Xem Phong thủy-Tử vi ở Hà Nội

NHẬN TƯ VẤN: Xem phong thủy Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng:Chọn hướng tốt. Phòng làm việc; phòng khách; bếp; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Xem tuổi Xây dựng nhà , sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Âm trạch mồ mả tư vấn xem hướng đặt mộ hợp phong thủy, tư vấn đặt mộ trong nghĩa trang. Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới,ngày ăn hỏi. Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.Xem Tử vi để biết vận mệnh cuộc đời; dự báo ngày cưới; dự báo tang ma; dự báo công danh, sự nghiệp, thăng quan, tiến chức.Các đại, tiểu vận trong cuộc đời...Điện thoại: 036.439.6238


Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2022

Giao thông huyện Hoàng Su Phì 67 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1955 - 2022)

      Chân thành Cảm ơn cháu Vương Văn Thắng Bí thư chi bộ -Trưởng phòng Hạ tầng kinh tế huyện HOàng Su phì đã gửi Bài này và Tặng sách : Giao thông huyện Hoàng Su Phì 67 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1955 - 2022)

 Trước khi vào xem bài " Ngày 13/8/2023; Cháu Trần Chí Nhân Phó VP Huyện ủy Hoàng Su Phì thông tin: May quá, cháu tìm đc rồi. Quyết định số 156-QĐ/HU ngày 06/7/2000 của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc tách chi bộ cơ sở, thành lập Chi bộ Giao thông trực thuộc Huyện ủy. Cái QĐ này nó nằm trong cái PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA CHI ỦY GIAO THÔNG NHIỆM KỲ I 2001 - 2003 mà chú là Bí thư chi bộ  đã ký ban hành ạ.Như vậy chặng đường chông gai nhất của HSP (Thời kì Xây dưng) về phát triển giao thông từ khi chuyển huyện từ Nam Sơn về là 1988-2000 và 2000 cơ bản đã  hoàn thành mở đường từ Trung tâm huyện về Trung Tâm xã (nền đường đất) còn từ 2000 trở đi là là phát triển và nâng cấp mở rộng khi này có Chương trình 135 (1999-2004)và sau đó CT 30A (sau năm 2005) và có thêm DA Chia sẻ ...

Thời kì chú  làm được rất nhiều việc rất đáng khâm phục ạ. Trong Lịch sử Đảng bộ Hà Giang  có nói đến chú  có nhiều đóng góp (trong cuốn Hà Giang 110 năm trưởng thành và phát triển ạ).

    Công lớn nhất là huy động đc sức dân. Còn doanh nghiệp làm là vì có tiền, khi đó công lao lại thuộc Nhà nước vì nhà nước cho tiền. Vì vậy trong phần kết luận và bài học kinh nghiệm cháu cũng đánh giá phân tích kỹ vấn đề này ”Bài học về phát huy nội lực, huy động sức dân”. Hôm tới tổ chức hội thảo chú cố gắng lên dự ạ.

 Hôm nào hội thảo báo trước chú khoảng 1 tuần chú lên trước còn đi chơi vài xã nhé" . Cảm ơn thịnh tình của cháu nhé?

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trao kỷ niệm chương cho Tác giả 

LỜI GIỚI THIỆU

Hoàng Su Phì là huyện vùng cao biên giới phía tây của tỉnh Hà Giang, là địa bàn chiến lược về Quốc phòng và an ninh của tỉnh Hà Giang nói riêng và đất nước nói chung. Đây là nơi cư trú lâu đời của hơn 66.000 người thuộc trên 13 dân tộc như Dao, Tày, Mông, Nùng, La Chí, Cờ Lao... Do đặc điểm về vị trí địa lý tương đối cách biệt, địa hình chủ yếu là đồi núi dốc, khí hậu khắc nghiệt nên trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh để tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc trong huyện đã luôn đoàn kết gắn bó, khắc phục những khó khăn bất lợi về điều kiện tự nhiên để xây dựng và ổn định cuộc sống, đồng thời chung sức đồng lòng để bảo vệ vững chắc từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.

Sau khi cùng với cả nước giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện Hoàng Su Phì, nhân dân các dân tộc trong huyện đã bắt tay vào công cuộc kiến thiết quê hương đất nước để khôi phục kinh tế và chi viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ cứu nước. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của đất nước và địa phương, ngay từ những ngày đầu hòa bình được lập lại, cùng với sự ra đời của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và cấp huyện, năm 1955 Phòng Giao thông - tiền thân của Phòng Kinh tế và Hạ tầng đã được thành lập và tiếp đó là Phòng Xây dựng được thành lập vào năm 1958 để thực hiện chức năng nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Ủy ban hành chính huyện trong lĩnh vực giao thông và xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng của huyện. Trải qua 67 năm phấn đấu và trưởng thành, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng, Phòng Kinh tế và Hạ tầng tiếp tục được giao nhiều trọng trách nhiệm vụ mới, tham mưu giúp việc cho Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực giao thông, xây dựng, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, điện nông thôn, phát triển đô thị, kiến trúc, quy hoạch xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, hạ tầng kỹ thuật đô thị, khoa học kỹ thuật.

Trong điều kiện, hoàn cảnh của một địa phương vùng cao biên giới với nhiều giai đoạn cách mạng khác nhau, các thế hệ cán bộ lãnh đạo, công chức của Phòng Kinh tế & Hạ tầng luôn thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó, khắc phục khó khăn, linh hoạt sáng tạo cụ thể hóa các mục tiêu nhiệm vụ được giao phụ trách, đặc biệt là lĩnh vực phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phúc lợi công cộng từ huyện đến các xã, đẩy mạnh hoạt động thương mại, dịch vụ, phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ. Từ đó góp phần quan trọng trong việc tạo dựng bộ mặt mới của huyện Hoàng Su Phì ngày một khang trang, hiện đại như ngày nay.

Nhận thức được ý nghĩa truyền thống và để lưu giữ, kế thừa, phát huy những thành tựu đầy tự hào qua 67 năm xây dựng và phát triển, Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì biên soạn và xuất bản cuốn “Truyền thống Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì 67 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1955 - 2022)". Qua đó nhằm ôn lại những thành tích to lớn và tự hào của Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì qua các thời kỳ. Đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, động viên đội ngũ cán bộ công chức của đơn vị quyết tâm phấn đấu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Trong quá trình sưu tầm và biên soạn, Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì luôn nhận được sự quan tâm tạo điều kiện và giúp đỡ của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các đồng chí lãnh đạo huyện, các đồng chí lãnh đạo và cán bộ tiền nhiệm của huyện và đơn vị qua các thời kỳ. Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và những ý kiến quý báu của các đồng chí đã giúp hoàn thành cuốn truyền thống này.

Do  khó khăn trong công tác lưu trữ, bảo quản tư liệu qua các thời kỳ nên nguồn tư liệu không được đầy đủ, điều kiện sưu tầm và biên soạn còn hạn chế, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo tiền nhiệm nay đã già yếu, trí nhớ có phần suy giảm nên một số nội dung được phản ánh trong cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung. Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các đồng chí và bạn đọc để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

                                                  Hoàng Su Phì, tháng 8 năm 2022

BÍ THƯ CHI BỘ

TRƯỞNG PHÒNG KINH TẾ & HẠ TẦNG

 Vương Văn Thắng

Chương I

KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI

CỦA HUYỆN HOÀNG SU PHÌ

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

1. Vị trí địa lý, địa hình

Hoàng Su Phì là huyện vùng cao núi đất phía tây tỉnh Hà Giang, toàn huyện có tổng diện tích 64.250,96 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 19.567, ha, đất lâm nghiệp 33.192,4 ha, đất phi nông nghiệp 2.085,33 ha, đất chưa sử dụng 10.276 ha. Về địa giới hành chính, huyện Hoàng Su Phì được chia thành 23 xã và 1 thị trấn với 199 thôn bản, trong đó có 4 xã biên giới với tổng chiều dài đường biên là 41,421 km. Địa hình của huyện Hoàng Su Phì có kết cấu phức tạp, nhiều đỉnh núi cao, độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh bởi nhiều khe suối đầu nguồn sông Chảy. Do toàn bộ địa hình của huyện Hoàng Su Phì nằm trên khối núi Tây Côn Lĩnh, thổ nhưỡng chủ yếu là đất pha cát có độ kết cấu yếu, dễ sạt lở nên rất khó khăn cho việc lưu thông hàng hóa, xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng như điện lưới, đường giao thông, trường học, trạm xá, trụ sở các cơ quan đơn vị và các xã, các thôn bản. Mặt khác cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động sản xuất phát triển kinh tế xã hội của huyện.

2. Khí hậu, thời tiết

Điều kiện khí hậu của huyện Hoàng Su Phì thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa và được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ  tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau và thường xảy ra hạn hán kéo dài. Vào cuối tháng 12, đầu tháng giêng âm lịch hàng năm thường xảy ra rét đậm rét hại nhất là ở khu vực các xã Hồ Thầu, Nam Sơn, Nậm Ty, Túng Sán, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.

II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Tình hình kinh tế

Hoàng Su Phì là một trong 74 huyện nghèo giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó có tới 21/24 xã, thị trấn của huyện thuộc diện đặc biệt khó khăn. Do vị trí địa lý của huyện nằm cách xa trung tâm hành chính của tỉnh và các thành phố lớn, nghèo tài nguyên khoáng sản nên công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện không phát triển. Lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện và mang nặng tính tự cấp, tự túc. Sản xuất nông nghiệp ở huyện Hoàng Su Phì chủ yếu trồng lúa, hoa màu kết hợp với chăn nuôi gia cầm, gia súc, đặc biệt cây chè là cây công nghiệp chính của huyện và là một trong những khu vực sản xuất, chế biến chè nổi tiếng của tỉnh.

Năm 2021 diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện có 19.567 ha, chiếm tỷ lệ 27,96% trong tổng số 63.238,06 ha đất tự nhiên của toàn huyện. Trong đó có 3.720,6 ha ruộng bậc thang trồng lúa nước, sản lượng lương thực của huyện Hoàng Su Phì đạt 40.449 tấn. Ngoài ra, huyện Hoàng Su Phì còn gieo trồng một số loại cây có giá trị cao khác, đem lại thu nhập cao như đậu tương, chè san tuyết, thảo quả, dược liệu và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm chất lượng cao để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Hiệu quả từ việc lấy phát triển nông nghiệp làm trọng tâm đã góp phần ổn định kinh tế và nâng cao thu nhập cho nhân dân của huyện Hoàng Su Phì. Năm 2021, GDP toàn huyện đạt trên 1.000 tỷ đồng, bình quân lương thực đầu người đạt 590 kg/người, thu nhập bình quân đầu người đạt 27 triệu đồng. Kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình làm nông, lâm nghiệp có mức sống trung bình năm 2021 của huyện Hoàng Su Phì cho thấy tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,28% trong tổng số 14.642 hộ gia đình trong toàn huyện.

Qua khảo sát đánh giá cho thấy mặc dù nền kinh tế của huyện Hoàng Su Phì đã có bước phát triển tích cực trong nhiều năm trở lại đây nhưng chưa đồng đều và không bền vững, vì chủ yếu tập trung ở lĩnh vực nông lâm nghiệp vốn phụ thuộc khá nhiều vào thiên nhiên. Một số nghề thủ công truyền thống như rèn dao, cuốc, xẻng, đúc lưỡi cày, trồng bông dệt vải... được đồng bào duy trì nhưng chủ yếu để phục vụ sản xuất và sinh hoạt.

2. Về văn hóa - xã hội

Những năm đầu cách mạng, huyện Hoàng Su Phì bao gồm các vùng đất khu vực phía tây tỉnh Hà Giang. Ngày 01/4/1965, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 49-CP về việc chia huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện và lấy tên là huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Sau nhiều lần chia tách và sáp nhập về địa giới hành chính đến nay huyện Hoàng Su Phì có tổng số 23 xã và 1 thị trấn với 199 thôn, tổ dân phố. Các xã, thị trấn thuộc huyện Hoàng Su Phì gồm: Nậm Ty, Thông Nguyên, Nậm Khòa, Hồ Thầu, Nam Sơn, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Pờ Ly Ngài, Nàng Đôn, Chiến Phố, Bản Phùng, Bản Máy, Thèn Chu Phìn, Thàng Tín, Pố Lồ, Đản Ván, Tụ Nhân, Túng Sán, Tân Tiến, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng, Ngàm Đăng Vài, Nậm Dịch và thị trấn Vinh Quang.

Về tình hình dân số, theo số liệu thống kê, đến ngày 15/6/2022 toàn huyện Hoàng Su Phì có 14.252 hộ, 69.423 khẩu, với hơn 13 dân tộc chủ yếu, trong đó dân tộc Nùng chiếm đa số[1].

Sự đa dạng về thành phần dân tộc cùng với điều kiện về vị trí địa lý tương đối cách biệt, địa hình phức tạp và chia thành nhiều tiểu vùng khác nhau đã dẫn đến sự đa dạng về văn hóa truyền thống, mỗi cộng đồng dân tộc đều có những phong tục tập quán khác nhau và mang màu sắc riêng rẽ. Đó là những tập quán, tri thức kinh nghiệm canh tác, sản xuất nông nghiệp, tín ngưỡng cổ truyền, ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa dân gian truyền thống... Mặc dù mỗi dân tộc có những bản sắc văn hóa riêng rẽ nhưng đều thể hiện sự hòa đồng và có sự giao tiếp về văn hóa giữa các dân tộc với nhau ở một chừng mực nào đó để cùng tồn tại và phát triển, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn hóa truyền thống của huyện Hoàng Su Phì.

Về y tế: Những năm trước cách mạng, thực dân Pháp và bè lũ tay sai thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích người dân trồng, buôn bán và hút thuốc phiện, cả huyện không có một cơ sở y tế nào nên mỗi khi ốm đau bệnh tật người dân chỉ dùng thuốc nam để chữa trị tại nhà hoặc tổ chức cúng bói để trừ tà chữa bệnh trong khi đời sống kinh tế lại rất khó khăn. Vì vậy tuổi thọ của người dân khi đó rất thấp, người dân trên địa bàn huyện luôn đắm chìm trong nghèo đói bệnh tật.

Từ sau khi huyện Hoàng Su Phì được giải phóng, giành chính quyền về tay nhân dân, nhất là từ khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền quan tâm thực hiện. Hệ thống bệnh viện, trạm y tế được đầu tư xây dựng từ huyện đến các xã ngày một khang trang và được trang bị các thiết bị y tế hiện đại, đội ngũ y sỹ, bác sỹ ngày càng được bổ sung và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, các hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, hộ gia đình chính sách được Nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Vì vậy đến nay mỗi khi đau ốm bệnh tật người dân đã đến khám và điều trị, chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế. Tình trạng bói toán chữa bệnh đã giảm hẳn trong nhân dân.

3. Tình hình Quốc phòng - An ninh

Do đặc điểm địa hình và vị trí của huyện Hoàng Su Phì có đường biên giới tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc và nằm trên tuyến đường huyết mạch nối liền tỉnh Hà Giang với tỉnh Lào Cai nên trước đây, dưới chế độ dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thực dân Pháp đã củng cố, xây dựng hệ thống đồn bốt, thành lập các đơn vị quân sự để phục cụ quá trình cai trị và đàn áp nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện.

Ngày 19/8/1945 Cách mạng Tháng tám thành công, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa đất nước ta bước sang một kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và đi lên chủ nghĩa xã hội. Là địa bàn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Hà Giang, địa bàn cách biệt, chung đường biên giới với Trung Quốc nên việc giải phóng huyện Hoàng Su Phì chậm hơn so với các địa phương khác trong tỉnh. Đến ngày 13/11/1945 huyện Hoàng Su Phì được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.

Mặc dù đã giành được chính quyền nhưng trong những ngày đầu cách mạng, cùng với cả nước nhân dân các dân tộc trong huyện phải đối mặt với vô vàn khó khăn cả về kinh tế, văn hóa, chính trị và quốc phòng - an ninh do sự quay trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đến năm 1960 huyện Hoàng Su Phì Là một trong địa bàn chịu sự hoành hành của thổ phỉ và bọn thổ ty, quan lại cũ. Với truyền thống cách mạng, nhân dân các dân tộc trong huyện đã một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ và theo chính quyền cách mạng, phát huy tinh thần đoàn kết cao độ để cùng với cả nước đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược và hoàn thành công cuộc tiễu Phỉ để bảo vệ quê hương. Tiếp đó, trong giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1986 Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện lại tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới với nhiều cam go phức tạp, cùng với các lực lượng vũ trang bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Từ năm 1990 trở lại đây, sau khi tình hình khu vực biên giới ổn định trở lại, nhân dân các dân tộc trong huyện lại chung sức đồng lòng, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng để xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.

3. Khái quát về Giao thông Vận tải, Xây dựng, Thủ công nghiệp và Thương mại, dịch vụ của huyện Hoàng Su Phì trước năm 1955

Trong thời gian trước năm 1955 do hoạt động Giao thông Vận tải và Xây dựng của tỉnh Hà Giang chưa phát triển nên huyện Hoàng Su Phì chưa thành lập được cơ quan tham mưu giúp việc mà mỗi huyện chỉ có một đồng chí ủy viên ủy ban Kháng chiến Hành chính phụ trách đường dân sinh. Trong giai đoạn trước năm 1955 nhiệm vụ này do đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Ủy viên ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện phụ trách. Nhiệm vụ chủ yếu là tham mưu cho Ủy ban Kháng chiến Hành chính xây dựng kế hoạch, huy động dân công mở mới, tu sửa và bảo dưỡng các tuyến đường dân sinh giữa các xã trong huyện và tuyến đường ngựa thồ từ trung tâm huyện lỵ đến ngã ba Tân Quang thuộc địa bàn huyện quản lý và quản lý hoạt động vận tải bằng ngựa thồ; huy động dân công khai thác vật liệu để xây dựng, tu sửa trụ sở trụ sở các cơ quan của huyện, xã và các trường học trong huyện.

Do điều kiện khó khăn chung của tỉnh và huyện khi đó không có kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực Giao thông và xây dựng nên nguồn lực chủ yếu dựa vào sức dân. Bình quân mỗi năm toàn huyện huy động dân công tham gia đóng góp trên 20.000 ngày công để mở đường dân sinh, làm cầu cống, khai thác vật liệu để xây dựng, tu sửa trụ sở, trường lớp học.

Đánh giá thực trạng tình hình lĩnh vực giao thông, xây dựng của huyện Hoàng Su Phì trước năm 1955 như sau:

* Lĩnh vực giao thông vận tải:

Trong giai đoạn này huyện Hoàng Su Phì không có đường ô tô, toàn bộ các tuyến đường trong huyện đều là đường dân sinh, trong đó tuyến đường đất huyết mạch là đường ngựa thồ được mở từ thời Pháp thuộc có quy mô nền đường từ 1,5 đến 02 mét xuất phát từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi qua các xã Tân Lập, Nậm Ty (khi đó thuộc xã Thông Nguyên của huyện Bắc Quang) Nậm Dịch, Ngàm Đăng Vài, Tân Tiến, sau đó qua trung tâm huyện Hoàng Su Phì và địa bàn các xã Bản Díu, Thèn Phàng đến xã Cốc Pài với tổng chiều dài hơn 100km, trong đó đoạn từ trung tâm huyện Hoàng Su Phì đến xã Tân Quang có chiều dài 64 km. Ngoài tuyến đường chính nối liền trung tâm huyện lỵ với Quốc lộ 2 ở ngã ba xã Tân Quang huyện Bắc Quang, tại các xã đều có các tuyến đường dân sinh đi bộ hoặc ngựa thồ. Tuy nhiên do điều kiện về địa hình đồi núi dốc và thường xuyên xảy ra mưa lũ nên các tuyến đường dân sinh của huyện Hoàng Su Phì thường xuyên bị sạt lở hư hỏng. Nghị quyết số 1713 ngày 16/9/1957 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang về kiểm điểm tình hình đường dân sinh và thảo luận biện pháp sửa chữa giữa ủy ban hành chính tỉnh với các Ty Giao thông, Tài chính và các ủy viên phụ trách đường dân sinh các huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang cho thấy trong tổng số chiều dài 60 km của tuyến đường ngựa thồ từ xã Tân Quang huyện Bắc Quang đến xã Vinh Quang huyện Hoàng Su Phì thì có tới hơn 30 đoạn bị sạt lở, nhiều đoạn nền đường chỉ còn từ 40 - 5cm, một số cây cầu bằng gỗ có khẩu độ lớn không đảm bảo an toàn cho người và ngựa.

Do thời gian di chuyển bằng ngựa từ trung tâm huyện lỵ Hoàng Su Phì đến ngã ba Tân Quang kéo dài 02 ngày, vì vậy để phục vụ việc vận chuyển hàng hóa bằng ngựa khi đó, trên tuyến đường này đã hình thành và duy trì 03 trạm ngựa tại khu vực ngã ba Tân Quang, khu vực Nậm Ty và khu vực huyện lỵ Hoàng Su Phì, trong đó huyện Hoàng Su Phì quản lý 02 trạm là trạm Nàn Ma (thuộc xã Nàn Ma huyện Xín Mần ngày nay) và trạm Vinh Quang đóng tại ven suối phía dưới Trường Phổ thông dân tộc Nội trú Trung học cơ sở và Trung học phổ thông huyện ngày nay. Các trạm ngựa này do các hộ gia đình xây dựng và kinh doanh, huyện đóng vai trò điều tiết trong quá trình vận chuyển hàng hóa, nhất là những mặt hàng thiết yếu do Nhà nước quản lý. Quy mô mỗi trạm gồm có khu chuồng ngựa, khu nhà ăn uống và nhà nghỉ trọ để cung cấp dịch vụ ăn uống, chăm sóc, nuôi dưỡng ngựa cho các chủ ngựa trong quá trình vận chuyển các mặt hàng nông lâm sản từ huyện ra Tân Quang và vận chuyển các mặt hàng thiết yếu như dầu, muối, gạo, thực phẩm, bánh kẹo, vải vóc, nông cụ vào huyện để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Bình quân mỗi chủ ngựa thường có một đàn từ 5 - 7 con, đông nhất là 10 con. Ngoài việc vận chuyển bằng ngựa, nhiều người còn vận chuyển hàng hóa bằng sức người, tuy nhiên số lượng hàng hóa không nhiều.

* Lĩnh vực xây dựng:

Do điều kiện của huyện cũng như tỉnh Hà Giang khi đó còn nhiều khó khăn nên lĩnh vực xây dựng của huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này không phát triển. Toàn bộ hệ thống trụ sở các cơ quan, các trường học từ huyện đến xã đều là nhà tranh, tre, nứa, lá do nhân dân và cán bộ các cơ quan, đơn vị tự khai thác vật liệu và xây dựng. Vì vậy thời gian sử dụng của các công trình không dài, nhanh xuống cấp và thường xuyên phải tu sửa. Bên cạnh đó huyện cũng đẩy mạnh công tác vận động nhân dân tham gia đóng góp ngày công để khai thác vật liệu, san ủi mặt bằng để xây dựng hệ thống kho bãi cho các hợp tác xã để chứa thóc. Từ đó góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình thực hiện phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện thời gian này.

* Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

Do đặc điểm về từ nhiên cũng như vị trí địa lý của huyện không thuận lợi, nghèo tài nguyên khoáng sản nên lĩnh vực công nghiệp của huyện thời gian này không phát triển, cả huyện không có cơ sở công nghiệp nào. Về tiểu thủ công nghiệp, tại các xã chủ yếu duy trì các ngành nghề truyền thống như nghề rèn, đúc để sản xuất nông cụ cầm tay, lưỡi cày, đinh móng ngựa, dao, liềm và sản xuất đồ dùng sinh hoạt, nghề trồng bông, trồng lanh dệt vải, làm giấy rơm... song hầu hết là có quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ gia đình theo hình thức tự cung tự cấp.

* Lĩnh vực thương mại, dịch vụ:

Từ năm 1955, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tỉnh Hà Giang cũng như huyện Hoàng Su Phì đã đặc biệt quan tâm phát triển lĩnh vực thương mại  - dịch vụ để cung cấp các mặt hàng thiết yếu như dầu hỏa, muối ăn, thực phẩm, đồ dùng sinh hoạt, vải may mặc cho nhân dân, đồng thời giúp các hộ gia đình tiêu thụ các mặt hàng nông lâm sản như chè, đậu tương, dược liệu... Sau khi Ty Công thương Hà Giang mở một cửa hàng mậu dịch Quốc doanh tại xã Vinh Quang vào năm 1956 do đồng chí Hoàng Xuân Hạc làm Cửa hàng trưởng và thành lập các quầy lưu động trực thuộc Ty Công Thương Hà Giang thì hoạt động lưu thông hàng hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Mặt khác, huyện cũng khuyến khích thành lập các hợp tác xã mua bán để đáp ứng kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng và tiêu thụ hàng hóa trong nhân dân, từ đó góp phần ổn định giá cả, chống nạn đầu cơ, tích trữ, ép giá, tăng giá.

Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp Ủy, chính quyền, lĩnh vực giao thông, xây dựng, thủy lợi, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ của huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này đã đạt được một số kết quả bước dầu, góp phần quan trọng trong việc cải tạo và khôi phục nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của huyện Hoàng Su Phì cũng như của tỉnh Hà Giang nói chung. Quan trọng hơn, hoạt động này đã góp phần cung ứng kịp thời các mặt hàng thiết yếu, qua đó giải quyết nhu cầu cấp thiết trong cuộc sống lao động và sinh hoạt của nhân dân. Từ đó giúp cộng đồng nhân dân các dân tộc trong huyện thêm tin tưởng vào chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, nêu cao ý thức giác ngộ cách mạng, sẵn sàng đi theo Đảng, theo cách mạng để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các cơ quan tiền thân của Phòng Kinh tế và Hạ tầng sau khi được thành lập đã thực hiện tốt vai trò trách nhiệm được giao, góp phần viết nên những trang sử vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của huyện.


Chương II

CÁC CƠ QUAN TIỀN THÂN CỦA PHÒNG KINH TẾ & HẠ TẦNG HUYỆN HOÀNG SU PHÌ ĐƯỢC THÀNH LẬP, THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG, PHỤC VỤ CÔNG CUỘC CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (GIAI ĐOẠN 1955 - 1975)

1. Các cơ quan Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng được thành lập, thực hiện nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (giai đoạn 1955 - 1965)

Ngày 07/5/1954 chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc đã mở ra một chương mới của cách mạng Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của tình hình lúc này là đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, ở miền Bắc, ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc tập trung thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ cứu nước. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Đối với huyện Hoàng Su Phì thời gian này, ngoài việc cùng với cả nước đẩy mạnh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng là xây dựng, phát triển kinh tế và chi viện cho miền Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược thì một nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện được song trùng tiến hành thực hiện, đó là tiếp tục thực hiện công cuộc tiễu trừ thổ phỉ để bảo vệ cuộc sống lao động, học tập và sản xuất của nhân dân.

Trong bối cảnh của địa phương vùng cao còn rất nhiều khó khăn do vừa ra khỏi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, trong khi đó tình hình an ninh chính trị vẫn tiềm ẩn nhiều phức tạp bởi một số tên đầu sỏ ngoan cố là tay sai đắc lực của Pháp trước đây vẫn lẩn trốn, chưa chịu ra đầu hàng và chực chờ cơ hội ngóc đầu dậy để thực hiện các hành vi chống đối cách mạng, gây khó khăn cho việc vận động nhân dân tham gia xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Nhất là vụ việc toán phỉ Cháng Sào Khún âm mưu bắt và giết hụt đồng chí Hoàng Xuân Hạc - Cửa hàng trưởng Cửa hàng mậu dịch Quốc doanh Hoàng Su Phì xảy ra vào tháng 8/1956 tại xã Nậm Dịch đã gây hoang mang trong nhân dân. Bên cạnh đó sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng toàn huyện Hoàng Su Phì vẫn còn 13 xã chủ yếu ở khu vực huyện Xín Mần ngày nay chưa có chính quyền nhân dân mà vẫn nằm dưới sự khống chế của các thế lực thổ ty, bang tá.

Mặc dù vậy, sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội của huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này cũng có nhiều thuận lợi cơ bản, đó là những thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã động viên, khích lệ nhân dân các dân tộc trong huyện thêm tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn khát khao được cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, chung sức đồng lòng xây dựng đời sống kinh tế - văn hóa xã hội. Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền tiếp tục dành nhiều sự quan tâm cho sự nghiệp sự nghiệp xây dựng và phát triển của huyện, nhất là lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như đường giao thông, trụ sở làm việc, trường học, trạm xá.

Bám sát những yêu cầu nhiệm vụ của đất nước và địa phương trong tình hình mới, đồng thời để tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên địa bàn huyện, năm 1955 Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì được thành lập gồm 03 cán bộ do đồng chí Vàng Dỉ Thàng -  Ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách lĩnh vực đường dân sinh giữ chức vụ Trưởng Phòng cùng 02 cán bộ là đồng chí Vương Tiến Ba và đồng chí Vượng là cán bộ được Ty Giao thông Hà Giang cử vào công tác tại huyện. Nhiệm vụ chủ yếu của Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này là trực tiếp quản lý tuyến đường ngựa thồ từ xã Tân Quang đến xã Cốc Pài (trung tâm huyện Xín Mần ngày nay), tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện xây dựng và triển khai các kế hoạch duy trì phát triển hệ thống đường dân sinh của huyện; phân bổ chỉ tiêu kế hoạch huy động dân công hằng năm cho các xã để mở mới, duy tu, bảo dưỡng các tuyến đường dân sinh trong huyện.

Tiếp đó, đến năm 1958 Phòng Xây dựng huyện được thành lập với 03 cán bộ do đồng chí Lù Văn Sạch giữ chức vụ Trưởng Phòng để thực hiện nhiệm vụ tham mưu xây dựng kế hoạch huy động dân công để xây dựng tu sửa hệ thống trụ sở làm việc các cơ quan hành chính từ huyện đến các xã, xây dựng các trường lớp học, trạm y tế xã, cửa hàng, kho bãi của huyện.

Ngày mới thành lập các cơ quan Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng của huyện không có trụ sở riêng mà cùng làm việc trong khu trụ sở của Ủy ban Hành chính huyện, mỗi cơ quan được phân từ một đến 2 gian trong các căn nhà gỗ, mái lợp cỏ tranh tre tại xã Vinh Quang - tức thị trấn Vinh Quang ngày nay. Trang thiết bị của các Phòng ngày đó hầu như chưa có gì, toàn bộ tài liệu văn bản đều soạn bằng tay, sau đó chuyển cho bộ phận văn thư của Văn phòng Ủy ban hành chính huyện để đánh máy bằng máy chữ. Mỗi khi xuống cơ sở để triển khai nhiệm vụ hoặc khảo sát, kiểm tra công trình đều phải đi bộ qua nhiều đèo dốc, suối sâu mùa mưa thì nước chảy xiết, mùa đông thì lạnh cắt da thịt, trong khi đó ở nhiều xã các toán phỉ vẫn lén lút hoạt động chống đối cách mạng nên nguy hiểm luôn rình rập. Mặc dù vậy, các cán bộ của các đơn vị khi đó đều nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Huyện ủy, Ủy ban hành chính đã tin tưởng giao phó, đó là đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng như mở đường giao thông, xây dựng trụ sở làm việc và hệ thống kho bãi của huyện và các xã, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý điều hành các hoạt động của Đảng và chính quyền từ huyện đến xã cũng như quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của huyện trong giai đoạn này là củng cố cơ sở vật chất, xây dựng các hợp tác xã để cải tạo quan hệ sản xuất ở nông thôn, đưa các hộ gia đình vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa.

Một trong những kỳ tích mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì và Ban Giao thông huyện đạt được trong thời gian này đó là phong trào mở đường giao thông. Năm 1957 Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số 1713 ngày 16/9/1957 về cuộc họp giữa Ủy ban hành chính tỉnh với Ty Giao thông, Ty Tài chính tỉnh và đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Ủy viên Ủy ban hành chính, Trưởng Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì về việc kiểm điểm tình hình và bàn biện pháp sửa chữa tuyến đường dân sinh từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi Hoàng Su Phì. Tiếp đó, năm 1959 Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 76-TC/CB ngày 06/8/1959 về việc thành lập Ban chỉ huy công trường Đường Hoàng Su Phì, đồng thời tiến hành các hoạt động khảo sát để chuẩn bị cho việc thi công mở tuyến đường ô tô từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi huyện Hoàng Su Phì.

Sau khi Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Nghị quyết số 204/GTVT ngày 24/02/1961 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang về việc bàn kế hoạch làm đường ô tô Bắc Quang đi Hoàng Su Phì và Chỉ thị số 440-CT ngày 13/4/1961 của Ủy ban hành chính tỉnh về việc tăng cường lãnh đạo công trình làm đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Nhận thức được tầm quan trọng của đường giao thông trong phát triển đường giao thông trong việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh, quốc phòng đối với địa phương có vị trí trọng điểm như Hoàng Su Phì, Phòng Giao thông huyện đã tích cực tham mưu cho Đảng bộ, Ủy ban hành chính huyện triển khai thực hiện kế hoạch mở đường của tỉnh. Cũng trong thời gian này để động viên quân dân hai miền Nam - Bắc thi đua lao động sản xuất và chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 1/9/1960, tỉnh Hà Giang đã kết nghĩa với tỉnh Lâm Đồng. Để ghi nhớ sự kiện này, tuyến đường Bắc Quang  - Hoàng Su Phì đã được lấy tên là Đường Lâm Đồng.

 Do điều kiện khó khăn về mọi mặt, việc thi công tuyến đường chủ yếu bằng sức người của 2 huyện Bắc Quang và Hoàng Su Phì. Để huy động nguồn nhân lực, Phòng Giao thông huyện đã tham mưu cho Ủy ban hành chính huyện huy động dân công mỗi xã từ 10 đến 15 người tham gia đào đất, phá mở đường. Với sự nỗ lực cố gắng ngày đêm bám trụ trên công trường của lực lượng dân công và các đơn vị của tỉnh, chỉ sau 06 tháng thi công đến cuối năm 1961 tuyến đường đã hoàn thành và thông xe được 17 km từ Tân Quang đến Cổng trời 1. Đầu năm 1962 tỉnh đã điều động 02 đơn vị công nhân là  B1 và B2, trong đó B1 có 11 A (mỗi A tương đương với một tiểu đội) chủ yếu là nữ và đơn vị B2 có 20 A chủ yếu là là nam giới đảm nhận nhiệm vụ phá đá làm cầu. Để đảm bảo công tác lãnh đạo của Đảng, Huyện ủy Hoàng Su Phì cũng thành lập một Chi bộ của Ban chỉ huy Công trường do đồng chí Hoàng Văn Ét là cán bộ Huyện ủy Hoàng Su Phì làm Bí thư Chi bộ. Đến tháng 12/1963 thì tuyến đường được thông xe đến trung tâm xã Nậm Dịch.

Sau khi huyện Hoàng Su Phì được tỉnh phê duyệt kinh phí mở đường từ xã Nậm Dịch đi xã Vinh Quang, phát huy thành tích với khí thế thi đua sau 03 năm mở đường (1961 - 1963), Phòng Giao thông huyện đã tham mưu xây dựng kế hoạch phát động phong trào thi đua “Vì miền Nam ruột thịt” với tinh thần nước rút để hoàn thành tuyến đường trong năm 1964. Nhờ đó chỉ sau 01 năm tuyến đường dài 16 km từ xã Nậm Dịch đến xã Vinh Quang đã được thông xe.

Như vậy, chỉ sau hơn 04 năm, từ tháng 4/1961 đến tháng 12/1964 với nhiều đợt thi đua “Vì miền Nam ruột thịt”, “Vì Lâm Đồng thân yêu”, “Chắc tay Choòng, hay tay súng” v.v. từ nguồn kinh phí hỗ trợ của tỉnh chi cho mua sắm công cụ lao động, vật tư thiết bị và tiền ăn với tổng số 618.300 đồng, nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đã đóng góp 20.000 lượt người trong đó có 1.800 cụ phụ lão với tổng số 745.000 ngày công để đào 58.000m2 đất và 102.000m2 đá, góp sức cùng với toàn tỉnh hoàn thành tuyến đường ô tô đầu tiên của huyện từ Bắc Quang đi Hoàng Su Phì mang tên tỉnh Lâm Đồng kết nghĩa, có tổng chiều dài 60 km với 59 cây cầu, mặt đường rộng 4,5m. Từ đó tạo thành mạng lưới giao thông đồng bộ, kết nối giữa các vùng miền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Hoàng Su Phì nói riêng.

Ngày 10/01/1965 lễ thông xe được tổ chức long trọng tại trung tâm huyện lỵ Hoàng Su Phì với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, lãnh đạo Khu, lãnh đạo tỉnh và hai huyện Bắc Quang, Hoàng Su Phì cùng đông đảo nhân dân trên địa bàn. Với thành tích này, đầu năm 1965, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương lao động Hạng ba, các xã Bản Nhùng, Hồ Thầu, Đản Ván được Chính phủ tặng Bằng khen. Trong thành tích chung đó có sự đóng góp vô cùng lớn lao của đội ngũ cán bộ Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì.

Cùng với việc hoàn thành mở tuyến đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì, trong các năm 1960 - 1965 Phòng Giao thông Xây dựng huyện cũng đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện xây dựng kế hoạch, khảo sát thực địa và phối hợp với các xã huy động dân công để mở mới và bảo dưỡng các tuyến đường dân sinh liên xã, liên thôn, tạo thành mạng lưới giao thông nối liền giữa các xã và các thôn bản. Bình quân mỗi năm toàn huyện huy động được trên 20.000 ngày công để tu sửa trên 300 km đường dân sinh, mở mới từ 10 - 15 km đường ngựa thồ, sửa chữa hàng chục cây cầu gỗ và cầu treo qua suối để đảm bảo thông suốt qua các mùa, đáp ứng được nhu cầu vận chuyền hàng hóa bằng sức ngựa của nhân dân. Một số cây cầu treo qua vượt sông Chảy và các con suối cũng được đầu tư xây dựng trong thời gian này, tiêu biểu là cây cầu qua sông Chảy km 9 Ngàm Đăng Vài - Bản Luốc, cầu Bản Cậy - Na Hu, cầu  Cốc Pài  - Chế Là, cầu Thèn Phàng - Cốc Pài, cầu Tụ Nhân - Bản Díu…

Ghi nhận những thành tích của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì trong sự nghiệp phát triển giao thông trong giai đoạn này, năm 1962 đồng chí Vương Tiến Ba - Phó trưởng Phòng Giao thông Xây dựng được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương kháng chiến Hạng ba, năm 1963 các xã Nam Sơn, Nấm Dẩn, Sán Sả Hồ đã vinh dự được nhận cờ thi đua "Xã làm đường khá nhất" của UBND tỉnh Hà Giang[2], xã Nam Sơn đã được Bộ Giao thông tặng thưởng xe trâu bằng lốp ô tô và một con trâu mộng. Bên cạnh đó năm 1963 xã Nam Sơn vinh dự được huyện chọn làm điểm để phát động phong trào học tập kinh nghiệm về mở đường giao thông nông thôn cho các xã trong huyện.

Cùng với mở đường giao thông, một thành tích mà huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này đó là năm 1962 Phòng Giao thông huyện đã phối hợp với xã Nam Sơn huy động 540 ngày công để khai thác, vận chuyển 46 cây gỗ lớn với khối lượng hơn 50m3 từ thôn Lê Hồng Phong ra Nậm Dịch để xây dựng kho lương thực của huyện. Với cách làm sáng tạo là dùng mìn phá đá, khơi thông dòng suối từ thôn Lê Hồng Phong ra Sông Chảy với tổng chiều dài hơn 7 km để vận chuyển gỗ đảm bảo an toàn, tiết kiệm được sức lực cho nhân dân, đồng thời đây cũng là tuyến đường thủy được bà con trong xã Nam Sơn thường xuyên vận chuyển tre, nứa, lâm sản cung cấp cho khu vực lân cận, đưa xã Nam Sơn là xã đầu tiên của huyện Hoàng Su Phì biết sử dụng đường giao thông đường thủy để vận chuyển hàng hóa lâm sản, từ đó mô hình này được Phòng Giao thông nhân rộng ra các xã khác trong huyện. Mặc khác, Phòng Giao thông huyện cũng hướng dẫn mở rộng việc sử dụng các loại xe quệt, xe cút kít để vận chuyển hàng hóa, phân bón ra ruộng đồng ở những xã có điều kiện, kết hợp với trâu, ngựa thồ, từ đó góp phần giải phóng đôi vai người nông dân một khối lượng hàng hóa chiếm tới 64,4% khối lượng vận chuyển.

Trong giai đoạn này Phòng Giao thông huyện cũng tích cực phối hợp với cơ quan Thuế vụ và Công ty lương thực Hà Giang trong việc tu sửa đường xá để thu mua và lưu thông, vận chuyển lương thực theo chỉ tiêu kế hoạch được giao. Đặc biệt là trong năm 1959 thực hiện Nghị quyết số 770 ngày 29/5/1959 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang, Phòng Giao thông huyện đã tham mưu cho Ủy ban hành chính huyện xây dựng kế hoạch và huy động 260 con ngựa thồ của các hộ gia đình trong huyện, phối hợp với Ủy ban hành chính các xã Nậm Dịch, Vinh Quang huy động dân công tổ chức chỗ ăn nghỉ và chuẩn bị cỏ để vận chuyển lương thực thu mua từ huyện ra xã Tân Quang. Chỉ trong 4 tháng từ ngày 05/6 đến ngày 05/10/1959 với sự phối hợp hỗ trợ của hai huyện Vị Xuyên và Bắc Quang đã hoàn thành việc vận chuyển 547 tấn lương thực từ các kho tại xã Vinh Quang và xã Nậm Dịch ra xã Tân Quang huyện Bắc Quang, đảm bảo an toàn và bàn giao đầy đủ cho tỉnh, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần quan trọng vào việc cung cấp kịp thời lương thực để phục vụ quân và dân chiến trường miền Nam ăn no đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đây cũng là một trong những thành tích đầy tự hào của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ Phòng Giao thông huyện.

Lĩnh vực xây dựng của huyện trong giai đoạn này cũng đạt nhiều tiến bộ. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng[3], từ năm 1961, Cấp ủy, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì tập trung triển khai thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất giai đoạn 1961 - 1965, trong đó tập trung thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 79-CP ngày 01/6/1963 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” đã được Đảng bộ và Chính quyền huyện cụ thể hóa bằng việc củng cố các hợp tác xã, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp. Bám sát mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ III và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ I đã đề ra, mặc dù đội ngũ cán bộ của Phòng Xây dựng huyện khi đó còn rất thiếu về biên chế, yếu về chuyên môn do chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ trong khi nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản hầu như không có mà chủ yếu dựa vào sức dân. Song với tinh thần nhiệt huyết và ý chí cách mạng, các đồng chí đã tích cực bám sát tình hình thực tiễn, tham mưu đề xuất những kế hoạch, giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở, từng bước định hình khu vực các cơ quan của huyện tại trung tâm huyện lỵ. Huy động dân công khai thác vật liệu tại chỗ để san lấp mặt bằng, xây dựng, tu sửa hệ thống trụ sở làm việc các cơ quan hành chính từ huyện đến các xã, xây dựng các trường lớp học, trạm y tế xã, cửa hàng, kho bãi...

Đến cuối năm 1963 toàn bộ các xã trong huyện đã có nhà trụ sở, nhà lớp học và trạm y tế bằng tre, gỗ, lá. Riêng xã Vinh Quang ngoài trụ sở của các cơ quan huyện, trạm thu mua chè thì có thêm các cửa hàng mậu dịch Quốc doanh, hiệu sách. Hệ thống kho thóc với 12 kho được xây dựng tại trung tâm huyện lỵ và thôn Bản Cậy (xã Tụ Nhân), thôn Nậm Dịch, thôn Nậm Song, Nậm Ai (nay thuộc xã Nam Sơn), thôn Nậm Cài (xã Tiên Nguyên) và tại các xã Hồ Thầu, Bản Luốc, Cốc Pài, Bản Díu, Trung Thịnh, Chí Cà với sức chứa trên 900 tấn, đảm bảo tốt công tác phục vụ thu thuế nông nghiệp và thu mua từ các hợp tác xã mỗi năm từ 800 - 880 tấn.

Năm 1957 Phòng Xây dựng huyện đã phối hợp với Ủy ban hành chính xã Vinh Quang tiến hành khảo sát địa điểm và tham mưu cho Ủy ban hành chính huyện huy động dân công san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu và thi công xây dựng trạm xá của huyện với 17 giường bệnh, đến năm 1964 tiếp tục xây dựng mở rộng quy mô lên 20 giường cùng các công trình như nhà lưu trú, nhà ăn cho nhân viên y tế. Năm 1959 tiến hành khảo sát và xây dựng Trường Bổ túc văn hóa của huyện ở 2 bờ suối tại khu vực sân vận động huyện ngày nay gồm 6 dãy nhà tạm bằng tre, gỗ, mái lợp cỏ tranh. Đến năm 1965 tiếp tục tham mưu huy động dân công để xây dựng Trường Thanh niên dân tộc tại thôn Bản Qua xã Tân Tiến gồm 03 dãy nhà trình tường mái lợp cỏ tranh. Đây cũng là những ngôi trường tập trung có quy mô lớn nhất của huyện Hoàng Su Phì khi đó.

Trong các năm 1961, 1962 địa giới hành chính các xã trong huyện có sự điều chỉnh. Trước yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới của địa phương, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cũng như quản lý địa bàn của mỗi địa phương, ngày 15/12/1961, Chính phủ ban hành Quyết định số 211-CP, theo đó xã Nậm Dịch được thành 3 xã (xã Nam Sơn, xã Cháng Nà, xã Nậm Dịch); xã Tân Tiến được chia thành 5 xã (xã Túng Sán, xã Tân Tiến, xã Ngàm Đăng Vài, xã T  Sử Choóng, xã Bản Nhùng); xã Trung Thịnh được chia thành thành 6 xã (xã Việt Thái, xã Nàng Đôn, xã Trung Thịnh, xã Ngán Chiên, xã Thu Tà, xã Pờ Ly Ngài); xã Chế Là được chia thành 4 xã (xã Cốc Rế, xã Tả Nhìu, xã Chế Là, xã Nấm Dần); xã Cốc Pài được chia thành 3 xã (xã Cốc Pài, xã Nàn Ma, xã Bản Ngò). Tiếp đó ngày 30/4/1962, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 50-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Hoàng Su Phì, trong đó chia xã Bản Máy thành 05 xã mới (Bản Máy, Thàng Tín, Bản Pắng, Bản Phùng, Nàn Xỉn); chia xã Chí Cà thành 02 xã mới (xã Chí Cà và xã Pà Vầy Sủ). Sau khi chia tách toàn huyện có tổng số 39 xã, tăng 25 xã so với thời điểm năm 1961.

