiên.
Chúng ta hãy thử xét xem con người sinh
ra để ăn gì?
*Trước
hết là bộ răng. Bộ răng người không giống bộ răng các loài ăn thịt mà giống các
loài ăn rau, cỏ, hoa, quả và củ.
*Loài
ăn thịt đổ mồ hôi bằng lưỡi. Thế cho nên, trời nực ta thấy cọp hay chó thè lưỡi
ra, mồ hôi (chứ không phải nước miếng) chảy ròng ròng; trái lại con người cũng
như các loài ăn rau cỏ đổ mồ hôi ở ngoài da bằng các lỗ chân lông.
*Ruột
loài ăn thịt chỉ dài gấp 3 lần chiều dài của nó, ví dụ một con cọp dài một
thước thì ruột nó dài 3 thước; còn loài ăn rau cỏ thì ruột dài 10 đến 12 lần
chiều dài, như một con trâu dài 1 thước thì ruột nó dài tới 12 thước. Ruộc con
người trung bình dài 18 thước. Về điểm này tạo hóa rất chí lý. Thịt mau hư thúi
nên có thể bài tiết từ từ đặng hút hết các chất bổ.
*Nồng
độ át xít trong bao tử loài ăn thịt mạnh gấp mười nồng độ át xít trong bao tử
loài ăn rau cỏ. Ðiều này cũng dễ hiểu ý Tạo Hóa vì thịt khó tiêu hơn rau cỏ.
Nồng độ át xít trong bao tử con người cho ta thấy con người thuộc loài ăn rau
cỏ. Bởi vậy, khi ăn nhiều thịt cá ta thường có cảm giác anh ách nặng nề, nếu
thái quá có thể bị bội thực.
Tóm lại, con người sinh ra không phải
để ăn thịt thì ăn chay là hợp tự nhiên, và sẽ giúp chúng ta khoẻ mạnh và sống
lâu. Ðông Tây kim cổ có bao giờ nghe nói đến tiên ông hay tiên bà trường sinh
bất tử nào mà ăn thịt bò tái hoặc thịt chó nấu rượu mận đâu? Chỉ thấy nói đến
họ ăn trái cây thôi!Ngoài lý do sức khỏe còn các lý do khác tại sao ta nên ăn
chay.
+Lý
do tâm linh: để mở rộng tình thương bao trùm một cách bình đẳng cả muôn sinh
muôn vật, để tránh luật nhân quả gieo gì gặt nấy, hầu loài người phải giết nhau
tập thể bằng những phương pháp tối tân như người ta đang sát sinh tập thể hàng
triệu con vật mỗi ngày bằng những phương pháp tối tân.
+Lý
do xã hội: để giải quyết nạn đói cho toàn thể nhân loại, vì các nhà dinh dưỡng
học đã khẳng định rằng đối với con người (ăn thịt là một tập quán chứ không
phải một nhu cầu của cơ thể . Muốn có 1 kg thịt phải đổi bằng 10 kg ngũ cốc: do đó số ngũ cốc vì nuôi các con vật
để làm thịt cho một dân tộc Mỹ ăn thôi
cũng đủ để nuôi 1/3 dân số thế giới.
Có
điều ăn chay cho đủ bổ dưỡng và thỏa mãn cái thói quen ăn thịt đã thâm căn cố
để bao ngàn năm nay hiện vẫn còn tốn tiền hơn ăn mặn. Nhưng càng nhiều người ăn
chay thì các công nghệ sản xuất thực phẩm chay càng có thể bán rẻ hơn, cho tới
khi ăn chay sẽ rẻ hơn ăn thịt vì nguyên liệu đồ chay vốn rẻ hơn thịt trên căn
bản. Dầu sao với mỗi đồng ăn chay tốn hơn ăn mặn thì tiền bác sĩ, tiền dược
phẩm và tiền bệnh viện sẽ đỡ tốn hơn 100 đồng. Ấy là không kể sự khoan khoái
khi khỏe mạnh và sự khổ đau khi ốm yếu là những cái vô giá không thể tính ra
thành tiền. Hãy thử ăn chay, thì sẽ thấy rằng
đó là một trong những quyết định khôn ngoan nhất của đời mình.( Việt
Chí Nhân )
Như vậy có thể thấy, Phật tử đã học tu
thì phải ăn chay. Thấm nhuần đạo lý ấy, Tổ tiên chúng ta thường dạy con cháu:
“Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”.
4.1- Tu tại nhà: Người Phật tử tu điều gì ?
Để giải quyết câu hỏi này, chúng ta
cần trả lời câu hỏi tại sao chúng ta muốn trở thành Phật tử?Sau khi trở thành phật tử, người phật
tử phải sống ra sao để an lạc, hạnh phúc? Việc giữ giới có khó không? Làm sao
để giữ giới tốt mà không cảm thấy đó là những điều bắt buộc quá khó hay không
thiết thực? Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta phải trở về với những điểm
thiết thực cần thảo luận để làm rõ vấn đề. Đó là mục đích tu Phật và động cơ tu
hành.
Với vấn đề mục đích tu hành, chúng ta
phải biết vì sao chúng ta muốn tu hµnh. Có nhiều động cơ khác nhau dẫn người ta
đến đạo Phật, mỗi người có một hoàn cảnh, một duyên nghiệp khác nhau khiến
chúng ta tìm đến đạo Phật. Đạo là gì? Là con đường hay cách sống để có được một
đời sống tốt đẹp, an toàn và hạnh phúc hơn. Giác ngộ chính là thấy bản chất của cuộc sống vốn tiềm ẩn một cái gì
đó không ổn định và không đem đến sự thỏa mãn tuyệt đối. Sự không thỏa mãn này
tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thô tới tinh. Ở những nước kém phát
triển, điều này dễ nhận thấy,những nạn nhân
thiếu hụt lương thực, đói, khát, nóng, lạnh, thiên tai, chết chóc, chiến
tranh ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là những tồn tại dễ thấy nhất của khổ. Việc
tu thường bắt đắu từ một sự nhận thức hay kinh nghiệm nào đó khiến người ta
phải thay đổi cách sống và cách nhìn nhận về con nguời và cuộc đời. Sự kiện
nàycó thể đến từ một cú sốc nào đó trong các mối quan hệ, cũng có thể nó đến từ
một sự mất mát lớn lao khiến người ta cảm thấy hụt hẫng trong cuộc sống khiến
họ thấy khổ, nó cũng có thể là một người suy nghĩ về tính chất vô thường giả
tạm của đời sống qua những gặp gỡ tiếp xúc và chiêm nghiệm. Nhưng thấy khổ cũng chưa đủ để người ta vượt qua chúng,
người ta cần phải hiểu chính mình qua các mối quan hệ và các sự kiện xẩy ra
trong đời sống. Như vậy, đến giai đoạn cuối, tu là tõ bỏ, bắt đầu tõ bỏ cái
ác khiến mình và người đau khổ, tõ bỏ
các định kiến và các thói quen không lành mạnh đã có trước đây, cho đến từ bỏ
cả pháp môn đã từng thu được trong một giai đoạn nào đó trên con đường đi. Phải
biết rằng Pháp Phật như những liều thuốc chữa bệnh cho chúng sinh, khi bệnh hết
thì không cần phải uống thuốc đó nữa.
Như mọi người đều biết một con người
từ khi lọt lòng cho mẹ sinh ra đến khi
trở về với đất trải qua các giai đoạn: Tuổi sơ sinh => Thiếu niên =>
Trung niên => Lão (già) => Bệnh => Chết. Giai đoạn lớn nhất là từ :
Trung niên => Lão; Giai đoạn ngắn nhất là : Bệnh=> Chết. Chia ra: Giai
đoạn thứ nhất: Tuổi trẻ khoảng 20-25 năm; Giai đoạn thứ hai: Tuổi trưởng thành
và cống hiến nhiều nhất là 40 đến 50 năm; Giai đoạn thứ ba: tuổi ngắn nhất là
10 đến 15 năm. Con người phấn đấu làm sao để giai đoạn thứ hai dài ra; Giai
đoạn tuổi trẻ của con người có nhiều công lao nhất với cuộc sống đã dần đi qua
và đã đi qua; Tiếp đến giai đoạn tuổi già đang đi đến. Cái tuổi trẻ đang hăng
say và đầy nhiệt huyết công có và tội có ;cái tuổi mà con người lo cho cuộc
sống ồn ào náo nhiệt, chỉ lo cho sự mưu sinh của cuộc sống. Đến nay tuổi già
đang đến ta thấy trên đầu đã có tóc bạc, ngày càng bạc nhiều đi; tuổi ta đã già
rồi. Tai ta chúng ta nghe đã khó, nghe kém. Mắt chúng ta thấy mờ phải đeo kính
lão, bây giờ là 4 mắt. Chúng ta đi thấy “chùng chân mỏi gôi”; Lưng thấy mỏi
thấy đau “ Lưng đau, nhức xương”. Ngủ đêm thấy khó ngủ, trằn trọc; Ăn thì ít đi
và trong thân ta xuất hiện ngày càng nhiều bệnh kinh niên. Nói về tuôỉ già thủ tướng Chu Dung Cơ (Trung Quốc) nói :
“ Qua một ngày mất một ngày;
Qua một ngày vui một ngày;
Vui một ngày lãi một
ngày;
Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm
vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm
lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng”.
Vậy tu tại nhà là tu gì? Trước tiên là sửa đổi
ngay trong gia đình, phải biết Phật hóa trong gia đình, phải có đại gia đình là
bà con dòng họ nội,ngoại xa, gần; có tiểu gia đình là gồm: vợ, con, cha, mẹ
đang sống trong một nhà. Vì gia đình là nền tảng của người tu phật (đệ tử) mà
trước hết, chúng ta phải biết: “ Tu thân, tu tâm” lấy 3 pháp quy y(Phật- Pháp- Tăng) và 5 giới cấm làm căn bản mà đức
Phật đã dạy: “Bể khổ mênh mông phải nương về Tam Bảo, muốn thoát khỏi sinh, tử,
luân hồi không thể bỏ qua sự thọ trì
phép giới”. Vì “Giới là thuyền tự đưa người ra bể khổ/ Giới là đất bằng muôn
vật mà từ đó sinh ra/ Giới là ngọn đèn sáng chiếu phá mọi tăm tối / Giới là con
đường tắt đưa đến cõi Nhân- Thiên/ Giới là cửa ngõ đưa đến cảnh niết bàn an
lạc”. Con người muốn dứt bỏ mọi khổ đau,
hưởng hạnh phúc an vui thì phải tự sám hồi và ăn năn, tự thú tội lỗi đã làm
nguyện- chừa bỏ những thói hư tật xấu, không tái phạm, ví như chứa vị cam lồ
thì phải xúc bình cho sạch sẽ. Phải có ý thức tự tôn: Mình là người theo đạo
phật, mình phải đặc biệt hơn người khác đó là ý thức tự trọng. Phải tự hào: đi
theo đạo Phật là mình có nhân duyên với Phật và là phước duyên nhiều đời, nhiều
kiếp. Phải thật hiểu về đức Phật: Phải hiểu Đức Phật – Vị bổn sư của chúng ta
là một nhà đại cách mạng đúng nghĩa và cách mạng triệt để. Ngài không thừa nhận
mọi bất công và áp bức, đã đi tìm và đã tìm thấy con đường và tự giải thoát cho
mình và cho bao thế hệ bằng sức cho chính mình, ngài đã chỉ ra con đường đi cho
phật tử tránh u mê tăm tối và điểm đến là cõi niết bàn, chính tư tưởng đó đã
xây dựng nên đạo phật. Tư tưởng của Phật chính là Phật chất trong mỗi chúng ta,
luôn cần được nuôi dưỡng, trau dồi và làm cho tỏa sáng. Nên nói đạo Phật
là đạo giác ngộ.
Cho nên đạo Phật không khó khăn gì. Đó là học, làm
theo mẫu của Phật, mẫu của các vị bồ tát: Rèn luyện bỏ Tham- Sân- Si, rèn luyện
ngũ giới ( không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dôi và
không uống rượu say sưa). Làm thật nhiều
điều thiện, đức (giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn cơ nhỡ, thiên tai, bão
lũ, công đức xây dựng đến, chùa, công
đức in kinh, sách Phật, không cầm tù muông thú như thả phóng sinh những động
vật quý hiếm vào rừng thả chim về với thiên nhiên…) Xây dựng cho mỗi người sống
có đạo vị và đạo tình. Đạo vị:là phải tụng kinh. Niệm phật tại gia (có điều
kiện ở chùa là tốt), sám hối. Đạo tình: đạo tâm, thể hiện bằng hành động. Đó là
đạo hạnh. Đạo sẽ tỏa sáng, giống như những vòng tròn sẽ tỏa rộng ra, giúp mọi
người noi theo.Đồng thời cần phải bỏ những thói hư tật xấu của mình; trong mọi
nơi mọi chỗ. Như nhưng người làm nghề tiểu thương phải có cái “Tâm” trong kinh
doanh buôn bán, thì đúng giá, không cân sai, thách cao… Phải tránh tư tưởng cầu
an, phải thấy nhượng điểm của mình để sửa chữa. Mỗi ngày cần bỏ ra 6 phút, chia
làm 2 thời để tu Phật. Trước khi đi ngủ 3 phút, khi thức dây 3 phút, ngồi yên,
nhớ lại mình đã tu, đã là đệ tử là con của phật tử, ngày hôm nay mình đã nói,
làm, nghĩ cái gì sai phạm đến 5 giới cấm đồng thời đã làm được việc gì có ích
cho bản thân, gia đình, xã hội; nếu có tự sám hối và hứa sẽ sửa chữa và sống
tốt hơn. Đã tu phật là phải tập ăn chay, ăn chay là chỉ ăn rau, quả, củ, tập ăn
ít cá, cá nuôi đi hay không ăn chay hay không ăn thịt động vật quý hiếm. Ăn
chay có lợi: Thực hành hạnh từ bi; Không vay nợ máu chúng sinh; thanh tịnh thân
tâm;hợp vệ sinh, giảm phiền não, tiết kiệm kinh tế, phát triển trí tuệ, được
các thien thần phù hộ .
Khi mới tập ăn chay nên ăn chay như sau:
+Ăn chay nhị trai: 1 tháng 2 ngày: 01 và 15
Khi đã quen rồi
+Ăn chay Tứ trai: 1 tháng 4 ngày:01,15, 30 và 14.
Ăn chay trường:
+Thập trai: 1 tháng 10 ngày:
01,8,14,15,18,23,24,28,29,30
4.2.Tu tại
chùa:
Trước hết người tu hành phải hiểu về Phật- Pháp- Tăng
là gì? Con đường sinh tử luân hồi đã nhấn chìm chúng ta trong nhiều kiếp si mê
lầm lạc nay gặp được Phật có đạo vàng để cho chúng sinh nương tựa vào; nên
chúng , ta phải hiểu về Tam Bảo và quy y Tam Bảo. Tam Bảo là 3 ngôi báu:
-Phật Bảo: Là đấng giác ngộ hoàn toàn, là vị đạo của
10 phương pháp giới, Phật là bảo hiệu cho tất cả các bậc đã tu hành giác ngộ.
-Pháp Bảo: là khuôn phép, là những lời phật dậy được
ghi thành sách kinh, luật. (Kinh là những lời của Đức Phật Thích Ca đã nói khi
còn tại thế để dạy chúng sinh dứt bỏ phiền não và đạt kết quả niết bàn; Luật là
những giới luật mà Phật đã răn các đệ tử; Luận là những sách phần nhiều do các
đệ tử Phật làm ra để giải thích rõ rang nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật
hoặc phân biệt các lẽ phải của chính đạo hay
tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm).
-Tăng Bảo: Là một tập thể sống, tu, học, thực hành
pháp luật và thay Phật hoằng hóa, tuyên truyền chánh pháp, hướng dẫn chúng sinh
tu theo Pháp phật. Theo quy định phải có từ 4 vị tỳ kheo trở lên, phải sống
theo phép Lục Hòa mới được gọi là Tăng.
Những
người đã xuất gia tu hành tại chùa: Là sám hối, niệm Phật, tụng kinh. Như người
tu hành bây giờ, thật tình chỉ hiểu Phật
pháp, chỉ tu để tâm được yên tịnh và chỉ dẫn lại cho quí Phật tử cùng tu. Chứ
cũng đâu có quyền cho Phật tử được hết bệnh, đâu có quyền cho Phật tử gặp cảnh
khổ được hết khổ. Chỉ giảng dạy lời Phật cho quí Phật tử hiểu, ứng dụng, dẹp
hết các phiền não, đó là Phật tử tu. Nếu tu được thì phiền não sạch.
Nghĩ kỹ, chúng ta là Phật tử tức là
con của Phật. Phật là bậc giác ngộ mà con của Phật có giác ngộ chưa? Nếu không
giác ngộ trăm phần trăm như Phật, thì ít ra chúng ta cũng giác ngộ được một
phần trăm, tí xíu thôi. Phật trăm phần, chúng ta được một phần cũng tạm gọi là
coma n của Phật. Chứ Phật thì trọn vẹn còn mình thì không có chút nào, làm sao
gọi là con Phật. Cái giác ngộ nhỏ nhất, gần nhất là giác ngộ được lý nhân quả.
Ðức Phật dạy, tất cả chúng ta muốn được quả lành thì phải gieo nhân lành. Chúng
ta muốn quả dữ, quả ác thì gieo nhân ác. Nhân lành sẽ đưa đến quả lành, nhân ác
sẽ đưa đến ìlàm thế được. Phật dạy rất thực tế. Chúng ta là Phật tử hiểu Phật
pháp thì phải thực hành theo lời Phật. Chúng ta muốn làm ăn khá thì chúng ta
phải biết ăn ở tốt với mọi người, xử sự công bằng với mọi người. Trong cuộc sống
chúng ta đừng giành phần hơn về mình mà luôn luôn biết nhường nhịn nhau. Nhờ có
phúc chúng ta làm ăn mới tốt. Người không chịu thực hành như vậy, cứ đi vay chỗ
này, xin chỗ kia, rốt cuộc không được gì hết mà chỉ chuốc khổ. Hiện tại không
được mà tương lai cũng không có chút phúc đức nào. Nên Phật tử phải tin tưởng đức Phật là một vị đã
giác ngộ, chỉ cho chúng ta những lẽ thật trong cuộc đời để chúng ta ứng dụng
tu, ứng dụng thực hành thì chúng ta sẽ đạt kết quả tốt. Khi làm lễ qui y cho một số Phật tử. Trong lễ qui
y có những vấn đề mới nghe Phật tử thấy
hơi lạ một chút. Như nói rằng, qui y Phật rồi không bị nhèt địa ngục, qui y
Pháp rồi không bị sinh thành ngạ quỉ, qui y Tăng rồi không bị sinh thành súc sinh. Phật nói ba đường khổ là địa ngục,
ngạ quỉ, súc sinh. Nếu qui y Phật rồi khỏi rơi vào địa ngục, qui y Pháp rồi
khỏi rơi vào ngạ quỉ, qui y Tăng rồi khỏi rơi vào súc sinh. Nếu qui y là chỉ
hứa suông thôi mà thành công liền thì dễ quá!
Giải thích thứ tự:Như chúng ta đã biết Phật là bậc giác ngộ sáng suốt.
Qui y Phật tức là trở về con đường sáng suốt. Trở về con đường sáng suốt thì
chúng ta không rơi vào chỗ u minh, tối tăm. Ðịa ngục là chốn u minh cho nên
Bồ-tát Ðịa Tạng phát nguyện xuống địa ngục để độ chúng sinh. Vì vậy, Ngài làm
Giáo chủ ở cõi địa ngục, gọi là U Minh giáo chủ. Chúng ta đi con đường sáng thì
không rơi vào chỗ tối, nhưng phải đi
không chỉ hứa. Nếu Phật tử hứa rằng tôi qui y Phật rồi khỏi đọa địa
ngục, råi không tu tập thì có khỏi địa ngục không? Chắc chưa khỏi. Ví dụ anh
nông dân, anh được hạt giống tốt và gieo xuống. Biết rằng nhân tốt thì quả sẽ
tốt, đó là lẽ thật. Nhưng từ ngày gieo giống cho tới ngày cây lúa ra hoa kết
quả, phải làm sao? Gieo giống rồi chúng ta phải chăm sóc, nhổ cỏ, bón phân,
chúng ta còn phải theo dõi xem có bị sâu không? Cuối cùng đủ điều kiện thì bông
lúa mới được tốt, được chín vàng. Cũng như vậy, khi chúng ta nguyện qui y tu
theo Phật, đó là nhân để đi tới quả giác ngộ. Nhưng từ nhân tới quả đòi hỏi
chúng ta phải liên tục theo dõi, phải cố gắng tu hành mới được kết quả như
vậy.Không phải qui y rồi nói: "Sau đây tôi khỏi bị đầy địa ngục" đó
là sai lầm.
Qui y Pháp khỏi đọa ngạ quỉ, ngạ quỉ tức là
loài quỉ đói. Bởi vì Phật dạy chúng ta tu phải có lòng từ bi thương yêu mọi
người. Có lòng từ bi thì ai khổ chúng ta giúp. Chúng ta không nỡ gian lận, hiểm
độc, bòn rút người khác mà phải mở lòng từ bi thương xót, cứu độ người ta. Vì
có lòng từ bi nên không có tâm bủn sỉn, bon chen, keo kiệt,
hiểm độc. Vì vậy không đọa làm loài quỉ đói. Không bao giờ chúng ta tạo
nhân tốt mà lại có kết quả xấu được.
Cho nên qui y Pháp rồi thì tránh khỏi làm loài quỉ đói. Vì vậy khi đã qui y
rồi, chúng ta phải tập tâm từ bi. Mỗi ngày mỗi mở rộng, mỗi ngày mỗi thực hành
đúng như vậy, thấy ai khổ chúng ta dùng phương tiện giúp. Thực hành đúng pháp
Phật dạy tránh khỏi loài ngạ quỉ, nhất định không bao giê sai.
Qui y Tăng rồi khỏi đọa làm súc sinh. Tại sao? Vì súc sinh là si mê. Bây giờ
mình theo chư Tăng, chư Tăng dạy cho mình biết đây là thiện, đây là ác, đây là
tội, đây là phước, đây là chánh, đây là tà. Chứ cho mình biết rõ, nhờ biết rõ
nên mình tránh tội làm phước, tránh ác làm lành, tránh tà làm tèt. Kết quả mình
không đọa làm súc sinh. Như vậy từ nhân đến quả không sai nếu chúng ta làm đúng. Nhưng có nhân mà không
săn sóc, không chăm bón thì kết quả không bao giờ đúng hết.Chúng ta đến với đạo
Phật là đến với tâm hồn chân thật, phải dầy công tu hành, không phải đến với
đạo Phật bằng cách cầu xin. Nếu Phật tử
ngẫm kỹ, nhớ cho rõ ràng, từ ngµy biết đi chùa cho tới bây giờ, mình tu theo
Phật hay là cầu xin Phật? Chắc tu ít, cầu xin thì nhiều. Ðó là điều đáng buồn
mà cũng rất đáng thương. Nếu Phật tử cứ đi cầu xin thì đạo Phật đã mất rồi. Dï còn chùa, còn
Phật tử cũng không còn đạo Phật, vì Phật dạy tu mà mình có tu gì đâu? Nên nhiều
người đi chùa mười năm, hai mươi năm nhưng phiền não ngày càng tăng chớ không
giảm. Ði chùa nhiều mà sân cũng lắm, giận cũng nhiều thì có hiệu quả gì đâu.
Chúng ta đến với đạo Phật là để tu, mà tu thì phải làm sao? Phật dạy lấy
nhân quả làm căn bản. Chúng ta gieo nhân tốt rồi còn phải cố gắng duy trì, bảo
vệ thì sẽ được quả tốt. Nếu chúng ta gieo nhân xấu thì phải rơi vào cảnh khổ,
không nghi ngờ. Như vậy người Phật tử là người biết chọn nhân để gieo, tránh
nhân dữ không cho nó sinh khởi, đó là chúng ta tu.
Bước đầu tu theo Phật là qui y Tam
Bảo, tức chúng ta tạo ba cái nhân.
-Nhân thứ nhất là nhân sáng suốt để khỏi xuống địa ngục;
-Nhân thứ hai là nhân từ bi để khỏi
làm ngạ quỉ;
-Nhân thứ ba là nhân trí tuệ để khỏi
làm súc sinh. Ba nhân này tạo rồi, chúng ta nuôi dưỡng cho nó tăng trưởng thì
nhất định tránh được ba đường ác, không nghi ngờ. Ðó là chúng ta tu. Phật không
chỉ dừng ở đó mà còn dạy chúng ta phải giữ 5 giới. Phật không cho chúng ta làm
năm điều. 5 điều đó là: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không
nói dối, không uống rượu say sưa,và không hút thuốc phiện, xì ke, ma túy.
Chúng ta giữ 5 điều này là tu nhân gì?
*Không sát sinh (là kiềm chế sự nóng
giận): Nếu không giết người, không hại người thì chúng ta tránh khỏi người thù
oán, tránh khỏi người giết hại, tránh khỏi tù tội. Giữ được nhân đó, tu được
nhân đó thì hiện tại chúng ta không bị người thù oán, rình rập giết lại, không
phải bị tù tội vì phạm pháp. Phật dạy nếu đời này giữ giới không sát sinh,
không giết người thì đời sau sinh ra được tuổi thọ dài. Cái nhân mình không làm
cho mạng người ta ngắn thì cái quả mình sẽ được tuổi thọ dài. Ðó là nhân và quả
theo nhau.
*Không trộm cướp (Kiềm chế lòng tham
lam): thì sau này mình không bị tù tội, không bị người oán ghét. Của người mình
không lấy, không cắp, không trộm thì tự nhiên mình là người lương thiện, người
tốt, không bị tù tội, không có nguy hiểm xảy đến. Ðời sau chính nhờ nhân tốt đó
mà được quả sinh ra có của cải nhiều, dư dả.
*Không tà dâm (Kiềm chế lòng
ham muốn nhục dục):Khung phạm tội tà dâm tức là sống một cách trinh bạch. Trinh
bạch là trong sáng, mà trong sáng thì đời sau sinh ra trở thành người đẹp đẽ,
trang nghiêm. Như vậy quả với nhân đều theo nhau, chớ không tách rời.
*Không nói dối (Kiềm chế sự khiếp
nhược và các ý nguyên nhân của sự không chân thật): không nói lừa gạt, ác độc
v.v... thì đời sau sinh ra nói năng lưu loát, người nghe kính trọng và tin
tưởng. Ngày nay sinh ra mình nói ngọng, nói cà l¾p là biết đời trước mình nói
không hiền. Nói không hiền cho nên quả bây giờ phải chịu như vậy. Biết rồi ráng
tu, nói hiền lại thì đời sau sẽ được tốt đẹp hơn.
*Không uống rượu say sưa (Kiềm
chế lòng tham và sự kích thích các nhu cầu ham muốn): không hút sì-ke, ma túy, thuốc phiện: nếu đời này chúng ta ngu tối, học hành
dốt nát, lêu lổng chơi bời, đàn đúm, vũ trường, nhà nghỉ v.v… thì biết đời trước mình đã phạm lỗi uống rượu say
sỉn, hút sì-ke ma túy, thuốc phiện… cho nên cuộc đời phải khổ , ốm yếu, tật
nguyền, ngu dại, gây khổ cho mình, cho gia đình và xã hội.
Cho nên biết tu thì nhân nào quả nấy,
còn không biết tu thì phải chuốc lấy khổ. Ai muốn đi tới chỗ tốt, hưởng điều
tốt thì phải làm những gì Phật chỉ dạy. Từ nhân đi đến quả chứ không có cái
ngẫu nhiên, cũng không có ai ban cho hết. Phật không có thời gian để ban cho
mình. Nếu ban cho mình thì chắc Phật không dạy nhân quả.
Hiểu như vậy chúng ta mới thấy trên
đường tu, mình phải là người biết tìm hiểu chánh pháp, biết tu hành chứ không
phải tới với đạo để cầu xin. Do vậy phật tử làm điều tốt, làm điều tốt thì được mọi người thương, mọi người quí. Còn
làm dữ, làm ác thì bị người ghét bỏ. Rõ ràng không phải Phật, không phải Thần
Thánh khiến người khác thương mình; cũng không phải Phật, không phải Thần Thánh
khiến người khác ghét mình. Thương, ghét đều do mình tạo mình gây ra, thì mình
phải chịu.
Khi Tu,
trong đó có một bài kệ bốn câu:
Chư
ác mạc tác;
Chúng thiện phụng
hành;
Tự tịnh kỳ ý;
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Không làm các
việc ác ;
Vâng làm các điều lành;
Giữ tâm ý trong sạch ;
Ðây là lời Phật dạy.
Lời dạy của chư Phật gọn, tóm lại chỉ có bốn câu kệ. Bốn câu
kệ đó có ba điểm.
1) Ðiểm thứ nhất là đừng làm các điều ác. Không làm tất cả điều ác tức là giữ 5
giới cấm. Bởi vì giới là ngăn là chặn. Ngăn chặn tức là ngừa đón. Nếu chúng ta
giữ 5 giới là chúng ta không bị khổ, không bị lụy. Cho nên trong nhà Phật ví dụ
giới cũng như hàng rào bên cạnh hố thẳm. Nếu tới mép rào, đụng rào chúng ta dội
lại đừng đi nữa thì không rơi xuống hố. Còn nếu tới mép rào mà làm cho thủng
rào để ra khỏi thì rơi xuống hố! Nên nói
giới là ngừa đón. Phật tử giữ 5 giới là ngừa đón khỏi rơi vào các tội lỗi, khỏi
rơi vào những khổ đau hiện tại và mai sau. Phật dạy chúng ta tu trước phải giữ
giới, có nghĩa là chúng ta phải dừng hết những điều tội lỗi dẫn đến sự hiểm
nguy. Chúng ta dừng lại đừng bước thêm nữa, thì mới có thể tránh các họa hoạn.