Việc chia tách xã đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cho Phòng Xây dựng huyện khi đó là khẩn trương tham mưu xây dựng kế hoạch và xác định vị trí, địa điểm và huy động dân công san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu và đóng góp ngày công để xây dựng trụ sở cho các xã. Sau gần 2 năm (tháng 01/1961 đến tháng 8/1962) toàn huyện đã huy động được 24.650 ngày công, san ủi hơn 20.000m3 đất đá, khai thác hơn 1.000m3 vật liệu tại chỗ (gỗ, tre, nứa) để xây dựng và đưa vào sử dụng 25 nhà trụ sở của các xã mới được thành lập. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng của các Cấp ủy đảng, Chính quyền.

Mặc dù các công trình xây dựng của huyện khi đó hết sức đơn sơ là nhà trình tường hoặc tranh, tre, nứa, lá  được xây dựng từ chính bàn tay, khối óc của nhân dân các dân tộc trong huyện và sự tư vấn hỗ trợ về chuyên môn của các cán bộ Phòng Xây dựng huyện, song về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về nơi làm việc và học tập cũng như đảm bảo công tác lãnh đạo, chỉ đạo của bộ máy các Cấp ủy, chính quyền. Qua đó thể hiện tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, đồng thời góp phần tạo dựng bộ mặt mới cho huyện Hoàng Su Phì ngày một khang trang hơn so với trước.

Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của huyện trong giai đoạn này cũng có bước phát triển. Giai đoạn này ở cấp huyện không có cơ quan chuyên trách mà lĩnh vực này do một đồng chí Ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách. Đảng bộ và Chính quyền huyện đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 124-NQ/TW ngày 30/8/1960 của Bộ Chính trị về vấn đề đẩy mạnh việc cải tạo và phát triển thủ công nghiệp theo Chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc phát triển các lò rèn, lò đúc để sản xuất nông cụ như lưỡi cày, dao, liềm, cuốc, xẻng, móng ngựa, trồng lanh, trồng bông dệt vải ... để phục vụ yêu cầu lao động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nhất là ở các xã có nghề thủ công tương đối phát triển như xã Nậm Dịch, Tụ Nhân, Bản Luốc. Mặt khác, các ngành, đoàn thể của huyện đã tích cực vận động các hộ gia đình tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, từng bước đưa người nông dân vào con đường làm ăn tập thể, cùng nhau góp sức cải tiến nông cụ, nâng cao năng suất, chất lượng nghề trồng bông, trồng lanh dệt vải sợi... để phục vụ sản xuất và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân.

Về công tác tổ chức cán bộ của các phòng, ban trong giai đoạn này cũng thường xuyên được kiện toàn và củng cố. Sau khi Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 76-TC/CB ngày 06/8/1959 về việc thành lập Ban chỉ huy công trường Đường Hoàng Su Phì, đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Trưởng Phòng Giao thông được chỉ định làm Trưởng ban. Năm 1960 đồng chí Vương Tiến Ba được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Giao thông. Đến năm 1961 Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 17-TC/CB ngày 15/5/1961 về việc thống nhất 02 Ban chỉ huy công trường Bắc Quang - Hoàng Su Phì và chỉ định đồng chí Vàng Chín Lẻng làm Trưởng Ban, đồng chí Vàng Dỉ Thàng được rút về Phòng Giao thông huyện, Ủy ban hành chính huyện đã cử đồng chí Nguyễn Đức Hà - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện giữ chức vụ Phó Ban chỉ huy công trường.

Sau khi huyện Hoàng Su Phì có sự điều chỉnh về địa giới hành chính theo Quyết định số 211-CP ngày 15/12/1961 Quyết định số 50-CP ngày 30/4/1962 của Hội đồng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Hoàng Su Phì, nâng tổng số các xã của huyện từ 14 xã lên 39 xã, do yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng khi đó đòi hỏi một lượng lớn cán bộ cần bổ sung cho các xã mới trong huyện được thành lập nên tháng 5/1963 Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã điều động đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Trưởng Phòng Giao thông đi tăng cường xây dựng cơ sở tại xã Tả Sử Choóng, đồng chí Vương Tiến Ba được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng.

Năm 1964 Phòng Xây dựng được tỉnh bổ sung thêm một cán bộ phụ trách kỹ thuật, nâng tổng số cán bộ của Phòng lên 04 người. Năm 1965 Phòng Giao thông được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải và được giao phụ trách hai lĩnh vực là quản lý, phát triển hệ thống giao thông cầu đường và trạm vận tải ngựa thồ gồm 60 con đặt tại khu vực ven suối phía dưới khu vực Trường phổ thông dân tộc Nội trú Trung học cơ sở - Trung học phổ thông huyện ngày nay, đồng thời được bổ sung thêm một cán bộ, nâng tổng biên chế của Phòng lên 05 người.

2. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ (giai đoạn 1965 - 1975)

Bước sang năm 1965, trước sự phát triển về dân cư, đồng thời để tạo thuận cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, từ đó phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, huyện Hoàng Su Phì tiếp tục được chia tách thành hai huyện là Hoàng Su Phì và Xín Mần theo Quyết định số 49-CP Ngày 01/4/1965 của Hội đồng Chính phủ. Theo đó huyện Hoàng Su Phì, gồm 21 xã là Nam Sơn, Nậm Dịch, Hồ Thầu, Bản Luốc, Ngàm Đăng Vài, Tả Sử Choóng, Bản Nhùng, Tân Tiến, Túng Sán, Vinh Quang, Pố Lồ, Tụ Nhân, Thèn Chu Phìn, Chiến Phố, Đản Ván, Trung Thịnh, Thàng Tín, Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài, Sán Xả Hồ, Bản Péo với tổng số 3.393 hộ, 23.016 nhân khẩu. Huyện Xín Mần có 18 xã là Bản Máy, Bản Pắng, Bản Phùng, Nàn Xỉn, Bản Díu, Thèn Phàng, Xín Mần, Cốc Pài, Nàn Ma, Bản Ngò, Nấm Dẩn, Chế Là, Cốc Rế, Chí Cà, Pà Vầy Sủ, Thu Tà, Ngán Chiên, Tả Nhìu với tổng số 3.060 hộ, 23.745 nhân khẩu.

Sau khi chia tách huyện, để giúp cho các cơ quan của huyện mới Xín Mần sớm đi vào hoạt động, thực hiện sự chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền 02 huyện, đội ngũ cán bộ của Phòng Xây dựng huyện đã phối hợp với các ngành của tỉnh tham mưu xây dựng các phương án, kế hoạch và giải pháp quy hoạch, xây dựng trụ sở mới của Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan của huyện mới Xín Mần tại xã Cốc Pài. Đồng thời tham mưu kế hoạch và huy động dân công của hai huyện tham gia san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu để xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan huyện mới Xín Mần. Đến cuối năm 1965 toàn bộ trụ sở các cơ quan của huyện Xín Mần đã được xây dựng xong và đi vào sử dụng. Mặt khác, trong điều kiện đội ngũ cán bộ của Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì khi đó còn rất thiếu nhưng với tinh thần đoàn kết tương trợ, chia sẻ khó khăn, thực hiện sự điều động của Cấp ủy, Chính quyền, một số cán bộ của các cơ quan đã được điều động vào công tác tại huyện Xín Mần để gánh vác trọng trách nhiệm vụ tại huyện mới.

Trong giai đoạn từ năm 1964 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta có nhiều diễn biến phức tạp. Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ, ngày 05/8/1964 đế quốc Mỹ bắt đầu ném bom đánh phá miền Bắc Hội nghị lần thứ XII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) họp từ ngày 27/12/1965 đã khẳng định: Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc, đồng thời nhận định rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là … “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu… Trong bất cứ tình huống nào chúng ta cũng phải khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp…”[4].

Trong tình hình cả nước có chiến tranh, nhất là sau khi đế quốc Mỹ tiến hành ném bom đánh phá Hà Giang vào tháng 8/1965, căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ XII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ III[5], với chức năng, nhiêm vụ được giao, đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của của Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng đã tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, tích cực tham mưu và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Để chủ động phòng tránh máy bay địch bắn phá, Phòng Xây dựng huyện đã tham mưu và triển khai kế hoạch phân tán, ngụy trang hệ thống các kho lương thực, dầu muối, các cửa hàng mậu dịch tại các xã Vinh Quang, Nậm Dịch, Tụ Nhân, Hồ Thầu, Bản Luốc và các trường học, trạm xá, trạm y tế, thay đổi thời gian họp chợ, phối hợp với lực lượng Quân sự, Công an và Phòng Thông tin Văn hóa vận động nhân dân đào hầm trú ẩn để phòng tránh thiệt hại về người và của trong trường hợp xảy ra chiến sự.

Song song với việc đề cao cảnh giác, chủ động phòng chống nguy cơ chiến tranh lan rộng, Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì cũng tích cực tham mưu đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn để phục vụ sản xuất phát triển kinh tế. Nhất là từ năm 1966 cùng với việc mở rộng phát triển sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp tại các xã trong toàn huyện tiếp tục được mở rộng lên 100 hợp tác xã với tổng số 3.013 hộ tham gia, chiếm 82,97 tổng số hộ trong toàn huyện, trong đó có 13 xã căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp. Đến cuối năm 1967 toàn bộ các hợp tác xã trong huyện đã xây dựng được các kho chứa thóc, mỗi hợp tác xã xây được từ 2 - 3 bể ngâm thóc giống.

Bước sang năm 1967 là thời điểm tỉnh Hà Giang tập trung mạnh mẽ cho việc thực hiện cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” theo tinh thần Nghị quyết số 79-CP ngày 01/6/1963 của Hội đồng Chính phủ. Trong đó trọng tâm là việc mở rộng quan hệ sản xuất, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa nên tại các hợp tác xã đã dấy lên phong trào thi đua làm đường giao thông, xây dựng và củng cố hệ thống kho bãi. Bên cạnh đó, từ những năm 1960 việc sử dụng mìn để phá đá trong xây dựng nhằm tăng năng suất lao động đã được sử dụng rộng rãi. Vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình xây dựng các công trình của huyện.

Trong 03 năm (1969 - 1971) Phòng Xây dựng đã phối hợp với Phòng Thủy lợi huyện tiến hành khảo sát, tham mưu cho Ủy ban hành chính huyện huy động dân công tham gia đóng góp 165.311 ngày công để đào đắp 106.107 m3 đất đá, sử dụng hết 35,65 tấn xi măng và 1,274 tấn thuốc nổ phá đá để tu sửa 2.885 tuyến mương, xây dựng và đào mới 29 tuyến trong đó có 02 công trình trung thủy nông tại các xã Tân Tiến, Pờ Ly Ngài. Nâng diện tích ruộng được cung cấp nước tưới từ 367,7 ha năm 1968 lên 1.547,5 ha năm 1971, chiếm 86% tổng diện tích gieo cấy của huyện[6]. Đến năm 1975 do huyện đẩy mạnh khai hoang phục hóa nên diện tích gieo cấy của huyện tăng từ 2.019 ha năm 1969 lên 2.128,4 ha năm 1975. Để đảm bảo công tác thủy lợi tưới tiêu, Phòng Xây dựng tiếp tục phối hợp với Phòng Thủy lợi khảo sát xây dựng mới 03 tuyến mương, tu sửa 2.930 tuyến, đảm bảo cung cấp nước tưới cho trên 87% diện tích ruộng của toàn huyện.

Về lĩnh vực Giao thông vận tải, do địa hình của huyện có độ dốc lớn, thổ nhưỡng có kết cấu yếu, khí hậu khắc nghiệt nên các tuyến đường thường xuyên bị sạt lở, nhất là trong đợt mưa lũ lớn nhất trong hơn 100 năm trở lại diễn ra từ ngày 12 đến ngày 16/8/1971 khiến cho hơn 300 km đường dân sinh, 14 cầu, cống, 475 km kênh mương và hơn 200 ha ruộng bị sạt lở, 33 công trình nhà trụ sở, trạm y tế, nhà lớp học tại các xã bị hư hại, gây thiệt hại nặng nề về hạ tầng nông thôn của huyện. Vì vậy hàng năm Phòng Giao thông Vận tải huyện đã chủ động tham mưu xây dựng kế hoạch, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện có hiệu quả công tác mở mới và duy tu bảo dưỡng, nhất là sau mùa mưa lũ để đảm bảo các tuyến đường được thông suốt qua 4 mùa.

Chỉ riêng 02 năm (1970 - 1971) toàn huyện đã huy động được 37.360 ngày công để mở mới 20,3 km đường dân sinh, tu sửa 615 km với khối lượng đất đá đào đắp 22.868 m3, tu sửa 06 cầu treo và 02 cầu gỗ với tổng chiều dài 212m, làm mới 02 cây cầu kiên cố và 04 cầu gỗ với tổng chiều dài 133m. Bên cạnh đó, Phòng Giao thông Vận tải cũng tích cực phối hợp với các cơ quan, đơn vị chuyên môn thuộc Ty Giao thông Vận tải Hà Giang quản lý bảo dưỡng tốt tuyến đường ô tô huyết mạch từ Tân Quang đi Hoàng Su Phì đảm bảo được thông suốt qua các mùa để vận chuyển, cung ứng hàng hóa phục vụ đời sống lao động, học tập và sản xuất của đồng bào các dân tộc trong huyện, đồng thời góp phần tiêu thụ các mặt hàng nông lâm sản của huyện như chè, đậu tương, gia súc, dược liệu… góp phần quan trọng trong việc kích thích sản xuất của huyện phát triển.

Về hoạt động xây dựng trong thời gian này chủ yếu tập trung xây dựng và sửa chữa các công trình trụ sở của các cơ quan huyện và các xã cũng như các công trình lớp học, trạm y tế… Do đặc điểm về địa hình và khí hậu của huyện rất khắc nghiệt, trong khi các công trình phúc lợi công cộng chủ yếu được xây dựng từ vật liệu bằng gỗ, tranh, tre, nứa, lá, một số công trình là nhà trình tường nên mau hỏng, hay sạt lở. Vì vậy hàng năm Phòng Xây dựng huyện đã chủ động tham mưu xây dựng kế hoạch và giao chỉ tiêu về huy động dân công, bình quân mỗi năm từ 10.000 đến 15.000 ngày công để khai thác vật liệu, tu sửa bảo dưỡng, kịp thời phục vụ yêu cầu làm việc của các cơ quan trong bộ máy Cấp ủy, chính quyền của huyện và các xã.

Lĩnh vực thủ công nghiệp của huyện trong giai đoạn các năm 1965 - 1975 cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Các xã, các hợp tác xã tiếp tục đẩy mạnh cải tạo, phát triển ngành nghề thủ công truyền thống để cung cấp các sản phẩm nông cụ, dụng cụ sinh hoạt để phục vụ nhu cầu lao động sản xuất trong các hợp tác xã và đời sống nhân dân. Nếu như năm 1969 đã thành lập được 17 tổ thủ công (rèn, đúc, nghề mộc), năm 1971 có 22 tổ thì đến năm 1975 đã phát triển được 25 tổ. Năm 1969 đã sản xuất được 1.825 lưỡi cày, 1.780 lưỡi cuốc, năm 1971 sản xuất được 3.225 lưỡi cày, 2.016 lưỡi cuốc, đến năm 1975 đã sản xuất được 2.270 lưỡi cày, 2.364 lưỡi cuốc, 275 sản phẩm đồ mộc và hàng chục nghìn nông cụ các loại khác, nhờ đó đã kịp thời đáp ứng nhu cầu lao động và sinh hoạt của nhân dân.

Trong giai đoạn này, các cơ quan, phòng, ban của huyện cũng được củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và cán bộ. Tháng 5/1965 đồng chí Phúc Văn Toản - Cán bộ kỹ thuật Công trường đường giao thông Hà Giang - Đồng Văn được điều động vào huyện Hoàng Su Phì công tác và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Xây dựng. Tháng 5 năm 1975 đồng chí Phúc Văn Toản được điều động sang Phòng Giao thông Vận tải và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng, đồng chí Nguyễn Văn Chí được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Xây dựng. Tháng 9/1974 đồng chí Lù Văn Sạch chuyển công tác sang đơn vị khác, đồng chí Nông Văn Thượng - Phó Phòng Kế hoạch huyện được điều động về Phòng Xây dựng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng. Đến cuối năm 1975 Phòng Xây dựng có tổng số 05 cán bộ, Phòng Giao thông Vận tải có 06 cán bộ.

Về công tác Đảng, trong giai đoạn này các cơ quan Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng có tổng số 02 đảng viên là đồng chí Phúc Văn Toản và đồng chí Nông Văn Thượng, sinh hoạt chung với Chi bộ Kế hoạch - Công nghiệp trực thuộc Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì.

Bước sang năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta có nhiều chuyển biến theo hướng thuận lợi. Tháng 3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc tiến công giải phóng miền Nam. Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Cùng nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì chuyển sang một trang sử mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là những điều kiện thuận lợi hết sức cơ bản đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì, động viên đội ngũ cán bộ làm công tác Giao thông, Xây dựng của huyện tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong điều kiện, hoàn cảnh cách mạng mới.

Chương III

TIẾP TỤC THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XHCN, THAM GIA CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI (GIAI ĐOẠN 1975 - 1990)

1. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm đầu thống nhất đất nước (giai đoạn 1975 - 1978)

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất. Thắng lợi này đã tạo đà để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đất nước đã giành được độc lập, thống nhất trọn vẹn.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (khóa V) kỳ họp thứ II ngày 27/12/1975 về việc giải thể các Khu tự trị, hợp nhất các tỉnh.  Tháng 4/1976 hai tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang được sáp nhập và lấy tên là tỉnh Hà Tuyên. Sau khi sáp nhập, Trung ương và Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân và các ngành của tỉnh đã ưu tiên tập trung các nguồn lực để hỗ trợ cho các huyện vùng cao biên giới phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm Quốc phòng an ninh. Tuy nhiên quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội khi đó gặp không ít khó khăn. Trong bối cảnh đất nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, hạ tầng kinh tế xã hội bị tàn phá nặng nề, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém lạc hậu thì huyện Hoàng Su Phì còn có những khó khăn riêng. Là huyện vùng cao, địa bàn cách biệt, khí hậu khắc nghiệt, năng suất chất lượng cây trồng vật nuôi thấp khiến hầu hết các hộ gia đình thiếu lương thực nhất là trong giai đoạn giáp hạt. Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất rất nghèo nàn. Toàn huyện chỉ có duy nhất một tuyến đường ô tô từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang vào huyện và chỉ có 3/21 xã có đường ô tô còn lại là đường dân sinh ngựa thồ. Trừ một số nhà kho lương thực, thực phẩm là nhà xây cấp IV còn lại hầu hết các công trình phúc lợi công cộng như trụ sở, trạm xá, trường học đều là nhà tạm.

Mặc dù nhu cầu về nguồn vốn phục vụ cho hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn nhưng hầu như không có mà chủ yếu huy động từ sức dân. Trong khi đó từ năm 1972 hoạt động của các hợp tác xã trên địa bàn huyện phát sinh nhiều hạn chế khuyết điểm khiến nhiều người bỏ bê không tham gia các hoạt động của hợp tác xã mà chủ yếu dành thời gian ra ngoài làm để làm ăn riêng. Trong 3 năm (1973 - 1975) toàn huyện đã có hơn 500 hộ gia đình viết đơn xin ra các hợp tác xã khiến cho việc huy động dân công để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác do đội ngũ cán bộ vừa thiếu về lực lượng, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ trong khi đồng lương rất thấp không đủ chi dùng trong cuộc sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến lập trường, tư tưởng cán bộ cũng như quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao của các cơ quan, đơn vị.

Trong thời gian này, các cơ quan Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng cũng có nhiều biến động về công tác tổ chức cán bộ. Tháng 01/1978 đồng chí Vương Tiến Ba - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải bị lâm bệnh và từ trần trong khi đang làm nhiệm vụ mở tuyến đường Định canh định cư Nậm Dịch - Hồ Thầu, Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên đã điều động 02 cán bộ thuộc Đội khảo sát công trình cầu đường vào tăng cường cho Phòng Giao thông Vận tải huyện, trong đó có đồng chí Chúng Bắc Thông được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng. Về đội ngũ cán bộ của các đơn vị, đến cuối năm 1979 Phòng Giao thông Vận tải có 06 cán bộ, Phòng Xây dựng có 05 cán bộ.

Mặc dù quá trình thực hiện nhiệm vụ gặp rất nhiều khó khăn, song trong giai đoạn các năm 1975 - 1978 đội ngũ lãnh đạo và cán bộ Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng của huyện đã có nhiều cố gắng, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong 04 năm đã huy động dân công được 68.157 ngày công để mở mới được 43 km đường dân sinh trong đó có 15 km đường tuần tra biên giới và tu sửa 854 km đường dân sinh; phối hợp với Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên duy tu bảo dưỡng tuyến đường ô tô từ Bắc Quang đi các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần đảm bảo thông suốt qua các mùa để vận chuyển cung ứng, tiêu thụ hàng hóa và đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân hai huyện.

Một trong những thành tích nổi bật trong lĩnh vực Giao thông và Xây dựng của huyện trong giai đoạn này là chỉ trong gần 02 năm, từ tháng 11/1977 đến tháng 7/1978 Phòng Giao thông Vận tải và Phòng Xây dựng đã chủ động phối hợp tham mưu huy động dân công từ các xã trong huyện đóng góp 81.580 ngày công để tham gia phá đá, đào đắp hàng trăm nghìn mét khối đất đá mở mới tuyến đường ô tô có tên là Đường Định canh Định cư với chiều dài 8 km từ trung tâm xã Nậm Dịch đi xã Hồ Thầu. Tháng 7/1978 thì tuyến đường được hoàn thành và đưa vào sử dụng, qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, vật tư, phân bón phục vụ canh tác và đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân các xã Nậm Khòa, Nam Sơn và Hồ Thầu.

Từ năm 1976 Công ty vận tải Thủy - Bộ thuộc Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên đã mở tuyến xe khách từ Tuyên Quang đi các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần với tần suất mỗi tuần một chuyến, từ năm 1978 tiếp tục mở tuyến xe khách từ Hà Giang đi huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần với tần suất 3 ngày/chuyến. Do không có mặt bằng nên bến xe của huyện khi đó sử dụng mặt đường khu vực ngã ba phía trước trụ sở Ủy ban nhân dân huyện làm địa điểm dừng đỗ đón trả khách. Thực hiện nhiệm vụ chung của ngành, Phòng Giao thông Vận tải đã chủ động phối hợp với Công ty vận tải Thủy - Bộ của tỉnh trong việc bán vé tại bến và cử cán bộ thực hiện quyết toán mỗi tháng một lần tại 02 bến chính tại thị xã Tuyên Quang và thị xã Hà Giang. Mặc dù hoạt động vận tải bằng ô tô khi đó còn yếu kém cả về chất lượng phương tiện, đường sá và tần suất hoạt động, song bước đầu đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trong nhân dân thời kỳ này.