Vì vậy nên nói nhờ giữ giới mà ngừa được các thứ hiểm nguy.
2) Ðiểm thứ hai "Chúng thiện phụng hành" tức là vâng làm tất cả điều
lành. Ðiều lành là điều gì? Chi tiết để quí Phật tử thấy . Như chúng ta giữ
giới không sát sinh tức là không giết hại người, đó là chúng ta không bị rơi
vào chỗ người oán thù, người giết hại hoặc tù tội. Như vậy chỉ bảo đảm an lành
cho mình chớ chưa làm lợi ích cho người. Muốn vâng làm các điều lành, phải làm
gì nữa? Thay vì trước chúng ta không giết hại người, bây giờ thêm một điều nữa
là cứu giúp, bảo trợ cho người. Cứu giúp, bảo vệ cho sinh mạng người được an
toàn, cho người bớt khổ, đó là điều lành.
Không làm ác lại làm lành nên có phúc. Thành ra giữ giới là phúc nhỏ chỉ ngăn
ngừa được tội lỗi của mình, còn làm lành mới là phúc lớn vì lợi ích cho người.
Mình đã không giết hại mà lại còn giúp đỡ, còn bảo vệ để gìn giữ sinh mạng cho
người, đó là điều lành.
Thấy có hai mặt, một mặt dừng tội lỗi
gọi là đừng làm các điều ác, một mặt làm những điều tốt lành để giúp đỡ chúng
sinh, gọi là làm các việc lành. Chúng ta cứ căn cứ vào 5 giới để thấy những
điều lành phải làm.
Giới thứ nhất không giết người ngược lại còn cứu người, bảo vệ cho người được
an toàn. Ðó là làm lành.
Giới thứ hai không trộm cắp. Tránh
không trộm cắp của người khác, đó là tránh tội lỗi nguy hiểm của mình. Kế đến
còn rộng rãi, ai thiếu nghèo mình giúp đỡ gọi là bố thí. Chúng ta không ăn trộm
của người mà còn bố thí giúp đỡ người, đó gọi là làm lành.
Giới thứ ba không được tà dâm. Mình
giữ không tà dâm để cho gia đình được an ổn, cho tư cách mình được trinh bạch,
đó là cái tốt của mình. Nhưng nếu chỉ giữ cho mình không thì chưa phải là làm
lành. Muốn làm lành chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải dạy cho con cháu, cho
những người chung quanh biết sống hạnh trinh bạch, biết làm những điều tốt,
đừng làm những điều quấy, điều nhơ. Ðó là giúp cho người được tăng trưởng hạnh
tốt ở trong xã hội. Như vậy chúng ta có phước.
Thứ tư, không nói dối. Không nói dối
thì giữ được uy tín của mình, giữ lòng tin của mọi người đối với mình. Nếu muốn
có phúc thì phải nói lời chân thật, lời hòa nhã, hiền lành. Không nói dối mà
chúng ta còn nói những lời đúng lẽ thật, đúng chân lý, đó là làm lành.
Thứ năm, không uống rượu , uống say,
không hút xì ke, ma túy, thuốc phiện. Ðó
là chúng ta tránh được những hiểm nguy cho mình. Nếu muốn làm lành chúng ta
phải khuyên, nhắc nhở những người bạn, hoặc con cháu mình tránh làm những điều
ấy, đó là làm phúc.
Như vậy tu Phật, chặng thứ nhất là
chúng ta phải ngừa đón đừng phạm tội lỗi, đó là giữ giới. Chặng thứ hai, chúng
ta phải làm những điều lành để trở thành một người hữu ích cho xã hội, hữu ích
cho đời, đó là làm lành.
3) Ðiểm thứ ba, "Tự tịnh kỳ ý" tức là phải làm cho tâm ý mình trong
sạch. Làm sao để giữ cho tâm ý trong sạch? Cái gì làm nó nhơ uế? Giải thích:
Trước khi nói tâm ý trong sạch, xin nói
tâm ý nhơ nhớp. Sao gọi là tâm nhơ nhớp? Thí dụ thấy người để món đồ tốt, ta
sinh lòng tham muốn lấy. Muốn lấy, đó là tâm ý nhơ nhớp. Hoặc người ta thấy
điều sai trái nên chỉ cho mình, mình nổi nóng cãi lộn người ta, đó là tâm ý nhơ
nhớp. Thấy người làm ăn phát đạt, mình thua kém rồi ganh tỵ, thù oán người, đó
là tâm ý nhơ nhớp. Khi chúng ta biết tu rồi phải gạn lọc tâm ý cho được trong
sạch. Nếu cứ nuôi dưỡng tâm ý nhơ nhớp thì chúng ta sẽ tạo nên những lỗi lầm,
những tội rất lớn ở mai sau. Thân chúng ta làm lành, miệng chúng ta nói lành đó
là tốt, nhưng nếu tâm ý chúng ta chưa được lành, chưa tốt thì cũng có ngày nó
xúi thân, miệng mình làm điều không tốt. Cho nên thứ ba là phải gạn lọc tâm ý,
vì nó là gốc. Giữ cho tâm ý trong sạch bằng cách nào? Ví dụ thường ngày trong
sự tiếp xúc qua lại, mình hay có tật xấu là nóng nảy. Khi nổi nóng lên thì nói
bậy, làm bậy đủ thứ hết. Như vậy chúng ta biết mình có tật xấu là nóng giận. Sự
nóng giận đó ở trong tâm ý mình. Cái xấu cái nhơ ở trong tâm mình, mình phải
làm sao lọc bỏ nó ra thì hết nhơ, hết xấu.
Phật dạy rất rõ, nếu người nào bị
bệnh nóng giận thì phải uống tới hai toa thuốc. Toa thứ nhất là toa thuốc nhẫn
nhục, toa thứ hai là toa thuốc từ bi. Khi nổi nóng lên, lúc đó làm gì trước? La
trước phải không? La không được thì đánh. Như vậy từ ý nổi nóng rồi miệng la,
la chưa xong thì tay đánh. Thế là thân tạo nghiệp ác, miệng tạo nghiệp ác từ ý
nghĩ ác.
Nên khi nổi nóng lên, phải làm sao trị
cơn nóng đó? Chạy đi lấy nước lạnh uống cho nó mát lại phải không? Nhưng nước
qua khỏi cổ một chút thì nhớ lại rồi nổi nóng nữa, chẳng lẽ uống nước nữa? Cứ
mỗi lần nóng là uống nước, uống tới chiều cho vì bụng luôn. Ðó chưa phải là
phương pháp cứu mình. Do đó phải dùng hai phương thuốc từ bi và nhẫn nhục mới
trị được bệnh này.
Ðó là biết thuốc của Phật cho để trị
bệnh, chứ còn không thì chúng ta tu Phật bao nhiêu năm mà khi bệnh không biết
làm sao để trị. Học Phật mà cứ đọc kinh này, sách kia nhưng không biết trị bằng
cách nào. Như vậy là chúng ta chưa phải thực tế. Khi có bệnh phải dùng thuốc
liền, dùng thuốc rồi thì có hiệu quả. Bởi có thuốc mà không chịu uống rồi cứ
kêu bệnh hoài. Nếu không uống thuốc để bệnh tái phát liên miên, đó là tự mình
phá hoại, tự mình làm khổ mình. Nên người biết tu là đem pháp của Phật dạy ứng
dụng cho bản thân mình được an lành, nội tâm mình được trong sạch.
Ðó là khéo tu, tu như vậy mới là tu thật, còn
nếu tu như lâu nay là tu chưa thật. Có một số Phật tử khi sửa soạn đi đâu xa,
lại trước bàn Phật thắp hương cầu nguyện, Phật gia hộ cho con đi đường được
bình yên, được an lành. Nhưng ra đường ai nói trái ý liền nổi nóng với người
ta. Như vậy bình yên, an lành được không? Khi nổi giận đánh người
Phật can đâu có kịp. Can không kịp thì làm sao mà phï hộ? mới thấy, muốn bình yên, muốn an lành thì cầu
nguyện ai? Nguyện cho mình bình tĩnh, sáng suốt, biết đem thuốc của Phật uống,
để trị bệnh nóng giận thì mới được bình yên, an lành.
Chúng ta phải khéo đem lời Phật dạy
ứng dụng tu cho bản thân mình thì sẽ được kết quả tốt. Thấy khi nổi giận lên
thì tâm mình ngàu đục, xấu xa. Chúng ta biết nhẫn nhịn thì không nói bậy. An
nhẫn thì tâm lặng xuống, lặng xuống thì nó trong sạch. Ðó là tu tâm ý cho trong
sạch.
Bây giờ giả sử thấy người ta có món đồ
quí, mình khởi lòng tham. Tham là ý niệm trong sạch hay nhơ đục? Tham tức là
nhơ đục. Khởi lòng tham thì phải tu làm sao? Uống thuốc nào cho hết bệnh tham?
Khi chúng ta khởi lòng tham vì chúng ta nghĩ đó là đồ quí, đồ đẹp v.v... Phật
dạy phải tu pháp bố thí để trị bệnh tham. Những gì dư mình cho hết. Cho hết thì
của người ta mình không còn tham. Cho được thì không còn tham, mà tham thì
không thể cho. Ðược một triệu thì muốn hai triệu, hai triệu thì muốn bốn triệu,
lòng tham vô hạn chứ không dừng. Nên người ta thường nói túi tham không đáy. Bỏ
bao nhiêu cũng vào hết, không bao giờ thấy đầy. Thấy đầy nghĩa là có một triệu
đồng, mình biết một triệu đồng đủ cho gia đình sống một tháng. Bây giờ giả sử
dư chút ít, có ai cần mình sẵn sàng giúp, đó là bố thí. Nếu dư mình giúp người
thì không tham. Nếu tham thì không bao giờ giúp. Hãy để ý người nào tham nhiều,
họ dư bao nhiêu thì dư chứ ai xin họ không cho. Người có dư liền giúp, người đó
sẽ hết tham. Bệnh này dễ trị không khó,
chỉ một toa thôi. Một toa là lành bệnh.
Như vậy chúng ta càng tu tâm càng trong sáng, tâm trong sáng thì phiền
não đâu còn. Nếu tu mà cứ phiền não người này, giận hờn người kia thì tâm chưa
trong sáng, vẫn còn nhơ đục. Nhơ đục cho nên không đi tới đâu hết, càng tu thì
càng thấy khổ chứ không vui. Nếu tâm trong sáng thì càng tu càng tươi càng vui
càng mát mẻ, không có khổ. Tu đúng mọi điều tốt sẽ đến với mình, tu sai thì mọi
việc phiền não sẽ đến với mình, không nghi ngờ. Ðó là một lẽ thật. Chúng ta
thấy chỉ cần có ba câu thôi mà Phật dạy mình tu hết sức là đầy đủ: Một là đừng
làm các điều ác tức là giữ trọn năm giới. Hai là làm tất cả việc lành. Ba là
giữ tâm ý trong sạch. Ðó là lời dạy của chư Phật. Chư Phật dạy gọn và đủ trong
bốn câu kệ đó. Chỉ cần chúng ta ứng dụng thường xuyên thì bản thân chúng ta rất
tốt đẹp.Mong rằng tất cả mọi người tu phật hiểu và tu như Phật dạy thì chắc
chắn sẽ được an vui hạnh phúc như Phật.
4.3- đến đền, chùa lễ bái
để được gì?
Hàng ngày, nhiều người đi lễ chùa với
những tâm trạng, mục đích khác nhau. Có người đến với sự kính ngưỡng, với tâm
chân thiện, cũng có người đến với mong muốn cầu khấn để những tâm nguyện của
mình sớm trở thành hiện thực; và có người đến chỉ để thăm thú, vãn cảnh, tìm
phút giây thư thái, thanh thản trong những ngày đầu năm mới.
Có
không ít người đến đền,chùa biện lễ, dâng sớ cầu xin thoát khỏi những vận hạn,
khổ đau, thậm chí cầu ước cho những ham muốn của mình được thỏa mãn. Vậy với
những mâm cao lễ đầy cùng lời khấn tụng trôi chảy, trơn mượt liệu người ta có
thể có được những gì mình mong muốn hay không?
Đến
Đền,chùa…
Trước hết là nói về việc đến đền,chùa, nếu
tự mình phát khởi tâm nguyện thì điều đó giúp cho việc đến chùa của chúng ta có
rất nhiều lợi về mặt tinh thần. Nơi này là nơi tôn nghiêm, là chỗ dựa tinh
thần, là nơi quy hướng mang lại bình an cho mỗi người và cũng là nơi dẫn dắt
mọi người đi theo con đường tốt đẹp để đến với sự an vui, hạnh phúc.
Chính
vì vậy nếu ta hiểu được những yếu tố tích cực trong việc đến đền,chùa thì khi
bước chân vào đó hãy buông xả, bỏ lại tất cả những lo toan phiền não của thế
tục để mở rộng lòng tiếp nhận niềm vui với những cơn gió mát lành bên trong cửa
từ bi.
Nếu
làm được điều đó, ta hẳn có được tinh thần an nhiên không vướng bận, tìm được
sự tĩnh tại cùng niềm an lạc để có sự giao cảm nhiệm màu khi dâng hương lễ
Phật.
Mỗi
người nên nhớ rằng khi đến đền,chùa cũng như khi làm lễ phải thành tâm và có
thái độ cung kính với Tam bảo, chư vị tăng ni để góp phần gìn giữ sự thanh tịnh
chốn thiền môn, giúp cho đạo hạnh của chư vị tăng ni ngày càng tỏa sáng, đồng
thời trau dồi, rèn giũa phẩm cách, đạo đức của mình.
Cầu được, ước
thấy?
Phần đông mọi người đến đền,chùa lễ
bái để khẩn cầu cho những điều tốt đẹp nhất đến với mình, suy nghĩ và những
mong muốn đó có thể trở thành hiện thực không?
Kinh sách và giáo lý nhà Phật cho rằng
con người là cao quý nhất, mỗi người tự quyết định số phận của mình, không phải
do người khác hoặc thần Phật hay một thế lực siêu nhiên nào đó ban phát cho.
Vì
thế việc lễ bái, tán dương ca ngợi, cầu xin cũng không thể giúp người ta có
được phúc lợi và tránh được tai họa, thoát được khổ đau và đạt được an lạc. Bởi
lẽ, tất cả họa phúc, lành dữ, vinh nhục đều do nhân quả của chính người ấy tạo
nên, do hành vi thiện ác và do sự cố gắng của bản thân quyết định.
Đức
Phật là người đã đạt đến Giác ngộ chân lý, ngài nói: “Ta là Phật đã thành, các
người là Phật sẽ thành”. Do trong mỗi chúng sinh đều có Phật tính, Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường “thành Phật” bằng
việc tu dưỡng nhân cách, trí tuệ và mỗi người phải tự dựa vào nghị lực, trí tuệ
cùng sự nhiệt tâm của mình để đi hết con đường ấy: “Công việc phải do các người
tự làm bởi vì ta chỉ dạy cho các người con đường phải đi thôi”.
Những
việc lễ bái, cầu khấn không giúp chúng ta chạy trốn, thoát bỏ được khổ và cũng
không đem lại những gì ta mong muốn mà tự bản thân mỗi người phải tù chuyển đổi
nhân tâm, cởi bỏ những sợi dây ràng buộc của tham ái. Đức Phật dạy rằng: “Ai
muốn gặt hái cái gì phải vun trồng cái ấy”, cũng như một người muốn học giỏi,
đỗ đạt thì phải tự mình cố gắng ôn luyện kiến thức, một người muốn được mọi
người yêu quý thì phải có lòng thương, nhân ái, thành thật và cởi mở.
Chính
chúng ta quyết định những niềm vui nỗi khổ của mình, nếu chỉ cầu khấn, lễ bái
mà không phải làm mà có được hạnh phúc thì trên đời này từ lâu rồi đã chẳng còn
ai phải chịu bất hạnh, khổ đau.
Chúng
ta đến đền,chùa lễ Phật mà trong tâm vẫn mê lầm, chấp ngã, không biết hồi tâm
chuyển hướng, không chịu học hỏi, rèn luyện bản thân mà chỉ đi cầu nguyện van
xin Phật ban cho phước lành thì việc làm đó chỉ là vô ích, không đi đến đâu cả.
Phải tâm niệm rằng chúng ta đến chùa để tìm sự thanh thản trong tâm hồn, bỏ lại
những phiền não và nhìn nhận lại chính bản thân mình.
Ta thắp hương, lễ bái để tỏ lòng kính
ngưỡng Đức Phật và các vị Bồ tát, thành tâm cầu nguyện gia hộ cho thân tâm thanh tịnh, hồi hướng mà
tu tâm dưỡng tính, làm trong sáng hơn nhân cách của bản thân khiến mình an vui,
hạnh phúc.
Khi mọi người hướng thiện, cảm nhận được
sự bình an, vững chãi và hạnh phúc ngay trong đời sống thực tại thì cho dù còn
phải đối mặt với những khó khăn, ta vẫn thấy rằng những khổ đau rồi sẽ được dứt
bỏ, sự an vui hạnh phúc không phải cầu khấn ở đâu, thiên đường cực lạc không
phải là một cảnh giới xa xôi nữa mà tất cả có ở rất gần và dần dần trở nên hiện
thực quanh ta.
5-Tu là thay đổi được
nghiệp (Chuyển từ nghiệp ác thành nghiệp thiện)
Tu là chuyển Nghiệp. Được làm CON NGƯỜI như Chúng
ta đã có phước duyên nhiều đời nên được làm thân người, được xuất gia học đạo,
có thầy có bạn trên đường tu. Đó là chủng duyên lành nhiều đời, nhiều kiếp nên
ngày nay mới được kết quả tốt đẹp như vậy. Đã được quả tốt thì phải ráng vun
trồng cho nó tăng trưởng đến thành tựu, không nên ỷ lại nhân trước tốt rồi ngµy
nay bỏ qua, không nỗ lực, thì nhân cũ sẽ háng lép đi, kết quả không còn tốt
nữa.
5.1-Đối với người xuất gia đang tu tại chùa :Trên
đường tu, chúng ta phải tu như thế nào
cho xứng đáng với chí nguyện xuất gia lúc ban đầu của mình. Có ai khi xuất gia
lại nguyện con vào chùa để được ngủ nhiều, ăn nhiều, chơi nhiều không? Chắc
không có. Ai cũng nguyện rằng con xuất
gia để được giác ngộ giải thoát và độ chúng sinh cùng được giải thoát. Đó là lý
tưởng cao siêu ít có gì bì được. Vì vậy trong nhà Phật thường nói, người xuất
gia không phải là người làm việc tầm thường, nên gọi là phi thường. Đã là phi
thường thì phải có tư cách, có thái độ
phi thường mới được.
Khi
xuất gia là đã thực hiện một việc phi thường rồi. Ai thấy mình đã làm được điều
gì phi thường chưa? Người thế gian bên phái nữ khi lớn lên ai cũng muốn để tóc
trang sức cho đẹp. Nếu cạo bỏ phắt đi thì đó đã là phi thường chưa? Dám cạo tóc
không sợ xấu, không sợ người ta cười, không vì trang sức đẹp đẽ của thế gian,
không muốn bận tâm với trần tục để vào chùa tu. Đó là cái phi thường thứ nhất.
Điểm phi thường thứ hai. Phật tử hay
người đời lúc nào cũng trọng miếng ăn, ăn sao cho ngon. Mà muốn ăn ngon thì tự
nhiên phải có thịt cá mới ngon, còn rau củ đạm bạc làm sao ngon. Nhưng khi tu
dứt khoát không ăn cá thịt nữa, chỉ ăn rau củ sống qua ngày. Đó cũng là một
việc phi thường rồi. Song điều phi thường thứ ba là quan trọng nhất. Thế gian
nam nữ lớn lên đều có đôi bạn, lập gia đình, nhưng người đi tu lại cương quyết
tu, không bị cột trói bởi tình cảm gia đình nữa. Một lòng vào chùa lo tu hành
để được giải thoát sinh tử, không bận bịu chuyện thế gian với tình cảm tầm
thường đó. Như vậy là rất phi thường.
Người
làm việc phi thường thì luôn luôn lúc nào cũng phải là người đi đầu, hướng dẫn
cho gia đình, cho mọi người noi theo. Muốn đi đầu, muốn hướng dẫn mọi người thì
trong tâm quyÕt bá tham, sân, si (Tam
độc-rắn độc) được không? Nếu nội tâm còn tham, sân, si thì đó là một điều khổ.
Như vậy trọng tâm tu cho thành công, đạt được
kết quả là trước phải diệt trừ tam độc, đó là cái gốc. Trên đường tu, sự thành
công của người đi tu, thầy bạn chỉ nhắc nhở thôi.Không phải chúng ta ngồi thiền
nhiều giờ, niệm Phật nhiều mà tiến. Thêm giờ ngồi thiền, thêm chuỗi niệm Phật,
nhưng ba con rắn độc không đuổi ra thì tu vẫn không tiến như thường. Mình tu
nhất tâm niệm Phật, quyết chí ngồi thiền rất là nghiêm chỉnh, nhưng ra ngoài ai
nói trái ý liền nổi giận đùng đùng, thì người ta sẽ kết luận cô ấy giả bộ niệm
Phật, giả bộ ngồi thiền chứ không phải tu thật.
Như
vậy, trọng tâm của người xuất gia là phải dẹp tham, sân, si. Đó là bước đầu
trên đường tu. Mong tất cả mọi người đều cố gắng thực hiện cho được. Đây là lời
nhắc nhở với người tu hành.
5.2-Đối với những người Tu tại gia :
Tiếp đến đối với Phật tử, những người
bắt đầu đi tu, hay là tu tại gia. Những người
hiện giờ làm ra tiền của. Khi có nhiều tiền có phương pháp gìn giữ sự
nghiệp của mình không bị trộm cướp, không bị ai lấy hết. Phật luôn luôn dạy người Phật tử làm thế nào
cho công đức của mình được tăng trưởng, được lâu dài, được bền vững đừng
để mất.Ở thế gian nếu chúng ta có tiền
nhiều, có của nhiều thì chúng ta sợ trộm, sợ cướp, sợ đủ thứ. Có của thì sợ mất
của; có danh vọng thì sợ mất danh vọng; danh vọng cao chừng nào càng sợ mất
nhiều chừng ấy. Thế nhưng, đức Phật dạy cái chúng ta tạo ra, không bao giờ mất
đó là nghiệp. Nghiệp theo chúng ta như bóng với hình không tách rời được, đời
này, đời sau và nhiều đời không bao giờ mất.
Vậy
nghiệp là gì? Nghiệp là thói quen, là hành động do chúng ta chăm chú vào một
việc, tiếp tục làm việc đó mãi thì thành thói quen. Đó gọi là nghiệp. Thí dụ cô
A dạy học, cô B cũng dạy học, họ gọi nhau là bạn đồng nghiệp. Đồng nghiệp tức
là cùng làm một nghề dạy học. Hoặc chú A hút thuốc, chú B cũng hút thuốc hay
chú A uống rượu, chú B cũng uống rượu thì gọi là bạn nhậu, bạn hút. Như vậy hút
thuốc, uống rượu lâu thì thành nghiệp thuốc, nghiệp rượu.
Bởi
vậy người đã quen làm việc gì thì việc đó trở thành nghiệp của mình. Chúng ta ở ngành nào, nghề nào cũng nhìn sự
vật theo con mắt của nghiệp đó. Thí dụ ở chùa có trồng cây bách lớn. Người thợ
mộc nói cây bách là một loại gỗ rất cứng, dùng để đóng đồ chắc lắm. Người dược
sĩ thì thấy cây bách này có vị thuốc trị được bệnh, v.v… Cũng một cây bách mà
người nói gỗ tốt, người nói thuốc hay. Lại có người nói nếu cây bách này khéo
uốn thì sẽ trở thành con rồng, con phượng gì đó v.v… Như vậy, tùy theo cặp mắt
của mỗi người mà sự vật được nhìn theo nhiều công dụng riêng biệt không giống
nhau. Đó là nhìn theo nghiệp. Vậy nghiệp có hình tướng không?
Thí dụ
có một ông thầy giáo, một ông bác sĩ và một ông thợ hồ. Cả ba cùng đi chung một
chuyến đò, sang sông với nhiều đồ đạc. Ra tới giữa dòng bỗng đò chìm. Mỗi người
đều lo bơi vào bờ quên hết đồ đạc. Tới bờ rồi nhìn lại người nào cũng tay
không, tất cả đồ nghề mang theo đều bị nước cuốn trôi hết nhưng nghề thầy giáo,
nghề bác sĩ, nghề thợ mộc có bị cuốn trôi không? Thế nên nghiệp là cái không ai
có thể lấy đi được hết. Dù nước trôi, lửa cháy, trộm cướp cũng không ai lấy
được nghiệp của mình.
Phật
dạy nghiệp được chia ra làm hai thứ: nghiệp lành và nghiệp dữ. Nếu chúng ta tạo
nghiệp lành thì điều thiện, điều lành ngày càng tăng trưởng. Nếu chúng ta tạo
nghiệp ác thì càng ngày càng gặp nguy hiểm, càng gặp nhiều tai họa. Nhà Nho xưa
hay nói đó là âm đức. Nhà Phật gọi đó là nghiệp lành. Âm đức thì không ai ăn
cắp được; còn của cải tài sản thì rất dễ mất. Nên nói “tích âm đức dĩ vi tử
tôn”, để âm đức cho con cháu thì con cháu được hưởng, còn để tiền của chắc gì
con cháu hưởng được.
Phật nói để nghiệp lành lại cho con cháu thì
con cháu hưởng phúc, để nghiệp ác thì con cháu sống khổ. Nếu ai thương con cháu
thì gieo nghiệp lành. Song nghiệp của ai người đó hưởng chứ người khác không
hưởng được, vậy tại sao ta phải tạo nghiệp lành cho con cháu? Đó là vì muốn cho
con cháu chúng ta trở thành người tốt, người hiền, có tài, có đức nên chúng ta
phải lo cho nó học. Học được rồi hướng
dẫn cho nó biết đạo đức, biết làm lành, biết tạo những điều phước thì đó là tạo
cho nó nghiệp lành, nghiệp tốt rồi. Nó có nghiệp lành tốt, giả sử cha mẹ mất đi
thì nó cũng không khổ. Còn nếu chiều con, muốn cái gì cho cái ấy,không học
hành, không lao động,chỉ sung sướng ăn chơi tự do lêu lổng thì tới khi cha mẹ
trăm tuổi nó sẽ khổ. Đó là không biết gây dựng nghiệp tốt cho con cháu.
Lại
nữa, có nhiều người làm ăn được nên cứ lo cặm cụi làm ăn ,bỏ bê con cái, không
nghĩ tới việc học hành của con, không lo đạo đức cho con. Cứ mải làm ăn cho có
nhiều tiền, nhiều của vì nghĩ khi chết, của đó sẽ để lại cho con. Nhưng của cải
ấy chắc gì con cháu hưởng được, nói gì đến giữ. Những gì mình làm đổ mồ hôi xót
con mắt, thức khuya dậy sớm, nhưng nếu con cháu không có đạo đức, không có tâm
lương thiện thì tiền của để lại chắc gì
chúng hưởng được.
Thế
nên người cha, người mẹ khôn ngoan là
phải hướng dẫn cho con tạo nghiệp tốt. Nghiệp tốt là có công ăn việc làm,
nghiệp thầy giáo, nghiệp bác sĩ, nghiệp gì chuyên môn cho ích nước lợi dân là
được. Đồng thời hướng dẫn cho con tâm lương thiện, biết thương người, biết giúp
đỡ kẻ khổ v.v… Đó là biết lo xa, biết
thương con thật lòng.
Còn
phần mình thì nhớ, nhất là những người
tuổi đã cao, đã mấy mươi năm nhọc nhằn với cuộc sống rồi, tuổi già kề cận, gắng làm sao ngày nào
còn có mặt ở trên đời thì hãy tạo những nghiệp lành, những phước thiện để khi
mình nhắm mắt, nghiệp đó theo mình không mất. Nếu ai tạo được một triệu điều
lành, không cần tủ, không cần nhà chắc,
vẫn không bị mất trộm, mất cắp một triệu
điều lành. Còn nếu ai có một triệu lượng vàng, dù nhà cao cửa sắt, cũng chưa
chắc gì giữ được.
Chúng
ta giành danh, giành lợi với thế gian, nếu mình được, người mất thì họ đố kỵ
ganh ghét. Còn chúng ta tạo nghiệp lành, dù bao nhiêu điều họ thấy họ cũng mừng
cho, không ai ganh ghét đố kỵ. Như vậy, chúng ta làm những điều tốt mà không ai
đố kỵ với chúng ta, đó là cách yên ổn nhất.
Lại
nữa, chúng ta làm nghề gì phát tài thì có người cạnh tranh, đua chen với chúng
ta. Mà cạnh tranh thì ai cũng giành phần hơn. Đó là nguyên nhân dẫn tới đấu
tranh với nhau. Bây giờ chúng ta làm việc lành nếu có ai cạnh tranh với chúng
ta thì càng tốt. Tôi làm mười điều lành, người đó tranh với tôi cũng làm mười
điều hoặc mười lăm điều thì càng tốt hơn, càng cạnh tranh càng tốt. Như vậy,
thấy cái nào đem lại sự an ổn cho chúng ta, đem cái hay, cái đẹp cho mọi người
chung quanh. Chỉ có nghiệp lành là quí nhất. Đó là chuyện hiện tại.
Còn
mai sau nếu chúng ta đã tạo nghiệp lành, sau khi mất nghiệp ấy có sức mạnh lôi
dẫn chúng ta đi tới những chỗ lành. Như vậy hiện tại chúng ta được an vui và
mai sau chúng ta cũng được an vui. Nếu chúng ta không cố gắng làm lành, không
cố gắng tạo nghiệp lành thì hiện tại chúng ta chưa chắc vui mà mai kia lại càng
khổ hơn nữa. Đó là chúng ta biết lo xa.