Về hoạt động xây dựng, Phòng Xây dựng đã tham mưu huy động dân công để khai thác vật liệu, san lấp mặt bằng để xây dựng được 04 trường học và 03 trạm xá tại các xã với tổng số ngày công huy động được là 11.032 công. Năm 1976 triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng nhà kho lương thực kiên cố tại trung tâm huyện với diện tích 396 m2.

Trong thời gian từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978 quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc trở nên phức tạp. Ở khu vực các xã biên giới Bản Máy, Thàng Tín, phía Trung Quốc thường xuyên tiến hành các hoạt động khiêu khích vũ trang, thám báo, biệt kích, xâm canh, xâm cư, di dời cột mốc. Điều đó cho thấy dấu hiệu của cuộc xâm lược đang tới gần. Đứng trước tình hình đó, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Giao thông Vận tải và Phòng Xây dựng huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch và phương án sẵn sàng chiến đấu trong phạm vi lĩnh vực ngành được phân công phụ trách. Trong hơn một năm đến trước thời điểm xảy ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới của dân tộc, toàn huyện đã huy động được hơn 12.000 lượt dân công và dân quân, tự vệ lên tuyến biên giới để xây dựng được hàng trăm công sự chiến đấu, mở 23 km đường giao thông lên các điểm chốt và khu vực biên giới, xây dựng mới 02 cầu treo qua Sông Chảy tại khu vực các xã Trung Thịnh, Bản Luốc để sẵn sàng phục vụ tải đạn, lương thực, thực phẩm lên chốt phục vụ quân và dân ta sẵn sàng chiến đấu giáng trả những hoạt động xâm chiếm của Trung Quốc.

 2. Tham gia phục vụ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới và phát triển kết cấu hạ tầng trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước (giai đoạn 1979 - 1990)

Ngày 17/02/1979, phía Trung Quốc đã nổ súng tấn công ta trên toàn tuyến biên giới. Tại khu vực huyện Hoàng Su Phì chúng tập trung tấn công chủ yếu vào các xã Thàng Tín, Pố Lồ, Thèn Chu Phìn và xã Bản Máy khi đó thuộc huyện Xín Mần. Trước tình hình đó, ngày 12/4/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ra Nghị quyết về 4 nhiệm vụ cấp bách trước mắt là: Chặn bằng được địch ở tuyến đầu biên giới, tiếp tục rà soát lại các phương án và kế hoạch tác chiến cụ thể để đánh bại các cuộc tấn công bằng bộ binh, pháo binh, thiết giáp, không quân của địch nếu chúng tiến quân vào địa bàn. Nắm chắc địa bàn, kịp thời trấn áp những vụ bạo loạn phản cách mạng, những hành động phá hoại bằng gián điệp, biệt kích. Chừng trị những phần tử phản động, xuyên tạc chính sách, dùng chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân. Động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất, bảo đảm vừa chiến đấu vừa sản xuất tạo ra hậu cần tại chỗ. Chăm sóc tốt vụ Đông - Xuân, tiến hành làm vụ mùa thắng lợi. Quyết tâm làm hết diện tích theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã giao, bảo đảm đúng thời vụ, đúng kỹ thuật. Từ đảng viên đến quần chúng phải nhận thức rõ âm mưu lâu dài của địch... Tăng cường bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chống mọi tư tưởng sợ địch, vô ý thức, vô kỷ luật, bỏ vị trí chiến đấu.

Sau khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới nổ ra, huyện Hoàng Su Phì là một trong 9 huyện tuyến I của tỉnh thực hiện nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khi đó tình hình chiến sự ngày càng ác liệt đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân nhất là các xã biên giới như Pố Lồ, Thàng Tín, Thèn Chu Phìn, công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội bị đình trệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng huyện đã khẩn trương xây dựng các phương án, kế hoạch chuyển hướng hoạt động từ thời bình sang thời chiến với nhiệm vụ trọng tâm là phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.

Thực hiện phương án chiến đấu của huyện đã được xác định tại Nghị quyết ngày 12/4/1979 của Ban Thường vụ Huyện ủy về 4 nhiệm vụ cấp bách trước mắt, trong 02 năm (1980 - 1981) Phòng Giao thông Vận tải và Phòng Xây dựng huyện đã tham mưu huy động được 2.400 lượt dân công, dân quân tự vệ cùng với lực lượng Quân sự làm đường quốc phòng, xây dựng trận địa chiến đấu, xây dựng các khu tạm lánh và hầm hào khu vực huyện lỵ, tiến hành rào lấp biên giới. Đến cuối năm 1981 đã rào lấp được 1.725m đường biên giới, đào 4.700m giao thông hào, 176 hầm tránh pháo, 340 công sự chiến đấu để kịp thời phục vụ các lực lượng vũ trang sẵn sàng đập tan các cuộc đột kích của phía đối diện.

Trước tình hình cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới ngày càng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Thực hiện chủ trương của tỉnh và của huyện về việc chuyển huyện về địa bàn xã Nam Sơn nhằm thuận tiện cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời để bảo toàn lực lượng nhằm đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động phá hoại về nhiều mặt của địch, từ đầu năm 1984 Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải và các cơ quan chuyên môn của tỉnh, của huyện đã tiến hành khảo sát, lựa chọn vị trí, địa điểm để lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật và tham mưu huy động dân công và các phương tiện máy móc, thiết bị để xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc sơ tán các cơ quan của huyện từ xã Vinh Quang vào xã Nam Sơn. Đồng thời xây dựng phương án vận chuyển di rời các cơ quan của huyện vào trụ sở mới. Đến cuối tháng 02/1985, toàn bộ các Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và các phòng, ban, cơ quan chuyên môn của huyện đã được chuyển về xã Nam Sơn đảm bảo an toàn tuyệt đối cả về người và tài sản, tài liệu. Mặt khác, các cơ quan Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải cũng nhanh chóng ổn định cuộc sống, làm việc và công tác để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao.

Trong hoàn cảnh cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới diễn ra trực tiếp trên địa bàn huyện, song song với việc thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, tập thể lãnh đạo và cán bộ các cơ quan Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải tiếp tục bám địa bàn để thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa sản xuất, từng bước hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ được giao của ngành. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong các năm 1983 - 1986 huyện Hoàng Su Phì đã được Trung ương và tỉnh hỗ trợ trên 10 triệu đồng và hơn 10 tấn gạo, Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải đã tham mưu huy động được hơn 2 triệu ngày công trong nhân dân để xây dựng các cơ quan  của huyện tại xã Nam Sơn; mở mới 28 km đường ô tô, trong đó có 16 km lên các trận địa khu vực biên giới và tuyến đường ô tô từ km 55 tỉnh lộ 177 đi trung tâm xã Tân Tiến với chiều dài 12 km; mở mới 156 km đường dân sinh; tu sửa 16 cầu treo, xây dựng trụ sở mới cho các xã Tả Sử Choóng, Tân Tiến, Túng Sán, Pờ Ly Ngài, Thàng Tín. Hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng công trình cấp nước sinh hoạt tại xã Vinh Quang và xã Pố Lồ. Mặt khác, Phòng Giao thông Vận tải huyện đã chủ động phối hợp với Huyện đội tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện giao chỉ tiêu kế hoạch cho các xã huy động dân công hỏa tuyến để tải lương thực, thực phẩm và đạn dược thuốc men lên chốt phục vụ bộ đội chiến đấu.

Có thể nói, những kết quả đạt được trên lĩnh vực giao thông, xây dựng của huyện trong những năm 1980 - 1986  đã thể hiện những cố gắng rất lớn của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện Hoàng Su Phì mà đi đầu trong đó là Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải huyện. Trong hoàn cảnh cuộc chiến đấu diễn ra ngày càng phức tạp nhưng đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của các Phòng đã luôn cố gắng khắc phục mọi khó khăn nguy hiểm để làm tròn trách nhiệm mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân giao phó.

Trước thực tiễn của công cuộc xây dựng đất nước, tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tổ chức đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, khởi đầu cho những chuyển biến sâu sắc, mang tính quyết định, ảnh hưởng tích cực và toàn diện đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung cũng như của huyện Hoàng Su Phì nói riêng, từng bước đưa nước ta vượt qua cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, tiến lên theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, từ năm 1989, tình hình khu vực biên giới đã dần ổn định trở lại, quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc từng bước được bình thường hóa, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm hỗ trợ cho các địa phương vùng cao để tập trung khôi phục phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới. Điều đó cũng có tác động tích cực đối với lĩnh vực giao thông và xây dựng của huyện.

Sau khi tình hình an ninh khu vực biên giới Việt - Trung có những chuyển biến theo hướng tích cực, để thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị và giao lưu văn hóa trong tình hình mới, đầu năm 1989 các cơ quan của huyện được di chuyển từ xã Nam Sơn về xã Vinh Quang. Trong điều kiện khó khăn chung của địa phương vùng cao, Phòng Xây dựng huyện đã từng bước khắc phục khó khăn, tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền cụ thể hóa Nghị quyết số 50-HĐBT ngày 17/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng về tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện với tầm nhìn lâu dài nhằm hướng tới xây dựng xã Vinh Quang thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của huyện. Trong đó đặc biệt chú trọng sử dụng có hiệu quả những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có cũng như tài sản, trang thiết bị được vận chuyển về từ xã Nam Sơn, ưu tiên tập trung vào những công trình phúc lợi công cộng như trụ sở làm việc, trường học, bệnh viện, cửa hàng cung ứng vật tư, thương nghiệp quốc doanh, nhà chợ... để kịp thời phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý điều hành của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của huyện cũng như công tác lưu thông hàng hóa để phục vụ sản xuất và đời sống.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện tham mưu huy động dân công và các phương tiện máy móc, thiết bị để cải tạo, củng cố cơ sở hạ tầng và triển khai phương án vận chuyển di rời các cơ quan của huyện từ xã Nam Sơn về xã Vinh Quang. Trong điều kiện còn rất khó khăn của huyện khi đó Phòng Xây dựng huyện đã tham mưu huy động các nguồn lực tại địa phương cùng với sự hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh để xây dựng lắp đặt các công trình nhà trụ sở của Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện, Huyện ủy và các cơ quan chuyên môn của huyện. Các công trình khi đó hầu hết là nhà tạm bằng gỗ, mái lợp ngói hoặc cột bê tông, kèo sắt, vách bưng bằng ván, cót ép hoặc tấm phibro xi măng, song đã đáp ứng được nhu cầu làm việc của các cơ quan huyện khi đó. Đến cuối tháng năm 1989, các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và các phòng, ban, cơ quan chuyên môn của huyện đã được chuyển về xã Vinh Quang đảm bảo an toàn tuyệt đối cả về người và tài sản, tài liệu.

Cùng với các cơ quan của huyện, Phòng Xây dựng và Phòng Giao thông Vận tải cũng được di rời trụ sở đến khu vực hiện nay và nhanh chóng ổn định chỗ làm việc để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Bên cạnh đó, Phòng Giao thông Vận tải cũng tham mưu xây dựng kế hoạch, xin kinh phí của tỉnh đầu tư mở rộng tuyến đường khu vực trung tâm huyện lỵ từ 3,5m lên 7,5m để đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân.

Trong giai đoạn các năm 1980 - 1990 công tác tổ chức và cán bộ của các phòng Giao thông Vận tải, Xây dựng có nhiều biến động do quá trình tách và sáp nhập giữa các đơn vị. Tháng 01/1982 Bến xe khách huyện Hoàng Su Phì được thành lập theo Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy Hoàng Su Phì ngày 21/11/1981 do đồng chí Ngô Lê Lợi làm Bến Trưởng và 01 cán bộ phụ trách bán vé là đồng chí Hoàng Công Thành. Tháng 6/1981 Ban công nghiệp huyện Hoàng Su Phì được giải thể, Phòng Giao thông được giao thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp và trạm phát điện diezen cung cấp điện cho khu vực trung tâm huyện (đặt tại khu vực Hội trường tổ dân phố 4 hiện nay), đồng thời được đổi tên thành Phòng Giao thông - Công nghiệp. Tháng 7/1984 lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp và trạm phát điện diezen được giao cho Phòng Xây dựng quản lý. Sau khi chia tách, Phòng Xây dựng được đổi tên thành Phòng Xây dựng - Công nghiệp và Phòng Giao thông - Công nghiệp được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải.

Tháng 4/1988 Phòng Xây dựng huyện được sáp nhập với Phòng Giao thông Vận tải và được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng. Tháng 6/1989 huyện thành lập Ban quản lý các công trình xây dựng để trực tiếp quản lý các công trình xây dựng và Ban Công nghiệp huyện được giải thể thì Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng được đổi tên thành Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực Giao thông, Công nghiệp và Xây dựng.

Cùng với việc kiện toàn về tổ chức  bộ máy, công tác cán bộ của các cơ quan cũng được điều động và bổ sung để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tháng 11/1981 đồng chí Chúng Bắc Thông chuyển công tác về huyện Vị Xuyên, đồng chí Đỗ Đức Có được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng Giao thông Vận tải, tháng 6/1982 đồng chí Phúc Văn Toản được nghỉ chế độ thì Phòng Giao thông Vận tải khuyết chức danh Phó Phòng. Tháng 7/1982 đồng chí Đỗ Đức Có - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải chuyển vùng công tác về Ban quản lý đường bộ tỉnh Hà Tây, đồng chí Ngô Lê Lợi được giao phụ trách Phòng thay đồng chí Đỗ Đức Có, đến tháng 11/1984 đồng chí Hoàng Văn Nam - Phó Văn phòng Huyện ủy được điều động về Phòng Giao thông Vận tải và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng, tháng 9/1986 đồng chí Ngô Lê Lợi được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Giao thông Vận tải.

Đối với Phòng Xây dựng - Công nghiệp, tháng 10/1981 đồng chí Nguyễn Văn Chí chuyển vùng công tác, đồng chí Bùi Xuân Thu được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 6/1984 đồng chí Bùi Xuân Thu xin thôi việc và chuyển về tỉnh Nam Định, đồng chí Nguyễn Thanh Xuân được chỉ định giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Xây dựng. Năm 1986 đồng chí Nông Văn Thượng được nghỉ chế độ, đồng chí Nguyễn Thanh Xuân được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền trưởng Phòng Xây dựng.

Sau khi Phòng Xây dựng huyện được sáp nhập với Phòng Giao thông Vận tải và được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng vào tháng 4/1988, đồng chí Hoàng Văn Nam - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải được điều động về Ban thanh tra Nhà nước huyện, đồng chí Nguyễn Thanh Xuân được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng, đồng chí Ngô Lê Lợi giữ chức vụ Phó trưởng Phòng, đến tháng 5/1989 đồng chí Nguyễn Thanh Xuân chuyển về Ban Quản lý các công trình xây dựng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc thì đồng chí Ngô Lê Lợi được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng.

Năm 1985 đồng chí Hoàng Công Thành - cán bộ phụ trách Bến xe khách xin thôi việc và chuyển vào huyện Xín Mần, đồng chí Nguyễn Xuân Hiệp được giao phụ trách Bến xe khách, đến năm 1989 Sở Giao thông Vận tải đã điều động đồng chí Nguyễn Khắc Hưng tăng cường vào huyện phụ trách Bến xe, đến năm 1993 đồng chí Nguyễn Khắc Hưng được rút về tỉnh.

Cùng với việc kiện toàn về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, để đảm bảo công tác lãnh đạo toàn diện của Đảng, tháng 6/1985 Chi bộ Giao thông - Bưu điện được thành lập là chi bộ ghép gồm 03 đảng viên, trong đó có 02 đảng viên của Bưu điện huyện và 01 đảng viên của Phòng Giao thông Vận tải, đồng chí Sin Văn Phù được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Đến năm 1991 đồng chí Sin Văn Phù được nghỉ chế độ, đồng chí Lương Thanh Nhan được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Có thể nói, giai đoạn các năm 1980 - 1990 là thời điểm trước khi cả nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động, sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoàng Su Phì cũng như cả nước gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của 30 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới phía Tây Nam, đồng thời chịu sự bao vây, cấm vận về kinh tế của các nước phương Tây, thêm vào đó, do những hạn chế yếu kém của thời kinh tế tập trung bao cấp mà đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền vào năm 1985 đã ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Đối với huyện Hoàng Su Phì ngoài khó khăn chung của đất nước còn có những khó khăn riêng do đặc thù của địa phương vùng cao, kinh tế chậm phát triển, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp và bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới diễn ra ngay trên địa bàn. Ngân sách hoạt động chủ yếu do Trung ương cân đối, nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng rất hạn hẹp, trong khi đó về tổ chức bộ máy trải qua nhiều giai đoạn tách và sáp nhập, đội ngũ cán bộ vừa thiếu về lực lượng và hầu hết chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao của ngành. Song với tinh thần vượt khó, tập thể cán bộ Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì phát huy truyền thống của các thế hệ đi trước, từng bước vượt qua khó khăn, kiên trì bám trụ, vừa công tác vừa tự rèn giũa, đúc kết kinh nghiệm và trau rồi kiến thức nhằm nâng cao trình độ để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Từ đó tạo tiền đề vững chẵc để sự nghiệp Giao thông - Xây dựng của huyện ngày càng phát triển, sẵn sàng bước vào thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

 

Chương IV

THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG  PHỤC VỤ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC (GIAI ĐOẠN 1990 - 2010)

1. Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm đầu công cuộc đổi mới (giai đoạn 1990 - 2000)

Từ năm 1991 tình hình chính trị và kinh tế của đất nước ta cũng như tỉnh Hà Giang có nhiều chuyển biến. Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tình hình kinh tế của đất nước từng bước được hồi phục và phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện về mọi mặt đã góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội. Tiếp nối và kế thừa những thành quả của những năm đầu công cuộc đổi mới, từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tổ chức. Trước thời cơ và vận hội mới, với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa, Đại hội đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Với tinh thần đó, ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII đã quyết định chia tách tỉnh Hà Tuyên thành 02 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Theo đó, tỉnh Hà Giang được tái lập theo địa giới hành chính trước đây gồm 09 huyện và thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang). Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Giang chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1991. Trong khi đó ở khu vực biên giới cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc kết thúc bằng Hiệp định tạm thời giữa Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa được ký kết tại Bắc Kinh - Trung Quốc ngày 07/11/1991. Quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập trở lại. Sau khi tỉnh Hà Giang được tái lập tỉnh, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm, hỗ trợ cho tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Hoàng Su Phì nói riêng để phục hồi và phát triển kinh tế sau cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới. Đây là những thuận lợi cơ bản để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện Hoàng Su Phì tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương.

Trong tiến trình của những năm đầu bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XV (vòng 1) được tổ chức trong 2 ngày 15 - 16/3/1991, vòng 2 được tổ chức vào ngày 26/11/1991 với sự tham gia của 134 đại biểu đại diện cho 868 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Vương Phát Hữu được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.

Đại hội đã đề ra 7 mục tiêu cơ bản đến năm 2000: (1): Tiếp tục hoàn thiện việc giao đất, giao rừng cho tập thể và các hộ gia đình, ngăn chặn tệ phá rừng bừa bãi; (2): Tổ chức thực hiện tốt việc mở rộng quan hệ thị trường trong nước và vùng biên gii với Trung Quc, mở rộng giao lưu hàng hóa nhm đáp ng ngày càng tt hơn các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân; (3): Ổn định đời sống xã hội, tiếp tục thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (mũi nhọn là hàng xuất khẩu), chỉ đạo tốt việc sản xuất lương thực, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu lương thực cho nhân dân; (4): Tập trung chỉ đạo việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bn của Nhà nước, bảo đm tiến độ và hiệu quả; (5): Quan tâm chăm lo hơn nữa đời sống sức khỏe cho nhân dân, từng bước nâng cao trình độ dân trí, hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, ổn định dân cư; (6): Tiếp tục mở rộng dân chủ Xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng; (7): Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Đối với ngành Giao thông Vận tải, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã xác định: “Giao thông Vận tải là khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng’’ và “Giao thông Vận tải phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân... trước mắt chủ yếu là đầu tư khôi phục và bảo dưỡng đường xá, cầu cống, động viên khả năng của Nhà nước và nhân dân mở mang giao thông nông thôn, đặc biệt ở miền núi’’[7]. Chính vì vậy, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước theo kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên đầu tư phát triển lĩnh vực Giao thông Vận tải để tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế phát triển. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành Giao thông Vận tải, đó là: “...Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa, nâng cấp các tuyến đường bộ ở các tỉnh biên giới, miền núi, các tuyến đường đến trung tâm các huyện vùng sâu, vùng xa...”[8].

Về lĩnh vực xây dựng, trong điều kiện khó khăn của đất nước khi đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) cũng xác định: “... có chính sách và biện pháp thích hợp khai thác mọi nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội, bao gồm đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước, của các địa phương, của cơ sở và của các tầng lớp nhân dân...”[9]. Như vậy với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, từ năm 1986 lĩnh vực đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm đã triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước, trong đó có huyện Hoàng Su Phì. Có thể nói kể từ sau Đại hội lần thứ VII của Đảng, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực Giao thông Vận tải và Xây dựng cùng với những sự kiện chính trị quan trọng, những đổi thay to lớn của đất nước và địa phương đã tạo ra những thời cơ và vận hội mới cho huyện Hoàng Su Phì trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng.

Đối với huyện Hoàng Su Phì, giai đoạn trước năm 1990 kết cấu hạ tầng của huyện còn rất yếu kém. Toàn huyện chỉ có 7/27 xã có đường ô tô, song toàn bộ đều là đường ô tô nền đất đi lại rất khó khăn, còn lại đều là các tuyến đường dân sinh và đường cho ngựa thồ hàng với tổng chiều dài là 335 km, trong đó có 263 km đường dân sinh từ trung huyện về trung tâm xã nền rộng chỉ từ 1,5m đến 2m, một bên núi, một bên là vực sâu, thường xảy ra lũ ống, lũ quét vào mùa mưa, nên việc đi lại rất khó khăn và nguy hiểm. Toàn huyện có 11 cây cầu, trong đó có 5 cầu treo xây dựng trong giai đoạn 1976 - 1978 khẩu độ từ 35 - 40m và có 5 cầu gỗ khẩu độ từ 3 - 8m. Về vận tải, toàn huyện chỉ có 04 xe ô tô UAZ của các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Công an và Ban chỉ huy Quân sự huyện, 02 xe tải Zil 130 của Lâm trường Hoàng Su Phì và Ban chỉ huy Quân sự huyện để vận chuyển hàng hóa, nhu yếu phẩm và đưa đón đại biểu từ xã lên huyện và ngược lại mỗi khi tổ chức các kỳ cuộc. Tại các xã, phương tiện vận tải chính là ngựa thồ với trên 1.000 con của 27 đoàn ngựa thồ thuộc 27 xã, mỗi xã có một đoàn từ 35 - 40 con do một đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã trực tiếp phụ trách. Mỗi con ngựa làm nhiệm vụ vận chuyển hàng được Nhà nước thanh toán một kg thóc hoặc 2 kg ngô/ngày thông qua ngành lương thực huyện chi trả. Ngoài ra, bình quân mỗi hộ còn có từ một đến hai con ngựa để phục vụ vận chuyển hàng hóa của gia đình.