Vậy,
đem hết tâm tư gây dựng sự nghiệp thì nên gây dựng cho mình một sự nghiệp xứng
đáng, lâu dài. Đó là nghiệp thiện, nghiệp lành. Mọi người nghĩ nghiệp thiện,
nghiệp lành xuất phát từ đâu? Phật gọi
tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Thân mình làm tất cả điều
lợi cho chúng sinh, đó là tạo nghiệp lành; thân mình làm tất cả điều đau khổ
cho chúng sinh, đó là tạo nghiệp ác. Miệng mình nói tất cả điều lành cho mọi
người được vui, mọi người hết khổ, đó là nghiệp lành; nói lời dữ cho người phải
buồn, phải giận, phải tức tối là tạo nghiệp dữ. Ý nghĩ xấu, nghĩ bậy, nghĩ hại
người là tạo nghiệp dữ; ý nghĩ cứu giúp, nghĩ thương yêu người là tạo nghiệp
lành. Như vậy ba nghiệp thân, miệng, ý cố gắng làm lành thì thành người hiền.
Phật
tử chúng ta tu đã tốt chưa? Đó là điều mà cần phải xem. Vào chùa lạy tha thiết
vô cùng, lạy Phật, cầu Phật đủ thứ, nhưng ra ngoài ai chọc tức, nói l¹i không chừa lời nào. Như vậy là mình chưa
hiền, chưa biết tu. Nếu gia đình, vợ chồng, con cái đều biết tu ba nghiệp thì
có đầm ấm không? Thế nên, biết tu thì trở thành người tốt, gia đình hạnh phúc.
Nếu trong xóm, trong làng ai cũng biết tu ba nghiệp thì xóm làng đó có bình yên
không? Qua đó mới thấy giá trị của người
tu Phật là phải làm sao đem lại cho mình sự an lành, đem lại cho gia đình hạnh
phúc, đem lại cho xã hội vui tươi thái bình, gây dựng cuộc đời tốt đẹp. Chứ
không phải đến chùa mới gọi là tu còn về nhà không phải tu.
Xin kể
một câu chuyện của Nhật Bản. Có bà cụ chuyên niệm Phật. Ngày nào bà cũng niệm
mấy chuỗi. Một hôm bà đang ngồi niệm Phật, bỗng có thằng cháu nội làm rơi vì
cái bát kiểu. Bà quăng xâu tràng hạt xuống rồi chửi đứa cháu. Người con thấy
vậy nói: “Mẹ à, mẹ tu sao mẹ còn chửi?” Bà quát: “Tao tu với Phật chớ không
phải tu với tụi mày!”
Chúng
ta nghĩ sao? Chúng ta tu với Phật hay tu với chúng sinh? Chúng sinh nhiều buồn
khổ, nhiều xấu xa thì mình phải tu với nó chứ! Còn Phật ngồi im lìm có nói lời
nào đâu, khen Ngài cũng không gật đầu, chê Ngài cũng không lắc đầu. Ngài lặng
yên tự tại, chỉ có chúng sinh mới đa sự. Cho nên chúng ta tu là tu với chúng
sinh. Chúng sinh nhiều khổ não, nhiều cuồng loạn, nhiều si mê nên ta phải ráng
tu với họ, để làm sao chúng ta đi trước làm người gương mẫu cho họ bắt chước.
Gia đình ta biết tu nên đầm ấm an vui, hạnh phúc thì những người chung quanh
mới noi theo. Vì vậy chúng ta tu không chỉ cho mình mà tu cho cả gia đình, cho
cả xã hội nữa. Đó mới là người Phật tử biết tu, là người Phật tử chân chính.
Chứ lạy Phật nhiều, cúng Phật lắm nhưng ra đường không chịu nhịn ai hết thì đó
chưa phải là tu.
Như vậy, chúng ta cũng như tất cả Phật tử phải biết cách tu. Tu
thiết thực chứ không phải tu bằng tưởng tượng, bằng lý thuyết, tu phải thực
hành. Được vậy mới xứng đáng là đệ tử
của Phật, xứng đáng là người dân tốt, biết xây dựng cuộc đời và đạo pháp ngày
càng tươi đẹp hơn.
Như
vậy,Tu là chuyển nghiệp.
Chương II
1- Cảnh giới sau khi chết (6 cảnh giới)
Cảnh giới cao nhất của mười cõi là
cõi phật, còn lại lần lượt là: Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người, A Tu
La, súc sinh, ngạ- quỷ (ma đói), địa ngục. Trong mười cõi này bốn cõi từ Thanh
Văn trở lên đã thoát khỏi vòng luân hồi, siêu phàm nhập thánh, đạt đến cảnh
giới cực lạc. Từ Trời trở xuống cho đến địa ngục gọi là lục đạo (6 đường).
Đông đảo chúng sinh trong lục đạo, do
sự thiện ác của mình, nên mỗi người có báo ứng riêng, hoặc thăng hoặc giáng,
thay thế nhau giống như bánh xe xoay vòng, không ngừng, gọi là lục đạo luân hồi
(Phật có biểu tượng Bánh xe luân xa). Trong đó, ba đạo (3 đường): súc sinh,
nga-quỷ, địa ngục gọi là ác đạo; địa ngục là đỉnh điểm của ác đạo.
Nếu ai không hiểu được khi chết thì
“linh hồn” đi về đâu sau khi qua đời, chỉ biết sống cho hiện tại, bồi đắp cho
thể xác không nghĩ đến kiếp sau, khi thân xác này trong tích tắc đã qua
đi, “linh hồn” sẽ trở về địa ngục vì ta đã quá tham lam, ích
kỷ, gây nhiều tội ác. Địa ngục, âm phủ, danh từ này không phải xuất xứ từ các
tôn giáo, mặc dầu tôn giáo nào cũng nhìn nhận có địa ngục, âm phủ, ngước lên
trời ta thấy bầu trời xanh bao la, thanh bạch, nhìn xuống ta thấy hỗn loạn ô
trược. Do đó, người ta có một khái niệm rõ rệt về âm, dương hay thiên đàng, địa
ngục vậy. Nói tóm lại các tôn giáo đều công nhận và quả quyết rằng có “Địa
ngục” . Người ngoài các tôn giáo kém lòng tin cũng phải nhận có “Địa
ngục.” Lênh đênh qua cửa trần phù/ Khéo tu thì nổi, vụng tu thì
chìm”.Thế mà chẳng biết nổi lên ở đâu ? Chìm xuống ở đâu ? Khéo tu những gì ?
Và vụng tu là sao ?. Nếu ta chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo và chuyên
cần đi chùa lễ Phật, ta có thể tạo cho
Tâm có được niềm tin để tu thân, tích đức vậy.
Con người là một trong những loài động vật
có lý trí ở trên thế gian. Chung quanh thế giới chúng ta đang sống còn có nhiều
loài khác nữa. Vậy thì theo quan niệm của Phật giáo, con người chiếm một địa vị
ra sao? Ở trong sáu đường (Cõi trời-Thiên,Cõi người- nhân, A-tu-la,
địa-ngục, ngạ-quỷ-ma đói, súc- sinh-súc vật), con người đứng hàng thứ hai sau
chư thiên thần, như thế hẳn nó phải mang một tính chất gì đặc biệc !Đến được
cõi Thiên do tu 10 điều thiện mà thành, còn con người nhờ biết giữ gìn 5
giới (Không sát sinh,không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu) mà được báo thân trong đời này. Trong trường hợp người không tin theo
Phật giáo thì sao ? Đây là luật tự nhiên hình thành, dù tin hay không, cái nhân
làm người vẫn đều do các yếu tố kia kết nạp lại, không ai chối cãi được
cả. Có thể nói con người có lý trí, tư tưởng để cân nhắc việc lợi hại,
đúng sai, trong khi đó loài động vật cũng có trí hiểu biết nhưng lại thiếu phần
tư tưởng. Sự khác nhau là ở điểm này. Con vật nhiều lúc cũng biết mừng giận
ghét thương như người và chúng cũng quý đời sống hơn là phải đi vào chỗ chết,
như con heo, con chó, gà, vịt ta nuôi trong nhà lâu ngày là một điều dễ
hiểu. Mặt khác, con người rất khôn ngoan nhưng lại là con vật yếu đuối
không thể tưởng tượng được, nhất là lúc mới sinh. Con người không biết tu
nhân tích đức, sau khi chết cũng phải bị đọa lạc như các giống vật khác.
Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật Vô Thường, nên không có ai ở
mãi trong một cảnh giới nào cả. Không có một điều phúc đức nào vô cùng để đáng
thưởng vô thời hạn trong một cảnh giới hạnh phúc nào đó. Và không có một tội ác
nào lớn tới mức vô cùng để đáng bị phạt đời đời tại một cảnh giới đau khổ nào
đó. Do đó, chúng sinh cứ trôi lăn trong lục đạo mãi, hết ở cảnh khổ lại qua
cảnh sướng, hết cảnh sướng lại rơi lại vào cảnh khổ. Cho tới một lúc nào đó,
chúng sinh giác ngộ được con đường giải thoát, và quyết tâm tu tập thành Phật,
thì mới ra khỏi cái vòng luân hồi luẩn đó. Trong lục đạo, chỉ có hai cảnh giới
được coi là sướng, là cảnh giới Thiên và Nhân, nhưng cảnh giới Nhân là quí hơn
cả. Xét về mặt hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có nhiều điều kiện thuận lợi hơn,
nhưng chính vì vậy mà họ bị ru ngủ không muốn tìm sự giải thoát thật sự, để rồi
khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một cảnh giới khổ hơn. Các Atula thì
tâm trí bị thu hút vào việc tranh cãi hơn thua, các ngạ quỉ thì quan tâm đến
những thèm khát không được thỏa mãn, súc sinh thì u mê chỉ nghĩ đến thức ăn và
thỏa mãn tính dục, còn ở địa ngục thì mọi chúng sinh bị hành khổ đủ cách nên
không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến đạo giải thoát. Chỉ có con người có sướng có
khổ một cách tương đối quân bình, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát tâm
đi tìm con đường giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết định hơn
cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả để có thể đạt tới trí tuệ giải thoát. Trong lục
đạo, chỉ có con người có nhiều cơ may, nhiều khả năng để thành Phật nhất. Do
đó, theo Ðức Phật, được làm người là cả một cơ hội quí báu không nên uổng phí.
Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8 (Phật Ðạo) nói rõ điều đó. Do vậy con người sau khi
chết sẽ đi đầu thai vào 1 trong 6 cảnh giới sau đây:
1.1-Cảnh giới Địa-ngục?
Cảnh giới của những chúng sinh độc ác,
hận thù, ích kỷ, ghen ghét, hay giận dữ, thích gây đau khổ cho người khác. Họ
phải chịu những cực hình rất đau đớn, khắc nghiệt để trả quả cho những hành vi
bất thiện đã tạo trong quá khứ. Ðời sống trong các địa ngục dài hay ngắn tùy
theo từng địa ngục khác nhau. Mỗi địa ngục có một sắc thái riêng, với những cực
hình khác nhau tương xứng với tội ác đã phạm. Sau thời gian có thể rất lâu tại
đây để đền tội, tội nhân có thể ra khỏi để làm lại cuộc đời mới, trong một kiếp
sống mới tốt đẹp hơn, để rồi về sau có thể trở thành Phật. Chính Ðức Phật,
trong một vài tiền kiếp, đã từng sa địa ngục vì đã phạm những trọng tội.
Theo Phật Giáo, chúng sinh không phải chỉ
có ở trái đất này, mà còn ở trong hằng hà sa số các hành tinh khác. Chúng sinh
nhiều vô cùng tận, và hệ thống tinh tú để chúng sinh ở cũng vô cùng tận. Trong
Kinh Tăng-Nhất A-Hàm, Phật nói: "Không thể đi đến mức cùng tận của thế
gian". Về vấn đề chúng sinh, khoa học ngày nay chưa thể kiểm chứng được
những điều Phật dạy. Nhưng về hệ thống tinh tú, thì các nhà khoa học thời nay
đã nhìn nhận: Không thể xác định được vũ trụ đến đâu là cùng tận. Số tinh tú mà
các nhà thiên văn học khám phá được đã nhiều hơn gấp bội dân số thế giới hiện
nay. Vì thế, giữa muôn tỉ tinh tú, có vô số tinh tú lớn gấp triệu lần trái đất
này, mà tin rằng chỉ trái đất mới có sự sống hay có loài người, thì quả là tin
một điều hết sức mạo hiểm, xác xuất đúng hết sức nhỏ bé. Do đó, điều Phật nói
rằng có chúng sinh ngoài trái đất này có rất nhiều khả năng đúng. Riêng về
thiên văn học, quan niệm của Ðức Phật đã đi trước thế giới cả hàng ngàn năm,
thậm chí trên 2000 năm.
Các chúng sinh trong cảnh giới này có
thể đầu thai sang cảnh giới khác, trong tinh tú này có thể đầu thai sang tinh
tú khác, tùy theo sự đòi hỏi của nghiệp lực khiến ta phải đầu thai vào nơi nào
thích hợp nhất với ta tại thời điểm đó. Chẳng hạn như ngay giây phút này, một
chúng sinh ở trái đất này vừa chết và cần có chỗ đầu thai thích hợp với nghiệp
của mình. Nhưng vào giây phút đó, tại trái đất này không có một nơi nào để đầu
thai phù hợp cả: những nơi có thể đầu thai được (do noãn và tinh gặp nhau), thì
cha mẹ hay hoàn cảnh không phù hợp, còn những cha mẹ phù hợp thì lại không thụ
thai vào thời điểm đó. Mà trong muôn tinh tú kia, thế nào chả có nơi thích hợp
vào thời điểm đó? Ðương nhiên nơi nào gần nhất vẫn là ưu tiên. Vì thế, việc
chuyển kiếp sang tinh tú khác thường hay xảy ra. Do đó, có những trường hợp
chúng sinh ở tinh tú này càng ngày càng tăng lên, trong khi ở một tinh tú khác
càng ngày càng giảm đi. Ðiều đó giải thích tại sao dân số địa cầu càng ngày
càng tăng lên: cách đây mấy ngàn năm dân số thế giới chỉ tính bằng triệu, nhưng
hiện nay phải tính bằng hàng tỉ, trong khi theo giáo thuyết của Phật, con số
chúng sinh không hề tăng lên hay giảm đi. Vả lại, chúng sinh không phải chỉ là
loài người, mà còn là nhiều loài khác trong lục đạo có thể chuyển đổi cho nhau.
Hơn nữa, theo Phật tổ thì số chúng sinh nhiều vô tận: một con vi trùng cũng là
một chúng sinh, mà một người trí tuệ cao cả như Phật tổ cũng là một chúng sinh.
Theo Phật Giáo thuần túy, hiện tượng
tử-sinh, tức chết rồi đi đầu thai sang kiếp khác, xẩy ra ngay tức khắc, bất cứ
ở nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian được thu tức khắc
vào bộ máy thu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ chết sang tái sinh
ngay tức khắc, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào cả. Nghĩa là không
có chuyện linh hồn người chết phải tạm trú ở một nơi nào đó chờ đến khi tìm
được một nơi nào thích hợp mới đi đầu thai. Như vậy là chết lúc nào thì đầu
thai lúc đó, và luôn luôn có một nơi thích hợp trong vũ trụ để đầu thai. Vì vũ
trụ là một bộ máy rất hòa hợp, mọi chuyện tự nhiên dù có vẻ ngẫu nhiên nhưng
vẫn luôn luôn ăn khớp với nhau.
Như
vậy, theo Phật Giáo nguyên thủy, nếu hai người cùng chết một lượt thì sẽ đầu
thai cùng một lúc ở hai nơi khác nhau, cho dù một nơi rất gần còn nơi kia rất
xa. Tương tự như hai người ở cùng một chỗ có thể nghĩ đến hai nơi ấy cùng một
lúc, không vì nơi này xa mà phải nghĩ đến sau nơi kia.
Tuy
nhiên, về sau, nhiều thuyết cho rằng chỉ có những chúng sinh có nghiệp lực mạnh
mới tái sinh ngay tức khắc, nghĩa là những người đã phạm nhiều tội ác thì tâm
thức của họ sẽ bị những cảnh giới xấu thu hút ngay, hay những người đã làm rất
nhiều việc thiện sẽ được những cảnh giới lành rút về ngay. Còn những người
thuộc loại trung bình, không xấu lắm và cũng không tốt lắm, thì “Tâm thức” họ có thể ở trong cõi “Thân
trung ấm”. “Tâm thức” ấy chỉ ở trong cõi “Thân trung ấm” khoảng 49 ngày. Trong
thời gian này, tâm thức vẫn có thể thay đổi tư tưởng (chẳng hạn quyết tâm trở
nên tốt đẹp hơn, hay bị lôi cuốn vào những sân hận mới...) để có thể đầu thai vào
những hoàn cảnh tốt đẹp hơn hoặc xấu xa hơn. Tối đa là 49 ngày, tâm thức phải
đi đầu thai. Vì thế, trong vòng 49 ngày sau khi một người chết, thân nhân của
người ấy nªn làm lễ cầu siêu theo 7 tuần (Nhân gian gọi là “Thất thất lai tuần”) cho người ấy để
đến một cảnh giới tốt đẹp hơn.
Cảnh địa ngục có phải là một cái cớ
để dọa nạt mà đạo Phật cố tình đưa nhân sinh vào con đường cùng không lối thoát
hoặc lợi dụng lòng tin của người đời để ru ngủ như đã có người nghĩ không ?Địa ngục là cảnh giới có thật với đủ
các hình phạt để xử trị kẻ nào ở thế gian làm việc ác, khi chết oan hồn đi vào
đó nhận lấy quả báo. Các hình phạt được ghi nhận là : Ngục thiết-hoàn (vòng sắt
nóng), cưa xẻ, đập (đánh, tra tấn, xiềng, kẹp v.v..). Do đó, nhiều người khi
nghĩ tới cảnh địa ngục liền phát rợn tóc gáy lên. Có nhiều sự tích còn chứng
minh đầy đủ có cảnh giới tối tăm bẩn thỉu nầy. Ngay cả những người ngồi đồng
thiếp hồn (gäi hån) cũng đi vào chốn địa ngục và chứng kiến được cảnh tra tấn
rùng rợn ở đó về thuật lại. Sư Từ-Đạo-Hạnh tìm cách báo thù cho cha, ông
Từ-Vinh bị chết oan do tay Pháp-sư Đại-Điên trù yếm, sau đó món nợ máu đã trả
xong mới được yên chuyện. Bà Thanh-Đề bị hành hạ trong kiếp đói khát ở cảnh địa
ngục ... là những chứng minh cho thấy được hình tướng của cảnh giới địa ngục
như thế nào. Nói về sự tướng thì luận như thế, còn đứng về mặt lý, nhất là căn
cứ theo hành vi thiện ác trong đời hiện tại, thì chính những việc đau đớn, đọa
đày, ức hiếp, bị tù giữa xã hội loài
người bây giờ, chúng ta cũng có quyền kết luận được đó là thế giới của đọa lạc,
đau thương. Đối với người nào chưa hiểu về lý, chúng ta phải chỉ ra được địa
ngục có hình tướng dài ngắn, lớn nhỏ ra sao để hướng dẫn họ cách tu và tìm ra
con đường thoát khỏi sự ràng buộc u tối kia.
Chỉ
có tư tưởng của Đại-thừa Phật giáo mới chứng tỏ được cái viên dung vô ngại mà
người bình dân cũng như giới trí thức đều học hỏi tu tập để mong thoát khỏi địa
ngục.
Tùy theo trình độ của người cao thấp mà
đạo Phật hướng dẫn cho kẻ tu hành đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử để chứng
nhập Niết-bàn tịch tịnh, tức là không còn bị đọa lạc vào cảnh giới khốn khổ lầm
than ...
Địa
ngục nằm ở dưới mặt đất 500 “do tuần” vuông tròn gì cũng là 500 “do tuần” (một
“do tuần” có đơn vị dài 19,5km, tức là nằm sâu dưới mặt đất khoảng ~10.000 km).
Địa ngục của phật môn có rất nhiều, Diêm Vương cai quản tám địa ngục lớn, mỗi
địa ngục chia thành tám địa ngục lửa nóng, tám địa ngục băng giá, gọi chung là
16 ngục nhỏ. Như vậy, 8 ngục lớn tổng cộng có 128 ngục nhỏ, cộng với địa nguc
lớn là 136 ngục.
Khi chết “linh hồn” con người được đưa đến Điện thứ
1 tiếp nhận vong hồn của người chết và phân loại. Tại đây,Thái Quảng Vương theo
sổ sách kiểm tra sự thiện ác của người đó khi còn sống. Phàm những người đại
thiện thì xóa bỏ danh tịch luân hồi của họ, để họ đến thiên giới siêu sinh;
những người mà thiện nhiều hơn ác hoặc ác thiện bằng nhau thì trực tiếp giao
cho Điện thứ 10 xử lý chuyển sang kiếp khác; những kẻ ác nhiều hơn thiện hoặc
toàn ác, thì trước tiên cho lên “nghiệt kính đài”(đài soi tội ác),chiếu xem
những tội ác mà người đó đã gây ra ở khiếp trước, để người đó nhận tội, tình nguyện chịu phạt tội, sau đó áp
giải đến điện thứ 2 dùng cực hình. Từ điện thứ 2 đến điện thứ 9 lần lượt là các
địa ngục thực thi các loại nhục hình, “Linh hồn” có tội đến đây sẽ lần lượt
chịu hình phạt tại từng điện. Cho đến điện thứ mười thì các “Linh hồn” sẽ bước
vào vòng luân hồi. 10 điện như sau (Nhân gian gọi là 10 tầng Địa ngục):
Điện thứ nhất do Thái Quảng Vương cai quản;
Điện thứ hai do Sở Giang Vương cai quản;
Điện thứ ba do Tống Đế Vương cai quản;
Điện thứ tư do Ngũ Quan Vương cai quản;
Điện thứ năm do Vua Diêm Vương trực tiếp cai quản;
Điện thứ sáu do Biện Thành Vương cai quản;
Điện thứ bảy do Thái Sơn Vương cai quản;
Điện thứ tám do Đô Thị Vương cai quản;
Điện thứ chín do Bình Đẳng Vương cai quản;
Điện thứ mười do Chuyển Luân Vương cai quản.
(Nghĩa là ma đói hay quỉ đói): Cảnh giới
của những chúng sinh tham lam vật chất (tiền bạc, của cải, lạc thú thể chất như
ăn uống, nhục dục...) lúc nào cũng khao khát những thứ đó nhưng không bao giờ
được thỏa mãn, khiến họ luôn luôn khổ đau. Ðời sống của họ dài và đau khổ. Thân
xác của họ vi tế hơn con người, nên mắt thường của con người không thấy được.
Cảnh giới của họ không phải là một tinh tú riêng biệt. Họ thường sống trong
rừng bụi, ở những nơi dơ bẩn trên mặt đất, và sinh sống bằng những thực phẩm
thừa thãi hoặc thiu thối của con người hay của những động vật khác.Cảnh ngạ quỉ
tức là cảnh giới mà nơi đó chúng sinh phải chịu đói khát, bị hành phạt đau đớn
về thể xác lẫn tinh thần. Những ai sống ở đời có tính tham lam, keo kiệt
như có tâm bòn rút của người để thu lợi về cho mình, lúc chết phải chịu cảnh
đọa đày, lạnh lẽo đói khát. Hành động bẩn thỉu của con người nơi trần thế kéo
theo cho tới lúc chết phải bị đọa vào kiếp đói khát trong loài quỉ để trả cho
xong món nợ truyền kiếp ở đời. Loài quỉ đói được kể rằng có nhiều hình tướng khác
nhau như quỉ một giò, quỉ sứ, quỉ hóa đá, quỉ đoạt mệnh, quỉ đói, quỉ ưa phá
phách v.v... Con quỉ có thể không giống với hình người. Chúng có hình lông lá
dễ sợ và thường sinh sống cạnh thế giới loài người, vì nghiệp nặng, những hồn
oan của người khi chết không đi đầu thai được nên hóa thành quỉ và ở lơ lững
giữa từng không như một thế giới vô hình mà mắt thường của ta khó hình dung ra
được.
Không luận Phật giáo mới nói tới cảnh
ngạ quỉ, nhiều người cũng kể lại rằng chính họ đã thấy được loài quỉ dữ. Có một
điều lạ lùng là trong thời buổi chiến tranh, có nhiều tiếng vũ khí nên loài quỉ
cũng ít thấy xuất hiện nơi thế giới loài người, có lẽ chúng sợ binh khí chăng
?
Quỉ là một vấn đề lớn mà các nhà khoa học
không thể nào giải thích nổi, theo Phật giáo, những người chết oan ức “linh
hồn” không đi đầu thai được và còn vất vưởng nơi đình miếu, gốc cây để quấy phá
người đời. Do đó, Phật giáo có những cuộc lễ như chẩn tế cô hồn vào dịp lễ
Vu-Lan rằm tháng bảy để nhờ lời kinh kệ và hơi hương khói mà các hồn oan được
ấm lòng đi đầu thai ở kiếp khác; hoặc là Lễ cầu siêu để cho linh hồn siêu thoát
về cõi Tây phương cực lạc .
Muốn biết sau khi chết chúng ta thành kiếp gì, chỉ cần nhìn vào hành vi
của việc làm hiện tại để có thể đoán chắc đúng được 90% theo luật nhân quả luân
hồi, không hề sai lệch. (xem ở phần Biểu hiện kiếp sau của người sắp chết (hấp
hối) nêu ở phần dưới).
1.3-
Cảnh giới súc –sinh ở đâu ?
Cảnh
giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy: thú vật, chim chóc, cá... là những
chúng sinh ít hiểu biết, kém ý thức, có đời sống rất thấp kém, hầu như không có
đời sống tinh thần. Chúng thường xuyên phải sống trong sợ hãi (bị thú khác hoặc
bị người giết ăn thịt, hoặc bị thúc đẩy đi giết các thú khác), nỗi sợ chung là
sợ đói. Gia súc thì bị con người nuôi để ăn thịt, để giải trí. May mắn cho
chúng ở chỗ đời sống chúng ngắn ngủi và ý thức trí tuệ chúng kém cỏi nên những
đau khổ của chúng qua mau và hời hợt, không sâu sắc. Nhưng không may ở chỗ
chúng khó có cơ hội để làm công đức, không đủ trí tuệ để tu tập thoát khỏi kiếp
lầm than đó.
Súc
sinh là giống thú hay còn gọi là loài lục súc như : Trâu, dê, heo, ngựa, chó,
gà là sáu loài vật được người ta nuôi dưỡng trong nhà để chúng phục vụ cho
người.
Mỗi khi giận người nào ta thường nghe
kẻ ấy dùng câu chửi rủa là : "Đồ súc sinh", tức có ý ám chỉ cho kẻ
đối diện là thứ trâu bò ngu ngốc không ra gì cả. Con trâu và con ngựa được coi
là loài động vật nặng nghiệp nhất phải mang kiếp kéo cày, kéo xe để trả nợ, vì
kiếp trước chúng vốn đã tạo ra nhiều ác nghiệp. Do đó, để thỏa mãn cơn giận của
mình, người ta ưa dùng lời độc địa nặng nề đối với kẻ khác. Nhưng tất cả loài
người đều ghét ai g¸n cho mình điều xấu xa, sỉ nhục ấy, vì đó là một sự xúc
phạm đến danh dự kẻ khác một cách trầm trọng và như thế cũng có nghĩa rằng
chính mình không muốn bị gán ghép cho những lời bất hảo hạ cấp ấy, thì đừng mở
lời độc ác xấu xa để làm cho người phải buồn khổ. Mặc dầu những giống vật này
được chúng ta nuôi dưỡng, bảo hộ. Người Nhật cấm ăn thịt chó, nếu ai phạm sẽ bị
phạt nặng. Người Ấn-Độ cấm ăn thịt bò, vì bò được xem như vật tổ, nên tuyệt đối
cấm giết hại chúng. Người Việt-Nam theo đạo "Ông" không ăn thịt trâu
v.v.. là những hình thức tôn trọng loài vật.
Trong Lục đạo, theo Phật giáo, thì loài súc sinh được liệt vào hàng thứ
sáu (Thiên, Nhân,A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sinh) vì được xem như giống dơ
dáy, xấu xí nhất vậy. Chúng ta phải biết tôn trọng loài vật, đừng đánh đập hành
hạ chúng cách tàn nhẫn mà phải bảo vệ tất cả mọi loài. Kiếp của loài súc
sinh rất khổ sở, vì chúng phải chịu đủ mọi cực hình do loài người và các loài
vật mạnh khác ức hiếp.
Là cảnh giới của những chúng sinh
vô hình, phần nào tương tự như những "thiên thần", có thân xác vi tế
hơn con người, sống trong những điều kiện dễ dàng hạnh phúc hơn, đời sống cũng
lâu dài hơn con người rất nhiều. Tuy nhiên, về mặt trí tuệ, chư Thiên thường
không hơn con người. Họ sinh ra theo kiểu hóa sinh (nghĩa là bỗng nhiên xuất
hiện dưới hình thức một thiếu nữ hay một thanh niên, không phải nhờ tới ai làm
cha mẹ sinh mình ra cả). Chư Thiên cũng có nhiều loại, nhiều đẳng cấp khác nhau
(dục giới, sắc giới, vô sắc giới, mỗi giới lại phân thành nhiều cảnh Trời khác
nhau), mức độ hạnh phúc và cách thế sống hay tuổi thọ giữa các loại, các cấp
cũng khác nhau.
Thiên là trời, tiếng dùng để gọi
chung cho tất cả các cảnh giới trên thế giới của loài người. Các cõi trời được
ghi nhận gồm có 33 cảnh giới khác nhau.
Nhờ tu theo pháp Thập thiện (10 điều
lành), sau khi mãn báo thân này ở đời, con người được sinh lên các cõi trời
Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Cõi trời Vô-sắc-giới có các trụ xứ như : Phi-tưởng,
phi-phi-tưởng-xứ, thức-vô-biên-xứ, vô-sở-hữu-xứ ...