 Về lĩnh vực xây dựng, toàn huyện chỉ có một công trình duy nhất là nhà kho thóc của Cửa hàng lương thực là được xây kiên cố bằng đá phiến, còn lại tất cả các công trình dân sinh phúc lợi từ huyện đến các xã đều là nhà tạm bằng gỗ hoặc cột bê tông, vách bưng bằng cót ép hoặc phibro xi măng, mái lợp ngói. Từ những khó khăn đó, Trung ương và tỉnh đã nhận thấy yêu cầu bức thiết của huyện Hoàng Su Phì cũng như tỉnh Hà Giang trong giai đoạn này là phải nhanh chóng hỗ trợ, phát triển kết cấu hạ tầng để tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Với những mặt thuận lợi của đất nước sau 04 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế đã từng bước phục hồi và phát triển, ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135) với mục tiêu tổng quát: Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó các dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng như Dự án HPM thuộc Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) hỗ trợ giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu; Dự án Đa mục tiêu; Dự án hỗ trợ cho Giáo dục cùng nhiều chương trình dự án khác được triển khai đồng bộ trên địa bàn huyện để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như điện, đường giao thông, bệnh viện, trạm xá, trường học, trụ sở các cơ quan từ huyện đến xã. Nếu như trong giai đoạn các năm 1990 - 1996 tổng trị đầu tư cho xây dựng cơ bản của huyện (chưa kể đầu tư trong lĩnh vực giao thông) đạt 4,5 tỷ đồng thì đến năm 2000 đạt 13,11 tỷ đồng. Ngoài ra, với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, toàn huyện còn huy động công ích với tổng số ngày công quy ra tiền đạt 3,3 tỷ đồng để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Từ đó từng bước làm đổi thay về cơ bản bộ mặt của huyện Hoàng Su Phì.

Với chức năng nhiệm vụ được giao, Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng đã tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tăng cường phát huy nội lực, huy động mọi nguồn lực và sự đóng góp của nhân dân để đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Mặt khác, Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng huyện đã chủ động thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư xây dựng, phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành và các cơ quan liên quan của tỉnh, các công ty tư vấn được Ủy ban nhân dân huyện ký kết hợp đồng tư vấn giám sát để theo dõi, giám sát tiến độ, chất lượng thi công các công trình được triển khai trên địa bàn huyện.

Trong các năm 1990 - 1993, tổ chức bộ máy và cán bộ của Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng tiếp tục có sự thay đổi. Tháng 11/1991 Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng được giải thể và tách thành 02 bộ phận, trong đó bộ phận Giao thông Vận tải được chuyển cho Hạt giao thông đường bộ thuộc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Hà Giang quản lý, bộ phận xây dựng được tách và chuyển về Ban quản lý các công trình xây dựng của huyện quản lý, đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng và đồng chí Lộc Đức Tơn - Cán bộ của Phòng được điều động về Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện làm Chuyên viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp.

Đến tháng 4/1993, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện Hoàng Su Phì được tái thành lập theo Quyết định số 188/QĐ-UBND ngày 12/4/1993 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc thành lập Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng ở mỗi huyện, thị xã. Cùng với đó, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành Quyết định số 75/QĐ-UB ngày 24/5/1993 về việc bố trí cán bộ của Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng. Theo đó đồng chí Ngô Lê Lợi và đồng chí Lộc Đức Tơn - Chuyên viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí Vương Kim Thành - cán bộ Phòng Thương nghiệp mới giải thể và đồng chí Nguyễn Thị Phương - nhân viên Công ty chè Hồ Thầu được điều động về Phòng. Đồng chí Ngô Lê Lợi được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng phụ trách chung và trực tiếp phụ trách quản lý lĩnh vực Giao thông - Vận tải, đồng chí Lộc Đức Tơn là cán bộ trực tiếp làm công tác Xây dựng - Nhà đất, đồng chí Vương Kim Thành là cán bộ trực tiếp phụ trách công tác Công nghiệp - Thương nghiệp, đồng chí Nguyễn Thị Phương là cán bộ kế toán. Sau khi tái thành lập, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện có tổng số 04 biên chế. Đến năm 1997 biên chế của Phòng được bổ sung thêm đồng chí Trần Quốc Huy có trình độ đại học chuyên ngành Giao thông, tháng 12/1998 Phòng tiếp tục được bổ sung thêm đồng chí Lại Trần Hà có trình độ trung cấp cơ khí, nâng tổng biên chế của Phòng lên tổng số 06 cán bộ. Tháng ..../2000 đồng chí Trần Quốc Huy được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng.

Để đảm bảo công tác lãnh đạo toàn diện của Đảng, sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện được tái thành lập, 02 đảng viên của Phòng là đồng chí Ngô Lê Lợi và đồng chí Vương Kim Thành tiếp tục sinh hoạt tại Chi bộ Giao thông - Bưu điện, Bí thư chi bộ khi đó là đồng chí Lương Thanh Nhan - Trưởng Phòng Bưu điện huyện. Tháng 12/1993 đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện được chỉ định tham gia Ban Chi ủy Chi bộ Giao thông - Bưu điện và giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ.  Tháng 8/1997, Phòng Giao thông - Xây dựng có thêm một cán bộ được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng, nâng số đảng viên trong cơ quan lên 3 đồng chí.

Năm 2000 Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt được thành lập, trong đó có 01 đảng viên được sinh hoạt ghép với Chi bộ Giao thông - Bưu điện. Xét thấy đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng, đồng thời nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, tháng 7/2000 Chi bộ Giao thông được thành lập theo Quyết định số 156-QĐ/HU ngày 06/7/2000 của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc tách chi bộ cơ sở, thành lập Chi bộ Giao thông trực thuộc Huyện ủy. Theo đó 06 đảng viên là công chức, công nhân viên chức các cơ quan Phòng Giao thông - Xây dựng (04 đồng chí), Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt (01 đồng chí) và Chi nhánh điện (01 đồng chí) được tách ra từ Chi bộ Giao thông - Bưu điện để thành lập Chi bộ Giao thông. Đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Ngày 12/9/2000 Chi bộ Giao thông tổ chức Đại hội lần thứ nhất với sự tham dự của 06 đảng viên, đồng chí Ngô Lê Lợi tiếp tục được đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Chi bộ Giao thông được thành lập và tiếp tục phát triển đã đánh dấu bước trưởng thành về tổ chức, giúp đội ngũ cán bộ của Phòng thêm vững vàng về tư tưởng, đạo đức và chính trị, không ngừng nỗ lực phấn đấu để vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì.

Về công tác chuyên môn, sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện được tái thành lập, để đảm bảo yêu cầu về trụ sở làm việc, tháng 7/1993 Ủy ban nhân dân tỉnh đã thu hồi đất và giao 507m2 mặt bằng của Bến xe khách và đất vườn tạp, đồng thời hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ sở mới của Phòng, đến đầu năm 1994 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng công trình quy mô 5 gian mái bằng tại vị trí hiện nay. Nhờ đó, môi trường và điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện có nhiều thuận lợi hơn.

Năm 1991 Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XV được tổ chức từ ngày 15 đến 16 tháng 3/1991, Đại hội đã bàn bạc, thảo luận về công tác giao thông và xác định vai trò quan trọng của việc mở đường giao thông để phát triển kinh tế xã hội và phục vụ công tác sẵn sàng chiến đấu. Đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện đã trình bày tham luận trước Đại hội về “Chiến lược phát triển giao thông thời kỳ 1991 - 1995 và những năm tiếp theo”. Đây cũng là kỳ đại hội đầu tiên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã đề cập và ra nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển giao thông miền núi của huyện, trong  đó nêu rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển giao thông nông thôn của huyện theo từng năm và thí điểm mô hình mở đường giao thông dân sinh theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trong đó dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ dụng cụ xà beng, cuốc xẻng và vật liệu nổ.

Bước sang quý II năm 1991, Ủy ban nhân dân huyện đã xây dựng kế hoạch để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XV ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì về mở đường giao thông, trong đó lấy xã Tiên Nguyên làm điểm, do xã Tiên Nguyên khi đó là địa phương có tiềm năng lớn về cây chè, cây lương thực và lâm nghiệp, trong khi đó tỉnh có chủ trương cho xã được khai thác song, mây để bán cho các hợp tác xã mây tre đan của tỉnh nhưng do không có đường vận chuyển nên rất khó khăn cho khai thác vận chuyển ra khỏi địa bàn.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện cùng với sự quyết tâm của Cấp ủy, Chính quyền xã Tiên Nguyên, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã tham mưu cho UBND huyện ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Ngô Lê Lợi làm Trưởng Ban, đồng chí Hoàng Diễu Kình - Bí thư Chi bộ xã Tiên Nguyên là Phó Ban chỉ đạo, các thành viên gồm một đồng chí cán bộ kỹ thuật của Phòng, cùng một số ngành của huyện và đại diện Chính quyền xã Tiên Nguyên. Cùng với đó, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã tiến hành khảo sát, thiết kế kỹ thuật và lập dự toán kinh phí hỗ trợ, tham mưu kế hoạch và quyết định huy động dân công nghĩa vụ của xã Tiên Nguyên gồm 22.500 lượt dân công, nếu quy ra tiền khi đó tương đương với 172 triệu đồng, bên cạnh đó, huyện cũng chỉ đạo Xí nghiệp chè Hoàng Su Phì phối hợp triển khai cơ chế hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm chè của xã để trích lãi bằng tiền mặt từ bán chè vàng cho lực lượng dân công trên công trường bằng 50 triệu đồng. Tỉnh hỗ trợ 186 triệu đồng bằng tiền mặt cho Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng mua vật liệu nổ, dụng cụ lao động và hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho lực lượng dân công.

Ngày 15/9/1991 Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức lễ khởi công, sau khi Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng được tách và chuyển cho Hạt giao thông đường bộ thuộc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Hà Giang quản lý vào tháng 11/1991, hoạt động  mở đường tiếp tục được giao cho bộ phận chuyên viên Giao thông  Vận tải và Công nghiệp thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân dân huyện trực tiếp tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo thực hiện. Sau 05 tháng thi công, đến ngày 15/2/1992 tuyến đường đã được mở xong với chiều dài 21,2 km nối liền trung tâm xã Tiên Nguyên đến xã Thông Nguyên, mặt đường rộng từ 2 đến 2,5 m đảm bảo cho người, ngựa và xe 2 bánh đi lại thuận tiện.

Từ thắng lợi của việc mở tuyến đường dân sinh Tiên Nguyên theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, ngày 16/ 11/1992, Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp bàn kế hoạch huy động nhân dân của 14 xã nội địa và xã biên giới của huyện mở tuyến đường dân sinh từ trung tâm xã Chiến Phố đi xã Thàng Tín. Thực hiện sự chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện, đồng chí Ngô Lê Lợi - Chuyên viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện đã trực tiếp tham mưu xây dựng kế hoạch mở đường, thành lập Ban chỉ huy công trường, giao nhiệm vụ mở đường cho các xã. Ngày 5/12/1992 công trình được khởi công với 3.000 dân công của 14 xã. Sau hơn hai tháng thi công, đến cuối tháng 02/1993 tuyến đường đã hoàn thành với chiều dài 18km từ trung tâm xã Chiến Phố đến trung tâm xã Thàng Tín, mặt đường rộng bình quân 2m, có chỗ rộng 3m.

Cùng với việc đáp ứng yêu cầu đi lại của nhân dân, các tuyến đường được mở theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trong đó dân làm là chính đã mang một ý nghĩa chính trị rất lớn, khẳng định quan điểm chỉ đạo đúng đắn, sát với thực tiễn và cách làm sáng tạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện, đưa huyện Hoàng Su Phì trở thành huyện điển hình tiên tiến trong công tác phát triển đường dân sinh nông thôn miền núi của tỉnh Hà Giang và được tỉnh lấy làm điểm để nhân rộng ra huyện Bắc Quang, huyện Vị Xuyên, sau đó nhân rộng ra toàn tỉnh.

Sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện Hoàng Su Phì được tái thành lập vào tháng 4/1993 thì lĩnh vực Giao thông và Xây dựng của huyện tiếp tục có nhiều thuận lợi. Đảm bảo công tác quản lý, điều hành trong lĩnh vực Giao thông - Xây dựng của huyện được thường xuyên và xuyên suốt.

Từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động Giao thông Vận tải cũng như sự phát triển chung về kinh tế - xã hội của huyện thời gian này cho thấy, việc phát triển hệ thống đường dân sinh tuy giành được nhiều thắng lợi nhưng do quy mô đường mở rất nhỏ, chỉ rộng từ 1,5 đến 3 m chỉ sử dụng cho người, ngựa và xe 2 bánh, còn ô tô không đi lại được. Yêu cầu đặt ra là thúc đẩy sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của huyện đi lên thì phải phát triển, nâng cấp hệ thống đường ô tô. Do vậy, rất cần sự đầu tư của Nhà nước để đầu tư để mở đường giao thông cho ô tô có thể đi được.

Phát huy những thành tích to lớn trong công tác mở đường dân sinh những năm 1990 - 1993, trong các ngày 13 đến ngày 14/4/1994, tại hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì giữa nhiệm kì lần thứ XV đã ban hành nghị quyết về  công tác giao thông. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện được giao nhiệm vụ tham mưu xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống đường giao thông từ trung tâm huyện đi trung tâm các xã. Trong đó công trình mở rộng nên đường tuyến giao thông nội thị và mở mới tuyến đường ô tô Vinh Quang đi Bản Máy là ưu tiên số một để vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vừa phục vụ nhiệm vụ bảo vệ biên giới. Do vậy chủ trương tuyến đường này đã được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang nhất trí và cho chủ trương thi công.

Tháng 3/1994 công trình nâng cấp tuyến đường nội thị khu vực xã Vinh Quang với chiều dài 1,8 km được khởi công, đến cuối năm 1994 thì hoàn thành. Tiếp đó, ngày 01/4/1995 công trình mở mới tuyến đường ô tô Vinh Quang đi Bản Máy được khởi công với sự tham gia thi công của lực lượng dân công 12 xã và Xí nghiệp giao thông Cầu Đường Hoàng Su Phì - doanh nghiệp tư nhân đầu tiên  tiên phong trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, xây dựng của huyện.

Sau hơn 7 tháng thi công với tổng kinh phí 2,9 tỷ đồng, đến ngày 15/11/1995 thì hoàn thành và thông xe kỹ thuật toàn tuyến với chiều dài 34 km trong đó có 03 cầu bê tông với tổng chiều dài 15m, nối liền trung tâm huyện đến trung tâm xã Bản Máy. Tiếp theo đó, trong 05 năm (1996 - 2000) Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã khảo sát và tham mưu lập kế hoạch triển khai mở các tuyến đường Thông Nguyên - Xuân Minh dài 7,3 km; tuyến Nậm Dịch  - Hồ Thầu; tuyến Vinh Quang - Pố Lồ - Thàng Tín và Pố Lồ - Thèn Chu Phìn dài 24,6 km; tuyến Thông Nguyên - Tiên Nguyên dài 16 km; tuyến Nam Sơn - Nậm Khòa dài 15,4 km; tuyến Vinh Quang - Đản Ván tổng chiều dài 11 km; tuyến Tân Tiến - Túng Sán dài 9,5 km; tuyến km 39 Nậm Ty - Bản Péo dài 5,5 km; tuyến Vinh Quang - Bản Luốc dài 9,2 km. Cùng với đó năm 1996 Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng cũng tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện đề nghị tỉnh bố trí nguồn vốn để mở và nâng cấp và trải nhựa các trục đường giao thông nội huyện với chiều dài là 1,6 km; nâng cấp trải nhựa tuyến đường km 18 tỉnh lộ 177 đi Thông Nguyên dài 12 km.

Nhờ sự quan tâm to lớn của Trung ương, của tỉnh và những nỗ lực cố gắng của Cấp ủy, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện, đến hết năm 2000, toàn bộ các xã trong huyện Hoàng Su Phì đã có đường ô tô đến các trung tâm xã, trong đó chỉ tính riêng trong giai đoạn các năm 1996 - 2000 đã mở mới và nâng cấp được 237 km. Với những thành tích phát triển giao thông của huyện Hoàng Su phì trong giai đoạn này, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XII nhiệm kỳ 1996 - 2000 được tổ chức trong các ngày từ 25 - 28/4/1996, đoàn đại biểu của Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự được tham gia phát biểu tham luận về công tác huy động nhân dân phát triển giao thông miền núi.

Một vinh dự to lớn nữa đối với huyện Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng nói riêng đó là vào tháng 4/1997, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tướng Chính phủ và đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Triệu Đức Thanh - Phó Bí thư Tỉnh ủy Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang đã đến thăm huyện Hoàng Su Phì và dự lễ khánh thành tuyến đường giao thông từ trung tâm huyện đi trung tâm các xã biên giới Pố Lồ - Thèn Chu Phìn - Thàng Tín và tuyến đường từ xã Vinh Quang đi xã Đản Ván. Đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ đã khen ngợi và đánh giá cao công tác phát triển giao thông của huyện Hoàng Su Phì những năm đó.

Ghi nhận những cố gắng to lớn của huyện Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng nói riêng, trong 4 năm liền (1995 - 1998) Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự được Bộ giao thông Vận tải trao tặng 04 cờ thi đua xuất sắc, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng và các xã Tiên Nguyên, Thông Nguyên, Sán Sả Hồ được tặng Bằng khen về thành tích phát triển giao thông miền núi. Riêng xã Tiên Nguyên được Bộ giao thông Vận tải trao tặng danh hiệu là xã điển hình về phong trào phát triển giao thông miền núi. Có thể nói đây là một kì tích trong lĩnh vực giao thông của huyện Hoàng Su Phì giai đoạn này, trong đó có sự đóng góp to lớn của Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện.

Mặc dù có nhiều thành tích vượt bậc, song hầu hết các tuyến đường của huyện khi đó đều là đường đất, dễ bị sạt lở nhất là vào mùa mưa, điều đó cũng đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cho Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện những nhiệm vụ, trọng trách mới trong việc tham mưu và thực hiện kế hoạch nâng cấp đường giao thông trong những năm tiếp theo.

Về lĩnh vực xây dựng trong giai đoạn này đã nhận được sự quan tâm đầu tư mạnh mẽ của các Cấp ủy, chính quyền, tập trung cho việc phát triển các công trình phúc lợi công cộng. Với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã chủ động phối hợp với Phòng lao động tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện chỉ tiêu kế hoạch huy động dân công và lao động công ích để khai thác vật liệu tại chỗ chỗ như cát, đá, sỏi, san ủi mặt bằng và thi công các công trình phúc lợi công cộng. Trong 10 năm (1990 - 2000) toàn huyện đã huy động được 596.827 ngày công. Đi đầu trong công tác này là các xã Thông Nguyên, Chiến Phố, Tụ Nhân, Hồ Thầu.

Năm 1991 huyện Hoàng Su Phì đã được tỉnh đầu tư triển khai san ủi mặt bằng của trụ sở Công an huyện, năm 1993 triển khai san ủi mặt bằng xây dựng công trình Trung tâm Y tế (nay là bệnh viện đa khoa khu vực Hoàng Su Phì) và trụ sở Huyện ủy quy mô 02 tầng, đến năm 1994 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đây là công trình có quy mô lớn nhất của huyện thời gian này. Tiếp đó, trong giai đoạn các năm 1993 - 1995 nhiều công trình xây dựng tiếp tục được đầu tư xây dựng, tiêu biểu là công trình nhà trụ sở HĐND - UBND huyện quy mô 02 tầng, nhà làm việc Trung tâm y tế huyện và các cơ quan Phòng Tài chính, Kho bạc Nhà nước huyện, Trường Phổ thông dân tộc Nội trú, trụ sở Phòng Giao thông - Xây dựng. Cùng với đó, các công trình Nhà máy thủy điện tại các xã Hồ Thầu, Vinh Quang được triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng đã nâng sản lượng điện lên 732.600 Kw/h, tăng gấp 3 lần so với năm 1996. Đặc biệt, từ năm 1998, Chương trình 125 của Chính phủ được triển khai thực hiện thì lĩnh vực xây dựng cơ bản của huyện có nhiều đột phá. Năm 2000 mức đầu tư cho xây dựng cơ bản đạt 13,11 tỷ đồng, tăng 8,61 tỷ so với năm 1996, các công trình xây dựng chủ yếu tập trung vào xây dựng trường học, trạm xá, thủy lợi, nước sạch, trụ sở xã, các điểm trường, nhà văn hóa kiêm trụ sở thôn... Chỉ tính riêng trong giai đoạn 1998 - 2000 đã có 122 công trình thuộc Chương trình 135 được thi công, trong đó có 87 công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng. Ngoài ra còn có 04 trung tâm cụm xã được đầu tư xây dựng với tổng kinh phí 16,42 tỷ đồng.

Sau khi đường điện lưới Quốc gia được kéo vào huyện, Phòng Giao thông Xây dựng đã chủ động tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện kế hoạch phát triển lưới điện, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng của của tỉnh tiến hành khảo sát, xây dựng và lắp đặt các trạm hạ thế và đường điện tại các xã. Đến năm 1998 toàn huyện đã có 7 trạm hạ thế điện tại các xã Tụ Nhân, Tân Tiến, Nậm Ty, Nậm Dịch, Chiến Phố và Vinh Quang. Năm 2000 sản lượng điện phát ra của huyện đạt 360.477 KWh.

Về lĩnh vực Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp của huyện trong giai đoạn này cũng có sự phát triển mạnh. Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện tích cực tham mưu xây dựng các cơ chế hỗ trợ và linh hoạt vận dụng triển khai thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các hộ gia đình đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến chè, cải tiến về phương tiện, thiết bị và nhà xưởng để chuyển hướng từ sản xuất chè vàng có giá trị thấp sang sản xuất chè xanh có giá trị kinh tế cao hơn. Nhất là việc hỗ trợ các hộ gia đình vùng chè thuộc các xã Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Nam Sơn mua sắm, lắp đặt máy chế biến chè mini, cùng với đó là việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, chủ động tiếp cận thị trường để giải quyết đầu ra cho sản phẩm. Nếu như trước năm 1990 toàn huyện chỉ có một xưởng chè tại xã Thông Nguyên có dây chuyền chế biến chè vàng kết hợp chế biến chè xanh với sản lượng không đáng kể, trong các năm 1991 - 1995 tiếp tục khôi phục xưởng chè Nậm Ty và xây dựng, đưa vào sử dụng xưởng chế biến chè Hồ Thầu, hỗ trợ và hướng dẫn sử dụng cho các hộ gia đình mua sắm và sử dụng máy sao sấy chè mini, năm 1996 toàn huyện có 02 xưởng chế biến chè xanh và 124 máy sao sấy chè mini, sản xuất được 80,5 tấn chè xanh, đến năm 2000 có 05 xưởng chế biến chè xanh và 267 máy sao sấy chè mini, sản lượng chè xanh đạt 250 tấn.