Con người sống nơi các cõi trời được
hưởng mọi sự sung sướng, nhưng vẫn còn phải bị đọa lạc như con người ở thế gian
này, nếu hết phước báo mà không lo tu thiện. Do đó, việc lấy 10 điều lành làm
nhân trong việc tu tập là điều cần thiết để hưởng được quả nơi các cõi trời.
Ngoài ra, thì giờ ở các cõi trời cũng dài hơn ở thế giới chúng ta. Cõi phi
tưởng, con người nơi đó không còn suy nghĩ như chúng sinh cõi trần nữa. Vượt
cao hơn thêm một bậc, người ở cõi phi-phi-tưởng xa lìa tất cả mọi việc nói năng
nghĩ bàn. Cho đến món ăn của họ đều bằng thiền định, thức mặc cũng do thiên y
tạo thành. Cõi thức-vô-biên-xứ, con người không còn trụ tâm vào nơi ý thức nữa
mà đã vượt ra ngoài ngôn ngữ luận bàn của chúng ta. Xa hơn, cõi vô-sở-hữu-xứ,
con người ở đó bá tất cả mọi ý nghĩ, sống bằng trực giác, cũng như việc giao
thiệp với nhau đều do trực giác cả.
Người nơi các cõi trời có thể bay đi từ
thế giới này qua thế giới khác trong khoảnh khắc thời gian chừng một bữa ăn mà
không cần thủ tục thông hành rắc rối lôi thôi. Mỗi sáng, mọi người tụ tập lại một nơi do hiệu lệnh báo giờ ăn. Thức ăn
toàn bằng hương hoa, mỹ nhạc trổi lên để mọi người tới đó hưởng cái hương vị
cũng đủ no, không cần phải ăn uống thô tục như chúng ta. Sau khi thọ thực xong,
mỗi người ai về cõi nấy và hẹn ngày hôm sau lại gặp nhau ở một nơi đã
định.
Dù được hưởng phước báo sung sướng trên
các cõi trời, nhưng chưa phải nơi đã được giải thoát hoàn toàn, cho nên người
Phật tử chân chÝnh cần nên có thái độ dứt khoát để chọn nghiệp sau nµy.
Cảnh giới này giống như cảnh giới thấp
nhất của Chư Thiên (dục giới), nghĩa là thuộc thế giới vô hình, nhưng có rất
nhiều đau khổ tinh thần. Ðó là nơi tập trung những chúng sinh nhiều tham vọng,
ham quyền lực, kiêu căng, ghen tị, hay gây nên chiến tranh..., tuy điều kiện
vật chất dễ dàng hơn con người. Nhiều học giả xếp cảnh giới Atula ngay sau cảnh
giới Thiên, rồi mới tới Nhân, vì xác thân họ, điều kiện sống của họ gần với Chư
Thiên hơn. Cảnh giới này khiến ta liên tưởng tới cảnh giới của Sa-tăng là thiên
thần sa ngã, còn cảnh giới của Chư Thiên như cảnh giới của các thiên thần tốt
lành.
Trong ba đường là: địa-ngục, ngạ-quỷ và súc-sinh được coi là
những nơi xấu xa, bẩn thỉu nhất, và trên đó một bậc có cảnh giới của loài
A-tu-la, cũng còn nằm trong vòng trầm luân của sáu đường dữ.
A-tu-la là loài quỷ thần ở giữa thế giới
của loài người. Thần có khi là thiện thần và có khi là ác thần. Thiện thần
thường hay gần gũi, ủng hộ người, nhưng ác thần lại tìm cách quấy phá cuộc sống
của dân gian. Con người phần nhiều đều không hiểu nổi loài thần, nên phải cúng,
cầu khẩn để mong được gia hộ, chở che. Những anh hùng, liệt sĩ khi chết trên
tên đạn một cách oan ức thường hiện thành thần và được dân chúng cúng bái đầy
đủ, cũng có những ý niệm về loài quỷ thần, không còn xa lạ đối với chúng
ta.
Cảnh của A-tu-la
không có hình tướng nhất định và loài quỷ thần cũng biến dạng thay hình rất
nhanh chóng. Ngoài ra, thần cũng có thể bay đi tự tại được trong thế giới như
chỗ không người mà ít có ai thấy được hình dung.
A-tu-la nhiều khi được người ta kính
nể, có lẫn sự căm thù do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho nên dù được coi
trọng, chúng cũng phải ở dưới loài người một bậc.
1.6- Cảnh
giới của CON NGƯỜI:
Cảnh
giới của con người với những điều kiện sống khó khăn hơn, trong đó HẠNH PHÚC và
ĐAU KHỔ lẫn lộn. Ðây là cảnh giới thuận lợi nhất để tu giải thoát nhờ có sự
quân bình tương đối giữa sướng và khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát thường chọn tái
sinh vao cảnh giới này, do có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành
những pháp môn cần thiết để thành Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn ở
cảnh người
Thế nào
là TỘI?
Nói đến tu hành là nói đến tội phúc, nếu
không rõ tội phúc tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứ lao mình trong
tội lỗi, ấy là người tạo tội chớ không phải là người tu hành. Mọi sự an vui và
đau khổ gốc từ tội phúc mà sinh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hành chúng ta
phải thấu hiểu tội phúc. Tội phúc là những hành động thiết thực trong cuộc sống
này, không phải là chuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hành phải
thấu đáo phải phân rành vấn đề tội phúc.
Vậy thế nào là Tội? Tội là
hành động làm cho mình và người đau khổ trong hiện tại và tương lai. Người làm
tội cũng gọi là người dữ, người xấu. Tội, có tội ngoài đời và tội trong đạo.
Tội ngoài đời là những kẻ phạm luật pháp nhà nước, bị tù đày đau khổ. Tội trong
đạo có hai loại: tội do hứa nguyện gìn giữ mà không giữ, tội làm đau khổ chúng
sinh.
Tội do hứa
nguyện gìn giữ mà không giữ, như trước nhận giữ năm giới hoặc mười giới là điều
cao cả quí báu, ở trước Tam Bảo nguyện trọn đời gìn giữ, mà sau này không giữ
được một hoặc nhiều điều, gọi là tội phạm giới.
Tại
sao phạm giới gọi là tội? Bởi vì trước mình đã nhận định những giới luật đó là
hay là đúng, nếu giữ được sẽ lợi ích cho mình và chúng sinh, nên nguyện gìn
giữ. Sau này mình không gìn giữ, thế là đã phá hoại sự lợi ích của mình và của
chúng sinh nên phạm tội.
Những người phạm tội làm sao Vua Diêm Vương
biết, theo Kinh “Dược Sư”viết: “Chư hữu tình hữu câu sinh thần, tùy kỳ sở tác,
nhược tội nhược phúc, tận trì thụ dữ Diêm La Pháp Vương. Nhĩ thời bỉ Vương suy
vấn kỳ nhân, toán kế sở tác, tùy kỳ tội phúc nhi xử đoán chi ”.Chư hữu thần tức
là chúng sinh, câu sinh thần là thần linh theo trên mình mỗi chúng sinh và
không tách rời khỏi hình ảnh, theo như hình và bóng. Chính những thần linh này
ghi chép các hành vi thiện, ác của chúng sinh, sau đó báo cho Vua Diêm Vương
theo quy định. Khi người ta chết đi , Diêm Vương sẽ có sổ theo dõi để quyết
định việc thưởng phạt cho đúng.
Thí
dụ như giới ăn trộm chẳng hạn. Bất cứ một hành động nào làm khổ cho người hiện
tại hoặc mai kia đều là tội. Bởi vì mình đã gây ra nhân đau khổ thì quả đau khổ
mình phải lãnh lấy. Do làm khổ mình khổ người nên gọi là tội. Tội có tội nhẹ và
tội nặng.
Tội nhẹ:Những
điều làm đau khổ cho người cho chúng sinh do thân miệng chúng ta gây ra mà
không cộng tác với ý là tội nhẹ. Bởi vì việc làm ấy là vô tâm, hoặc không có ý
thức. Việc làm vô tâm, khi nạn nhân cảm thông được, họ sẽ bớt thù hận, nếu họ
đại lượng có thể tha thứ luôn.Thí dụ chúng ta đi đường, có đứa bé cầm hòn đất
ném chơi, lại trúng vào chúng ta. Nếu chúng ta biết nó không có ý ném mình, tuy
đau mà chúng ta không giận nó.
Thế nên mọi hành động bằng thân bằng miệng
làm đau khổ cho người mà không có ý thức là tội nhẹ, xin lỗi hoặc sám hối sẽ
hết. Việc làm đau khổ chúng sinh chút ít cũng là tội nhẹ.
Tội
nặng: Những điều làm đau khổ cho người cho chúng sinh do thân
miệng cộng tác với ý chúng ta gây ra là tội nặng; Theo Phật, tội nặng nhất là
tội ngược đãi cha mẹ hoặc người dưỡng nuôi mình (Bất hiếu); tiếp là tội tự tử (tự giết mình) được cho làm
người chưa hết số mà chết; tiếp đến là các
tội trong những giới cấm như sát sinh, nói dối, tà dâm , nghiện ma
túy-sì ke...
Bởi vì việc làm ấy là có cố tâm, có hữu ý,
khiến người oán giận không thể tha thứ. Thí dụ như có người cố tình đánh chúng
ta, dù cái đánh ấy bị cản trở không chạm đến thân chúng ta song biết kẻ ấy cố
tình đánh mình, chúng ta cũng giận họ đời đời. Vì thế hành động cố tâm, hữu ý
là hành động quan trọng nên tạo thành tội nặng.
Thế nên
tội phát xuất từ ba nghiệp chúng ta. Nơi thân: giết người, trộm cướp, tà dâm.
Nơi miệng: nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói hung ác. Nơi ý: tham, sân
và tà kiến. Sự hợp tác chặt chẽ của ba nghiệp này là tội nặng.
Thế nào là PHÚC?
Phúc là những hành động đem lại sự an vui
cho mình, cho người ở hiện tại và mai kia. Người làm phúc cũng gọi là người
lành, người tốt. Bởi vì những hành động đem lại sự an vui cho người, người sẽ
quí mến. Chính sự quí mến ấy nên gặp nhau vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ nhau.
Chúng ta giúp đỡ
hoặc an ủi khiến người được an vui, người thù đáp lại chúng ta bằng cử chỉ biết
ơn vui vẻ quí mến, đó là làm phúc gặp phúc. Vì thế người biết làm phúc hiện tại
được an vui, mai sau vẫn an vui. Làm phúc có hai thứ: phúc hữu lậu và phúc vô
lậu.
Phúc hữu
lậu:Làm cho mình cho người an vui tương đối trong vòng sinh
tử là phúc hữu lậu. Do ba nghiệp chúng ta hoạt động đem lại sự an vui cho
người, chính hành vi ấy là sinh diệt giới hạn, còn trong vòng sinh tử hiện tại
cũng như mai sau. Chúng ta phải nỗ lực tạo điều kiện cho mình và mọi người
thường được an vui. Muốn thực hiện được việc đó, ngay nơi ba nghiệp chúng ta
phải ứng dụng các điều này:
Về thân:
- Cứu
mạng: Chúng ta phải sẵn sàng cứu giúp bảo vệ sinh mạng người. Nếu người gặp tai
nạn sắp mất mạng, theo khả năng mình, chúng ta tận tâm cứu giúp. Giải cứu cho
người thoát chết, hoặc ngừa đón những sự việc có thể làm nguy hiểm đến sinh
mạng người, đó là việc làm phúc của thân. Bởi vì sinh mạng đối với con người là
tối cao, cho nên ai giải cứu khỏi chết, là an vui và biết ơn vô kể.
- Bố
thí: sẵn sàng cứu giúp người khi gặp
cảnh cơ hàn nguy khốn. Nỗi khổ đói rét cũng đe dọa đến sinh mạng, người đang
lâm vào cảnh khổ này, nếu được cứu giúp, họ cũng vui mừng vô hạn.
Chúng ta
muốn được an vui thì phải sẵn sàng mang sự an vui cho khắp mọi người, đó là nền
tảng phúc đức. Hạnh phúc không phải tù đến
với chúng ta, mà do mọi người
mang lại. Chúng ta đừng dại khờ cứ bo bo giữ lấy tài sản vô thường làm của
riêng mình, cần phải ban bố cho những người đang thiết tha cần nó.
Những
cái vô thường mà cứ giữ, có ngày sẽ khổ đau khi nó không còn ở trong tầm tay
mình nữa. Mượn của cải vô thường làm phương tiện an vui cho người, nguồn an vui
ấy sẽ trở về với chúng ta một cách bền vững lâu dài.
Trinh bạch: Cần
phải giữ hạnh trung thành trinh bạch. Người biết đạo lý đã không dám xâm phạm
đến danh giá và hạnh phúc của gia đình người, còn phải trung thành trinh bạch
với gia đình mình.
Tinh
thần trung trinh ấy giúp cho người trong gia đình tin tưởng lẫn nhau. Do
sự tin tưởng nhau nên trong gia đình
được sự an ổn vui tươi.
Trong
gia đình đã thế, chúng ta cần nhắc nhở
cho mọi người chung quanh đều làm điều tốt như mình. Ðược thế, sự an vui
không những chỉ ở trong phạm vi gia đình, mà
đến cả xã hội.
Về miệng:Tu phúc
ở miệng phải tập bốn điều này:
- Nói chân thật: Nói chân thật để đem lại
niềm tin tưởng an ổn cho người. Bất cứ ở trường hợp nào, chúng ta cũng cố gắng
nói lên những lẽ thật. Luôn luôn tôn trọng và yêu chuộng lẽ thật, cho nên phát
ngôn lúc nào cũng hợp với sự thật. Chân thật là nguồn gốc tin yêu nhau, do đó
mọi sự mến thương được bền bỉ.
- Nói đúng lý: Nói đúng lý để giúp mọi
người nhận được lẽ chính. Trong cuộc sống phức tạp này khiến mọi người khó tìm
được con đường chính. Cho nên chúng ta cố gắng nói ra lời đúng lý, hầu làm sáng
tỏ mọi chỗ ngờ vực của người.
Sống đúng, nói
đúng, thật là sự hi hữu trong cuộc đời hỗn độn hiện nay. Chúng ta mãi tôn trọng
câu "mặc người phi pháp, chúng ta vẫn giữ đúng pháp".
- Nói hòa thuận: Nói hòa thuận để đem lại
tình đoàn kết cho mọi người. Tất cả việc làm phân ly chia rẽ đều là tạo nên
thống khổ cho con người. Chúng ta đã không làm thế, mà luôn luôn dùng lời hòa
thuận để hàn gắn lại những mối tình đã rạn nứt.
Ngôn ngữ
chúng ta phát ra đều đem lại tình thương gắn bó cho mọi người. Thấy đâu có sự
rạn nứt, có mầm tan rã, chúng ta đều nỗ lùc dùng lời hòa thuận làm chất keo hàn
gắn lại. Tận dụng ngôn ngữ mình để đem lại tình đoàn kết an vui cho nhân loại.
- Nói nhã nhặn: Nói nhã nhặn để đem lại
sự ôn hòa vui vẻ cho người. Mọi sự căm phẫn, bực tức đều làm cho người đau khổ.
Chúng ta tập nói nhã nhặn là làm dịu mọi sự bực dọc của người. Lời nói nhã nhặn
khiến người dễ mến và vui vẻ. Trọn đời chúng ta đem lại sự an vui cho chúng
sinh, không có lý do nào lại dùng lời thô ác. Chúng ta phải thực hiện lời nhã
nhặn mãi mãi với mọi người.
Về ý:Chúng ta
phải tập từ bi, nhẫn nhục và chính kiến. Mang lại tình thương cho chúng sinh là
tiêu diệt mầm tham lam độc ác. Nỗi khổ của chúng sinh ngập trời đều do lòng
tham ác của con người tạo nên. Chúng ta tận lực gây dựng tình thương để giảm
thiểu đau khổ cho chúng sinh. Tập lòng nhẫn nhục để chịu đựng mọi cảnh ngang
trái mà không sinh sân hận. Có nhẫn nhục được, chúng ta mới giữ được tình
thương lâu dài với chúng sinh. Chính kiến là nhận định đúng đắn, đưa chúng ta
đi đúng hướng, sáng suốt vui tươi.
Do chính kiến
mới có nói đúng, làm đúng. Ba nghiệp tạo phúc, chính kiến là đội binh tiên
phong. Tóm lại, ba nghiệp làm mười điều trên là tu phúc hữu lậu. Phúc này khiến
chúng ta qua lại trên con đường an vui tươi đẹp. Mặc dù còn tương đối sinh tử,
song đến đâu cũng là hài lòng mãn ý.
Phúc vô
lậu: Phúc vô lậu là sự an vui tuyệt đối không giới hạn. Do thoát ly sinh tử nên an vui vÜnh
viễn. Bởi sự an vui nào mà còn sinh tử đều tạm bợ t¹m thêi. Chỉ có tiêu diệt
hết mầm sinh tử, an trụ vô sinh, mới là an vui viên mãn. Tu phúc vô lậu là
chúng ta hướng tíi vô sinh làm mục
đích. Cứ thế tiến mãi, cho đến bao giờ
viên mãn mới thôi. Mình làm như vậy, chỉ dạy người làm như vậy là tu phúc vô
lậu.
Cần tránh tội LÀM PHÚC
Tránh tội:Ðã biết tội là nhân khổ đau bất như
ý, chúng ta cố gắng tránh đừng gây nên tội. Cuộc đời đã khổ đau lắm rồi, chúng
ta không thể làm cho nó tươi đẹp, ít ra cũng đừng tô thêm cho đậm nét khổ đau.
Tránh gây khổ đau cho người tức là tránh tạo khổ cho mình.
Có ai ngu dại đến nỗi lấy dây tự
trói, lấy roi tự đánh, để rồi kêu khóc thở than. Mầm khổ đau không gieo thì cây
khổ đau làm sao đâm chồi nảy lộc. Biết thế, chúng ta dè dặt tối đa trong việc
gieo nhân đau khổ. Dù một tội nhỏ, tránh được, chúng ta cũng cố gắng tránh. Như
trong Luật nói: "Giọt nước tuy nhỏ, rơi mãi cũng đầy chậu lớn."Người
biết sợ tội là người sẽ khỏi tội. Chỉ có kẻ liều mạng xem thường tội lỗi, càng
lún sâu trong tội lỗi. Ðã có tội lỗi là có khổ đau, như có hình thì có bóng, có
tiếng thì có vang. Người học đạo phải sáng suốt thấy rõ lý lẽ ấy, để không lầm,
làm khổ mình khổ người.
Làm phúc:Hạnh phúc an vui là điều ai cũng ước
mơ, mong mỏi. Người học đạo không ước mơ mong mỏi suông, phải thực tế gây dựng
hạnh phúc cho người tức là gây dựng hạnh phúc cho mình. Hạnh phúc không thể
ngẫu nhiên đến với chúng ta, mà do công
bồi đắp.
Một hành động, một lời nói, một ý
nhiệm mầu đem an vui lại cho người, chính là gây dựng hạnh phúc cho ta. Trong
cuộc đời tương phản, kẻ buông xả hết lại là người được nhiều nhất.Ngược lại,
người cố giữ gìn lại là người mất mát nhất. Tạo hạnh phúc cho mình, không phải
bo bo gìn giữ những cái gì của mình mà phải xả bỏ cái của mình, tạo cho người
an vui. Chúng ta làm cho trăm ngàn người an vui, quả thực đã tạo trăm ngàn điều
an vui cho chúng ta. Vì thế làm phúc không bao giờ thấy đủ, chúng ta làm mãi
đến suốt đời, mà vẫn thấy chưa xong.Có một lần đức Phật đang ngồi trong một
tịnh xá, ở phòng khách ngài A-na-luật đang xỏ kim vá áo, vì mắt không nhìn rõ,
Ngài xỏ hoài mà chẳng được. Ngài buột miệng than: "Có ai mắt sáng làm phúc
xỏ kim hộ tôi."
Ðức Phật nghe, Ngài đi đến chỗ
A-na-luật bảo: "A-na-luật! Ðưa kim ta xỏ hộ". Thế Tôn đầy đủ vô lượng
phúc đức, mà còn mót từ cái phúc xỏ kim. Thử hỏi chúng ta là người gì mà không
cố gắng làm phúc? Phúc càng to thì an vui càng lắm, có thiệt thòi gì đâu mà
không chịu làm!
Kết luận:Tội
phúc là điều thực tế trên cõi nhân gian. Cổ động khuyến khích người tránh tội
là hành động giảm thiểu khổ đau cho nhân loại. Ca ngợi làm phúc là mang lại
hạnh phúc an vui cho chúng sinh. Đáng đÓ mọi người chúng ta đều tận
lực làm điều này.Vô lý những kẻ đã không làm, lại công kích người khác làm. Còn
ai không xót xa khi thấy con người sát phạt con người. Người có lương tâm, đầy
lòng trắc ẩn không thể ngó nhìn trước huynh đệ tương tàn.
Cho nên tránh tội làm phúc là điều mỗi
con người chúng ta phải ứng dụng. Biết tội phúc là cội nguồn của đạo đức. Song
chúng ta đừng bị phỉnh gạt bằng những tội phúc rỗng. Tội là cấy mầm đau khổ nơi
con người, Phúc là gieo hạt hạnh phúc cho chúng sinh. Thực tế như vậy, không
phải việc huyễn hoặc viễn vông.
Theo Phật giáo nói về “công và tội”: nếu
mỗi người làm một việc thiện gọi là “công” thì được Ngọc Hoàng giao cho Nam
Tào- Bắc Đẩu ghi thưởng “thọ” thêm một ngày. Còn có tội bị trừ đi ngày sống.
1.7- Tất cả chúng sinh sau khi chết, tùy theo nghiệp lực khi đang sống của mỗi người là thiện hay ác, mà chết rơi
vào một trong ba trường hợp sau:
1.7.1-
Chết với tâm lành.Người nào khi đang sống có tín tâm với Tam bảo, tạo nhiều thiện căn
công đức, trước khi sắp chết, sẽ tự nhớ nghĩ lại những công đức của mình đã
tạo, hoặc do người khác làm cho nhớ lại. Người sắp chết lúc bấy giờ các thiện
pháp như tín, tấn, niệm, định, tuệ sẽ hiện hành trong tâm, khiến tâm vô cùng
hoan hỷ, an lạc.
Người chết
với tâm lành, tâm hoan hỷ, liền thấy những cảnh tượng tèt, khả ái, cảnh tượng
không rối loạn. Tâm lành, tâm hoan hỷ, khiến thân có những biểu hiện như tinh
thần ổn định, sắc mặt vui vẻ, miệng mỉm cười... Nghĩa là khi người đó chết,
không có những khổ thọ bức bách nơi thân. Người sắp lâm chung với tâm lành, tâm
tỉnh như thế, sẽ tái sinh về một trong các cảnh giới an lạc.
1.7.2-Chết với tâm ác.Người nào khi đang sống phỉ báng Tam bảo, bất tín nhân quả, tạo nhiều ác
nghiệp, khi sắp chết, sẽ tự nhớ nghĩ lại
những ác nghiệp của mình đã tạo, hoặc do người khác làm cho nhớ lại. Người sắp
chết lúc bấy giờ, những ác pháp như tham, sân, si, mạn, nghi sẽ hiện hành trong
tâm, khiến tâm vô cùng hoảng hốt, lo âu đầy sợ hãi.
Người chết
với tâm ác, tâm rối loạn, liền thấy những cảnh tượng bất như ý, cảnh tượng quái
dị, cảnh tượng rối loạn, như thấy các ngạ quỷ cầm dao gậy đến đe dọa... Tâm rối
loạn, khiến thân có những biểu hiện hoảng hốt, đau khổ như sắc diện bầm tím,
tay chân run rẩy, người xuất đầy mồ hôi, không làm chủ đại tiện, tiểu tiện...
Nghĩa là khi người đó chết, phải chịu những cảnh đau khổ, những bức bách nơi
thân. Người sắp lâm chung với tâm ác, tâm mất định tĩnh sẽ tái sinh vào một
trong bốn cõi xấu.
1.7.3-Chết với tâm vô ký.Người nào khi đang sống không tạo nghiệp lành
cũng không tạo nghiệp ác, hoặc tạo nghiệp thiện ác ngang nhau, người này lúc
sắp chết, tâm không nhớ, hoặc không có
người khác làm cho nhớ lại nghiệp lực đã tạo. Lúc đó tâm người chết, chẳng phải
thiện chẳng phải ác. Do vậy thân thể cũng không có biểu hiện an vui hay đau khổ
khi chết.
Bấy giờ, chủng tử trong tàng thức sẽ
hiện khởi, nếu chủng tử nào mạnh hơn, hoặc chủng tử nào hiện khởi đầu tiên, thì
tâm sẽ nhớ đến, và tùy thuộc vào chủng tử lành hay dữ hiện khởi, mà người chết
sẽ tái sinh về một trong các cảnh giới khổ đau hay hạnh phúc, tương ứng với
chủng tử thiện hay ác hiện khởi.
<>Tóm lại, người sắp chết, nếu là người tạo nghiệp ác, từ trong
nhận thức –suy nghĩ sẽ bắt đầu xả từ phần trên, có nghĩa là từ trên đỉnh đầu,
cảm giác chết từ trên đầu xuống: lạnh theo thân mà khởi,tiếp đến chỗ tim rồi xuống dưới. Nếu người tu nghiệp
thiện, chết từ phần dưới, tức từ dưới
bàn chân, cảm giác lạnh từ dưới đến chỗ
tim lần đi lên. Đến khi cảm giác lạnh lan khắp toàn thân, tức “thần thức”- hay
“hồn” đã lìa ra khỏi thể xác.
2.- Biểu hiện kiếp sau của
người sắp chết (hấp hối)
* Các hiện tượng
con người khi hấp hối biểu hiện sẽ đầu
thai vào các cảnh giới :
*+Trước
khi tắt thở, có người tay chân run rẩy, gân mạch co rút lại. Lúc ấy chúng ta
biết tạng phủ của người này đang vô cùng đau đớn. Sự đau đớn đó thấm đến từng
lỗ chân lông.
*+Có
người trước khi tắt thở, sắc mặt nhợt nhạt, hơi thở khò khè, thân mình run rẩy.
Thì biết lúc ấy lục phủ ngũ tạng của họ lạnh buốt như băng tuyết, chịu muôn vàn
đau khổ.
*+Có
người trước khi tắt thở, hơi thở ra rất nhiều, mà hơi hít vào lại rất ít; da bị
ửng đỏ, tinh thần mê man. Bấy giờ người này sức lực suy kiệt dần dần.
Phần nhiều con người trước khi tắt thở thường trải qua ba giai đoạn như trên,
rồi trút hơi thở cuối cùng ra đi. Người chết rồi biểu hiện ra từng tướng trạng
nơi khuôn mặt và thân thể, qua đó chúng ta biết người đó sinh về cảnh giới lành
hay dữ.
*Người chết có những biểu
hiện đầu thai vào địa ngục
- Trước khi chết, đưa
hai tay lên quờ quạng trên hư không.
- Trước khi chết, kêu gào la khóc.
-Trước
khi chết, đi đại tiểu tiện ra ngoài mà không hay không biết.
-Trước khi chết, hai mắt nhắm lại không dám mở ra.
-Trước
khi chết, thường xoay mặt vào vách, hoặc úp mặt xuống giường.
-Trước khi chết, cố nằm nghiêng mà ăn, mình mẩy, miệng mồm hôi hám.
- Trước khi chết, hai chân run rẩy, sống mũi siêu vẹo.
-Trước
khi chết, hai mắt đỏ ngầu.
-Trước
khi chết, thân hình co rút lại.
>Khi đó, hơi lạnh từ trên đầu xuống đến bàn chân người bệnh, rồi
hơi ấm tụ nơi bàn chân. Trường hợp đó, ta biết người này sẽ đọa vào cảnh
giới địa ngục xấu ác.
*Người chết có những biểu hiện sinh vào Ngạ- quỷ
-Trước khi chết, ưa lè
lưỡi liếm môi.
-Trước
khi chết, thân hình nóng như lửa đốt.
-Trước
khi chết, khát nước, đòi ăn uống liên tục.
-Trước
khi chết, hai mắt trợn lên không nhắm lại.
-Trước
khi chết, không đi tiểu tiện mà đi đại tiện rất nhiều.
-
Trước khi chết, đầu gối bên phải lạnh trước.
-Trước
khi chết, hai bàn tay nắm cứng lại. Đây là biểu hiện của lòng bỏn xẻn nuối tiếc
của cải tài sản, vợ con…
>Khi
đó, hơi lạnh dần dần đi xuống hoặc từ dưới bàn chân đi lên đến đầu gối người
bệnh, rồi hơi ấm dừng lại ở bụng. Trường hợp đó, ta biết người này sinh
vào cảnh giới ngạ- quỷ.
*Người
trước khi chết có những biểu hiện sinh vào Súc sinh
-
Trước khi chết Tâm quyến luyến, không muốn rời xa vợ con, chồng con, người
thân.
-
Trước khi chết, tay chân co quắp lại.
-
Trước khi chết, thân mình toát ra mồ hôi.
-
Trước khi chết, nói năng hỗn loạn.
-
Trước khi chết, miệng hay ngậm đồ ăn.
>Khi
đó, hơi lạnh từ trên đầu xuống (có người lạnh từ dưới bàn chân lạnh lên) rồi
dừng ngay đầu gối người bệnh, hơi ấm trụ tại đây. Trường hợp đó, ta biết
người này sinh vào cảnh giới súc sinh đau khổ.
*Người
trước khi chết có những biểu hiện sinh trở lại làm người
-Trước khi chết, lòng vui vẻ, miệng mỉm cười.
-
Trước khi chết, thân không bị các sự đau khổ hành hạ bức bách.
-Trước
khi chết , con cháu người thân thương yêu gần gũi.
-Trước
khi chết, dặn dò con cháu, hoặc để di chúc lại rõ ràng, sáng suốt.
-Trước khi chết, lòng tôn kính Tam bảo: Phật- Pháp- Tăng.
>Khi
đó, hơi lạnh từ dưới chân lên đến ngực rồi hơi ấm tụ tại ngực (vùng tim).
Trường hợp đó, ta biết người này sinh vào cõi Người.
*Người
trước khi chết có những biểu hiện sinh về cõi thiên-cõi Trời
- Người trước, trong
suốt cuôc đời, lòng luôn quý mến mọi người.
-
Trước khi chết, tinh thần tỉnh táo.
-Trước
khi chết, thân thể không hôi thối.
-
Trước khi chết, sống mũi không siêu vẹo.
-
Trước khi chết, tâm không buồn giận, sợ sệt, chán nản.
-Trước
khi chết, không lưu luyến tài sản, của cải, nhà cửa, vợ con.
-
Trước khi chết, ngữa mặt mỉm cười mà đi thật thanh thản.
>Khi
đó, hơi thở lạnh từ dưới chân lên đến trán
rồi hơi ấm dừng ở đó.
Trường
hợp biểu hiện này rất tốt, ta biết người này sinh về cõi trời.
*Người trước khi chết có những biểu hiện sinh về cõi Phật
- Trước khi
chết, tinh thần tỉnh táo.
- Trước khi chết, biết trước ngày giờ ra đi.
- Trước khi chết, tắm rửa thay quần áo.
-Trước khi chết, niệm Phật không dứt.
-Trước khi chết, ngồi ngay thẳng mà đi.
-Trước khi chết, mùi thơm lạ bay khắp phòng.
-Trước khi chết , được hào quang Phật chiếu sáng vào thân thể.
- Trước khi chết, nghe nhạc trời nổi lên giữa hư không.
- Trước khi chết, tự nói ra bài kệ để dặn dò mọi người.
>Khi đó, hơi lạnh từ dưới lòng bàn chân lên rồi hơi ấm đến
đỉnh đầu rồi hơi ấm dừng lại ở đây. Trường hợp đó, ta biết người này vãng
sinh về cõi thanh cao là cõi Phật.
Con người sau khi chết dù được lên
trời hay xuống địa ngục, đều có người đến hộ tống. Khi con người bị bệnh nặng sắp chết, phải xem xét lại thiện
ác của bản thân. Con người khi lâm chung mắt có thể nhìn thấy được người đến
đón linh hồn mình đi.Con người sau khi chết, kẻ được lên trời thì khi lâm chung
có thể tự thấy ngêi trêi mang áo trời vui vẻ đến đón.Con người sau khi chết,
phải sinh vào nơi khác, thì khi lâm chung có thể tự thấy có người tôn quý đến
diễn thuyết. Con người sau khi
chết, kẻ phải xuống địa ngục thì khi lâm chung
có thể tự thấy binh sĩ tay cầm đao kiếm, dây thừng đến trói mình.Con
người khi lâm chung, mỗi người thấy khác nhau, miệng không nói được, chỉ có thể
thuận theo quả báo nghiệp thiện ác mà mình đã gây ra. Trời luôn luôn công bằng
không hề xử oan cho ai. Tùy vào túc nghiệp của từng người mà bị lưới trời trừng
trị.Khi con người sắp chết, có thể thấy Trung âm tướng. Kẻ hành ác nghiệp, thấy
ba tướng ác chịu khổ, hoặc thấy vua Diêm
Vương cho quân tay cầm binh khí, dắt tay người chết đi, còn nghe thấy tiếng kêu
gào đau khổ, nếu là người hành thiện, thì có thể thấy cảnh các tiên nữ thiên
cung chơi đùa vui vẻ.Theo các bậc chân tu thì khi người mới mất, trong khoảng
10 tiếng (10 giờ) thân nhân không nªn đụng đến thân xác, để nguyên như vậy. Nếu
người mới mất nằm co quắp, chân tay không thẳng thì nhẹ nhàng đưa về tư thế nằm
ngửa, chân duỗi thẳng, tay để lên bụng;
vì trong thời gian này “Thần thức” hay “Thân trung ấm” đang thoát ra, nếu tắm,
hoặc chuyển đi đâu đấy…sẽ làm cho “hồn kinh phách lạc” ảnh hưởng cho quá trình
đầu thai của “Thần thức” hay “Thân trung ấm”. Thân nhân- người nhà không cần tò
mò sờ nắm vào bàn chân, đầu gối, bụng, ngực, trán, đỉnh đầu của người chết để
xem “nóng -ấm” ở đâu.Việc làm này có hại cho người mới mất “linh hồn” thoát ra
bị động không tốt.
3. -Tại sao phải cúng cơm 49 ngày?
Một người sau khi chết hầu hết
đều phải trải qua giai đoạn trung gian gọi là “thân trung ấm” tối đa là 49 ngày, sau đó sẽ sinh vào một cảnh giới tương ứng với nghiệp
lực mà cuộc đời họ đã gây tạo. Và không nhất thiết phải đợi đến ngày chung thất
(hết 49 ngày sau khi chết) thì hương linh mới tái sinh mà có thể ngay sau khi
chết, hoặc trong tuần thất đầu tiên (7 ngày sau khi chết), hay trong tuần thất
thứ hai (14 ngày sau khi chết)…. cho đến các tuần thất tiếp theo hương linh đều
có thể tái sinh tùy nhân duyên, nghiệp lực của mỗi người.Trong thời gian “thân trung ấm”, hương linh vẫn hưởng được tất cả những vật phẩm mà thân nhân dâng
cúng (thường là cơm, nước, hương, hoa) nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà
thôi. Vì thế, “thân trung ấm” còn được gọi là hương ấm (thọ dụng mùi hương của
thực phẩm). Cho nên trong vòng 49 ngày, thân nhân cần dâng cúng cơm nước hàng
ngày cho người chết để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày tuần thất thường
cúng trang trọng hơn (như đến chùa hoặc
thỉnh chư Tăng về nhà làm lễ cầu siêu cho người vừa chết). Sau 49 ngày, khi
thần thức tìm được cảnh giới tái sinh, thường thì họ sinh về một trong sáu cõi
của lục đạo (trời, a tu la, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) và từ đây họ có khác biệt gọi là “Linh hồn”. Đơn cử
như, nếu thần thức sinh vào cõi trời thì họ sẽ không ăn thực phẩm của cõi người
vì thực phẩm ở cõi trời thượng vị hơn rất nhiều lần. Hoặc nếu họ đọa vào địa
ngục thì cũng không thể dùng được thực phẩm của loài người vì bị hành hạ, phải
ăn hòn sắt nóng, uống nước đồng sôi, chịu nhiều đau khổ cùng cực v.v… Duy chỉ
có các chúng sinh sinh về một số cõi như ngạ-quỷ, súc sinh… thì vẫn có thể
"ăn" được những phẩm vật do thân nhân dâng cúng qua hưởng mùi hương.
Mặt khác, đối với phong
tục người Việt thì việc làm cỗ dâng cúng cha mẹ ông bà tổ tiên còn thể hiện tấm
lòng thành của con cháu đối với người đã khuất. Do đó, để tưởng niệm người
thân, vào các ngày giỗ hoặc lễ Tết thì mâm cơm cùng hoa trái để cúng ông bà và tổ tiên là điều không thể thiếu. Vì
chúng ta là người trần mắt thịt nên không biết được thân nhân của mình sau khi
chết tái sinh về đâu (chúng sinh trong loài quỷ thần vẫn hưởng được đồ cúng) và
dâng cơm nước để thể hiện lòng thành, sự tri ân đối với người đã khuất là một
truyền thống tốt đẹp của dân tộc nên ta cần phải thực hành cúng mời. Sau 49
ngày khi thần thức đã tái sinh thì chúng ta không cúng cơm nước hàng ngày như
trước đây; nhưng vào các ngày lễ tiếp theo như cúng ngày 1, 15, hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải
làm mâm cơm cúng giỗ. Có điều không nên quá câu nệ vào hình thức trong việc
cúng mà luôn tâm niệm “lễ bạc nhưng lòng
thành”, tưởng niệm về người đã khuất trong tinh thần tri ân và đền ân.
Việc tụng kinh để
“cầu an” cho ông, bà cha,mẹ ở cõi âm, thì nên chuyển thành "cầu siêu"
cho người đã mất sẽ chính xác hơn. Vì
các hương linh thọ sinh trong những cảnh giới khổ đau luôn mong mỏi người thân
làm những điều phúc thiện để hồi hướng cho họ, giúp họ nương nhờ phước báo ấy
để mau được siêu sinh về cõi cực lạc ở Tây Phương. Tụng kinh (không nhất thiết
là kinh Dược Sư, Địa Tạng hay A Di Đà…), lễ sám, làm phước như cúng dường, bố
thí, phóng sinh động vật, chim, công đức in sách, kinh, rồi hồi hướng phước báo
cho thân nhân là những việc cần làm. Nếu hương linh đã tái sinh vào những cảnh
giới an lành thì việc hồi hướng phước đức cho họ càng làm cho phước báo của họ
thêm tăng trưởng. Thiết nghĩ, đó là những việc làm có ý nghĩa thiết thực nhất
để cầu nguyện âm siêu dương thái.(Giải thích về Lễ sám: Cụ thể là sám hối 6
nghiệp căn. 1. Căn mắt: chỉ thấy điều tốt đẹp, nhất là gặp gái đẹp mắt liếc
ngang dọc; người thân chết con mắt ráo khô, không tỏ vẻ đau buồn. 2- Căn tai:
ghét nghe giảng kinh, thích nghe lời xu nịnh. 3-căn mũi: Thích ngửi mùi lạ,
hương hoa mỹ vị. 4-Căn lưỡi: tham đủ mọi mùi, thích ăn đồ ngon, của ngon vật
lạ, động vật quý hiếm. Thích giết thịt chúng sinh để ăn. 5- Căn thân: Quên tinh
cha, huyết mẹ, quên mất mình từ đâu sinh ra, trở thành con người hư hỏng. 6-
Căn ý: Luôn nghĩ vu vơ, không có chủ định làm cho đầu óc sinh ra tham lam, hư
hỏng).
Thường thì sau khi người thân
mất đi, thân nhân vì quá tiếc thương nên hay nhớ nghĩ về họ và thường mơ thấy
người đã khuất. Hầu hết đó chỉ là những giấc mơ bình thường trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta chứ chưa phải là sự báo mộng của người chết hay khả năng
“thấy” được cảnh giới của người chết. Do đó, không nên suy nghĩ nhiều hoặc tìm
cách để giải mã những chuyện mộng mị mà
tốt nhất là tập trung toàn bộ tâm lực để làm phước hồi hướng cho hương
linh. Đặc biệt các phật tử đã tâm thành
theo Phật, được Phật phù hộ độ trì, làm
được nhiều điều thiện (Tâm tốt, giúp đỡ
nhiều người nghèo, phát tâm công đức tu bổ, xây dựng đền, chùa, làm nhiều việc
thiện, đóng góp nhiều trong việc làng, việc họ… ) thì sẽ có được cái “Thần”có
thể thấy được báo mộng qua người thân và
có thể thấy được những việc sắp làm, sắp
xẩy ra để phòng tránh hoặc việc tốt.
*Ý
nghĩa của cầu siêu trong lễ 49 ngày theo quan niệm Phật Giáo: "Ý nghĩa của lễ cúng 49 ngày: Vì Phật
giáo cho rằng, không phải con người chết là hết. Sau khi xác thân này hư hoại
thì thần thức tuỳ theo nghiệp báo mà tái sinh vào các cõi tương ứng với nghiệp
nhân mà người kia đã gieo tạo, ngoại trừ các bậc đại giác như Đức Phật, các bậc
Bồ-tát, các bậc A-la-hán đã cắt đứt dòng tham ái, đã thoát khỏi vòng sinh tử
luân hồi. Thế giới tình thức này không chỉ có cảnh giới con người, mà còn có
các cảnh giới khác nữa, nếu tính từ dưới lên thì có: địa ngục, ngạ -quỷ, súc
sinh, a-tu-la, nhân và thiên... Như vậy, cúng 49 ngày
thật sự có ý nghĩa chỉ đối với những người đã mất chưa quyết là được tái sinh
về cảnh giới nào, hoặc đang trong trạng thái mê mê tỉnh tỉnh của “thân trung
ấm”. Việc cúng cầu siêu như vậy có tác dụng nhắc nhở, gợi cho người quá vãng
hướng tâm về các thiện sự đã làm hoặc thiết tha thực hiện những tư tưởng tốt
đẹp, nhờ đó thần thức được tái sanh về cảnh giới tốt đẹp hơn." "...Tuy nhiên, có làm việc cầu siêu cho
người quá cố thì sớm làm trong 49 ngày thì phước đức lành đó mới mạnh, không
phải nói như thế là qua 49 ngày mà làm thì không có công đức gì, mà công đức đó
người quá cố gặt được rất ít, phần còn lại đều là về của người đang làm. Cho
nên Phật Tử muốn cầu siêu thì sớm làm trong vòng 49 ngày. Vì theo Phật Giáo sau
khi 49 ngày thì đã phân định, giống như phiên tòa ở nhân gian đã xử xong rồi.
trong sáu đường phải đi, thì người đó sẽ theo nghiệp lực của chính họ mà sinh
vào một trong sáu cõi đó. Cho nên làm công đức cầu nguyện cho người thân quá cố
thì hãy làm trong vòng 49 ngày."
Ngày thứ 49 sau khi mất rất quan trọng, vì:Đó là thời hạn
lâu nhất mà “thân trung ấm” chuyển đi vào một kiếp mới (gọi là đầu thai). Giai
đoạn này nên mời nhà sư hay thầy cúng tới làm lễ đọc kinh để cầu siêu giúp cho
hồn siêu thoát. Đây là việc nên làm nhất. Các thời điểm khác cũng rất quan
trọng là sau khi mất tức khoảng 7 ngày
“thất thất lai tuần” qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm
ty, thời gian này gia đình cũng nên mời nhà sư hay thầy cúng và đọc kinh cầu bình an (thời gian có thể
buổi sáng hoặc buổi chiều) để cho hồn đi từng đoạn tới cõi vãng sinh cực lạc.
Cũng trong thời gian này thân nhân nên làm nhiều việc tốt ,gia đình phải thuận
hòa, không tranh giành tài sản, đồng tâm lo việc tang ma, bàn việc bố thí, thả
phóng sinh chim, cá, tôm, cua..việc làm này là thay người mới qua đời giúp giảm
nhẹ tội (nếu khi còn sống làm nhiều việc không tốt).Trong thời gian này, thân
nhân không nên (tạm dừng ) sát sinh và cỗ bàn linh đình; nên làm cỗ chay
để cho người mất có tâm thanh thản ra đi
và không nuối tiếc cuộc sống.
4.-Tại sao
có Lễ ba ngày (lễ tế ngu) tính từ sau khi
mất hay sau khi chôn cất?Tục này không thống nhất, có nơi tính ba ngày sau khi
mất, có nơi tính ba ngày sau khi chôn. Xét trong điển lễ thì không có "lễ
ba ngày" mà chỉ có "lễ tế ngu" gồm có "sơ ngu",
"tái ngu", "tam ngu". "ngu" nghĩa là
"yên", tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách, theo "Thọ mai gia
lễ" thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong
gặp ngày nhu, (tức là ất, kỷ , tân, quí) làm lế tái ngu, gặp ngày cương (tức là
ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm) làm lễ tam ngu. Phan Kế Bính cũng dẫn giải
như trên.Dần dần về sau người ta giảm lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam
ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày. Vậy là tính ba ngày từ sau khi chôn, theo
tục gọi là lễ mở cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ mả, đắp cỏ, khơi rãnh
thoát nước... Ngu là tế ngu, tế chỉ tế người chết, tế thần. Theo phong tục cũ
thì ít khi chết xong chôn ngay, thường còn để năm bảy ngày trong nhà. Khi chưa
chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng ngày vẫn theo lễ thờ người sống.
Vậy tế ngu phải tính từ sau khi chôn.
Còn có một lập luận khác: Có ba điều
không yên khiến phải làm lễ tế ngu:
-Đang sống hoạt động nay mọi hoạt động
bỗng nhiên đình chỉ.
-Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập
quan không nhìn thấy bóng dáng nữa.
5.- Lễ
"Cúng cơm trăm ngày" có ý
nghĩa gì?Gia đình Việt Nam nhà nào cũng vậy, mỗi ngày có
hai bữa cơm là giờ phút đầm ấm nhất. Trong nhà có người về muộn, mọi người cũng
cố chờ về ăn cơm một lúc cho vui vẻ, đầm ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước
hết mời ông bà, cha mẹ, chờ ông bà, cha mẹ rồi mới bắt đầu mới dám ăn. Có nơi
xới bát cơm lần thứ hai còn mời nữa. Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng
dậycòn phải xin phép và mời khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc sống gia đình đang vui
vẻ, êm đẹp như vậy, vắng mặt trong bữa cơm còn nhắc, huống chi vĩnh viễn đi xa.
Do đó, trước bữa ăn
người thân dâng lên bàn thờ một mâm cơm nhỏ gồm: 1 bát cơm , một vài món ăn
bình thường, nhà ăn thứ gì cúng thứ đấy, thường là tinh khiết, không đòi hỏi
cầu kỳ, nhà nghèo thì lưng cơm, đĩa muối cũng xong. Thắp hương xong, dựng 2 đôi
đũa: 1 đôi vào giữa bát cơm, còn 1 đôi để hai bên mâm mỗi bên một chiếc dành
cho 2 quỷ sứ đang giam giữ “linh hồn” nhà mình; có rượu thì rót chén rượu. Khấn
vái xong cũng rót chén nước. Thờ cúng vong linh cũng giống như đang sống, cũng
là để thoả nguyện tâm linh, "Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương".
Nhưng tại sao lại cúng 100 ngày?
- Cũng tuỳ địa phương, có nơi chỉ cúng
49 ngày (tức là lễ chung thất). Theo thuyết của Phật giáo: qua 7 lần phán xét,
mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (tức 1 tuần, nhưng không phải tuần lễ
theo dương lịch); sau 7 tuần vong hồn đã siêu thoát. Có nơi cúng hết 100 ngày
(tức lễ tốt khốc nghĩa là thôi khóc). Theo giải thích của các cụ ngày xưa thì
thời gian này âm hồn vẫn còn phảng phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.Phong
tục này có căn cứ khoa học: Theo thuyết Thần giao cách cảm, ngoài điện trường
vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện trường sinh học. Những cá
thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường sinh học, mặc dầu ở cách xa nhau
rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin của nhau. Các nhà khoa học đã vận
dụng những phát triển đó để giải thích về điềm, về giấc mơ, về những biểu hiện
tâm, sinh lý bất thường khi thân nhân (có thể cách nhau rất xa về không gian)
có cùng tần số điện trường sinh học có sự biến bất thường. Người ta bảo chết là
hết. Nhưng, chết chưa phải là đã hết khi người chết còn tồn tại trong tâm chí
người sống. Sau khi chết, tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thần kinh cảm giác
ngừng hoạt động, vỏ não chưa bị huỷ, xung quanh hiện trường phát từ não vẫn
chưa ngừng phát sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng
điện sinh học. Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp
nhận được tín hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng
tin. Phải chăng vì lẽ đó mà các cụ cho rằng âm hồn còn phảng phất, chưa siêu
thoát.
6.- Phong tục TANG LÔ :Tang lễ là những lễ nghi được đặt ra để
bày tỏ lòng thương xót và kính thờ người chết. Người Việt Nam coi tang lễ cha
mẹ là quan trọng nhất.
Khi cha mẹ hấp hối thì phải khiêng ra
giữa nhà để tỏ rằng cha mẹ chết một cách quang minh chính đáng. Lúc này phải
đặt tên hiệu, tên thụy, còn gọi là tên cúng cơm, rồi thưa
cho cha mẹ biết để sau này mỗi khi cúng giỗ, nghe con cháu khấn tên thì cha mẹ
về dự lễ. Lại lấy một miếng lụa trắng dài đặt lên mặt, để hồn người sắp chết nhập vào, rồi kết thành
hình người, gọi là hồn bạch. Khi tắt thở rồi thì tang chủ (người chủ lễ,
thường là con trai trưởng) lấy một chiếc đũa để ngang hàm, dùng một miếng khăn
hoặc một miếng giấy phủ lên mặt để tránh ma quỷ ám hại.
Xong, khiêng xác đặt xuống đất, rồi lại
khiêng lên giường, mong rằng người chết hấp thụ sinh khí của đất, may ra sống
lại. Sách của ông Phan Kế Bính cho rằng tục này mang ý nghĩa là người ta
bởi đất sinh ra thì khi chết lại về đất .Người con cầm cái áo của người chết
mới thay, đi đường phía trước trèo lên mái nhà hú vía ba lần (lễ phục hồn,
chiêu hồn) : ba hồn, bảy vía, cha đâu về với con hoặc ba hồn, chín
vía mẹ đâu về với con, tỏ ý mong cha mẹ sống lại. Theo quan niệm của Đạo
giáo thì “hồn hay phách” hay “vía” là phần tinh thần của người phải phụ vào xác
mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không có xác
vẫn tồn tại được. Hú vía xong tụt xuống bằng lối phía sau. Mang áo vừa
được hú vía phủ lên xác.
Dùng nước thơm tắm rửa cho người chết (lễ mộc
dục ), chải tóc, cắt móng tay móng chân, thay quần áo mới. Con trai tắm
rửa cho cha, con gái tắm rửa cho mẹ. Người chết được mặc quần áo sang trọng hay
đơn sơ tùy theo nhà giàu hay nghèo, có chức tước hay không, chết già hay chết
trẻ.
Các đồ dùng và nước tắm của lễ mộc dục
được đem chôn. Sau đó làm lễ phạn hàm, hay ngậm hàm. Bỏ một nắm
gạo và ba đồng tiền (đồng tiÒn kẽm hay đồng chinh) vào miệng người chết. Gạo để
linh hồn người chết ăn, khỏi phải thành ma đói (ngạ- quỷ). Tiền dùng để
đi đò hay qua cầu sang bên kia thế giới. Những người lúc sống ăn ở bạc ác thì
lúc chết linh hồn phải qua cầu Nại Hà. Người lương thiện được qua cầu Kim Ngân.
Ngày xưa nhà giàu dùng gạo và vàng, ngọc để làm lễ phạn hàm. Từ lúc mặc quần áo đẹp cho người chết xong, con cháu
không mặc đồ tốt đẹp, chải chuốt. Ngược lại, càng ăn mặc tiều tụy càng tỏ lòng
hiếu thảo.
Tiếp đến là lễ khâm liệm. Khâm liệm là dùng vải bọc xác trước khi
đặt vào áo quan. Xác được chèn đồ bổ khuyết, bọc kín và buộc chặt thành một
khối vuông vức. Lúc đặt xác vào áo quan ( lễ nhập quan ), lót giấy
bản, rắc bỏng hay trà khô để đề phòng hút nước do xác tiết ra. Nhiều nhà mời
thầy cúng hoặc nhà sư làm lễ nhập quan.
(Tục cũ còn làm lễ Phạt mộc xong, thầy phù thủy bỏ vào trong áo quan một miếng
ván đục hình chòm. sao bắc đẩu, gọi là ván thất tinh (bảy ngôi sao). Gia
đình nghèo thì chỉ vẽ chòm sao lên một mảnh giấy. Ván thất tinh có công
dụng gì ?Theo quan niệm của Đạo giáo thì trên cõi trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế
và nhiều vị thần ngự trị. Trong số các vị thần được người đời thờ kính có Nam
Tào và Bắc Đẩu, hai vị thần chuyên ghi chép và kiểm soát sổ sinh, sổ tử của
loài người.Chòm sao bắc đẩu (đại hùng tinh) tượng trưng cho thần Bắc Đẩu. Bỏ
tấm ván thất tinh vào trong quan tài, người ta hi vọng rằng linh hồn người chết
sẽ được vị thần giữ sổ tử che chở.
Người nào chết nhằm giờ xấu thì phải bỏ thêm vào áo quan một cỗ bài
tổ tôm, ngày nay có chỗ dùng bộ bài tây, một quyển lịch tàu hoặc lịch
ta.
Tục này mang ý nghĩa gì ?
Chữ bài (hán việt, bộ thủ),
nghĩa là trừ bỏ, và chữ lịch (bộ chỉ) nghĩa là trải qua, vượt
qua.
Chết nhằm giờ xấu, người ta dùng bộ
bài, quyển lịch để trừ bỏ điều xấu, vượt qua được mọi khó khăn.
Nhiều nhà còn dán thêm bùa bên trong và
bên ngoài áo quan để trừ khử ma quỷ. Có nhà dùng tàu lá gồi thay cho quyển
lịch. Lá gồi trừ được thần trùng
Nhập quan rồi, chèn thêm đồ bổ khuyết, đậy nắp áo quan, gắn sơn, đóng cá
hoặc đóng đinh cho kín.
Linh cữu được khiêng ra đặt giữa nhà,
trên nóc bày một bát cơm úp, cắm một chiếc đũa vót cho sơ ra như gai nhọn (có
nơi gọi là chiếc đũa bông), một quả trứng luộc, ba nén hương.Bát cơm, quả
trứng, là bữa ăn để linh hồn người chết khỏi trở thành ma đói. Nhưng chiếc đũa
có gai nhọn thì chắc chắn không phải là để dùng ăn cơm. Không ai có thể ăn với
một chiếc đũa như thế.
Vậy chiếc đũa gai này mang ý nghĩa gì ?
Chiếc đũa chữ hán việt là khoái (bộ trúc). Chữ khoái (bộ
tâm) có nhiều nghĩa : sướng thích, nhanh chóng, sắc bén, và lính đi bắt giặc
cướp. Cái gai nhọn chữ hán việt là thứ (bộ đao), thứ
còn có nghĩa là đâm chết. Chiếc đũa gai tượng trưng cho một tên lính đi
bắt và đâm chết giặc cướp, được người xưa dùng làm bùa trừ ma quỷ.
Nếu trong gia đình còn người ở
bậc cao hơn người chết thì đặt linh cữu ở gian bên cạnh, đầu quay ra ngoài sân
hoặc quay về hướng nam.
Sau vài ba ngày, chờ con cháu ở xa về đông đủ, thì làm lễ thành phục,
cũng gọi là phát tang. Gặp mùa nóng bức hoặc lúc có bệnh dịch thì phát
tang sớm hơn. Con cháu, họ hàng, tùy theo thứ bậc mà mặc đồ tang. Đồ tang của
người vắng mặt được đặt trên linh cữu.
Luật xưa quy định rõ ràng năm hạng quần áo, mũ khăn, cùng thời hạn để
tang. Làm lễ nhập quan rồi nhưng chưa phát tang thì con cháu còn được phép
cưới, gọi là cưới chạy tang.
Nhà nào rộng rãi, giàu sang thì đặt linh sàng (giường của linh
hồn người chết) và linh tọa (bàn thờ linh hồn).
Buổi sáng bưng chậu nước, khăn mặt vào linh sàng, khóc ba tiếng rồi rước
hồn bạch ra linh tọa, lúc đó mới dâng cúng cơm nước. Buổi tối dâng cúng xong,
lại rước hồn bạch vào linh sàng, buông màn đắp chăn rồi mới trở ra. Nhà nghèo
thì treo hồn bạch vào linh tọa, rồi làm lễ dâng cúng. Lễ này gọi là lễ chiêu
tịch điện.
Trong mấy ngày linh cữu còn quàn trong
nhà, nhiều gia đình mời phường bát âm. thổi kèn, đánh trống đệm cho con cháu
khóc, và mỗi khi có người tới phúng viếng. Nhà giàu lại còn thuê người khóc
mướn cho tăng vẻ thương nhớ, sầu thảm. (Đấy là ngày xưa, còn ngày nay theo Phật
dậy, con cháu không nên khóc nhiều, Làm cho “Linh hồn”của nguwoif mới mất buồn
đau khó siêu thoát).Trước hôm đưa ma thì làm lễ thiên cữu (xê dịch linh
cữu). Rước linh cữu sang nhà thờ tổ làm lễ yết tổ rồi đưa trở về chỗ cũ. Có nhà
rước hồn bạch đi làm lễ. Không có nhà thờ tổ thì xoay linh cữu một vòng rồi lại
đặt vào chỗ cũ.
Đến ngày phát dẫn (đưa đám), làm
lễ khiển diện (tiễn biệt), rồi rước linh cữu lên đại dư (xe đòn).
Có nhà làm lễ cáo thần đạo lộ, xin phép cho đám tang bắt đầu lên đường.
Bắt đầu cuộc phát dẫn. Tuỳ theo đám ma to hay nhỏ, cách sắp đặt cũng như thứ tự
tuần hành có đôi phần khác nhau.
Đi mở đường là hai phương tướng
mặc quần áo đạo sĩ, đeo mặt nạ dữ tợn, cầm gươm xua đuổi ma quỷ. Có khi phương
tướng được làm bằng giấy hoặc vẽ vào tấm mộc, cho trẻ con vác.
Tiếp theo là thể kì, một bức
hoành trắng do hai người khiêng, viết bốn chữ theo vài công thức có sẵn để đọc
lên người lạ cũng có thể biết người chết là đàn ông hay đàn bà. Thí dụ cha chết
thì viết câu Hỗ sơn vân ám (núi Hỗ mây che, theo điển tích xưa thì núi
Hỗ là nơi tưởng nhớ cha). Mẹ chết thì viết câu Dĩ lĩnh vân mê (núi Dĩ
mây mờ, núi Dĩ là nơi ngóng mẹ).
Sau thể kì đến minh tinh làm
bằng một tấm lụa hay vóc màu đỏ dùng để ghi chức tước, họ tên, thụy hiệu người
chết. Đây là chỗ để các gia đình danh giá đua nhau dài dòng minh tinh, đem hết
phẩm hàm ra khoe. Nhà nghèo thì dùng giấy điều buộc lên. cành tre cho một đứa
bé cầm.
Kế tiếp là hương án bày đồ thờ
và thực án bày đồ ăn.