Để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của huyện, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng cũng tích cực tham mưu khuyến khích duy trì và phát triển các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các xã. Năm 2000 toàn huyện có 61 lò rèn, đúc mỗi năm sản xuất được 66.572 sản phẩm các loại như lưỡi cày, nông cụ cầm tay, dao, liềm...; 21 cơ sở sản xuất ngói trong đó có 14 cơ sở sản xuất ngói xi măng và 07 lò sản xuất ngói máng, bình quân mỗi năm sản xuất được 372.500 viên; 06 cơ sở chế biến gỗ mỗi năm chế biến được 2.250 sản phẩm các loại. Trong các năm 1996 - 2000 giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp bình quân mỗi năm của toàn huyện đạt 93,1 triệu đồng.

2. Tiếp tục củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và thực hiện nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng của huyện (giai đoạn 2001 - 2010)

Trong giai đoạn các năm 2001 - 2010 cơ cấu tổ chức và bộ máy của Phòng nhiều lần được điều chỉnh và thay đổi tên gọi cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của mỗi thời điểm khác nhau. Năm 2004 Phòng được giao chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường và được đổi tên thành Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường. Tháng 3/2005 các cơ quan chuyên môn của huyện tiếp tục được kiện toàn và thành lập theo Quyết định số 87/QĐ-UBND ngày 29/9/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc quy định định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh Hà Giang. Theo đó chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường được chuyển giao cho Phòng Tài nguyên & Môi trường, Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế. Ngày 28/4/2008 Phòng Hạ tầng Kinh tế tiếp tục được đổi tên thành Phòng Công thương theo Quyết định số 2033/QĐ-UBND ngày 24/8/2008 của UBND tỉnh Hà Giang.

Sau khi được kiện toàn về tổ chức bộ máy, Phòng Công thương huyện Hoàng Su Phì là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Su Phì, có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; thương mại - dịch vụ; điện nông thôn; xây dựng; phát triển đô thị; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; hạ tầng kỹ thuật đô thị (gồm cấp, thoát nước; vệ sinh môi trường đô thị; công viên, cây xanh; chiếu sáng; rác thải; bến, bãi đỗ xe đô thị); giao thông trên địa bàn huyện.

Về công tác cán bộ, sau khi Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được kiện toàn về tổ chức bộ máy và được đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế vào tháng 3/2005 thì đồng chí Ngô Lê Lợi được huyện điều động về Phòng Tài nguyên & Môi trường, đồng chí Trần Quốc Huy được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng Hạ tầng Kinh tế, tháng 6/2005 đồng chí Vương Kim Thành - Cán bộ tăng cường xã Bản Luốc được rút về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 11/2009 đồng chí Vương Kim Thành được điều động đi tăng cường tại thị trấn Vinh Quang, đồng chí Hoàng Văn Pao - Phó Bí thư Đảng ủy xã Thông Nguyên được rút về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 12/2009 đồng chí Lại Trần Hà - Cán bộ của  Phòng tăng cường tại xã Sán Xả Hồ được rút về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng.

Cùng với việc kiện toàn về tổ chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đã được đơn vị quan tâm để xây dựng, củng cố đội ngũ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về lý luận và lập trường tư tưởng, đạo đức, chính trị, từ đó giúp đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Giai đoạn các năm 2001 - 2010 trong đội ngũ cán bộ công chức của Phòng đã có 06 đồng chí được cử đi học các lớp đại học chuyên ngành để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và theo học các lớp lý luận chính trị. Năm 2010 trong tổng số 08 biên chế của Phòng Công thương huyện có 06 đồng chí trình độ chuyên môn đại học, 02 đồng chí trình độ trung cấp. Về lý luận chính trị có 02 đồng chí trình độ cao cấp, 03 đồng chí trình độ sơ cấp.

Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể của Phòng trong giai đoạn này được các cấp ủy Đảng đặc biệt quan tâm. Chi bộ thường xuyên chú trọng công tác xây dựng, quán triệt và thực hiện các nghị quyết của Đảng, không ngừng đổi mới công tác sinh hoạt chi bộ, đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tich Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ và đảng viên. Các đảng viên trong Chi bộ và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc luôn thể hiện lối sống trong sáng, không vi phạm lối sống đạo đức. Nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ, giúp nhau cùng tiến bộ, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Thường xuyên học hỏi giúp đỡ lẫn nhau và học tập để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, gắn với việc cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn công tác chuyên môn. Từ đó đã giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ và quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị trực thuộc luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch được giao.

Trong các năm 2001 - 2003 và các năm 2006, 2008 Chi bộ đã được Ban Thường vụ Huyện ủy xét tăng danh hiệu chi bộ Trong sạch vững mạnh; UBND tỉnh tặng danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc cho Phòng Công nghiệp - Giao thông - Xây dựng các năm 2001, 2002, 2003 và Phòng Hạ tầng Kinh tế năm 2008. Nhiều cán bộ, công chức của Phòng cũng đã được Bộ Giao thông Vận tải, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang và các cấp, ngành tặng bằng khen, giấy khen các loại, 01 đồng chí đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh và 01 đồng chí đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp huyện.

Sau khi Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được kiện toàn về tổ chức bộ máy và được đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế vào tháng 3/2005 thì Chi bộ Giao thông được đổi tên thành Chi bộ Phòng Hạ tầng Kinh tế. Tháng 5/2008 Chi bộ Phòng Hạ tầng Kinh tế tiếp tục được đổi tên thành Chi bộ Phòng Công thương.

Về công tác xây dựng Đảng, ngày 20/6/2003 Chi bộ Giao thông tổ chức đại hội lần thứ II nhiệm kỳ 2003 - 2005 với sự tham dự của 06 đảng viên, đồng chí Ngô Lê Lợi tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Đến tháng 3/2005 Chi bộ Phòng Phòng Hạ tầng kinh tế tổ chức Đại hội lần thứ III nhiệm kỳ 2005 - 2010, đồng chí Trần Quốc Huy đã được Đại hội bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Vương Kim Thành giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ. Sau Đại hội, đồng chí Ngô Lê Lợi được điều động công tác về Phòng Tài nguyên & Môi trường.

Sau 05 năm kể từ khi được thành lập, đến 30/5/2005 Chi bộ Giao thông có tổng số 09 đảng viên, trong đó đảng viên là cán bộ, công chức của Phòng có 06 đồng chí, đảng viên cơ quan Chi nhánh điện có 03 đồng chí, đảng viên Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt có 02 đồng chí. Trong các năm 2005, 2007 các đảng viên là cán bộ, công nhân, viên chức các cơ quan Chi nhánh điện và Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt được tách để thành lập các chi bộ mới theo quyết định của Ban Thường vụ Huyện ủy. Đến tháng 4/2010 Chi bộ Phòng Công thương có 06 đảng viên chiếm tỷ lệ 66,6% trong tổng số cán bộ, công chức của Phòng. Về trình độ chuyên môn của đội ngũ đảng viên có 04 đồng chí trình độ đại học, 02 đồng chí trình độ trung cấp. Về trình độ chính trị có 02 đồng chí trình độ cao cấp và 02 đồng chí trình độ sơ cấp.

Do yêu cầu về công tác cán bộ, tháng 6 đồng chí Vương Kim Thành được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Trần Quốc Huy giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ. Tháng 11/2009 đồng chí Vương Kim Thành được Ban Thường vụ Huyện ủy điều động đi tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, đồng chí Trần Quốc Huy - Trưởng Phòng Công thương được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ định giữ chức Bí thư Chi bộ. Tại đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ IV tổ chức vào ngày 08/4/2010, đồng chí Trần Quốc Huy tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, đoàn thanh niên được Chi bộ và cơ quan chuyên môn quan tâm tạo điều kiện về hoạt động, thường xuyên định hướng cho cán bộ và đoàn viên thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng, kịp thời động viên thăm hỏi những cán bộ có hoàn cảnh khó khăn và cán bộ mới được chuyển về công tác. Các đoàn viên Công đoàn và Chi đoàn thanh niên luôn giữ vai trò nòng cốt trong việc phát động, hưởng ứng và duy trì các phong trào thi đua và các hoạt động văn hóa, thể thao do các cấp, ngành phát động. Từ đó kịp thời động viên các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động luôn có ý thức vươn lên, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và nhiệm vụ chuyên môn được giao.

Trong giai đoạn các năm 2000 - 2010, cùng với việc kiện toàn cơ cấu tổ chức và bộ máy và nhiều lần thay đổi về tên gọi của đơn vị, Đơn vị cũng nhiều lần được điều chỉnh, bổ sung chức năng nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và chuyên môn ở từng thời điểm khác nhau. Bên cạnh đó, trong giai đoạn từ năm 2000 Đảng, Nhà nước cũng như tỉnh Hà Giang tiếp tục quan tâm hỗ trợ, triển khai các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương vùng cao, trong đó có huyện Hoàng Su Phì. Tiêu biểu là Chương trình 135 giai đoạn 2 của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010; Dự án xóa đói, giảm nghèo gọi tắt là Dự án Chia sẻ giai đoạn 2003 - 2008, Nghị quyết 30a của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo cùng nhiều chương trình, dự án khác về xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội khu vực miền núi được triển khai đồng bộ trên địa bàn huyện. Năm 2001, Tỉnh ủy Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 06/8/2001 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phân cấp, giao quyền một số nội dung cho cấp huyện, thị xã. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - Quốc phòng của huyện, đồng thời đặt ra yêu cầu nhiệm vụ và trọng trách mới đối với Phòng Công thương huyện. Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng các cấp, tập thể cán bộ, công chức của Phòng luôn nỗ lực cố gắng, nêu cao tinh thần đoàn kết chung sức đồng lòng, phát huy sức mạnh và trí tuệ để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của huyện Hoàng Su Phì, từng bước hoàn thành xuất sắc mọi trọng trách nhiệm vụ được giao.

Về lĩnh vực giao thông, Phòng đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện tranh thủ được nguồn vốn của Trung ương và của tỉnh để nâng cấp, bê tông hoá được 13 tuyến đường đi các xã với tổng chiều dài 120 km. Huy động nội lực trong nhân dân mở mới được 168,32 km đường loại B; mở đường 1,5 - 2,5 m được 227,15 km. Đến cuối năm 2010 toàn huyện có có 48% số xã có đường nhựa và đường bê tông đến trung tâm xã; 100% thôn bản có đường giao thông xe cơ giới đến trung tâm thôn, trong đó có trên 50% số thôn có đường ô tô đi được đến trung tâm thôn. Công tác duy tu bảo dưỡng, đảm bảo giao thông được triển khai thực hiện, đặc biệt là tuyến tỉnh lộ 177 và các tuyến đường từ huyện đi các xã đảm bảo thông suốt, kịp thời phục vụ cho nhân dân đi lại được thuận lợi và vận chuyển hàng hoá, vật liệu phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội của huyện.

Công tác xây dựng cơ bản cũng có nhiều cố gắng, cùng với sự quan tâm đầu tư hỗ trợ của Nhà nước và của tỉnh, Phòng đã tham mưu các chương trình, kế hoạch huy động nội lực với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện và các xã, thị trấn vận động các hộ gia đình hiến đất và đóng góp công sức để tham gia xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Từ đó đã tạo bước đột phá về phát triển kết cấu hạ tầng của huyện. Tại trung tâm huyện lỵ đã đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình trụ sở Huyện ủy, trụ sở Khối dân, trụ sở Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện, Nhà thiếu nhi, Sân vận động trung tâm huyện, Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đến năm 2010 toàn bộ các xã, trị trấn trong huyện đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình trụ sở xã 02 tầng; 24/25 xã thị trấn có trạm xá 02 tầng; 21 trường tiểu học; 08 trường mm non trường trung học cơ sở có nhà lớp học 02 tầng. Xây dựng 53 nhà lưu trú, điểm trường tại các thôn quy mô cấp IV; 56 thôn có nhà văn hoá kiêm trụ sở thôn được xây dựng kiên cố, chiếm 28% trong tổng số 198 thôn trong toàn huyện.    

Để tiếp tục phát huy nội lực cũng như tranh thủ tối đa các nguồn lực của Trung ương, của tỉnh và các tổ chức, cá nhân, Phòng đã tham mưu cho Đảng bộ, Chính quyền huyện xây dựng và triển khai phương án phân cấp quản lý, cấp giấy phép xây dựng các công trình xây dựng cho UBND các xã, thị trấn. Đồng thời xây dựng các cơ chế riêng của huyện như hỗ trợ 55 triệu đồng cho mỗi nhà công vụ xã có quy mô xây 5 gian cấp 4; hỗ trợ 17 triệu đồng cho mỗi nhà gỗ toóc xi 5 gian (vận dụng cho làm nhà của các Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp, nhà lưu trú học sinh nội trú dân nuôi); hỗ trợ san ủi mặt bằng với định mức 5 triệu đồng/mặt bằng với 200 m2 trở lên; hỗ trợ 2 tấn xi măng/công trình vệ sinh đối với các hộ gia đình trong các làng văn hoá du lịch. Nhờ đó, đến cuối năm 2010 toàn huyện đã có 25/25 xã thị trấn có nhà công vụ; 11/25 hợp tác xã dịch vụ tổng hợp có trụ sở làm việc; san ủi được 6 mặt bằng với 1.200 m2; xây dựng được 45 công trình vệ sinh trong các làng văn hoá du lịch cộng đồng để phục vụ khách du lịch.

Sau khi lĩnh vực thương mại, dịch vụ được chuyển giao về Phòng Công thương quản lý, Phòng đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, tham mưu xây dựng và triển khai các cơ chế khuyến khích phát triển về thương mại, dịch vụ. Đến tháng 6/2010 toàn huyện có 07 đơn vị kinh doanh tập thể, 379 hộ kinh doanh cá thể, 36 hợp tác xã. Ngoài ra còn có 18 chợ nông thôn hoạt động ổn định, tổng doanh thu hàng năm đạt trên 50 tỷ đồng. Thị trường hàng hóa bán lẻ, hoạt động trên địa bàn huyện cũng có mức tăng trưởng khá, năm 2010 tăng 122% so với năm 2005.

Một trong những thành tích nổi bật của Phòng trong thời gian này đó là trong năm 2007 Phòng Công thương đã tích cực phối hợp với Trung tâm Văn hóa thông tin Thể thao tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện kế hoạch phối hợp với Sở Thương mại & Du lịch và Công ty du lịch Khám phá Khánh Hòa tổ chức thành công hội chợ xúc tiến du lịch tại Thông Nguyên từ ngày 19 - 21/10/2007 với 54 gian hàng. Đây cũng là Hội chợ du lịch đầu tiên của tỉnh Hà Giang được tổ chức. Từ đó đã góp phần quảng bá mạnh mẽ những hình ảnh và tiềm năng du lịch của huyện với đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước, giúp cho lĩnh vực du lịch của huyện có nhiều khởi sắc trong những năm sau này.

Hoạt động Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp cũng có nhiều chuyển biến rõ nét. Phòng đã tích cực tham mưu cho Đảng bộ và Chính quyền huyện xây dựng phương án về phát triển làng nghề giai đoạn 2005 - 2010. Tổ chức khôi phục và phát triển được 2 làng nghề dệt thổ cẩm tại xã Thông Nguyên và xã Hồ Thầu. Phát triển và mở rộng thương hiệu sản xuất rượu thóc Nàng Đôn; phát triển các lò rèn, lò đúc, sản xuất ngói máng phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ cho nhân dân. Đưa vào hoạt động 02 dây chuyền chế biến chè xanh chất lượng cao tại xã Thông Nguyên, Nậm Ty. Sản lượng chè chế biến hàng năm của toàn huyện đạt trên 2.000 tấn. Bên cạnh đó, từ các nguồn vốn đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II và các chương trình đầu tư khác đã kéo điện cho 23 thôn, lắp đặt được 62 trạm hạ thế tại các xã, các thôn và cụm dân cư, nâng tỷ lệ hộ được sử dụng điện lưới quốc gia của huyện lên 75%. Các ngành công nghiệp khác như chế biến chè, chế biến dong giềng, sản xuất đồ mộc dân dụng, khai thác vật liệu xây dựng cũng được Phòng tham mưu ban hành cơ chế khuyến khích phát triển, góp phần quan trọng trong việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm các mặt hàng nông lâm sản để nâng cao thu nhập cho nhân dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu sản xuất và phát triển cũng như đời sống sinh hoạt của nhân dân các dân tộc trong huyện.

Chương V

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG  PHỤC VỤ CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (GIAI ĐOẠN 2010 - 2021)

1. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn và xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện (giai đoạn 2010 - 2015)

Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là sau 04 năm Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới, đưa nước ta hội nhập tích cực, sâu rộng với khu vực và thế giới, đến năm 2010 tình hình kinh tế - xã hội của đất nước có bước phát triển mạnh mẽ. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó lĩnh vực Công nghiệp và xây dựng tăng 7,7%, lĩnh vực dịch vụ tăng 7,52%. Công tác ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giao thông, xây dựng có nhiều tiến bộ hơn so với trước.

Kinh tế phát triển, Đảng và Nhà nước đã tăng mức đầu tư cho lĩnh vực giao thông, xây dựng cơ bản, chỉ tính riêng đầu tư cho khoa học công nghệ từ ngân sách Nhà nước đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách. Đây là những thuận lợi mang tính cơ bản đối với quá trình thực hiện nhiệm vụ của huyện Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Công thương nói riêng. Bên cạnh đó, từ năm 2010, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các giải pháp và nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội và Quốc phòng - an ninh. Đặc biệt là tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19/11/2011, Đảng ta đã Đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Với 03 đột phá chiến lược gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng đã xác định các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020 đó là:

(1): Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. (2): Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. (3): Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. (4): Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. (5): Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. (6): Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới. (7): Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. (8): Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. (9): Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. (10): Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. (11): Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. (12): Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội của Đảng các cấp, ngày 08/4/2010 Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ IV nhiệm kỳ 2010 - 2015 được tổ chức với sự tham dự của 06 đảng viên. Với chủ đề: “Đoàn kết - Đổi mới, chất lượng - hiệu quả - phát triển - bền vững”, Đại hội đã xác định các mục tiêu chủ yếu đến năm 2015:

1. Giá trị thu nhập ngành Thương mại - dịch vụ chiếm 35% công nghiệp - xây dựng chiếm 30%. 

2. Phấn đấu đường nhựa, đường bê tông đến trung tâm xã đạt 100%. Đường ô tô đến trung tâm thôn bản đạt 100%.

3. 100% Nhà văn hóa thôn bản được xây dựng kiên cố.                    

4. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới mỗi xã, thị trấn từ 3 thôn trở lên. Tiếp tục thực hiện quy hoạch mở rộng thị trấn Vinh Quang; thị tứ Thông Nguyên, Nậm Dịch, Bản Máy và quy hoạch khu trung tâm hành chính các xã.

5. 100% số thôn bản có điện lưới Quốc gia. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện lưới Quốc gia đạt từ 90% trở lên.

6. Phấn đấu 100% Đảng viên trong Chi bộ có trình độ Đại học.

7. 100% cán bộ đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chi bộ và các đoàn thể đạt trong sạch vững mạnh.

8. Kết nạp đảng viên mới mỗi năm từ 1- 2 đồng chí.

Ngay sau Đại hội, đội ngũ đảng viên và cán bộ công chức Phòng Công thương đã từng bước cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng các cấp vào thực tiễn công tác của đơn vị. Đặc biệt là trên các lĩnh vực Giao thông, Xây dựng, Thương mại, Dịch vụ và Khoa học công nghệ. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, tập thể lãnh đạo và cán bộ công chức của Phòng đã tích cực phối hợp với các cơ quan, chuyên môn của huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn triển khai công tác quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển trung tâm xã, cụm xã và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Tham mưu triển khai đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn. Tham mưu đề xuất xây dựng và triển khai các cơ chế phù hợp nhằm tạo môi trường thuận lợi gắn với xúc tiến quảng bá, mời gọi đầu tư vào các hoạt động chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông lâm nghiệp cho nhân dân. Triển khai thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn ở những vùng sạt lở núi, ven suối.

Từ năm 2011, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 và được triển khai đồng bộ trên phạm vi cả nước trong đó có huyện Hoàng Su Phì và được Ban Thường vụ Huyện ủy cụ thể hóa bằng Nghị quyết chuyên đề về xây dựng Nông thôn mới gắn với quy tụ dân cư giai đoạn 2010 - 2015. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân huyện cũng ban hành Nghị quyết số 07/NQ-HĐND18 ngày 08/01/2015 về việc phê chuẩn Đề án thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, đồng thời được Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa bằng các kế hoạch hàng năm, đảm bảo phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn của huyện cũng như mỗi xã, thị trấn.

Là một trong những cơ quan thành viên của Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng Nông thôn mới của huyện, Phòng Công thương huyện Hoàng Su Phì đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của Phòng trong giai đoạn này là gắn việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao của ngành với việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện; tham mưu xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch và hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện thắng lợi 05 tiêu chí nông thôn mới được giao phụ trách gồm: Tiêu chí 1: Quy hoạch; tiêu chí 2: Giao thông; tiêu chí 4: Điện; tiêu chí 7: Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn; tiêu chí 9: Nhà ở dân cư.

Trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới, đồng thời để đáp ứng yêu cầu về công tác luân chuyển, điều động và đề bạt cán bộ lãnh đạo quản lý của huyện, công tác tổ chức bộ máy và cán bộ của Phòng trong thời gian này tiếp tục được kiện toàn. Tháng 9/2010 đồng chí Hoàng Văn Pao - Phó trưởng Phòng được điều động công tác về Phòng Tài nguyên & Môi trường. Tháng 7/2011 đồng chí Lại Trần Hà được điều động công tác về Trung tâm Tư vấn và Xúc tiến đầu tư tỉnh Hà Giang. Tháng 12/2011 đồng chí Vương Văn Thắng được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 4/2013 đồng chí Vương Thị Nga được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 11/2015 đồng chí Trần Quốc Huy - Trưởng Phòng Công thương được điều động đi tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, Ủy ban nhân dân huyện đã bổ nhiệm đồng chí Vương Văn Thắng giữ chức vụ Trưởng Phòng.

Về tổ chức bộ máy, thực hiện Thông tư liên tịch số 22/2015/TTLT-BCT-BNV ngày 30/6/2015 của Bộ Công thương, Bộ Nội vụ về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về công thương thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, tháng 3/2015 Phòng Công thương được kiện toàn và đổi tên thành Phòng Kinh tế & Hạ tầng theo Quyết định số 389/QĐ-UBND ngày 12/3/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Theo đó, Phòng Kinh tế và Hạ tầng là cơ quan chuyên môn cấp huyện, chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công tác của UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của các Sở Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Giang.

Cùng với kiện toàn và đổi tên, Phòng Kinh tế & Hạ tầng cũng được tỉnh và huyện quan tâm bổ sung biên chế. Đến cuối năm 2015 tổng số cán bộ công chức của Phòng có 08 đồng chí, trong đó có 02 đồng chí giữ chức vụ lãnh đạo và 06 công chức làm công tác chuyên môn nghiệp vụ thuộc các lĩnh vực Công thương; Khoa học và công nghệ; Xây dựng và Giao thông vận tải.

Song song với việc kiện toàn về tổ chức bộ máy và biên chế, Chi bộ và các tổ chức đoàn thể của Phòng cũng được kiện toàn và củng cố để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng cũng như triển khai thực hiện các phong trào thi đua và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và công tác xã hội của đơn vị. Tháng 11/2015 đồng chí Trần Quốc Huy - Bí thư Chi bộ được điều động đi tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, đồng chí Vương Văn Thắng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Tại Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ V được tổ chức vào ngày 19/4/2015, đồng chí Vương Văn Thắng tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Cũng từ năm 2010 các đồng chí Bí thư Chi bộ Trưởng Phòng Công Thương và sau đó là Phòng Kinh tế & Hạ tầng đều được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đó là một vinh dự, trọng trách không nhỏ đối với đội ngũ đảng viên trong Chi bộ, từ đó giúp cho Chi bộ cũng như Phòng Công thương được đóng góp nhiều hơn các ý kiến cũng như tham gia tích cực hơn trong việc triển khai cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện, đồng thời là một trong những điều kiện tiên quyết để đảm bảo công tác lãnh đạo của Đảng được thường xuyên và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đơn vị.

Đội ngũ đảng viên của Chi bộ luôn phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất, thực hiện tốt nguyên tắc lãnh đạo “Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách”, gương mẫu trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, coi trọng đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để xây dựng Chi bộ ngày một vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ được giao. Chi bộ đã cụ thể hóa thực hiện Đề án số 01-ĐA/TU, ngày 19/8/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đối với hoạt động của hệ thống chính trị và chỉ thị 09 -CT/TU, ngày 08/11/2011 về "Đổi mới tác phong, lề lối làm việc của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội; của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh"; Đề cương "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên Đảng bộ Tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 - 2015" đến mọi đảng viên và công chức để tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Hàng năm, Chi bộ và cơ quan Phòng Công thương thường xuyên xây dựng và bổ sung quy chế hoạt động, thực hiện phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí cán bộ, đảng viên, đồng thời chấn chỉnh lề lối, tác phong làm việc theo hướng chất lượng, hiệu quả. Chi bộ và Phòng Công thương cũng luôn khuyến khích động viên đội ngũ đảng viên và cán bộ, công chức đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua do các cấp, ngành phát động, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ được giao của đơn vị. Đánh giá trên các lĩnh vực công tác của Phòng Công thương trong 5 năm (2011 - 2015) cho thấy hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch được giao cũng như các mục tiêu nhiệm vụ đã được xác định tại Nghị quyết Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ V đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức.

Trên lĩnh vực Giao thông - Xây dựng: Phòng Công thương đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện tranh thủ tối đa các chương trình, dự án và các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh để phát triển mạnh hệ thống giao thông và các công trình phúc lợi công cộng từ huyện đến các xã, thôn. Thường xuyên được quan tâm đầu tư, nâng cấp, tu sửa, gắn với tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, phát huy nội lực trong nhân dân theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đến thời điểm 30/6/2015 toàn huyện đã có 22/25 xã có đường bê tông, đường nhựa đến trung tâm xã tăng 12 xã so với năm 2010; 169/199 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn (mặt đường rộng 4,8m), tăng 50 thôn so với năm 2010. 100% số xã trong huyện có trụ sở làm việc 2 - 3 tầng, 177/199 thôn, tổ dân phố có nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, tăng 87 nhà văn hóa so với năm 2010; 100% trạm y tế xây kiên cố. Bên cạnh đó, Phòng cũng xây dựng phương án chủ động ứng phó với thiên tai, tích cực phối hợp với Hạt 3 Giao thông để duy tu bảo dưỡng tuyến tỉnh lộ 177 và ứng cứu kịp thời khi có sự cố; hướng dẫn, đôn đốc các xã bảo dưỡng tu sửa các tuyến đường từ huyện đi các xã và liên xã, đảm bảo thông suốt, kịp thời phục vụ cho nhân dân đi lại được thuận lợi và vận chuyển hàng hoá, vật liệu phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội của huyện.

Năm 2012 Phòng đã tham mưu lập phương án và xây dựng, đưa vào sử dụng bãi đỗ xe thị trấn Vinh Quang. Bên cạnh đó, Phòng Công thương cũng tích cực tham mưu kế hoạch và bố trí nguồn lực để phấn đấu thị trấn Vinh Quang, Thông Nguyên, Nậm Dịch trở thành đô thị miền núi, đến năm 2015 đã hoàn thành việc quy hoạch và tổ chức lễ công nhận thị trấn Vinh Quang là đô thị loại V theo quyết định phê duyệt của Tỉnh, các xã Thông Nguyên và Nậm Dịch đã đạt 11/20 tiêu chí theo quy định đô thị miền núi. 100% số xã trong huyện có trụ sở làm việc 2 - 3 tầng, 177/199 thôn, tổ dân phố có nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, tăng 87 nhà văn hóa so với năm 2010; Hoàn thành quy hoạch và đưa vào sử dụng bãi đỗ xe thị trấn Vinh Quang.

Lĩnh vực thủy lợi cũng có nhiều cố gắng. Phòng Công thương đã tích cực tham mưu xây dựng kế hoạch đầu tư nâng cấp, tu sửa hệ thống kênh, mương dẫn nước, cơ bản đáp ứng yêu cầu về nước tưới cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Trong 5 năm đã tiến hành kiên cố hóa được 57 công trình thủy lợi với tổng chiều dài 103,432 km. Khắc phục, tu sửa 68 công trình với chiều dài 48,686 km để kịp thời cung cấp nước tưới phục vụ đắc lực hoạt động sản xuất nông nghiệp của huyện.

Một thành tích đáng tự hào của đội ngũ cán bộ, công chức Phòng Công thương trong giai đoạn này là với nhiệm vụ được giao phụ trách tiêu chí 05 tiêu chí thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới, Phòng đã tham mưu xây dựng kế hoạch, xác định các đầu điểm cần ưu tiên để bố trí nguồn vốn với tổng số 181.784 triệu đồng và tập trung hỗ trợ các xã trong việc khảo sát, thiết kế kỹ thuật và giám sát chất lượng quá trình thi công các công trình thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới. Trong 5 năm (2010 - 2015) toàn huyện đã mở mới nền đường và nâng cấp được 237,8 km đường giao thông đi các xã và các thôn mặt đường rộng từ 2,5m đến 4,8 m (trong đó, mở mới được 58km, nâng cấp, mở rộng được 179,8 km); Đổ bê tông đường trục thôn, liên thôn rộng từ 2,5m - 3,5 m được 78 km; đường nhóm hộ, nhánh hộ gia đình rộng 1,0 - 2,0m được  63 km; xây dựng 03 cầu tràn liên hợp, 01 nhà lưu trú học sinh, 85 hội trường thôn, 02 nhà văn hóa xã, 03 nhà chợ nông thôn, 01 trụ sở xã; tu sửa 01 nhà làm việc, 02 nhà lưu trú trạm y tế, nhà lưu trú học sinh; hỗ trợ nhân dân xây dựng được 2.351 bể nước, 2.327 nhà tắm, 3.300 nhà vệ sinh, di rời 333 chuồng gia súc ra xa nhà.

Hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến. Phòng đã tham mưu xây dựng các cơ chế và áp dụng linh hoạt các chính sách hiện hành để khuyến khích sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, nhất là lĩnh vực chế biến các sản phẩm nông lâm sản. Mặc khác,  Phòng Công thương huyện cũng tích cực kêu gọi thu hút các tổ chức, cá nhân hỗ trợ triển khai các chương trình, dự án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư máy móc, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất chế biến nông lâm sản. Qua đó làm tăng giá trị sản phẩm và kích thích thị trường tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân. Tiêu biểu là các hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ trà, hợp tác xã Chiến Hảo, hợp tác xã Hạnh Quang đã đầu tư mua sắm trang bị các dây chuyền tiên tiến để chế biến chè. Năm 2015 đã phối hợp với Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội và các đơn vị liên quan triển khai thực hiện Dự án phát triển làng nghề nấu rượu thóc Nàng Đôn, trong đó tập trung hỗ trợ dụng cụ cho các hộ dân và chuyển giao công nghệ làm men lá, lắp đặt hệ thống chưng cất rượu gián đoạn tại Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp của huyện.

Năm 2015 toàn huyện có 5 hợp tác xã chế biến chè (HTX Chiến Hảo, Hạnh Quang, Phìn Hồ, Thuận An, Hồ Thầu), 20 cơ sở chế biến chè quy mô hộ và nhóm hộ, 353 máy chế biến chè mini. Nâng tổng sản lượng chè chế biến từ 2.000 tấn năm 2010 tăng lên 2.341 tấn vào năm 2015. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có 01 cơ sở chế biến củ cải, 624 máy cày bừa, 4.048 máy chế biến lương thực, 347 xưởng sản xuất nông cụ, 09 xưởng cơ khí. Đến năm 2015 đã có 165/199 thôn trong toàn huyện có điện lưới quốc gia. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện đạt 89%, tổng sản lượng điện thương phẩm bán ra đạt 10,1 triệu KW.

Hoạt động Thương mại - Dịch vụ từng bước phát triển theo hướng tích cực đáp ứng nhu cầu dịch vụ trong nhân dân, Phòng đã phối hợp với các ngành, Ủy ban nhân dân các xã triển khai thực hiện quy hoạch và đầu tư xây dựng chợ nông thôn, trong đó đã xây dựng mới 05 nhà chợ bán kiên cố tại 05 xã gồm Túng Sán, Tân Tiến, Bản Phùng, Thàng Tín, thị trấn Vinh Quang, nâng tổng số chợ của huyện duy trì hoạt động có hiệu quả là 16 chợ. Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ đầu tư, buôn bán, kinh doanh trên địa bàn huyện theo luật định.

Năm 2015 toàn huyện có 39 doanh nghiệp, 45 hợp tác xã và 379 hộ kinh doanh. Tổng mức bán lẻ lưu chuyển hàng hóa đạt 841,1 tỷ đồng. Doanh thu của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước và các hợp tác xã đạt 521,084 tỷ đồng. Gắn với đó thực hiện tốt công tác quản lý thị trường, kịp thời xử lý các hành vi buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại. Trong 5 năm đã phát hiện xử lý 253 vụ vi phạm các quy định trong kinh doanh, số tiền phạt thu nộp vào ngân sách Nhà nước 315,15 triệu đồng, tịch thu tiêu hủy hàng hóa vi phạm trị giá 26 triệu đồng. Nhờ đó, hàng hóa bán tại các hộ kinh doanh tư nhân và tại các chợ ngày càng đa dạng, phong phú và đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện.

Trong giai đoạn các năm 2010 - 2015 Phòng Công thương cũng tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại thông qua việc phối hợp với Trung tâm Khuyến công - Xúc tiến thương mại tỉnh tổ chức các hội chợ Văn hóa - Thương mại, Hội chợ Thương mại - Du lịch theo định kỳ hàng năm tại trung tâm huyện lỵ và xã Thông Nguyên, đặc biệt là để hưởng ứng Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", với chức năng nhiệm vụ được giao từ năm 2013 Phòng Công thương đã chủ động tham mưu đề xuất xây dựng kế hoạch, phối hợp với Sở Công thương tỉnh Hà Giang tổ chức thành công 08 phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn, tạo được dư luận tốt trong nhân dân đối với hàng hóa sản xuất trong nước.

Mặt khác, Phòng cũng tích cực tham gia các cuộc triển lãm, giới thiệu sản phẩm, các mặt hàng nông lâm sản của địa phương tại các kỳ cuộc do tỉnh và Trung ương tổ chức nhằm đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng nông lâm sản, các sản phẩm đặc trưng của huyện đến với đông đảo khách hàng trong và ngoài nước. Trong đó đáng chú ý là đợt tham gia triển lãm giới thiệu sản phẩm trong dịp Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 (IPU-132) vào cuối tháng 3 đến đầu tháng tháng 4/2015 tại Hà Nội. Cũng từ các hoạt động này, nhiều mặt hàng thế mạnh của địa phương như chè xanh, thóc gạo, rượu Nàng Đôn, dược liệu và các sản phẩm ẩm thực địa phương đã tiếp cận với thị trường và được đông đảo khách hàng chấp nhận, một số sản phẩm chè xanh của Hợp tác xã chế biến chè Phìn Hồ đã được xuất khẩu sang Đài Loan và một số nước khu vực Châu Âu.

Hoạt động khoa học, công nghệ có nhiều chuyển biến tích cực. Với vai trò là cơ quan Thường trực của Hội đồng Khoa học & Công nghệ của huyện, Phòng đã tham mưu tổ chức thẩm định các đề tài khoa học cấp huyện và trình các cơ quan chuyên môn của tỉnh thẩm định, nghiệm thu các đề tài khoa học cấp tỉnh. Đồng thời tiếp nhận và triển khai ứng dụng các đề tài khoa học đã được các cấp có thẩm quyền thẩm định và công nhận. Nhiều đề tài đã được triển khai thành các dự án, mô hình và đem lại hiệu quả cao như Đề tài khôi phục làng nghề dệt vải truyền thống của người La Chí, xã Bản Phùng; mô hình thâm canh tổng hợp nhằm tăng năng suất, hiệu quả trong sản xuất lúa ĐS3 với diện tích 10 ha tại các xã Nam Sơn, Sán Xả Hồ, mô hình  trồng ngô che phủ ni lông với tổng diện tích 14,3 ha tại 21 xã, mô hình nuôi dê sinh sản tại thôn Nậm Ty xã Nậm Ty; mô hình nuôi cá tầm tại thôn Tân Minh xã Nậm Ty.v.v. Bên cạnh đó, Phòng cũng chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện như Phòng Văn hóa & Thông tin, Phòng Tài chính  - Kế hoạch, Văn phòng HĐND - UBND huyện đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ đời sống xã hội và nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, chất lượng hoạt động công vụ trong các cơ quan, đơn vị từ huyện đến xã, gắn với thực hiện cải cách hành chính của bộ phận giao dịch "Một cửa" và trang thông tin điện tử của huyện. Từ đó từng bước góp phần nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý điều hành của Cấp ủy, Chính quyền từ huyện đến các xã, thị trấn.

2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển Công  nghiệp, Thương mại - Dịch vụ và Khoa học công nghệ, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế xã hội và Chương trình Xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn huyện (giai đoạn 2015 - 2020)

Năm 2015 là thời điểm diễn ra đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020. Thực hiện Kế hoạch số 154-KH/HU ngày 17/9/2014 của Ban Thường vụ Huyện ủy Hướng dẫn số 15-HD/BTC ngày 17/9/2014 của Ban Tổ chức Huyện ủy Hoàng Su Phì về việc hướng dẫn chuẩn bị nội dung, văn kiện và nhân sự Đại hội đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2015 - 2020; Chỉ thị số 16 - CT/HU, ngày 23/7/2014 của Ban Thường vụ Huyện ủy về Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVI. Tháng 5/2015 Chi bộ Phòng Công thương đã tổ chức Đại hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 với sự tham dự của 07 đảng viên. Đồng chí Vương Văn Thắng được bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XX và định hướng của các Cấp ủy Đảng, Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ V nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra một số mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2015 - 2020, đó là: (1): Đến năm 2020, 25/25 xã có đường bê tông/đường nhựa đến trung tâm xã, 100% số thôn nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, đường ô tô đến 100% số thôn; (2): Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 103 tỷ đồng vào năm 2020; (3): Tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 1.710 tỷ đồng; (4): Tỷ lệ hộ dân cư dùng điện sinh hoạt chiếm 98% tổng số hộ; (5): Triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương trình trọng tâm của huyện giai đoạn 2015 - 2020 thuộc lĩnh vực ngành phụ trách (Chương trình phát triển thương mại biên giới và dịch vụ nông thôn; Chương trình quy tụ dân cư; Chương trình xây dựng nông thôn mới); (6): hàng năm 100% đảng viên trong Chi bộ hoàn thành chức trách nhiệm vụ, đến hết năm 2020 kết nạp mới từ 2 - 3 đảng viên.

Ngay sau Đại hội, Chi bộ và Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã xây dựng Chương trình hành động, phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí đảng viên và cán bộ chuyên môn. Chủ động phối hợp với các xã, thị trấn, các cơ quan chuyên môn của huyện nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng các cấp vào thực tiễn nhiệm vụ của Chi bộ và của Phòng. Trong hoàn cảnh là địa phương vùng cao biên giới còn nhiều khó khăn cả về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện xây dựng các chương trình, kế hoạch và đề xuất triển khai các cơ chế trong các lĩnh vực được phân công phụ trách để đảm bảo sát với thực tiễn, từng bước khắc phục những khó khăn về nguồn vốn đầu tư, cơ chế vận hành thực hiện dự án, công tác giải phóng mặt bằng để tăng cường mọi nguồn lực đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng.

Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện và các Sở Giao thông vận tải, Xây dựng, Công thương, Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Giang cùng các Sở, ngành liên quan của tỉnh, sau 05 năm, hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ V nhiệm kỳ 2015 - 2020 đều hoàn thành, nhiều chỉ tiêu hoàn thành vượt mức.

Trên lĩnh vực xây dựng, Phòng Kinh tế & Hạ tầng đặc biệt quan tâm công tác quản lý xây dựng cơ bản và giám sát chất lượng các công trình xây dựng để đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của Pháp luật. Thường xuyên phối hợp với các chủ đầu tư tiến hành kiểm tra, đôn đốc tiến độ, chất lượng thi công các công trình. Trong 5 năm (2015 - 2020) đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng 21 công trình Nhà văn hóa kiêm trụ sở thôn. Ngoài ra còn hỗ trợ UBND các xã trong công tác hướng dẫn, lập hồ sơ và triển khai thực hiện các công trình nông thôn mới, các công trình của các tổ chức các nhân hỗ trợ, các dự án hỗ trợ nhà ở chính sách.

Với chức năng nhiệm vụ được giao, Phòng Kinh tế & Hạ tầng tiếp tục phối hợp với các cơ quan, các địa phương triển khai thực hiện tốt công tác cấp phép và quản lý xây dựng sau cấp phép xây dựng theo quy định, nhất là việc thực hiện quy chế phối hợp quản lý trật tự xây dựng, cấp phép xây dựng và quản lý đất đai trên địa bàn thị trấn Vinh Quang. Trong 5 năm đã thẩm định và tham mưu ra quyết định cấp 244 giấy phép cho các công trình xây dựng trên địa bàn huyện, trong đó cấp cho nhà ở riêng lẻ 239 giấy phép; cấp cho dự án xây dựng 05 giấy phép. Mặt khác, Phòng cũng thực hiện tốt công tác thẩm tra, thẩm định các công trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo phân cấp của UBND tỉnh, trong đó đã thẩm định được 266 đầu điểm công trình, bao gồm công trình nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, các công trình xây dựng nông thôn mới, công trình nhà nước và nhân dân cùng làm do UBND huyện quyết định đầu tư.

Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng luôn được Phòng triển khai thực hiện có hiệu quả. Việc quản lý, triển khai thực hiện quy hoạch Đô thị, quy hoạch chi tiết xây dựng và quy hoạch xây dựng Nông thôn mới theo đúng theo quy định của pháp luật, tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch xây dựng cơ bản. Từ đó góp phần tạo điều kiện cho công tác xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng tại các xã, thị trấn được quy củ, hiệu quả và bền vững.

Lĩnh vực Giao thông vận tải có nhiều tiến bộ. Phòng Kinh tế & Hạ tầng tiếp tục tham mưu đẩy mạnh việc phân cấp cho các xã thực hiện công tác duy tu, bảo dưỡng các đường do huyện quản lý với tổng chiều dài 960,1 km. Trong đó đường huyện có tổng chiều dài 238,7 km và đường xã có 721,4 km. Kịp thời tổ chức khắc phục hậu quả lụt bão, bảo đảm giao thông các tuyến đường do huyện quản lý được thông suốt, không để tình trạng ách tắc về giao thông. Bên cạnh đó, hàng năm Phòng đã tham mưu cho UBND huyện ban hành các Kế hoạch phát động phong trào nâng cấp, mở mới các tuyến đường giao thông nông thôn tại các xã trên địa bàn huyện kết hợp việc đầu tư xây dựng bằng 100% vốn ngân sách Nhà nước và đầu tư thực hiện theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm. Kết quả trong 5 năm (2015 - 2020) đã thực hiện nâng cấp, mở mới được 268 km đường giao thông nông thôn; kết hợp với Chương trình xây dựng Nông thôn mới đổ được 178 km đường bê tông giao thôn, trong đó loại đường 2,5m đến 3,5m được 132 km; loại đường 1,0m đến 2,0m được 47 km. Đến cuối năm 2020 toàn bộ các xã, thị trấn trong huyện đã có đường nhựa hoặc đường bê tông đến trung tâm; 92% số thôn có đường xe cơ giới đến trung tâm thôn.

Lĩnh vực Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển khá, đảm bảo phục vụ và đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng tại chỗ của địa phương cũng như góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các mặt hàng nông lâm sản của huyện. Đến cuối năm 2020 toàn huyện có 03 cơ sở sản xuất cơ khí; 03 cơ sở chế biến gỗ; hơn 2.000 máy xay sát hộ gia đình; 06 hợp tác xã chế biến chè; trên 100 cơ sở chế biến chè quy mô hộ gia đình, sản lượng chè qua chế biến của toàn huyện đạt trên 2.746,3 tấn/năm trị giá trên 500 tỷ đồng; Sản xuất rượu thóc của Hợp tác xã rượu thóc Nàng Đôn đạt bình quân từ 85 nghìn lít/năm trị giá trên 6,3 tỷ đồng; 09 cơ sở sản xuất gạch không nung (gạch bê tông) hộ kinh doanh, sản lượng bình quân trên năm đạt 3,0 triệu viên.

Hoạt động Thương mại - Dịch vụ từng bước phát triển theo hướng tích cực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân. Đến cuối năm 2020 toàn huyện có 31 doanh nghiệp, 24 hợp tác xã và 1.140 hộ kinh doanh trong lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa theo lũy kế đạt trên 1.854,7 tỷ đồng. Bên cạnh đó hệ thống chợ nông thôn cũng được quan tâm phát triển mạnh. Toàn huyện có tổng số 25 chợ tăng 05 chợ so với năm 2015, gắn với đó là việc tăng cường tổ chức các phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn để tăng cường giao thương, trao đổi hàng hóa trong nhân dân.

Hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều sản phẩm hàng hóa đặc trưng của huyện đã được Phòng Kinh tế & Hạ tầng lựa chọn để tổ chức tham gia các gian hàng trưng bày giới thiệu sản phẩm của địa phương tại các kỳ cuộc hội nghị, hội chợ, các sự kiện trong tỉnh và một số địa phương như Hà Nội, Sa Pa, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang. Xây dựng được 02 gian hàng giới thiệu sản phẩm tại trung tâm huyện và cổng trời km17 và một số gian hàng trưng bày trên địa bàn các xã. Gắn với đó là việc đẩy mạnh kết nối giao thương, tìm kiếm thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa của huyện. Từ việc đẩy mạnh xây dựng thương hiệu và xúc tiến quảng bá nhiều sản phẩm của huyện đã có thương hiệu và có thị trường tiêu thụ ổn định như: rượu thóc Nàng Đôn, các sản phẩm trà, mận máu, mật ong, thảo quả đỏ,...