Rồi đến linh xa chở hồn bạch, có
phường bát âm đi kèm bên. Một người cầm biển đan triệu bằng giấy viết
hai chữ trung tín hay trinh thuận tuỳ theo người chết là đàn ông
hay đàn bà.
Tiếp theo là cờ công bố dẫn
đường cho phu khiêng đại dư.
Nhà giàu thường che linh cữu bằng cái
nhà táng trang hoàng lộng lẫy, hoặc một chiếc thuyền bát nhã bằng giấy nếu
người chết là một Phật tử. Có nhà thắp thêm bảy cây nến xếp thành hình chòm sao
bắc đẩu trên nắp linh cữu(1).
Tục ta mong muốn cho người chết được yên nghỉ, cho nên phu khiêng linh cữu, đại
dư phải chú ý đi đứng nhẹ nhàng, ngay ngắn. Nhiều nhà cho đặt một chén nước đầy
trên linh cữu, nếu trong suốt lúc di chuyển, khiêng vác, nước không sánh ra
ngoài thì phu khiêng sẽ được thưởng tiền.
Cha đưa mẹ đón. Đám tang
cha, con trai chống gậy tre theo sau quan tài. Đám tang mẹ, con trai chống gậy
vông (ngày xưa gọi là cây đồng) nửa dưới đẽo vuông, nửa trên vót tròn, đi giật
lùi đằng trước quan tài. Con trai nào vắng mặt thì treo cái gậy của người ấy ở
đầu đòn đại dư. Nếu có con trai nào chết trước thì con trai của người này (hoặc
người được ăn lập tự) phải chống gậy thay cha.
Tại sao lại chống gậy vuông đi giật
lùi ? giải thích rằng vì cha nghiêm (nghiêm đường, nghiêm phụ) con chỉ
biết lẽo đẽo theo khóc, không dám lên phía trước đón ngăn lại trên đường vĩnh
biệt như đối với mẹ hiền (gia từ, từ mẫu).
Muốn hiểu được tục này chúng ta phải
nhìn lại xã hội phong kiến ngày xưa.
Ai cũng biết rằng Nho giáo rất trọng tôn ti trật tự quân, sư, phụ (vua,
thầy dạy học, cha). Trong gia đình người cha là trên hết. Cha chết, tất cả
con cái thuộc bậc dưới phải đi sau quan tài của cha. Còn vai trò của người mẹ
thì ra sao ?
Nho giáo trọng đàn ông con trai, miệt
thị đàn bà con gái. Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (một con trai kể
là có, mười con gái kể là không). Cha chết thì quyền huynh thế phụ người
anh được thay quyền cha. Chồng chết thì vợ phải phu tử tòng tử, nghĩa là
mẹ phải theo con trai. Tuy nhiên, chữ hiếu của Nho giáo lại bắt con trai cũng
như con gái phải thờ kính cả cha lẫn mẹ.
Tục lệ tang ma cho người con trai đi giật lùi đằng trước quan tài của mẹ, như
vậy là vừa giữ được lòng kính trọng của chữ hiếu vừa giữ được tinh thần trọng
nam khinh nữ của Nho giáo.
Hai chiếc gậy tre và gậy vông mang ý
nghĩa gì ? Chiếc gậy tre tượng trưng cho ngay thẳng, cứng rắn của cha, gậy vông
tượng trưng cho thuần hậu, mềm dẻo của mẹ .
Nhưng tại sao lại phải đẽo vuông chiếc
gậy vông ? Người xưa quan niệm rằng trời tròn đất vuông. Quan niệm này
được thể hiện rõ ràng qua sự tích bánh giầy bánh chưng của ta. Gậy tre tròn
tượng trưng cho trời. Theo thuyết Âm Dương của Nho giáo thì trời thuộc về
dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng cho đất. Đất thuộc về
âm, chỉ người mẹ. Vì vậy cho nên đưa đám cha phải chống gậy tròn, đưa đám mẹ
thì chống gậy vuông.
Con gái, con dâu luôn luôn đi đằng sau
linh cữu cha mẹ, dưới tấm phương du bằng vải trắng dùng để che nắng. Khi
nào được hiệu lệnh thì con gái trưởng và con dâu trưởng phải vừa khóc vừa lăn
đường cho tăng thêm phần thảm thiết.
Các gia đình theo đạo Phật
thường mời nhà sư, bà vãi đến tụng kinh, cầu siêu cho linh hồn người chết được
siêu sinh tịnh độ. Lúc đưa đám, các bà vãi đội cầu bát nhã, nhà sư gõ mõ
tụng kinh, đi đằng trước linh cữu để dẫn đường linh hồn sang Tây phương cực
lạc.
Dọc đường đám tang có người rắc vàng
mã . Người ta tin rằng có nhiều ma quỷ theo đuổi ám hại linh hồn người
chết. Phải rắc vàng mã để tống tiễn chúng mới buông tha. Tại huyệt chôn, nhiều
nhà làm lễ tế thổ thần nơi đây.
Nhà có chức tước danh vọng còn làm lễ đề chữ , nghĩa là viết nốt chữ chủ
còn bỏ dở. Bộ thần chủ được sửa soạn từ trước nhưng người ta chỉ viết chữ thần
và ba nét ngang của chữ chủ, cố ý để thiếu nét chấm và nét sổ. Hiếu chủ mời một
vị khoa bảng, có chức tước đứng ra làm lễ, cầm bút chấm và sổ cho thành chữ
chủ. Thần chủ viết xong được đặt lên linh xa, rước về thờ tại nhà.
Đợi đúng giờ tốt thì hạ huyệt. Huyệt được thầy địa lí tìm phương nhắm hướng
trước, lúc này chỉ xê xích linh cữu, đặt cho thật đúng.
Lấp mộ xong thì đốt nhà táng, minh
tinh, cầu bát nhã, thuyền bát nhã và phương tướng.
Nếu người chết là Phật tử thì có nhà sư tụng kinh gõ mõ và các bà vãi
cầm hương niệm Phật đi quanh mộ. Mỗi người cầm một hòn đất ném vào mộ, gọi là
đi dong nhan. Dong nhan nghĩa là gì ? Các học giả không thống nhất ý
kiến. Có người hiểu là tưởng nhớ đến nét mặt người chết, người khác lại
hiểu là lấp mặt người chết một lần cuối. Những ngày tiếp theo, con cháu
đem trầu rượu ra thăm mộ, gọi là ấp mộ, ngụ ý làm cho người nằm dưới mộ
bớt lạnh lẽo. Đến ngày thứ ba làm lễ mở cửa mả. Con cháu đắp lại ngôi
mộ, mời thầy phù thủy yểm bùa trừ ma quỷ.
Những gia đình theo Phật giáo, sau đám tang cứ bảy ngày lại làm một
tuần chay, tụng kinh tại nhà hay tại chùa. Đến tuần chay thứ bảy để siêu độ
vong hồn, cũng gọi là cúng 49 ngày, thì ngừng.
Được 100 ngày làm tuần bách nhật, còn gọi là tuần tốt
khốc nghĩa là từ nay trở đi thôi không khóc nữa. Mỗi năm đến ngày mất, con
cháu cúng giỗ để tưởng nhớ. Giỗ đầu gọi là tiểu tường. Năm sau làm lễ đại
tường. Sau 27 tháng thì làm lễ trừ phục, hết hạn để tang. Trong thời
hạn tiểu tường và đại tường, đến rằm tháng bảy tuần trung nguyên người ta hay
đốt vàng mã cho người chết dùng, có khi đốt cả hình nhân, thằng Quýt con Nhài,
cho xuống âm phủ hầu hạ người chết.
Khi có người chết oan, bị giết, chết bất đắc kì tử, hoặc chết nhằm giờ
xấu thì phải làm chay để siêu độ vong hồn. Đàn chay thường được tổ chức ngay tại chỗ
người bị chết.
Lễ làm chay dung hợp cả Phật giáo và Đạo giáo. Trên đàn tế bày tượng Tam
bảo, tượng Tam phủ, hai bên có tranh thập điện, ở giữa có tranh quan thánh.
Buổi lễ do nhà sư hay pháp sư làm chủ lễ. Mục đích của lễ là gọi hồn người chết
về, cầu Phật để xin phổ độ, cầu Tam phủ để xin xá tội.
Nhiều làng quê miền Bắc có tục cải táng (bốc mộ),
nghĩa là chôn sang khu đất mới. Lí do là vì sau vài ba năm mộ cũ bị sụt lở,
ngập nước, hoặc vì chôn ở nơi xa con cháu muốn đưa về quê nhà. Con cháu làm lễ
cáo từ đường rồi khai mộ, mở nắp quan tài. Tất cả xương cốt được nhặt ra, tẩy
rửa bằng nước thơm, lau khô, xếp vào một cái tiểu sành, rồi chôn sang đất khác.
Trước khi chôn làm lễ cúng thổ thần ở nghĩa trang mới.
-Đang ở trên dương thế, nay xác về cõi
âm, hồn vất vưởng lìa khỏi xác. Âm dương hoàn toàn cách biệt từ sau lễ thành
phần. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy phải tế sau
khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong. Thời này cũng có
trường hợp sau khi chết 4-5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa chôn nên không thể
làm lễ ba ngày trước lễ an táng.
Giỗ Tiểu
tường, giỗ Đại tường/ Giỗ hết:
Cúng giỗ là một
buổi lễ kỷ niệm ngày người mất qua đời quan trọng của người Việt Nam, được tính theo
Âm lịch. Ngày này là ngày để thể hiện tấm
lòng thủy chung, thương xót của người đang sống với người đã khuất, thể hiện
đạo hiếu đối với Tổ tiên. Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người
thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ
cần lưng cơm, đĩa muối, quả trứng, ba nén nhang, một đôi nến và vài món ăn giản
dị cúng người mất cũng đã có lòng thành kính đối với người đã mất. Lòng thủy chung, thương
xót người đã khuất chỉ phụ thuộc vào việc con cháu phải nhớ ngày người mất để
làm giỗ, không liên quan đến việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Đại: Lớn, Tiểu: nhỏ. Tường:
điềm tốt lành. Tiểu tường là điều tốt
lành nhỏ.Đại tường là điều tốt lành lớn. Khi cã tang cả nhà đều buồn rầu thương
nhớ người quá cố. Nhưng thời gian trôi qua lâu dần, xoa dịu nỗi đau thương, cái
buồn vơi đi, đem lại cái vui như một điều lành, điều tốt trở lại.Vì vậy, Tiểu
tường là Tiểu kiết tường, và Đại tường là đại kiết tường. Giç Tiểu tường cách
ngày chết 365 ngày (Tròn 1 năm) và giỗ
Đại tường cách ngày chết 730 ngày (Tròn 2 năm).Giỗ Hết làm cách ngày
chết thông thường là 2 năm 3 tháng, cũng có nơi làm tròn 3 năm. Giỗ phải làm
tại gia đình của người mất .
Giỗ Tiểu Tường (giỗ đầu
năm thứ nhất): là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng 1 năm và Giỗ năm thứ hai sau ngày
mất đúng 2 năm, nằm trong thời kỳ tang, là những ngày giỗ vẫn còn bi ai,
sầu thảm. Thời gian một năm và hai năm vẫn chưa đủ để làm khuây
khỏa những nỗi đau buồn, xót xa tủi hận trong lòng của những người thân. Trong
ngày Giỗ năm Đầu,Giỗ năm Hai người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với
ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia
tiên, những người thân thiết của người quá cỗ cũng khóc giống như ngày đưa tang
ở năm trước.Sắm lễ: Vào ngày Giỗ năm Đầu,Giỗ năm Hai ngoài mâm lễ mặn và hoa,
quả, hương, phẩm oản... thì người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không
chỉ là tiền, vàng, mã làm bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà
cửa, xe cộ và một hình nhân. Hình nhân ở đây không có nghĩa là thế mạng
cho người thật (người còn sống) mà tin
rằng, với phép thuật của Thầy cúng thì hình nhân này sẽ hóa
thành một người thật, xuống dưới Âm giới để hầu hạ vong linh người mất. Gia chủ
sẽ đem những đồ lễ này lên bàn thờ để cúng. Cúng xong thì đem ra ngoài mộ để
đốt.Những đồ vàng mã trong ngày Tiểu Tường được gọi là mã biếu, vì khi
những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì người quá
cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu các Ác thần
để tránh sự quấy nhiễu.
Giỗ Đại tường/Giỗ Hết, là ngày giỗ sau ngày người mất Hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm
cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống.
Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm. Lúc tế lễ người được giỗ và
Gia tiên, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày
đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém gì Giỗ Đầu.
Sắm lễ: Vào ngày Giỗ Hết, ngoài mâm lễ mặn và hoa, quả, hương, phẩm oản... thì
người ta thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã không chỉ là tiền, vàng, mã làm
bằng giấy mà còn cả các vật dụng như quần, áo, nhà cửa, xe cộ giống như trong
ngày Giỗ Đầu. Vàng mã được đốt cho người quá cố cũng nhiều hơn ngày Giỗ
Đầu.Những đồ vàng mã trong ngày giç được gọi là mã biếu,
vì khi những đồ lễ này được gửi từ cõi Dương gian xuống dưới cõi Âm ty thì
người quá cố và Gia tiên không được dùng, mà phải đem những đồ lễ này đi biếu
các Ác thần để tránh sự quấy nhiễu. Sau khi lễ Tạ và hóa vàng
xong, gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ. Diện mời đến ăn giỗ
dịp này thường đông hơn giç Tiểu Tường, cỗ bàn cũng làm linh đình
và công phu hơn. Khách đến ăn giỗ vẫn mặc đồ trang nghiªm, vẫn
còn một sự bi ai, sầu thảm như ngày để tang hai năm trước . Sau ngày lễ này là lễ Bỏ tang,
người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống (Cũng có nơi hết hai tháng sau người ta sẽ
chọn ngày tốt để Trừ phục (còn gọi là Đàm tế) tức là lễ Bỏ tang). Sau đó, gia đình sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đình đám. Đây
là giỗ vô cùng quan trọng, vì nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và “vong
linh” của người đã mất.
Giỗ Thường: là ngày giỗ sau ngày người mất
từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con
cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc
nữa, không còn cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp để con cháu người quá cố sum
họp để tưởng nhớ người đã khuất và diện mời khách không còn rộng rãi như hai lễ
Tiểu Tường , Đại Tường,Giỗ Hết.
Ngày giỗ thường được duy trì đến
hết 5 đời. Đến sau 5 đời, “vong linh” người quá cố được siêu thoát, đầu thai hóa kiếp trở lại
nên không phải cúng giỗ nữa mà nạp chung
vào kỳ xuân tế /Giỗ chung với tổ tiên. Nhưng quan trọng hơn là
con cháu còn nhớ đến Tổ tiên và người đã khuất,
thể hiện lòng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết phải quá linh đình hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần
có đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc thì cũng đã giữ được đạo hiếu với tổ
tiên.
Sắm lễ:Trong lễ giỗ này, người ta thường làm cỗ bàn bình thường, có thể lớn hay
nhỏ tùy từng gia đình. Người ta cũng đốt nhiều vàng mã cho người cõi âm có cái
dùng như ngày Tiểu Tường và Đại Tường ,Giỗ Hết.
Sau khi lễ Tạ và hóa vàng xong,
gia chủ bầy cỗ bàn mời họ hàng, khách khứa ăn giỗ, cùng thăm hỏi lẫn nhau và ôn
lại những kỷ niệm của người đã khuất. Diện này chỉ thường mời khách gọn trong
phạm vi họ hàng (không rộng như gai giỗ trước). Ngày này, khách đến ăn giỗ
không còn buồn bã như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường trước, có thể mặc trang
phục bình thường.
Ngày Tiên Thường và Chính Kỵ: Trong việc cúng vào ngày Giỗ thì bao gồm: 2 lÔ quan trọng: Lễ Tiên thường (lễ cúng vào ngày
trước ngày người chết qua đời 1 ngày), Lễ Chính kỵ (chính ngày mất).
Ngày Cáo Giỗ còn được gọi là Tiên Thường là ngày giỗ
trước ngày người quá cố qua đời. Trong ngày này, con cháu cúng cáo giỗ để mời
người đã khuất hôm sau về hưởng giỗ, xin phép Thổ công cho phép “vong hồn” người được giỗ và nội ngoại
cùng về hưởng giỗ cùng con cháu. Ngày cúng cáo giỗ chỉ được áp dụng đối với giỗ
trọng (tức những người hàng trên hoặc ngang hàng trưởng gia như kỵ, cụ, ông,
bà, cha, mẹ, chồng, vợ, anh, chị, em...) mà không cần thiết phải áp dụng đối
với giỗ mọn (tức những người hàng dưới trưởng gia như con, cháu, chắt, chít...)
mà chỉ cúng ngày chính giỗ. Vào ngày này, trưởng gia mang lễ ra mộ mời vong hồn
về, sửa sang lại mộ phần cho ngay ngắn.
Ngày này, bàn thờ được dọn dẹp,
lau chùi sạch sẽ từ sáng sớm để chuẩn bị cho việc cúng lễ Tiên Thường vào buổi
chiều. Họ hàng nội ngoại thường gửi giỗ và sửa soạn để làm giỗ hôm sau. Lúc đầu
sẽ cúng gia tiên và con cháu sẽ ăn uống với nhau. Phải cúng Công thần Thổ Địa
trước, Gia Tiên sau. Bàn thờ lúc nào cũng hương khói nghi ngút cho đến hết lễ
Chính Kỵ vào buổi sáng hôm sau.
Khi cúng, Gia chủ cần phải cúng
để mời người được hưởng giỗ trước, tiếp theo mới đến mời Gia tiên nội/ngoại từ
bậc cao nhất đến thấp nhất và cáo thỉnh Gia thần cùng về đây để dự tiệc Giỗ.
Gửi giỗ: Người quá cố
có rất nhiều con cháu, chỉ cúng giỗ tại nhà con trai trưởng, nếu con trai
trưởng mất thì làm tại nhà cháu đích tôn. Con cháu sẽ tề tựu ở nhà con trai trưởng
làm giỗ. Nếu người được giỗ là hàng cao thì con cái, cháu chắt đến nhà trưởng
tộc. Lễ gửi giỗ trọng hay mọn, lớn hay nhỏ thì tùy thuộc theo hoàn cảnh và mối
quan hệ với người chết của từng gia đình. Con cháu sẽ là những người đóng góp
nhiều nhất. Để giảm bớt gánh nặng tri phí cho trưởng chi hay trưởng họ, con
cháu hay gửi giỗ bằng tiền, đồ lễ vật có giá trị khác như: vài cân hoa quả,
vàng hương hoặc có thể chỉ là thẻ hương. Cũng có thể gửi giỗ theo sở thích của
người mất mà gửi. Những người sống ở xa không có khả năng về dự giỗ thì cúng
vọng mời vong hồn về hưởng giỗ, gửi đồ lễ cho trưởng họ. Những đồ lễ được gửi
đến được trưởng tộc đem lên bàn thờ cúng hết. Khi ăn giỗ xong, con cháu được
chia lộc của ông bà tổ tiên.
7.- Mười nghiệp thiện phải tu để có sự luân hồi : 10
nghiệp thiện và 10 nghiệp ác
Việc thực hiện con đường
đi ra khỏi tham, sân, si, luôn luôn được đức Phật quan tâm và khuyến khích đệ tử của mình tu hành để từ đó các pháp an
lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ. Nếu không khéo tu
hành thì không những các khổ đau tăng
trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ. Ðể giới thiệu 10 nghiệp thiện và 10 nghiệp ác đức Thế Tôn (Phật tổ) chỉ dạy cho
chúng ta hành mười thiện nghiệp và loại trừ mười ác nghiệp. Trong 10 thiện nghiệp
và 10 ác nghiệp, đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy tất cả đều phát xuất từ
thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân nghiệp có 3, khẩu nghiệp có 4 và ý
nghiệp có 3.
*Mười
nghiệp ác :
+3 ác nghiệp của thân:
-Có người sát sinh, tàn nhẫn ,
tay lấm máu, tâm chuyên sát hại , tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.
-Người này lấy của không cho, bất
cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho
người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy.
-Người sống tà dâm được gia đình che chở.
+4 ác nghiệp của khẩu:
-Có người vọng ngữ đến chỗ tập
hội, chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, các tổ hợp, hay đến giữa vương
tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những
gì Ông biết". Dầu cho người ấy không biết, người ấy vẫn nói: "Tôi
biết"; dầu cho người ấy biết, người ấy vẫn nói: "Tôi không
biết"; hay dầu cho người ấy không thấy , người ấy vẫn nói: "Tôi
thấy"; hay dầu cho người ấy thấy , người ấy vẫn nói: "Tôi không thấy".
Như vậy, lời nói của người ấy trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự
kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
-Và người ấy là người nói
"hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, đi đến chỗ kia nói để sinh chia
rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, đi nói với những người này, để
sinh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy ly gián những kẻ hòa hợp, hay
xúi giục những kẻ ly gián, ưa thích phá hoại, vui thích phá hoại, thích thú phá
hoại,nói những lời đưa đến phá hoại.
-Và người ấy là người nói lời thô
ác . Bất cứ lời gì thô ác, tàn ác, khiến người đau khổ, khiến người tức giận,
liên hệ đến phẫn nộ, không đưa đến Thiền định, người ấy nói những lời như vậy.
-Và người ấy nói những lời phù
phiếm, nói những lời không lợi ích, nói
những lời phi pháp,nói những lời phi luật, nói những lời không đáng gìn giữ. Vì
nói lời nói không có thuận lý, không có
mạch lạc, hệ thống, không có lợi ích.
+3 ác nghiệp của ý:
-Có người có
tham ái, tham lam tài vật kẻ khác, nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của
người khác trở thành của mình!".
-Có người có tâm
sân, khởi lên hại ý, hại niệm như sau: "Mong rằng những loài hữu tình này
bị giết, hay bị tàn sát, hay bị tiêu diệt, hay bị tàn hại, hay mong chúng không
còn tồn tại".
-Có người có tà
kiến, có ý nghĩ điên đảo như: "Không có bố thí,không có kết quả của bố
thí, không có tế lễ, không có cúng dường, các hành vi thiện ác không có kết quả
gì hết,không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có
các loại hóa sinh, trong đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành
trì, chân chính thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và
cho đời sau".
Ðấy là mười nghiệp ác do thân, khẩu và ý tạo tác nếu không đoạn trừ
mười ác nghiệp này thì sẽ đem lại khổ đau ngay trong đời sống hiện tại và sau
khi thân này kết thúc phải đọa vào trong cõi dữ , ác thú, đọa xứ, địa ngục.Như
đức Phật tổ đã khẳng định: "Do nhân hành phi pháp, phi chính đạo, có một
số lớn loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung phải đọa vào trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa
ngục."
*10 nghiệp thiện:
+3 nghiệp thiện (của)
thân:
-Từ bỏ sát sinh, tránh xa sát
sinh, từ bỏ dao, bỏ kiếm, biết làm điều tèt, có lòng từ bi, sống thương xót đến
hạnh phúc tất cả chúng sinh và loại hữu tình.
-Từ bỏ trộm cắp, không lấy của ai, tránh xa trộm cắp, không lấy bất
cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không lấy
trộm tài vật của ai.
-Từ bỏ sống theo tà hạnh (tà dâm)
đối với các dục, không liên hệ đến dục tình với đàn bà con gái
+4 nghiệp thiện (của) khẩu:
-Không nói lung tung, đặt điều,
đến chỗ đông người, hay nơi họp hội, hay
đến nơi họp ,hội của dòng họ, khi được
dẫn ra làm chứng và được hỏi: "Này người kia, hãy nói những gì Ông
biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi biết" , nếu không biết,
người ấy nói : "Tôi không biết"; hay nếu không thấy, người ấy nói:
"Tôi không thấy"; nếu thấy ,người ấy nói:"Tôi thấy". Như
vậy lời nói của người ấy trở thành nói đúng với sự thật mà mình biết.
-Từ bỏ nói"hai lưỡi",
tránh xa nói"hai lưỡi". Nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói với
những người kia để sinh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không
đi nói với những người này để sinh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy
sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp,
nói đến những lời đưa đến hòa hợp.
-Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa
lời nói độc ác, những lời nói nhu hoà, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm,
tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người.
-Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh
xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có
ý nghĩa, nói những lời về chính pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng
được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có
ích lợi.
+3 nghiệp thiện (của) ý:
-Không tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác,
không nghĩ rằng: "Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của
mình!"
-Không có tâm sân (nóng
giận),không có khởi lên hại ý, hại niệm,nghĩ rằng: "Mong rằng những loài
hữu tình này sống không thù hận, không oán thù, không nhiễu loạn,được an lạc,lo
nghĩ tự thân!"
-Có chính kiến, không có tư tưởng
điên đảo: "Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các
hành vi thiện ác có kết qủa dị thục,có đời này,có đời sau, có mẹ,có cha,có các
loại hóa sinh, chân chính tu hành".
Ðấy là 10
nghiệp thiện, nếu như chúng ta thực hiện mười thiện nghiệp này thì không
những trong đời sống hiện tại được hạnh phúc an lạc mà sau khi thân này kết
thúc sẽ được sinh vào cảnh giới an lành.
Còn
10 nghiệp ác là các nhân tố của vô minh
đưa con người đến hố sâu tội lỗi, gây ra khổ đau cho bản thân, cho gia đình và
làm rối loạn cho xã hội .
Khi thấy rõ sự nguy hiểm của mười
ác nghiệp, đức Phật khuyên chúng ta nên xuất ly chúng và thực hành mười thiện
nghiệp để đem lại an lạc cho tự thân, gia đình và góp phần an lạc cho quê hương
và thái bình cho đất nước.
Xã hội ta ngày nay đang trên đà
phát triển về mọi mặt, kinh tế, chính trị,văn hoá, giáo dục v.v... thế nhưng sự
khủng hoảng về tinh thần không phải là ít. Chẳng hạn như nạn tham nhũng, ma
túy, rượu chè, cờ bạc, mãi dâm vẫn luôn luôn là vấn đề nóng bỏng cần được giải
quyết. Nếu thật sự thấy được sự nguy hiểm của mười ác nghiệp chắc hẳn rằng con
người sẽ hành mười nghiệp thiện, vì sự an
lạc của đời này và đời sau.
Làm được như vậy thì mỗi người sẽ có
phần đóng góp ý nghĩa và quan trọng cho sự nghiệp phát triển xã hội ta hiện
nay.
8.- Sự luân hồi của con người
Nói đến
Luân hồi, Luân hồi là sự chuyển biến xoay vần trở lại. Con người chết
đi không phải là hoàn toàn mất hẳn. Thân xác sẽ tan rã theo cát bụi nhưng còn
một phần vô cùng linh hoạt và vẫn hiện hữu đó là linh hồn. Mọi sự vật trong vũ
trụ, thiên nhiên đều chịu sự tác động của luân hồi, nhân quả.
nhiều người quan niệm đó như là chuyện xưa tích có, nhưng thật ra vô cùng
mật thiết với đời sống thăng trầm của kiếp người mà chẳng mấy ai lưu tâm. Cũng
như không khí hít thở hằng ngày rất thiết yếu cho đời sống, nhưng phần đông
không mấy người để ý đến. Từ đó cho ta thấy rằng, không khí trong không gian
quan trọng đối với sức khoẻ sinh tử đời sống nhân sinh như thế nào, thì luân
hồi cũng tương quan mật thiết trọng yếu đối với kiếp sống thăng hoa hay đọa lạc
của con người cũng như thế ấy. Chỉ khác ở chỗ là, không khí thuộc về thể khí
mắt phàm và dụng cụ khoa học có thể thực nghiệm. Còn tâm linh con người thuộc
về tinh thần, quanh quẩn trong luân hồi nổi chìm trong sáu nẻo hay 6 cảnh giới,
mắt phàm khó mà thấy biết.Tuy nhiên những hiện tượng nhất là về tâm linh tinh
thần mắt phàm không thể thấy, biết và khoa học không thể chứng nghiệm mà bảo
rằng không có luân hồi là nông nổi thiếu suy tư. Ðối tượng của trí thức khoa
học là chứng minh sự hình thành của vật thể. Ðối tượng của tuệ giác Phật học là
thuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên
con đường tận cùng chân lý của Phật học. Trước đây hơn 2500 năm, Ðức Phật Thích
Ca đã thuyết minh về đạo lý luân hồi- nhân quả, ngày nay các nhà trí thức nhân
loại mới bắt đầu vén màn huyền bí luân hồi.
Thuyết luân hồi
hay tái sinh có ý nghĩa vô cùng sâu sắc và chi li: mọi sinh vật, sau khi chết
sẽ chuyển hóa từ một thân xác nµy sang một thân xác khác. Ngay cả loài vật và
loài cây cỏ cũng vậy. Luân hồi hay tái sinh là sự chuyển hóa hay sự chuyển
sinh, đầu thai của linh hồn. Nói rõ hơn là khi chết, linh hồn sẽ chuyển từ thân
xác nµy để nhập vào một thân khác. Khi chết thân xác hủy hoại tan rã, chỉ có
linh hồn tồn tại.
Theo Phật giáo thì luân
hồi, tái sinh là một phản ứng nghịch lại, là một sự báo ứng tự nhiên của mọi
hành động. Mỗi hành động đều có những phản ứng dội lại cho hành động gây ra.
Con người phải trải qua nhiều kiếp cho đến khi chịu đủ sự trả Quả tương xứng về
những gì đã làm và không tạo nên Nghiệp xấu thì mới mong được tới cõi an lạc mà
Phật giáo gọi là cõi Niết Bàn. Những ai phạm điều xấu, ác thì khi chết
phải vào địa ngục và chịu những sự xử
phạt công minh.
Theo thuyết của Phật giáo có mười nghiệp dữ (sát sinh, trộm cắp, dâm
dật, tham muốn, tức giận, si mê...) đối lại với mười nghiệp dữ có mười nghiệp
lành như không giết hại, không tham lam trộm cắp, không giận hờn, không mê
muội...) nếu khi sống tạo nghiệp ác thì khi chết phải chịu luân hồi tái sinh
vào thân phận kẻ chịu khổ đau vì phải trả cái nghiệp xấu ấy. Nếu khi sống tạo
nghiệp lành, thì khi chết sẽ luân hồi đầu thai vào thân xác mới có đời sống
sung sướng tốt lành hơn. Nói tóm lại tất cả những gì mà bản thân đang
phải trải qua ở hiện tại chính là kết quả của những nghiệp gì mà kiếp trước bản
thân đã làm. Và tất cả những gì mà hiện tại bản thân hành động thì đó sẽ là cái
nghiệp được tạo lập trong hiện tại để có nghiệp báo ở tương lai tức là sù báo
ứng của việc mình làm.
Người Tây Tạng tin rằng,
vÞ Phật Sống Lạt Ma của họ khi qua đời sẽ lại tái sinh để chăm dắt và che chở
cho dân tộc họ. Cũng vậy, những người Da đỏ Bắc Mỹ tin rằng vị Tù Trưởng bộ lạc đôi khi chọn sự
đầu thai trở lại để giúp đỡ những người trong thị tộc. Ngày nay, một số tôn
giáo khác tuy nhiên một số người dân ở đây vẫn còn tin vào sự tái sinh. Thường
thì họ suy đoán qua giấc mộng, qua lời nói bất chợt của người trong nhà, nhất
là của đứa bé. Sự trùng hợp về hình hài, cử chỉ, hiện tượng v.. v... đều được
chú ý cẩn thận. Đôi khi họ còn tin tưởng rằng người chết hiện về dù trong giấc
mộng cũng bao hàm ý tưởng là họ sắp đầu thai trở lại. Đôi khi họ còn để ý qua
dấu bớt, vết sẹo trên da của trẻ sơ sinh. Nếu giống với dấu vết mà người đã
chết trước đó có thì có thể nghĩ rằng người ấy đã lại tái sinh. Cũng có khi họ
quan sát đứa trẻ về cách cư xử, ăn ở của nó. Nếu giống với người đã chết thì đó
là
điều đáng quan
tâm. Nhiều người trước khi chết thường trối trăn lại lời ao ước muốn hay không
muốn được sinh ra lần nữa.
Nhà khoa học chỉ thấy rõ
sự tiến hóa từ "vạn vật đồng nhất thể" ấy qua sự tiến hóa mà thành
nhiều hướng để phát sinh ra các loài, họ, bộ, giống, ngành sinh vật khác nhau
mà không chú tâm nghiên cứu cái nguyên nhân sâu xa tiềm ẩn bên trong và trước
đó ở mỗi sự vật. Thuyết tiến hóa như thế chỉ phác họa được rằng: "con
người như là một toàn thể đã trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa. Trong khi
thuyết luân hồi cho thấy sự chuyển hóa để thành con người phải trải qua nhiều
giai đoạn của sự tái sinh có liên quan nhiều đến những gì thuộc về tâm linh và
luân lý cùng sự thưởng phạt công minh giống như những định luật tự nhiên trong
vũ trụ. Mỗi con người trước khi trở thành hoàn hảo, hoàn thiện để vào cảnh giới
an lạc phải trải qua nhiều kiếp chuyển hóa tái sinh. Trong các lần chuyển sinh
ấy sẽ có những kiếp khác nhau; khi thì loài vật, khi thì loài người, khi chuyển
sinh thành loài vật, có thể họ phải trải qua nhiều kiếp như khi thì loài nµy
khi thì loài kia tùy theo cấp độ của nghiệp quả. Qua các tài liệu kinh Phật
giáo thì đức Phật Tổ, trước khi thành
Phật, ngài đã phải chuyển sinh qua nhiều kiếp.
Cũng theo thuyết luân hồi thì khi còn là kiếp
thú, kiếp thú cũng có hạn định của nó.
Hạn định tùy thuộc vào những gì mà
nghiệp quả trước đó đã quy định trong thời gian bao lâu để trải qua. Cùng là
một loài vật nhưng cũng vẫn có những con khác nhau về cách sống. Nhưng cùng là
một loài chó, vậy mà có con rất trung thành, hiền lành, từ tốn. Trái lại có con
rất hung dữ, phản chủ, lười nhác, tham ăn...
Tùy theo bản
tính riêng biệt ở mỗi con vật mà luật luân hồi tái sanh quy định cho chúng sự
chuyển sinh vào một kiếp nào đó theo đúng với sự thưởng phạt hoàn toàn vô tư và
công minh. Dù mèo, chó, chim chóc, cây cối...các chủng loại nµy ở cạnh nhau,
gần gũi nhau từ thời đại này qua thời
đại khác và chẳng có gì là đáng ngạc
nhiên khi chúng ta và ngay cả những đứa bé mới hiểu biết cũng vẫn cảm thấy rõ
ràng là có sự tự nhiên, quen thuộc và hầu như gần gũi với tất cả những sinh vật
xung quanh ta với mọi chủng loại. Phải chăng điều đó nói lên rằng ta và những
sinh vật ấy đã có sự liên hệ vô hình nào đó ràng buộc? Phải chăng chúng có cùng
một bản tính với ta là cùng sinh ra, lớn lên, bệnh (sâu, bệnh) dinh dưỡng (ăn,
uống, hô hấp, bài tiết) sinh sản rồi chết là do ta và chúng đã có lần chuyển sinh cho nhau từ muôn ngàn
kiếp trước và sẽ còn gặp gỡ ở những kiếp tái sinh? Thế gian, vạn vật
đồng nhất thể đã một phần thể hiện ở đó. Nhìn mọi loài vạn vật chung quanh
chúng ta mới thấy được những hình thức tiến hóa quy tụ cả trên thế gian nµy
giống như trong một trường học có vô số học sinh nhưng khác nhau về trình độ
tri thức, số năm học, lớp học, môn học...
Ngay trong một
kiếp sống của ta, nếu tìm hiểu kỹ và suy luận theo thuyết luân hồi thì (theo
D.J.Suziki) cũng thấy được một cách khá rõ ràng những giai đoạn tương ứng với
những cõi mà suốt trong vô lượng kiếp ta đã phải và sẽ trải qua. Daisetz
Teitaro Suzuki đã viết trong cuốn “Mysticism Christian and Buddisht” một đoạn
về nhận định nµy với đại ý như sau: "qua những kinh nghiệm hàng ngày của
mỗi con người chúng ta, nếu lưu tâm để ý chúng ta sẽ thấy ngay trong cuộc sống
của đời mình có tất cả những gì mà ta có thể kinh nghiệm được bằng cách đi qua
một hạn kỳ về tái sinh dài. Những gì mà chúng ta có được hay gặp phải khi đang
còn sống đều thấy có sự tương đồng với nó ở một nơi nào đó ở cõi thanh cao tốt
đẹp là chốn thiên đàng hay dưới
®Þa ngục hoặc ở những nơi khác như cõi ngạ quỉ, súc sanh. Khi ta vui vẻ hớn hở,
hạnh phúc chính là điều tương ứng
với cõi thiên đàng, còn khi
ta đau khổ, gặp hiểm nguy, tai họa khốn cùng là như ta đã rơi vào cõi địa ngục.
Khi ta tức giận, nộ khí xung thiên là như ta đã đi vào cõi A-tu-la rồi
vậy..."
Theo
Jean Francis Crolart, nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi và tác giả cuốn sách nổi tiếng nhan đề:
"Tái sinh sau khi chết đã ghi nhận rằng "Kiếp sống hiện nay của mỗi
con người chúng ta tùy thuộc nhiều kiếp sống trước đây (tiền kiếp) nhưng chính
từ kiếp sống hiện tại sẽ đặt nền tảng và tiền đề cho kiếp sống ở tương lai hay
hậu kiếp.Trung bình một“linh hồn” bị giam ở Địa ngục là khoảng 250 năm thì đi
tái sinh vào kiếp luân hồi; Còn tái sinh là
gì còn phụ thuộc vào nghiệp tu của mỗi con người, của mỗi sinh. Giữa
thời gian này, mỗi “linh hồn” sẽ nhìn nhận lại kiếp sống đã qua và từ đó sẽ
chọn lựa một cách lý tưởng cho cuộc tái sinh kế tiếp."
Ðối với vấn đề luân hồi, vào cuối thế kỷ 20, những nhà khoa học, triết học, tâm
lý học v.v...đã nhiều năm để tâm cố gắng nghiên cứu thực nghiệm qua những hiện
tượng và đã gặt hái được những thành quả đáng kể, điều đó được ghi nhận trình
bầy qua các bản báo cáo, sách báo bằng phương pháp khoa học thực nghiệm, làm
cho vấn đề luân hồi trở nên sáng tỏ.
Ðể cống hiến cho những ai yêu thích tìm
hiểu đời sống tâm linh sinh động thăng trầm chuyển hóa qua các dạng thức,
Thượng tọa Thích Tâm Quang đã dầy công nghiên cứu và trải nghiệm ghi lại một số
chuyện và viết thành tập "Những
Chuyện Luân Hồi Hiện Ðại".
Chương III
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN
(ÔNG, BÀ,CHA, MẸ…)
1.Thờ cúng Tổ tiên (hay gọi là Gia tiên)
Phong tục
thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt có từ rất lâu đời. Khó có thể xác định việc
thờ cúng tổ tiên của dân tộc ta có từ bao giờ. Trên thế giới cũng rất ít dân
tộc có phong tục này. Đó là một phong tục đẹp giàu bản sắc, có tính chất giáo
dục truyền thống cho các thế hệ.Tự bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang
trong nó những giá trị văn hóa nhân bản, chính vì lẽ đó mà người dân Việt Nam
có thể chấp nhận nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Tuy nhiên, phong tục thờ cúng tổ tiên không phải là một thứ tôn giáo dựa vào
bảy căn cứ dưới đây.
Thứ nhất:
Một tôn giáo nói chung phải có tính nhân loại, không có tính Tổ quốc. Tức là
không có biên giới cho sự tồn tại. Quyền uy của Giáo hoàng vì thế rất lớn,
nhiều khi át cả chính quyền nhà nước.
Ở Việt Nam thì khác: Tôn giáo nào vào Việt Nam cũng phải đứng hàng thứ hai sau
việc yêu nước. Thế nên bây giờ chúng ta vẫn có khẩu hiệu: “Kính chúa yêu nước”,
Hay “Tôn sư trọng đạo”… ở các nơi trong nhà thờ hay lời căn dặn của các giám
mục.
Thứ hai: Tôn
giáo lấy kiếp sống sau khi chết là chính. Thế nên mới có người mong được tử vì
đạo. Ở Việt Nam: Kiếp sống hiện tại chính là thiên đường nên việc thờ cúng tổ
tiên cũng chính là việc cầu xin ông bà phù hộ cho mình, cho cộng đồng, Tổ quốc
mình.
Thứ ba: Tôn
giáo vào nước nào cũng thành một hệ thống chặt chẽ. Mỗi tôn giáo có nơi sinh
hoạt tín ngưỡng riêng. Với đạo Thiên chúa là nhà thờ và có giám mục, với đạo
Phật là chùa và các nhà sư...Còn ở Việt Nam: Việc thờ cúng tổ tiên không hề có
sự áp đặt. Bản thân ai muốn thờ cúng tổ tiên cũng được, chuyện này hoàn toàn do
tự nguyện.
Thứ tư: Tôn
giáo nào đã được thờ thì không có chỗ cho tôn giáo khác. Nhưng tại Việt Nam:
Các tôn giáo đều được bình đẳng tồn tại. Người dân có quyền theo hoặc không
theo tôn giáo nào. Vì quyền tự do tín ngưỡng nên mới có hiện trạng một số đạo
phát sinh tại Việt Nam như: Đạo Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện chưa lâu nhưng
dung hòa được nhiều đạo khác trong nó.
Thứ năm: Tôn giáo có những cái không
thể giải thích mà chỉ có đức tin thuần túy. Những kinh sách giáo huấn nói rằng
đức chúa trời có ba ngôi... Còn ở Việt Nam: Việc thờ cúng tổ tiên thì không có
tín điều nào. Chỉ có một điều rất đơn giản là: Cha mẹ sinh ra mình thì mình
thờ. Không ai trách ai theo tôn giáo này mà không theo tôn giáo kia. Kể cả
người theo Đảng mà tôn giáo tín ngưỡng là Phật cũng được.
Thứ sáu: Tôn
giáo có trường lớp đào tạo bài bản. Với đạo Thiên chúa có trường dòng, đạo Phật
có nhà chùa dạy kinh kệ, sau lập Đại học phật giáo...
Phong tục thờ cúng tổ tiên lại không hề có một trường lớp nào. Việc cúng khấn
cũng không có một chuẩn mực nào nhất định. Việc thờ cúng làm con người đoàn kết
cộng đồng. Ngay bản thân việc thờ thành hoàng cũng thế. Không có gì là huyền bí
cả. Chỉ đơn giản là người dân thờ một người nào đó có công với làng.
Thứ bảy: Tôn
giáo tôn thờ một thế giới riêng. Thế giới đó quyết định thế giới ngày hôm nay.
Vì thế có những người nắm được thế giới đó và có người biết được con đường đó.
Lẽ tự nhiên con người muốn tồn tại phải sản xuất. Đã sản xuất thì thay đổi thế
giới. Vì vậy, con người có tham vọng thay đổi thế giới. Từ đó nảy sinh những
cuồng vọng. Tôn giáo vì thế nhiều khi có tham vọng chính trị. Còn phong tục thờ
cúng tổ tiên của Việt Nam không tham gia chuyện đó.
Với những
nét tính chất nhân văn trên, có thể nói rằng: Phong tục thờ cúng tổ tiên là một
phong tục đẹp, ưu việt.Tự bản thân phong tục này đã khẳng định từ xưa cha ông
ta đã có một cuộc sống tự do và rất dân chủ. Vì lẽ đó, văn hóa làng xã của Việt
Nam là hết sức phong phú. Có được những nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc là do
dân tộc Việt sống trong một môi trường hoàn cảnh địa lý đặc biệt. Chính hoàn
cảnh quyết định cách sinh tồn của con người.
2.Bàn thờ thờ
gia tiên
Thông thường, Trong mỗi gia đình, bàn thờ cúng
tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và trở thành nơi con cháu khấn vái
trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết, hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc
nhỏ với mong muốn được gia tiên phù hộ. Nói chung, mọi biến cố trong gia đình
đều được gia chủ báo cáo với gia tiên. Bàn thờ thường được đặt ở nơi cao ráo,
sạch sẽ và trang trọng nhất (Nếu gia đình có điều kiện thì thờ ở phòng riêng). Bàn thờ tổ tiên chính là một
cách thể hiện chữ Hiếu của con cháu. Không chỉ nhớ về nguồn cội, chúng ta coi tổ tiên của gia đình mình chính là các vị
thần linh thiêng luôn ở bên cạnh để phù hộ độ trì cho con cháu.Trên bàn thờ tổ
tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có
cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ); ở hai góc ngoài bao
giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến, ngày nay thường là đèn điện) tượng trưng
cho mặt trời ở bên trái và mặt trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên
(có lúc thỉnh cầu, có khi sám hối..., người ta thường đốt nến (hay đèn dầu, đèn
điện) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà
tổ tiên. Đặc trưng của văn hóa nông nghiệp cũng được thể hiện ở trên bàn thờ tổ
tiên của người Việt. Thông thường, ở trước bát hương thường đặt ba chén nước
trong (hoặc có nhà đặt một chén là vừa đủ). Mỗi lần thắp hương chủ lễ (Chủ nhà)
cũng vẫn phải thay nước mới để tỏ lòng
thành kính trắng trong. Phía sau bát hương hoặc bên cạnh thường đặt
có một cái đỉnh ba chân, nắp đỉnh được vẽ hình con lân với ý nghĩa sức
mạnh bề trên kiểm soát tinh thần con cháu khi đứng trước bàn thờ. Bàn thờ tổ
tiên luôn cần được thanh tịnh. Vì thế, đồ tế lễ chỉ có thể là hương, hoa, trà,
quả... Những ngày Giỗ, Tết, con cháu muốn dâng cúng cỗ mặn phải đặt ở một chiếc
bàn phụ phía trước và thấp hơn bàn thờ chính.Tết là thời điểm quan trọng trong
năm cho nên bàn thờ ngày Tết cũng trở nên đặc biệt. Việc trang hoàng bàn thờ
tùy thuộc điều kiện hoàn cảnh mỗi nhà nhưng dứt khoát nhà nào cũng phải bày mâm
ngũ quả. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có 5 màu khác nhau như chuối xanh,
bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt cam
tượng trưng cho mong ước: phú (giàu có) - quý (sang trọng) - thọ (sống lâu) -
khang (khỏe mạnh) - ninh (bình yên).Còn thời điểm nào thiêng liêng hơn khi cả
nhà thành kính đứng trước bàn thờ tổ tiên thắp những nén hương trầm ngào ngạt.
Tình người nồng ấm, tình đời rộng mở. Và, một năm mới tràn đầy hy vọng bắt đầu.
Thờ cúng tổ tiên là tấm lòng thành kính thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn,
biết ơn tổ tiên ông bà, cha mẹ đã sinh thành và gây dựng nên cuộc sống cho cháu
con. Thờ cúng tổ tiên chính là toàn bộ các hình thức lễ nghi, cúng bái nhằm bày
tỏ lòng tôn kính của các thế hệ sau với những người thuộc thế hệ đầu tiên của
một dòng họ, với ông bà, cha mẹ đã qua đời. Tục thờ cúng tổ tiên của người
Việt ra đời từ lâu, trên cơ sở niềm tin về sự bất tử của linh hồn sau khi con
người đã chết; tin rằng con người ta chết đi về thǎm nom, phù hộ cho con cháu.
Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén nhang lên bàn thờ tổ
tiên trong ngày lễ, ngày Tết, hay ngày giỗ tổ tiên, con cháu trong gia đình
cũng đã thể hiện được tấm lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những
người thân đã khuất. Từ lâu, thờ cúng tổ tiên ông bà đã trở thành một phong
tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, đồng thời là một phần quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam, đặc biệt là cuộc sống ở các
làng quê. Dân Việt Nam trọng lễ nghĩa, hiếu thảo với cha mẹ và có hiếu với ông
bà tổ tiên, với nguồn gốc của mình bởi:
Cây có gốc mới nở cành xanh
ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu
Trong quan niệm dân gian Việt Nam, qua việc thờ cúng tổ tiên, giới vô
hình và giới hữu hình luôn luôn như có một sự liên lạc cần thiết. Sự thờ cúng
chính là môi trường gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ thần linh.
Đối với người Việt
Nam cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn và
vẫn hằng “Đi-Về” gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt.Tin rằng
Dương sao âm vậy. Người chết cũng có một
cuộc sống ở cõi âm như cuộc sống của người trên dương thế, cũng ăn,
uống, tiêu pha, nhà ở như người sống. Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết và
việc thờ cúng tổ tiên không thể không có được. Các nhà ngoại cảm đã minh rằng: linh hồn người đã khuất thường luôn ngự
trên bàn thờ và thường ở trên những bông hoa, do vậy phải thường xuyên thay hoa
tươi. Những
người chết từ 4 đời (tứ đại) đều được về
với gia đình, ai về nhà nấy. Con cháu có tâm luôn luôn tưởng nhớ tổ tiên
ông bà, cầu xin được các vị tứ đại. ông bà về độ trì cho. Sau khi chết 1 thời
gian, họ về với gia đình, sum họp với con cháu như khi còn sống người trần
không biết mà thôi. Họ giúp đỡ con cháu để sửa cái tâm, làm ăn lương thiện. ai
biết thì “âm phù dương trợ’, con cái sống làm ăn khá lên. Linh hồn thường
về để gần gũi con cháu, theo dõi con
cháu trong công việc hàng ngày và giúp con cháu trong những trường hợp cần
thiết. Sự tin tưởng vong hồn ông bà, cha mẹ ngự trên bàn thờ, có ảnh hưởng
nhiều đến hành động của người sống. Trong công việc hàng ngày nếu “công to việc
lớn” gia chủ thắp hương báo cáo và đôi khi định làm một công việc gì đó xin
phép gia tiên (ông ,bà, cha ,mẹ, người phù hộ mình..) xem công việc định làm có được không để gia
tiên phù hộ, chấp nhận cho.
Xin tổ
tiên phù hộ cho gia quyến bình an, đó là tâm niệm của tất cả người Việt Nam.
Trên thực tế, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, cho
dù đó không phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành
vǎn" trong đời sống tâm linh của người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Theo
phong tục, bàn thờ gia tiên được đặt ngay tại gian nhà chính. Nếu nhà giàu có
thì đồ thờ phụng thật trang hoàng, sơn son thiếp vàng. Còn gia cảnh túng bấn
thì cũng chỉ cần vài cây đèn nến sơn son và một bình hương là đủ. Xưa kia,
những nhà quyền quý có đủ thần chủ bốn đời để thờ (đó là cao, tằng, tổ,
khảo). Đồ thờ tự được coi là những vật
linh thiêng. Ngày nay, do tác động của nếp sống mới, gia đình có bàn thờ cổ
không còn nhiều. Nếu những nhà nghèo không có điều kiện đồ thờ chỉ gồm
một bình hương nhỏ, khung ảnh thờ người quá cố và một số đồ bày biện khác, có
thể lập bàn thờ trên một tấm ván đóng trên tường, có khi là trên nóc tủ... như vậy cũng được vì do “tâm”
là chính; nhưng tuyệt đối cấm lập bàn thờ trong phòng ngủ của vợ chồng.
Sau khi đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng
(có thể là chủ hộ hoặc con trưởng nam hoặc cháu đích tôn (Ngày nay vợ, hoặc
chồng đều được cả )... khăn áo chỉnh tề, thắp hương, đứng trước bàn thờ, vái và
khấn. Hương thắp trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ:1,3,5… nén. Sau khi
gia trưởng khấn lễ, lần lượt đến mọi người trong gia đình vái trước bàn thờ.
Ngày nay, việc khấn lễ đã giản đơn truyÒn thèng, người ta chỉ vái thay lễ.
Trước khi khấn, trước vái ba vái ngắn, khấn xong vái bốn vái dài và ba vái ngắn. Khi mọi người đã
lễ vái xong, chờ cho hương cháy.Khi hương cháy hết hoặc 2/3 ; Gia trưởng (vợ, hoặc chồng) tới trước bàn thờ
lễ tạ và thắp thêm một lần nữa (hay tuần hương) nữa.Khi hương cháy hết, gia
trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem hoá (đốt). Lúc hoá vàng m· người ta thường
lấy chén rượu cúng vẩy lên đống tàn vàng m·. Các cụ giải thích, có như vậy
người dưới âm mới nhận được số vàng mã người sống cúng. Lúc này có thể hạ đồ lễ
xuống hưởng.
Bàn thờ Đặt hướng nào?
Bàn thờ đúng cách là hướng bàn thờ đặt theo hướng cửa chính (cửa to),
nhà hướng nào đặt bàn thờ theo hướng đó, (trong dân gian có thể xem đặt bàn thờ
theo hướng của tuổi), khi cúng mặt quay vào bàn thờ. Nếu có nhà riêng, tương
đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ
cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp
khách. Nếu đặt bàn thờ Phật, gia thần riêng, thì phải đặt bàn thờ gia tiên thấp
hơn bàn thờ gia thần một ít. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường
hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh
lối đi. Đối với những gia đình ở khu tập thể nhà tầng, nếu không còn chỗ nào đặt được bàn thờ, chỉ đặt
một lọ cắm hương đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính,
chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao. Không kê bàn thờ đối
diện với phòng ngủ của vợ chồng. Quy cách bàn thờ (Chiều cao, chiều rộng, chiều
dài) nên lấy theo thước lỗ-ban; bàn thờ nên có mặt rộng đủ để đặt bát hương, lọ
hoa, đèn nến, đĩa quả…và ảnh thờ. Tiêu chí bàn thờ là nên đặt ở vị trí cao,
phía trên là nóc nhà hay trần nhà và có bầu trời , nên đặt ở tầng trên cùng là
đạt yêu cầu nhất. Bàn thờ phải luôn sạch sẽ và thường xuyên thắp hương. Bản
chất của bàn thờ là luôn có khí âm nên
trên bàn thờ đèn, nến…phải luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương. Điều này
đặc biệt quan trọng.
Mâm cơm cúng như thế nào là đúng: Thông thường khi cúng giỗ các gia
đình thường có một mâm cơm cúng gọi là “lễ măn”; mâm cơm cúng gồm có xôi, gà,
giò, canh, rượu, hoa quả, trầu cau, thuốc lá…(tùy theo từng gia đình) và bầy
bát đũa; ở đây xin nói rõ về xếp bát đũa cúng như thế nào cho đúng cách. Theo
nhà ngoại cảm Thanh Hải: Khi cúng chỉ có một bát cơm, còn về bầy bát đũa như
sau:“Khi cúng phải có 6 bát, 6 đôi đũa: 2
bát cho các cụ Tứ đại, 2 bát cho bố mẹ (nếu đã qua đời/ Chưa qua đời thì bỏ), 2
bát cho họ hàng nội ngoại 2 bên.”
3.Cách lập bàn thờ vọng-lập ở nơi xa quê
cha đất tổ:
là lập bàn thờ ở nơi con, cháu công tác chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa có
nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu thế kỷ XX
lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận tiện mà vận dụng: Khi bắt đầu lập bàn thờ vọng phải
về quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó xin phép chuyển một lư
hương phụ hoặc chân ba nén hương đang cháy giở (hoặc ba chân hương) mang đến
bàn thờ vọng rồi th¾p tiếp. Theo phong tục, con trai trưởng là người có trách
nhiệm tổ chức. Nếu con trai trưởng không còn thì việc cúng giỗ sẽ do cháu đích
tôn tổ chức (chỉ khi nào trưởng nam không may tuyệt tự, không có con trai nối
dõi thì mới đến con thứ). Tuy nhiên, không vì thế mà những người con thứ, cháu
thứ, cháu ngoại bỏ ngày giỗ ông bà, cha mẹ. Đến ngày giỗ, họ phải tề tựu ở nhà
người con trưởng và cũng phải mang đồ lễ cúng tới để gửi giỗ. Trước ngày giỗ,
trưởng nam làm lễ b¸o cáo với Thổ công để xin phép với Thổ công cho hương hồn
người đã khuất được về phối hưởng bởi vì người ta cho rằng "đất có Thổ
công, sông có Hà bá", chỉ khi có phép của Thổ công hương hồn người đã
khuất mới vào được trong nhà.
Đồ lễ dâng cúng gia tiên bao giờ cũng
phải thanh khiết, không con cháu nào được đụng tới. Cỗ bàn nấu xong, trước cúng
gia tiên trước con cháu mới được ăn sau. Khách tới ăn giỗ có mang đồ lễ để
cúng, thường là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa quả. Quan hệ huyết thống của Việt Nam khá phức
tạp. Gia đình chỉ là một đơn vị độc lập tương đối bởi vì giữa các gia đình trên
một phạm vi nào đó lại tồn tại một quan hệ ràng buộc mà người ta gọi là họ
hàng, dòng tộc. Và theo "quy định" huyết thống ấy, nhiều gia đình sẽ
họp thành một ngành, nhiều ngành họp thành một họ. Mỗi họ có một ông Tổ chung.
Con cháu trong một họ lập Từ
đường để thờ vị Thuỷ tổ. Trên bàn thờ ấy có bài vị Thuỷ tổ dòng họ. Xưa kia bài
vị thường được ghi bằng Hán tự, ngày nay có nhiều người dùng chữ Quốc ngữ để đề
bài vị. Ngoài thần chủ đồ thờ còn bao gồm đèn nến, hương, hoa, mâm quỳ, mâm
bồng, cổ đài rượu... Hoành phi câu đối trên đó ghi lại công đức của tổ tông là
đồ không thể thiếu trong gian thờ. Có nhiều họ không xây Từ đường thì xây một
đài lộ thiên, dựng bia đá, ghi tên thụy hiệu các tổ tiên. Mỗi khi có giỗ tổ
hoặc có tế tự thì cả họ ra đó cúng tế.
Đã bao thế kỷ trôi qua, cung cách và quan
niệm thờ phụng tổ tiên của người Việt Nam xét theo góc độ nào đó đã có
nhiều thay đổi nhưng ý nghĩa lớn nhất thì vẫn giữ nguyên. Người Việt Nam coi việc
thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người. Đó là hình
thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh
thành.
5. -Lễ cúng giỗ
vào ngày nào?
Lễ cúng giỗ vào đúng ngày mất hay trước
ngày mất một ngày? Có người cho rằng phải cúng vào ngày đang còn sống (tức là
trước ngày mất), có người lại cho rằng "trẻ dôi ra, già rút lại", vậy
nên chết trẻ thì cúng giỗ đúng ngày chết, còn người già thì cúng trước một
ngày. Vậy có câu hỏi: "Người trung niên chết thì cúng vào ngày nào"?
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ
nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là
ngày kiêng kỵ.
Nguyên ngày trước, "Lễ Giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ": chiều hôm
trước lễ chính kỵ có "Lễ tiên thường" (Nghĩa là nếm trước), con cháu
sắm sinh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà
phú hữu mời thông gia, bà con làng xóm đến mời ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và
chính kỵ. Dần dần vì khách đông phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng
xóm mời cả hai vợ chồng nên luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi
lễ chính kỵ, ở nông thôn tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay
bữa giỗ", buổi chiều đi làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có
nơi lễ tiên thường đông hơn là lễ chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì
kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời
khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm,
những người khác thấy thuận tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa
phương.
Việc cúng ngày sống (tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước,
nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và
ra khấn ở mộ yết cáo với thổ thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ
giỗ). Cúng ngày sống hay cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay
lễ chính kỵ, lễ nào là lễ quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho
phong tục từng nơi.
Kết luận: Nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền
phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều,
cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó.
Mấy đời tống
giỗ...
Theo gia lễ:
"Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của
cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào
thuần chủ ông khảo.