Lĩnh vực Khoa học - Công nghệ cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Phòng đã chủ động tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch thực hiện theo từng giai đoạn, trong đó lựa chọn các lĩnh vực để thực hiện đột phá về ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất như: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý Nhà nước; cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện chương trình thụ tinh nhân tạo cho đàn bò; trao đổi, liên kết với các đơn vị để tư vấn, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp và cây ăn quả; xây dựng mỗi xã một sản phẩm theo chương trình OCOP… Kết quả, đã phối hợp triển khai thực hiện 01 đề tài cấp bộ, 01 đề tài cấp tỉnh, phục tráng, đưa vào thực nghiệm các giống lúa (DS1, DS2, KN....) và một số loại cây trồng có chất lượng và giá trị cao. Đến năm 2020 đã có 02 sản phẩm của huyện nằm trong vùng bảo hộ chỉ dẫn địa lý gồm chè, thịt bò. Truy xuất nguồn gốc sản phẩm và được cấp giấy chứng nhận bảo hộ 02 sản phẩm là thảo quả, đậu tương. Có 8 sản phẩm OCOP đã được đánh giá xếp hạng cấp tỉnh và 02 sản phẩm đạt tiêu chuẩn cấp quốc gia.

Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc hành chính tiếp tục được Phòng Kinh tế & Hạ tầng phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện và UBND các xã thị trấn đẩy mạnh thực hiện thông qua việc sử dụng hòm thư công vụ điện tử; chứng thư số; xử lý văn bản trên hệ thống VNPT - Ioffice; sử dụng dịch vụ điện tử một cửa liên thông; ứng dụng phòng họp không giấy tờ Ecabinet, sử dụng mạng xã hội (face book, zalo) để trao đổi thông tin điều hành giữa các cơ quan của huyện, giữa huyện với xã và trong các xã được thường xuyên hàng ngày, hàng giờ. Từ đó đã góp phần giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo điều kiện tốt về môi trường làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.

Có thể nói, để đạt được những kết quả quan trọng như trên không thể không kể đến công tác củng cố, xây dựng bộ máy và tổ chức cán bộ. Trong thời gian này, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là những vị trí lãnh đạo tiếp tục được điều động, đề bạt và bổ nhiệm theo đúng quy hoạch để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành cũng như công tác cán bộ của huyện.

Tháng 5/2016 đồng chí Lò Văn Chinh được bổ nhiệm chức vụ Phó trưởng Phòng Kinh tế & Hạ tầng. Tháng 11/2016 đồng chí Vương Văn Thắng được điều động về Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện và giữ chức vụ Chánh Văn phòng, Ủy ban nhân dân huyện đã điều động và bổ nhiệm đồng chí Hoàng Đăng Thành - Giám đốc Ban quản lý Dự án các công trình xây dựng giữ chức vụ Trưởng Phòng thay đồng chí Vương Văn Thắng. Tháng 7/2017 đồng chí Vương Thị Nga chuyển công tác về Ban Kinh tế Xã hội - Hội đồng nhân dân huyện. Tháng 11/2017 đồng chí Hoàng Đăng Thành lâm bệnh nặng và từ trần, đến tháng 01/2018 đồng chí Vương Văn Thắng - Chánh Văn phòng HĐND - UBND huyện được điều động công tác về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng. Đến tháng 9/2018 đồng chí Trần Trung Sơn được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng.

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được triển khai theo đúng kế hoạch và phương án đã được cấp trên phê duyệt nhằm từng bước chuẩn hóa cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến cuối năm 2020 Phòng Kinh tế & Hạ tầng có tổng số 09 cán bộ trong chỉ tiêu biên chế và 02 đồng chí là cán bộ hợp đồng. Về trình độ chuyên môn toàn bộ các cán bộ, công chức đều có trình độ văn hóa 12/12 và trình độ chuyên môn đại học. Về chính trị có 02 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 03 đồng chí trình độ trung cấp và 01 đồng chí trình độ sơ cấp.

Song song với việc kiện toàn về tổ chức bộ máy của cơ quan chuyên môn, Chi bộ Đảng của đơn vị cũng được kiện toàn để đảm bảo công tác lãnh đạo toàn diện của Đảng. Sau khi đồng chí Vương Văn Thắng được điều động về Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện vào tháng 11/2016, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ định đồng chí Hoàng Đăng Thành giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Tháng 01/2018 đồng chí Vương Văn Thắng - Chánh Văn phòng HĐND - UBND huyện được điều động công tác về Phòng Kinh tế & Hạ tầng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ định đồng chí Vương Văn Thắng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.

Năm 2020 Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng có tổng số 07 đảng viên, chiếm tỷ lệ 77,8% trong tổng số 09 cán bộ công chức của đơn vị, trong đó dân tộc Nùng có 01 đảng viên, dân tộc Dao 01 đảng viên, dân tộc Cao lan có 01 đảng viên, dân tộc Kinh 01 đảng viên, dân tộc Tày 03 đảng viên.

Để nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Chi bộ đặc biệt quan tâm công tác bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên trong đơn vị. Thường xuyên quán triệt học tập Nghị quyết TW6, TW7 (khóa XI), Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, quy định 47 của Bộ chính trị về những điều đảng viên không được làm và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh”. Thường xuyên gắn nội dung “Học tập và làm theo phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh” vào sinh hoạt chi bộ định kỳ. Không ngừng đổi mới công tác sinh hoạt chi bộ theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy.

Chi bộ chú trọng công tác xây dựng nghị quyết, thường xuyên quán triệt và triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cấp trên. Trong 05 năm (2015 - 2020) Chi bộ và cơ quan Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã chủ động tham mưu với Cấp ủy, Chính quyền địa phương ban hành 02 Nghị quyết chuyên đề, 10 phương án, 14 kế hoạch, 68 văn bản chỉ đạo, 172 quyết định, 194 báo cáo thuộc các lĩnh vực Giao thông vận tải, Xây dựng, Công thương, Khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, trong 5 năm Chi bộ cũng đã xây dựng và ban hành được 05 Nghị quyết chuyên đề, 03 nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, 02 chương trình hành động; Cơ quan Phòng Kinh tế & Hạ tầng ban hành được 26 kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đảm bảo sát với thực tiễn và phù hợp với các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của huyện và các cơ quan, ngành cấp trên. Chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện, các cấp ủy, chính quyền cơ sở triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tham gia thực hiện nhiệm vụ của ngành.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, các tổ chức đoàn thể của Phòng kinh tế & Hạ tầng như Công đoàn, Đoàn thanh niên cũng thường xuyên được kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động, giữ vai trò nòng cốt trong việc phát động và hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước. Nổi bật là việc phối hợp với Sở Công thương tổ chức các hoạt động giao lưu, biểu diễn văn hóa văn nghệ phục vụ nhân dân tại xã được phân công phụ trách giúp đỡ; tham gia các phong trào xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng cơ quan, đơn vị văn hóa văn minh; tham gia đóng góp quỹ Vì người nghèo, Quỹ chung tay xây dựng Nông thôn mới, Quỹ mái ấm công đoàn. Bình quân mỗi năm tập thể cán bộ, công chức, người lao động của Phòng đã tham gia đóng góp ủng hộ từ 10 - 13 triệu đồng.

Phát huy những thành tích to lớn đã đạt được trong giai đoạn các năm trước đây, ngày 06/5/2020 Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã tổ chức Đại hội Chi bộ lần thứ VI nhiệm kỳ 2020 - 2025 với sự tham dự của 07 đảng viên. Đại hội đã bầu đồng chí Vương Văn Thắng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Lò Văn Chinh giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ.

Với chủ đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo, đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, phát huy sức mạnh tập thể xây dựng Chi bộ Phòng kinh tế và Hạ tầng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu phấn đấu đến năm 2025: (1): 70% số thôn bản có đường ô tô được cứng hóa đến trung tâm thôn; (2): 100% thôn bản được kéo điện lưới quốc gia; (3): 99% số hộ gia đình được sử dụng điện lưới quốc gia; (4): Sản lượng điện thương phẩm đạt trên 15 triệu KWh; (5): Duy trì, nâng cấp các nhà hội trường thôn xây dựng kiên cố đạt 100%; (6): Tỷ lệ hộ dân trong đô thị được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh: 95%; (7): Chuyển đổi mô hình quản lý, kinh doanh khai thác chợ từ 1 đến 2 chợ; (8): 90% đảng viên trong chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; kết nạp đảng viên mới từ 01 đến 02 đồng chí. Bên cạnh đó, Chi bộ cũng đề ra Định hướng đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 đó là: Đẩy mạnh thu hút đầu tư, mở rộng không gian, xây dựng thị trấn Vinh Quang đạt đô thị loại IV, trung tâm xã Thông nguyên đạt đô thị loại V; thu hút đầu tư xây dựng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gắn với chợ đầu mối km38 tỉnh lộ 177 xã Nậm Ty. Thu hút đầu tư các dự án điện năng lượng tái tạo phục vụ vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực thi công vụ và đồi sống của nhân dân. 100% số thôn bản có đường ô tô được cứng hóa đến trung tâm thôn.

Căn cứ Nghị quyết Đại hội Chi bộ  Phòng Kinh tế & Hạ tầng lần thứ VI và các Nghị quyết của Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, ngay sau đại hội, Chi bộ và cơ quan Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã nhanh chóng triển khai quán triệt, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn công tác, đồng thời xây dựng Chương trình hành động và các kế hoạch, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện trong các lĩnh vực ngành được phân công phụ trách.

Có thể khẳng định, sau hơn 30 năm (1986 - 2020) thực hiện nhiệm vụ xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng  phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước, nhất là trong giai đoạn cả nước nói chung và huyện Hoàng Su Phì nói riêng tập trung mọi nguồn lực cho việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của các Sở Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Sở Khoa học và Công nghệ, Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, kịp thời vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham mưu xây dựng các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch các cơ chế, biện pháp và giải pháp trong lĩnh vực được phân công phụ trách, đảm bảo sát, đúng với tình hình thực tiễn của địa phương. Qua đó hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được hoàn thiện, công nghiệp; thương mại và dịch vụ có bước phát triển mạnh; các tiến bộ khoa học công nghệ không ngừng được áp dụng vào thực tiễn đã làm chuyển biến về nhận thức, tư duy lao động sản xuất của nhân dân, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông lâm nghiệp và nâng cao thu nhập cho nhân dân.

Những cố gắng đó của tập thể cán bộ, công chức Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã góp phần quan trọng trong việc làm thay đổi về cơ bản diện mạo của huyện Hoàng Su Phì ngày một giàu mạnh, phát triển và văn minh. Với những kết quả đã đạt được, Chi bộ và Phòng Kinh tế & Hạ tầng luôn tự hào vì đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển bền vững của huyện Hoàng Su Phì.

  

KẾT LUẬN

Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì kể từ khi các cơ quan tiền thân là Phòng Giao thông và Phòng Xây dựng được thành lập vào năm 1955, trải qua 67 năm trưởng thành và phát triển (1955 - 2020), dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp với nhiều giai đoạn cách mạng các thế hệ cán bộ, công chức của Phòng đã vượt qua mọi khó khăn thử thách của một huyện miền núi vùng sâu, vùng xa khu vực biên giới, tích cực làm tốt công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh và phát huy tối đa nội lực để từng bước đẩy mạnh các hoạt động xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ thuật vào thực tiễn của địa phương. Kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và địa phương mà các cấp ủy, chính quyền tin tưởng giao phó.

Trong những ngày đầu mới thành lập, điều kiện kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì khi đó vô cùng khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hầu như không có gì, tỷ lệ người dân mù chữ chiếm tới trên 90% dân số trong khi đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong huyện cực kỳ khó khăn do ảnh hưởng của chế độ thực dân phong kiến với chính sách “Ngu dân” để dễ bề cai quản, thêm vào đó giai đoạn này thực dân Pháp và bọn Thổ phỉ đẩy mạnh chống phá phong trào cách mạng nói chung và sự nghiệp phát triển của huyện Hoàng Su Phì nói riêng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền, đội ngũ cán bộ các thế hệ của Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để từng bước đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của huyện về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Góp phần tạo dựng lên một diện mạo hoàn toàn mới của huyện Hoàng Su Phì từ một địa phương nghèo vùng sâu vùng xa của tỉnh Hà Giang đã có bước chuyển mình vững chắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao về mọi mặt, cùng với cả nước vững bước đi nên trên con đường đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Trong suốt chặng đường 67 năm phấn đấu, trưởng thành và phát triển, có thể điểm qua một số dấu mốc quan trọng của Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện đó là: Từ chỗ cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật hầu như không có gì thì đến năm 1964 huyện đã có đường ô tô nối liền Quốc lộ 2 đến trung tâm huyện lỵ và huyện Xín Mần. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới đội ngũ cán bộ của Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng đã tham mưu xây dựng phương án sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, huy động dân công hỏa tuyến tập trung xây dựng hệ thống hầm hào, công sự, mở các tuyến đường và tải đạn dược, lương thực, thực phẩm lên chốt để phục vụ bộ đội chiến đấu.

Từ năm 1991 sau khi tỉnh Hà Giang được tái lập, với tinh thần năng động, sáng tạo, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiền thân của Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tranh thủ sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và tỉnh Hà Giang, đồng thời tăng cường phát huy nội lực với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển các công trình phúc lợi công cộng như điện, đường, trường học, trạm xá... đến hết năm 2000, toàn bộ các xã trong huyện Hoàng Su Phì đã có đường ô tô đến các trung tâm xã. Đến cuối năm 2010 toàn huyện có 100% xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm, trong đó có 48% xã có đường nhựa và đường bê tông; 100% thôn bản có đường giao thông xe cơ giới đến trung tâm thôn, trong đó có trên 50% số thôn có đường ô tô đi được đến trung tâm thôn; toàn bộ các xã, trị trấn trong huyện đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình trụ sở xã 02 tầng; 24/25 xã thị trấn có trạm xá 02 tầng. Đến năm 2020 toàn bộ các xã, thị trấn trong huyện đã có đường nhựa hoặc đường bê tông đến trung tâm; 92% số thôn có đường xe cơ giới đến trung tâm thôn, 198/199 thôn, tổ dân phố có Nhà văn hóa kiêm hội trường.

Lĩnh vực Công nghiệp, Thương mại, Dịch vụ cũng có nhiều bước tiến vượt bậc. Vượt qua những khó khăn bất lợi của một địa phương vùng sâu, vùng xa, các thế hệ cán bộ của Phòng đã linh hoạt, sáng tạo, biến khó khăn thành cơ hội phát triển. Tham mưu đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến, nâng cao chất lượng cho các mặt hàng nông lâm sản, nhất là các sản phẩm thế mạnh của địa phương như chè shan tuyết, thóc gạo, dược liệu... gắn với đó là việc tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại để tạo chuỗi giá trị, từ đó tạo dựng thương hiệu, nâng cao được giá trị các sản phẩm nông lâm nghiệp của huyện. Nhiều sản phẩm đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

Kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp qua 67 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì đã đúc kết một số bài học kinh nghiệm quý báu đcác thế hệ cán bộ, công chức tiếp tục có những cố gắng nỗ lực, đóng góp cho sự phát triển của huyện đó là:

1. Coi trọng việc quán triệt sâu sắc và kịp thời triển khai cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao

Thực hiện nghiêm chỉnh và triển khai kịp thời đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết, các chương trình, kế hoạch của Cấp ủy, chính quyền và ngành cấp trên trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Trong quá trình thực hiện phải vận dụng linh hoạt và phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương và của đơn vị. Làm tốt công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền xây dựng và ban hành những chương trình, kế hoạch, đề án, phương án cụ thể nhằm biến các chủ trương, đường lối, chính sách thành hành động cách mạng của Đảng, chính quyền vào thực tiễn của huyện. Thường xuyên tổ chức cho mọi đảng viên, cán bộ, công chức của đơn vị được học tập quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng linh hoạt vào thực tiễn công tác chuyên môn để đạt hiệu quả cao.

2. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và các đoàn thể. Đảm bảo đủ năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao

Phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng củng cố tổ chức Đảng, các đoàn thể vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị, kinh tế - xã hội của Đảng trong mọi điều kiện và thời kỳ cách mạng. Không ngừng đổi mới công tác sinh hoạt chi bộ nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Nêu cao vai trò trách nhiệm của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu Chi bộ, cơ quan chuyên môn và các tổ chức đoàn thể của đơn vị. Không ngừng đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tích cực nhân rộng các gương điển hình tiên tiến để tạo nên phong trào thi đua sâu rộng trong mỗi đảng viên và công chức.

3. Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngày càng trưởng thành và phát triển, đảm bảo đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới

Không ngừng chăm lo đào tạo bồi dưỡng, củng cố đội ngũ cán bộ công chức cả về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị để có đủ năng lực, lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Mọi cán bộ công chức phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Chính quyền và các sở, ngành cấp trên cũng như lãnh đạo đơn vị; thường xuyên trau rồi, nâng cao ý thức đạo đức cách mạng, nắm vững các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch và định hướng hoạt động của ngành, của Cấp ủy, Chính quyền và đơn vị cũng như các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từ đó cụ thể hóa vào thực tiễn công tác của mỗi cá nhân cũng như quá trình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.

Không ngừng quan tâm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là những đồng chí nắm giữ cương vị quản lý. Tổ chức tốt các hoạt động đào tạo, đào tạo lại và các chương trình tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là các chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành, các ứng dụng công nghệ thông tin v.v để trang bị những kiến thức, kỹ năng mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành. Gắn việc đào tạo bồi dưỡng với việc áp dụng kiến thức kỹ năng vào thực tiễn công tác để nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực tiếp cận hoạt động chính trị, xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp và các kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tăng cường giáo dục ý thức chính trị, mối đoàn kết và ý chí cách mạng, nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn không sợ gian khổ hy sinh cho đội ngũ cán bộ công chức. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ công chức phải có ý thức học tập nâng cao trình độ, không ngừng cải tiến lề lối, tác phong làm việc một cách khoa học. Không ngừng học hỏi nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác chuyên môn. Xây dựng tư duy, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của ngành phải làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương để tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, từng bước đưa hoạt động xây dựng phát triển của huyện Hoàng Su Phì có bước phát triển mới.

4. Phải làm tốt công tác tuyên truyền vận động, huy động được mọi nguồn lực trong nhân dân cho sự nghiệp phát triển của địa phương

Đúc rút những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như kinh nghiệm qua 67 năm trưởng thành và phát triển của Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì cho thấy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, bởi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Khi nhân dân đã hiểu được chủ trương, đường lối của Đảng và đồng lòng thực hiện thì mặc dù có nhiều khó khăn trở ngại nhưng có sức mạnh của quần chúng nhân dân thì mọi chủ trương đường lối của Đảng đều trở thành hiện thực. Đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật thì càng phải có sự vào cuộc của đông đảo quần chúng nhân dân với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Chú trọng khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân để họ nhận thức được ý thức trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp nhân lực, vật lực phục vụ cho việc tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Từ đó huy động được sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để tham gia vào công cuộc xây dựng phát triển của địa phương.

5. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Do đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ của Phòng Kinh tế & Hạ tầng được giao phụ trách các lĩnh vực quan trọng, mang tính chất động lực đối với tất cả các ngành kinh tế - xã hội khác, là một trong những yếu tố cấu thành của sự phát triển của huyện. Vì vậy, để phát triển đòi hỏi phải có sự quan tâm đầu tư rất lớn về nguồn lực. Thực tế cho thấy trong quá trình phát triển và trưởng thành của Phòng Kinh tế & Hạ tầng, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp luôn quan tâm đầu tư hỗ trợ, bố trí nguồn lực một cách tối đa trong điều kiện cho phép để Phòng có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là từ khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập, hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng đã được Nhà nước, chính quyền và các cơ quan, tổ chức quan tâm hỗ trợ, đầu tư xây dựng khang trang và ngày càng hoàn thiện đã tạo lên một diện mạo mới cho huyện Hoàng Su Phì. Nhiều sản phẩm nông lâm nghiệp từ khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ đã được khâu nối tạo thành chuỗi giá trị, nâng cao được giá trị cho các sản phẩm hàng hóa đặc trưng của huyện, từ đó đem lại thu nhập cho người dân. Mặt khác, các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ được tăng cường áp dụng vào thực tiễn đã góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao năng suất và chất lượng, tạo điều kiện cho người dân. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước và các Cấp ủy, chính quyền, các tổ chức cá nhân cần tiếp tục quan tâm đầu tư nguồn lực để xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Với truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm được đúc kết qua 67 năm của Phòng Kinh tế & Hạ tầng, đặc biệt là những bài học quý báu từ khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, có thể khẳng định rằng Phòng Kinh tế & Hạ tầng sẽ có bước trưởng thành mới trong những chặng đường cách mạng tiếp theo, tiếp tục thực hiện trọng trách là hạt nhân trong lĩnh vực Công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp; dịch vụ thương mại; giao thông vận tải; khoa học và công nghệ của địa phương, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân các dân tộc trong huyện và sự tin tưởng mong đợi của Đảng bộ, chính quyền huyện Hoàng Su Phì.

  

PHỤ LỤC

DANH SÁCH CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ,  PHÓ BÍ THƯ CHI BỘ QUA CÁC THỜI KỲ

 

I. Danh sách các đồng chí Bí thư Chi bộ qua các thời kỳ

1. Đồng chí Ngô Lê Lợi (7/2000 - 3/2005).

2. Đồng chí Trần Quốc Huy (03/2005 - 6/2005; 11/2009 - 10/2015).

3. Đồng chí Vương Kim Thành (7/2005 - 10/2009).

4. Đồng chí Vương Văn Thắng (11/2015 - 11/2016; 01/2018 đến nay).

5. Đồng chí Hoàng Đăng Thành (12/2016 - 12/2017).

II. Danh sách các đồng chí Phó Bí thư Chi bộ qua các thời kỳ

1. Đồng chí Vương Kim Thành (03/2005 - 05/2005).

2. Đồng chí Trần Quốc Huy (8/2005 - 10/2009).

3. Đồng chí Lò Văn Chinh (05/2020 đến nay).

 

DANH SÁCH CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO PHÒNG VÀ CÁC CƠ QUAN TIỀN THÂN QUA CÁC THỜI KỲ

 

I. Các đồng chí Trưởng Phòng Giao thông Vận tải

1. Đồng chí Vàng Dỉ Thàng (1955 - 5/1963).

2. Đồng chí Vương Tiến Ba (6/1963 - 01/1978).

3. Đồng chí Chúng Bắc Thông (2/1978 - 11/1981).

4. Đồng chí Đỗ Đức Có (12/1981 - 7/1982).

5. Đồng chí Ngô Lê Lợi (7/1982 - 10/1984).

6. Đồng chí Hoàng Văn Nam (11/1984 - 4/1988).

II. Các đồng chí Phó trưởng Phòng Giao thông Vận tải

1. Đồng chí Vương Tiến Ba (02/1960 - 5/1963).

2. Đồng chí Phúc Văn Toản (5/1975 - 6/1982).

3. Đồng chí Ngô Lê Lợi (9/1986 - 4/1988).

III. Các đồng chí Trưởng Phòng