Thực chất chỉ có bốn đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông
cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời). Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ,
thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ các đời vào chung
một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là Hiền khảo,
Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà, đối thần chủ
là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ
cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ kỵ là Hiền Cao tổ
khảo (hoặc tỷ). Sau năm đời thì rước vào nhà thờ tổ rồi chôn thần chủ đó đi.
Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất (thuỷ tổ hoặc
tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là "Vĩnh thế thần chủ".
Theo
nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn,
tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình).
Như vậy là có 4 đời làm giỗ (cao , tằng,
tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ.
Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên
tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế,ngày Vu-Lan hoặc phụ tế
vào các ngày khác trong năm.
Khi Thờ-
cúng- giỗ - và “Linh hồn” ăn bằng gì?
-Mục đích thờ-cúng Tổ tiên –Gia Thần là để:
+Tri
ân và Báo ân Tổ tiên là các bậc Ông ,
Cha đã dày công sinh thành ra chúng ta trong cuộc đời này.
+Tổ
tiên đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng và bảo vệ bờ cõi , kiến tạo xã
hội và giòng Họ.
+Ghi
ân và noi gương các liệt tổ, liệt tông đã hy sinh cho sự sống còn của giống
nòi.
+Chúng
ta thờ Phật, thờ Thần là để quy ngưỡng, hướng về các bậc đã giác ngộ và có công
giải thoát, dẫn dắt chúng sinh và chúng ta đi trên con đường Hướng thiện.
+Thờ
cúng Tổ tiên cần thiết cho việc Tu thân
và hướng dẫn con, cháu làm tròn bổn phận của con người đối với người đã sinh
thành, dưỡng dục.
-Ý
nghĩa:
*Đối
với Tổ tiên:
-Là môi trường giao cảm và nối thông Tâm
linh giữa người thờ và các Hương linh của dòng họ.
-Sử
dụng năng lực Tâm linh thành kính của mình biến hương vị lương thực, thức ăn
hiến cúng thành dưỡng khí và chuyển dưỡng khí đó thành chất liệu dưỡng sinh để
mang đến cho người mình cúng qua hệ thống tâm linh, người đó đang ở cõi khác tự
nhiên được nhiều may mắn và đáp lại chúng ta. Chúng ta nhận lại nhiều sự may
mắn bất thường gọi là Phúc –đức của Tổ
tiên, ông bà.
-Thờ-Cúng nhiều lần tức là tăng năng lực nguyện cầu
trên đường dây Tâm linh dòng họ thì người mình cúng sẽ được hưởng ngay; đồng
thời có sự đáp lại gọi là sự phù hộ độ trì của Tổ tiên và các Hương linh trong
dòng họ đối với mình “Cầu được ước thấy”.
*Đối
với Phật, Thánh ,Gia thần:
-Bày
tỏ lòng tôn kính của mình lên các Tiền nhân, các Thánh đức mà mình đã dâng trọn
niềm tin.
-Thành
kính và
Sự tin tưởng tuyệt đối vào sự phù hộ độ trì của Phật- Gia thần –Thánh
trong cuộc sống hàng ngày.
-Có
sự giao cảm đặc biệt vào Phật- Gia thần –Thánh , hướng tới một nơi an lành và
đặt niềm tin tuyệt đối. “ Có thờ có
thiêng có kiêng có lành”.
-Cách
ăn của Tổ tiên,ông bà:
Theo Thượng tọa Thích Thắng Hoan (sách
Thờ cúng và lễ bái do nhà xuất bản thời đại xuất bản tháng 10/2009 ). Thì cách
ăn của Tổ tiên,ông bà do không còn mang thân xác thịt của loài người và không
còn sống trong thế giới loài người nên gọi là “Thân trung ấm ”hay “Linh hồn”
nên cách ăn của Tổ tiên,ông bà: là
ăn Hương vị của các món đồ mà con cháu dâng cúng và mùi hương. Do vậy, nếu khi
cúng mà không có các món đồ -lễ vật (Đồ
chay: bánh, hoa , quả; Đồ mặn:cơm ,canh, thịt.. và hương thơm) có mùi hương vị
thì Tổ tiên, ông bà sao mà hưởng được? Hương vị của món đồ dâng cúng còn là sự
thành kính tưởng niệm để tri ân và báo ân và Tổ tiên,ông bà.
-Cách
ăn của Phật và các vị Bồ Tát:có 5 cách ăn rất trong sạch:
+Thiền
Duyệt thực: dùng thiền để tâm sạch và tâm an vui.
+Pháp
Hỷ thực: Nghe giảng Pháp của Phật để tâm sinh hoan hỷ.
+Nguyện
thực: duy trì bản thân thường xuyên tu vạn hạnh.
+Niệm
thực:Sau khi đã xác định con đường tu hành thì mãi mãi xuất gia ở con đường tu
hành.
+Giải
thóat thực:Khi tu đã thành Phật là sự tự giải thoát mãi mãi ở lại đất
Phật.(không còn vướng vào 6 cảnh giới).
Chương kết luận
Những vấn đề qua nghiên cứu đã trình bầy
ở trên:Phật là một hheej thống tư tưởng, một tôn giáo, một tinh thần khoa học,
một lối sống có lý, thực dụng và bao quát. Trong hơn 2500 năm qua, Phật đã thỏa
mãn nhu cầu của gần 1/3 dân số thế giới. Chính tôn giáo này đã lôi cuốn các
nước Phương Tây, nhấn mạnh về lòng tự tin đi đôi với độ lượng về một số quan
điểm khác; Bao gồm khoa học, tôn giáo, triết học, tâm lý học, đạo đức và mỹ
thuật nhằm vào riêng con người; con người sáng tạo ra đời này của mình và cũng
chính mình là người phác họa ra số mạng của mình.Theo Hòa thượng THÍCH THANH TỪ:
Học và tu Phật trong một khuôn khỏ rất nhỏ hẹp, giống như việc “lấy thúng úp
voi”, khó tránh khỏi lỗi và khó hiểu, thiếu sót. Chỉ mong độc giả nhận được
then chốt của vấn đề và tiếp tục xem nhiều quyển sách khác hoặc nhờ sự chỉ bảo
tận tình của Tăng, Ni hay thiện hữu để hiểu thêm về con đường tu hành về cõi Phật; cõi cực lạc ở Tây Phương. Có thể
nói Phật là người đã giác ngộ và giải thoát sinh tử , đó là vị trí căn bản của
Ngài. Chúng ta đừng xê dịch, đừng tô điểm, đừng ép buộc Ngài phải dời chỗ căn
bản ấy. Phật pháp và những lời dậy chỉ ra lẽ thật: Lẽ thật trên hình tướng sự
vật là Nhân –Quả, lẽ thật trong sự cấu tạo kết hợp là duyên sinh, lẽ thật thầm
lặng trong bản thể là chân không hay Phật tính.Chúng ta là những “người thường
mắt thịt” không thể hiểu được những gì đã xẩy ra trong thiên nhiên rộng lớn;
Đức Phật Tổ đã trải qua Tu hành và Chính quả; Ngài chỉ bảo cho chúng ta đi trên
con đường mà Ngài đã giác ngộ, chúng ta nhận thức và hiểu ứng dụng vào cuộc
sống của CON NGƯỜI và thực hiện cần nhờ cặp mắt trí tuệ sáng suốt mới thành
công.Học và Tu theo Phật là ứng dụng những lẽ thật đã nhận xét được vào cuộc
sống hàng ngày của chính mình. Gỡ sạch mọi phiền não đang trói buộc gắn chặt
trong tâm tư con người chúng ta, đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và vĩnh
viễn ở tương lai. Chẳng những thế tu Phật còn có ý nghĩa vượt ra ngoài vòng
luân hồi SINH-DIỆT, thoát khỏi mọi khổ hạnh của cuộc đời. Với những điểm chủ yếu
trên chúng ta nhận thức chắc chắn xâu xa, là trong tay đã có sẵn ngọn đuốc
sáng, trên con đường đi ắt không đến nỗi lạc lầm. Giá trị của Phật Pháp là biết
để hành, không phải biết để nói. Thực hành sâu chừng nào càng thấy giá trị Phật
Pháp cao chừng ấy. Biết để nói, là người trình bày đủ mọi thức ăn, mà bụng vẫn
đói; là nhân viên phát ngân trong ngân hàng cả ngày đếm tiền, khi ra về chỉ hai
tay không.Ước mong độc giả xem sách vững lòng tin để hướng đến nơi tốt lành
mang hạnh phúc cho chính mình và gia đình mình ngay từ bây giờ.
Làm thế nào để xây dựng
một gia đình hạnh phúc? Theo nhà ngoại cảm Thanh Hải: “Nhà hoàn hảo loại 1
là:Con cái hòa thuận, làm ăn đúng hướng, đúng khả năng và phát triển, không ai
tranh giành kiện cáo (Trong nhà và người ngoài), nội bộ đoàn kết. Ngược lại là
nhà có vấn đề”.
Do vây;
Thứ nhất đối với bậc làm Cha-Mẹ:
Các bậc làm cha mẹ có bổn phận làm cho con một đời sống An Lành và Hữu Phúc:
-Dạy con tránh xa và
không sa chân vào con đường xấu và ác: Gia đình và nhà trường gieo mầm tốt cho
trong mọi mặt.
-Dẫn dắt con đi trên con
đường thiện: Phải chú ý đến việc dạy con: Không sát sinh, biết yêu thương con
người, yêu thương chúng sinh. Không trộm cướp :tạo cho trẻ sự sống trong sạch,
lòng liêm khiết, tránh xa tệ nạn xã hội. Về luân lý: Dạy con giữ thân và tâm
trong sạch, dạy con tránh xa bạn bè có thói hư tật xấu. Con đi đâu phải biết và
xin phép cha mẹ. Kiểm soát việc học hành củ con cái. Cha mẹ phải là tấm gương
trong mọi mặt của cuộc sống. Dạy con không được nói dối. Nếu phát hiện con nói
dối phải vạch chỉ cho con thấy sự nói dối và tác hại đến mai sau như thế nào.
Phải dạy con thế naò để con mình luôn thật thà và không biết nói dối. Lời răn
dạy không cộc cằn, nên nói lời dịu ngọt; cần thiết phải có thưởng phạt để con trẻ biết và tự sửa
chữa. Dạy con không được uống rượu bia, các chất kích thích: giải thích cho con
hiểu tác hại của các chất kích thích. Mình dạy con, vậy cha mẹ có nên uống bia
rượu, chất kích thích trước mặt con cái không? Trông chừng con cái cũng đòi
uống thử rượu, bia khi mà nhà có khách hay hội họp?
-Dạy con hoặc tìm cho
con một nơi có truyền thống giáo dục tốt (và có thể tốt nhất). Bổn phận của cha
mẹ là có trách nhiệm cho con một nơi có truyền thống học tập tốt nhất. Dạy cho
con lòng hiếu học, phận làm con phải chăm chỉ học hành. Chẳng những bản thân
được công thành danh toại mà còn đem tài đức phụng sự đất nước, nhân dân.
-Tìm nơi xứng đáng để
dựng vợ gả chồng cho con. Nhưng cha mẹ cũng phải biết ngày nay trong tình yêu đôi lứa không còn lạc hậu như xưa
nữa; cho nên phải khuyên giải, định hướng
để các con có một tình yêu lý
tưởng và hạnh phúc. Những người làm cha mẹ phải không khéo và hiểu biết về tình
yêu thời hiện đại.
-Biết phân chia sự
nghiệp và tài sản, tiền vốn đúng lúc. Vì sao?Đạo làm cha làm mẹ ai chẳng yêu
thương con mình từ khi lọt lòng đến khi trưởng thành. Cha mẹ vẫn luôn là ngọn
đuốc sáng dẫn đường để con đi; và một
ngày nào đó phải nghĩ đến việc chia sự nghiệp và tài sản, tiền vốn của vợ chồng
mình chắt chiu, dành dụm cả cuộc đời cho con cái. Lúc này đây khi đã chia cho
các con cũng phải lựa chọn và định hướng để số tài sản này sẽ sử dụng ra sao?
Bậc làm cha mẹ không được có tư tưởng trọng nam khinh nữ; cho con tai nhiều
hơn. Tài sản chia phải đảm bảo : có tính cân bằng, dù trai dù gái cũng phải
ngang bằng nhau vì các con đều do cha mẹ sinh thành. Phải định hướng kinh doanh
để sinh lời trong tương lai. Chọn đường và giúp con tự chủ trong kinh doanh,
sản xuất, làm ăn để tự tạo cho mình một cuộc sống an toàn, hữu phúc. Riêng con
gái cha mẹ còn phải dạy con về các công việc “nữ công gia chánh” đó là những
công việc về gia đình, khi đi lấy chồng thì làm sao làm tròn nhiệm vụ của người
vợ, người mẹ sau này, chí ít phải biết nấu cơm dẻo, canh ngọt mà ăn. Có lẽ của
hồi môn lớn nhất của người cha người mẹ là khi tiễn chân con đi “làm dâu làm con
người ta” là có trang bị những gì cần thiết để làm vợ làm mẹ cho cuộc sống vợ
chồng.
Thứ hai: Đối với con cái. Theo
đạo phật có 3 hạng:
-Hạng con thua sút cha
mẹ về mọi mặt.
-Hạng con bằng cha mẹ.
-Hạng con hơn cha mẹ.
Cái ơn lớn nhất của
người con là được tinh cha huyết mẹ sinh ra. Dù cho có phải vì cha, vì mẹ mà hy
sinh tính mạng không nữa cũng không thể đền
đáp hết được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. “Công cha như núi
Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Do vậy người con phải cố gắng làm sao tiến trội
hơn cha mẹ về các phương diện: Trí dục, đức dục, địa vị xã hội, trong sự phục
vụ nhân dân; Chí ít ra cũng bằng cha mẹ chứ không thể sút kém. “Con hơn cha là
nhà có phúc”.
-Bổn phận đầu tiên là
phải phụng dưỡng cha mẹ
-Làm con phải biết gánh
vác sự nghiệp của cha mẹ. Phải tìm hiểu công việc của cha mẹ đã làm kể cả công
việc đối với dòng tộc, thay thế cha mẹ tiếp tục để cha mẹ vui. Con cái phải có
trách nhiệm làm cha mẹ vui, phải biết hy sinh
những thích thú riêng của mình để làm
vui lòng cha mẹ. Đối với các gia đình có điều kiện cũng nên đưa cha mẹ
đi du lịch vãng cảnh, đi đền, đi chùa để cha mẹ mở rộng tầm mắt, cả đời vất vả
chẳng được đi đâu chỉ quanh quẩn góc nhà, bờ ao chăm lo gia đình. Đến đền chùa
để gieo nhân lành, gây duyên tốt, xây đắp một tương lai tốt đẹp.
-Có lối sống, tác phong
đạo đức để giữ trọn danh giá cho gia đình gia tộc. Phải trân trọng và phát huy
những sự nghiệp của cha mẹ đã xây dựng nên. Bổn phận làm con phải biết giữ gìn và phát huy bảo vệ để sự nghiệp của
gia đình, gia tộc phát triển bền vững và sinh sôi nảy nở. Noi gương cha mẹ, nối
tiếp thực hành những việc phải làm của cha mẹ. Chăm sóc, nuôi dưỡng khi cha mẹ
ốm yếu. Tiếp tục công việc thiện mà cha mẹ đã làm như: công đức, bố thí, thờ
cúng, giúp đỡ người nghèo khó… Khi cha mẹ qua đời phải cố gắng nhiều thêm.
-Con phải tỏ ra xứng
đáng để hưởng phần tài sản của cha mẹ thừa kế để lại với thái độ cầu thị và
nhường nhịn với anh em trong gia đình; tiếp tục làm những công việc đạo đức để
tạo nhiều Phước- Thiện; làm từ thiện và những việc có ích cho nền giáo dục, như
tài trợ xây trường lớp học, quỹ khuyến học, tài trợ học bổng, giúp đỡ trẻ em cơ
nhỡ, tật nguyền. In kinh sách, để hồi hướng phước báu cho cha mẹ.
-Tỏ ra xứng đáng để nhận
phần sự nghiệp (Công ty, cổ phần trong kinh doanh, buôn bán…) và tài sản (nhà, đất đai trang trại…),
vốn cha mẹ phân chia cho.
Qua hơn trăm trang sách,
tuy không đủ vào đâu so với vấn đề rộng
lớn vô cùng Tu, học Phật, của hiện tượng được gọi là Luân hồi, Tái sinh, Tiền
kiếp, Hậu kiếp nhưng một phần nào cũng giúp làm rõ nét những gì có liên quan
đến vấn đề trọng đại của những kiếp người. Những kiếp người liên hệ nhân quả
với nhau hay tổng quát hơn là sự luân hồi chuyển kiếp qua những đời sinh vật.
Tuy nhiên có nhiều người đã nghĩ sai lạc về sự luân hồi chuyển kiếp. Chẳng hạn
họ cho rằng ta cứ việc sát sinh càng nhiều càng tốt vì làm như thế là đã "hóa kiếp" cho các loài sinh
vật. Đây là một sự hiểu lầm tai hại vì luân hồi được xem như một định luật tự
nhiên, khi ta giết một con vật với ý nghĩ giúp hóa kiếp sớm cho nó thì chẳng
khác nào hành động vặn kim đồng hồ hay xé từng xấp lịch cho thời gian, ngày
tháng tới nhanh hơn. Đã là sinh vật thì luôn luôn chịu ảnh hưởng của sự
tái sinh mà nguyên do chính hành động, nó là nguyên lý tác động làm phát sinh
sự luân hồi chuyển hóa tái sinh. "Nghiệp chính là lực sáng tạo, vì lực
sáng tạo ấy mà vạn vật có được đời sống của chúng." Sự luân hồi tái
sinh thật sự không do ai gây ra ngoài chính bản thân sinh vật. Tại sao “tôi”
lại sinh ra, “tôi” lại phải chịu nhiều trong cõi đời, đau khổ, bệnh tật, rồi
chết? Khi chết lại không phải là chấm dứt đời đời? Cái nguyên nhân sâu xa ấy có
thể thấy được hoặc qua giấc ngủ thôi miên, qua giấc mộng, tự nhiên thấy được
hoặc sâu xa hơn có thể suy diễn từ những gì mà con người đang gánh lấy. Đọc qua
các chương chúng ta có được một số khái niêm sơ lược về những giải thích vì sao
con người lại phải khổ đau? Tại sao có người giàu người nghèo, tại sao có người
trường thọ có người chết yểu, tại sao có kẻ tài hoa có người đần độn, tại sao
có người hạnh phúc?... Đi xa hơn nữa ta còn suy đoán được một sự kiện thường gây
thắc mắc từ biết bao đời nay. Như nguyên nhân nào kẻ làm ác đôi khi lại được
sống lâu còn được giàu sang phú quý còn kẻ hiền lương, thường làm việc thiện
đôi khi lại chịu cảnh oan trái, nghèo khổ, đắng cay? Tất cả mọi sự kiện xảy ra
ở mỗi đời người đều có nguyên nhân. Nguyên nhân này quả thật vô cùng sâu xa và
thuộc về quá khứ xa xăm hay gọi là tiền kiếp. Biết được cái nguyên nhân phát
sinh ấy khiến ta suy đoán thêm rằng ngay trong cuộc sống hiện tại, mình
phải sống và hành động thế nào để tạo nhân cho quả của đời sau ( kiếp
sau). Nhân tốt thì Quả tốt và
ngược lại. Có những việc mà lúc sống, chúng ta đã hăng say mong chu toàn vì lo
sợ cái chết đến sẽ làm ta không hoàn tất được. Nhưng khi ta đã hy vọng có cuộc
sống mai sau thì điều nµy sẽ giúp ta tiếp tục đạt sở
nguyện. Luân hồi là định luật tự nhiên, định luật nầy tác động
lên mọi kiếp người nhưng kiếp người chuyển hóa tốt lành hạnh phúc, giàu sang hay
nghèo hèn, bệnh tật hay mạnh khỏe đều có nguyên nhân và việc định số kiếp như
thế rõ ràng là do chính ta. Định luật luân hồi cho thấy có sự tự do của chính
con người. Nếu con người biết mình khổ đau là do những hành động xấu xa tội lỗi
của chính mình đã tạo ra từ tiền kiếp thì trong kiếp hiện tại ta có toàn quyền
định đoạt phần nào số phận kế tiếp của mình.
Sự hiểu biết về
“Linh hồn” cũng như Luân hồi - Quả báo, tái sinh đã giúp con người biết, tin
tưởng và chịu đựng trong cuộc sống, cố
gắng làm nhiều điều thiện, sẵn sàng quên mình và giúp đỡ người. Không còn tiếc
nuối cho tuổi đời đi qua vì cuộc đời còn tiếp nối qua nhiều kiếp khác và con người có thể tạo được hạnh phúc tốt lành cho mình ở kiếp tái sinh.
Đối
với tâm linh: “Nếu chưa biết, xin đừng
phủ nhận” (Phỏng vấn GS.TS Đoàn Xuân Mượu, nguyên Phó Viện
trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ). Một
chiếc lá cây khi sống tạo ra một trường sinh học quanh nó, khi mất đi trường
sinh học đó vẫn được bảo tồn. Với con người, điều đó có tồn tại không? Nếu có,
đằng sau sự sống sẽ không còn là cái chết nữa.Những câu hỏi và logic vấn đề đã
đưa GS.TS Đoàn Xuân Mượu, nguyên Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ nghiên
cứu sâu về lĩnh vực này. Sau hơn 30 năm thai nghén, ông vừa cho ra đời 3 tập
sách mang tên: “Con người và khoa học về tâm linh”.Hiểu sự huyền bí sẽ không
còn mê tín dị đoan.Là giáo sư đầu ngành về vi trùng, virus, tại sao ông lại
chuyển sang viết sách nghiên cứu “tâm linh”? Ông không sợ người ta cho rằng thế
là mê tín dị đoan?Virus nhỏ lắm. Nó còn nhỏ dưới mức vi khuẩn, mắt không nhìn
thấy được. Trong thế giới tự nhiên đã có lúc ta ghi nhận những thứ không nhìn
thấy được là vô hình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi thấy thế giới vô hình rất
sống động, từ đó tôi liên tưởng đến đời sống con người ở những điều ta không
nhìn thấy.Cùng với quá trình nghiên cứu y học tôi cũng bắt tay nghiên cứu những
điều về con người mà xưa vẫn cho là “bí ẩn”, là mê tín dị đoan... Dưới ánh sáng
khoa học, những “bí ẩn” đó không còn chỗ nương thân cho những gì gọi là mê tín,
kỳ quặc.
-Nói
như thế theo tôi hiểu ông công nhận thế giới tâm linh là có thật?
-Tôi
không dám làm trọng tài trong tất cả những vấn đề mà thế giới đang tranh luận,
chưa ngã ngũ. Tôi chỉ là người đọc nhiều, tâm huyết đến lĩnh vực “đời người” và
cố gắng đưa những gì chưa biết ra ánh sáng.
-Ông
có thể nói rõ hơn?
-3.000
năm qua, chúng ta tìm hiểu vũ trụ nhiều hơn tìm hiểu chính mình. Do đó, vốn
hiểu biết về thế giới tự nhiên lớn hơn hiểu biết chính bản thân, kể cả nguồn
gốc chính mình và những khả năng đặc biệt của con người.
Trước
đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý, dựa trên nền tảng vật
lý cổ điển của Newton
không giải thích được các hiện tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới
siêu hình và cho rằng nguyên tử là nguyên tố bé nhất.Đến đầu thế kỷ XX xuất
hiện mầm mống thuyết tương đối của Enstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi.Vì
vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết cơ sở khoa học
của sự huyền bí thì sẽ không còn chỗ nương thân cho mê tín dị đoan đang lan
tràn rộng rãi như hiện nay. Huyền bí không mâu thuẫn với tự nhiên, chỉ mâu
thuẫn với sự hiểu biết của con người về quy luật tự nhiên.
GS.TS
Đoàn Xuân Mượu: Con người không phải từ linh trưởng mà phát triển lên.Sóng và
hạt đều là những thứ ta không sờ, nắm, nhìn thấy được, phải chăng ông muốn nói
đến bên kia cuộc sống của con người vẫn tồn tại một thế giới mà ta không sờ nắm
được?Tôi cho rằng thế kỷ XXI có nhiều vấn đề tâm linh khiến nhiều người quan
tâm. Bộ sách 3 cuốn về con người và thế
giới tâm linh của tôi ra đời từ đó, ở đó tôi nhìn nhận con người dưới góc độ
khác. Nguồn gốc loài người bắt nguồn từ năng lượng.Với cách nhìn nhận của ông,
thủy tổ của loài người không phải là khỉ?Dựa vào các thuyết về nguồn gốc con
người: thuyết tiến hóa của Darwin,
thuyết Mundasep và nhiều học thuyết khác thì thấy, con người không phải từ linh
trưởng mà phát triển lên. Con người cũng như động vật, thực vật muôn loài đều
do tạo hóa sinh ra, từ cái gọi là chân không vật lý mà theo Phật học thì gọi là
“sắc sắc không không”.Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách
tình cờ, mà đều có ý định, có mục đích do “Ý thức vũ trụ”. Ý thức có trước, kế
hoạch sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do
năng lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình
hài con người ngày nay.
Thực
tế, bằng phương pháp phóng xạ xương người ở Nam Mỹ cách đây hơn 3 triệu năm,
phóng xạ xương của loài linh trưởng sau khi tìm kiếm đều không chứng minh được
nguồn gốc con người từ linh trưởng. Từ xa xưa xương bàn tay con người đã có
hoạt động khôn khéo rồi. Thế giới nhiều nơi đã công nhận con người là sinh vật
do vũ trụ sinh ra, con người là hình chiếu của vũ trụ.
-Theo
logic của ông, con người sẽ được cấu tạo thế nào?
-Con
người gồm 7 phần gồm thể xác, năng
lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình, được
y học chính thống giảng dạy (đây là năng lượng đặc), 6 phần còn lại có độ đặc
khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về phía linh cảm (năng lượng
chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn còn nhưng khi mất đi thì
phần năng lượng đặc mất, các phần năng lượng khác vẫn tồn tại.
Có
phải nhờ những phần năng lượng không mất đi mà một số người có khả năng ngoại
cảm không? Tuyến tùng ở những người đó phát triển cao hơn bình thường?
Người
bình thường ai cũng có tuyến tùng như là dấu vết của con mắt thứ 3 ở giống
người tiền sử (hay còn gọi là giác quan thứ 6). Khả năng ngoại cảm không phải
do một mình tuyến tùng mà còn liên quan đến các thân thể tế vi.
Khả
năng ngoại cảm do tạo hoá ban cho, không phải do luyện tập mà có, càng không
phải do tuyến tùng phì đại. Khả năng chữa bệnh của một số nhà ngoại cảm, về
nguyên tắc và lý thuyết, có thể có. Tuy nhiên không phải đã là nhà ngoại cảm
thì đều có khả năng chữa bệnh.
-Là
bác sĩ Tây y sao ông lại tin tưởng vào cách chữa có vẻ phi khoa học của các nhà
ngoại cảm?
-Các
nhà y học chính thống vốn chữa bệnh cho thân thể vật lý. Tuy nhiên, còn có những
dạng bệnh do năng lượng sóng đứng gây nên, chúng đòi hỏi phải có cách tiếp cận
khác gọi là y học đa chiều, trong chẩn đoán, tự
chẩn đoán, điều trị, tự điều trị, khác với y học chính thống.
Trong
thực tế chắc có những người mạo danh ngoại cảm cần phải ngăn cản. Bộ sách của
tôi là sự cố gắng lý giải những điều chưa biết. Cái biết vốn dĩ hữu hạn, cái
chưa biết là cái vô hạn. Tuy nhiên, không phải vì chưa biết mà phủ nhận tất cả
một cách hồ đồ. Xin cảm ơn ông!
(GS.TS
Đoàn Xuân Mượu là Đảng viên hơn 60 năm tuổi Đảng, cán bộ lão thành cách
mạng, là một trong 50 đảng viên đầu tiên được Đảng và Chính phủ chọn cử đi học
đại học tại Liên Xô năm 1953. Từ năm 1973 - 1994, ông đã kinh qua các chức vụ
Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ TƯ, Viện trưởng Viện Pasteur Đà Lạt, Viện
trưởng Viện Văcxin Quốc gia, đại diện y tế Việt Nam trong Ban Thư ký Hội đồng
Tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV) tại Liên Xô, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư
ký Hội Chữ thập đỏ Việt Nam). theo
BáoKhoa học & Đời sống.
Mấy
lời tâm huyết của THƯỢNG TỌA THÍCH CHÂN
TÍNH trong cuốn “Phật- Pháp cứu đời tôi” xuất bản tháng 11/2006: “Chúng ta
nên phát tâm in kinh sách tặng không cho mọi người… Nếu họ không đọc thì đời
con, đời cháu họ đọc, không mất đâu mà lo. Thuyết Pháp, giảng kinh, viết sách
cho giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm
giác ngộ, được như thế hạnh phúc không gì bằng, đó gọi là PHÁP THÍ. Nếu không làm được như thế thì chúng ta cho họ mượn, hoặc
đọc cho họ nghe nhất là những người không biết chữ việc làm này quý giá vô biên, đây cũng gọi là PHÁP
THÍ”. Chính Phật Tổ đã dạy: “Trong các sự bố thí, PHÁP THÍ có công đức lớn nhất, không công đức nào có thể sánh
bằng”. Hy vọng mấy lời tâm huyêt này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho moi
người cùng xem; Được như vậy, niềm phúc lạc vô bờ chắc chắn sẽ đến với chúng
ta! Tha thiết mong mỏi như thế” (Thượng tọa Thích Chân Tính: Chùa Hoằng Pháp,
xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ
Chí Minh).
( Sách viết từ Hè 2005
đến Thu 2010 - Ngô Lê Lợi)
Mọi nhận xét xin gửi về mail: ngoleloihagiang@yahoo.com (Xin trân trọng cảm ơn quí độc giả)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét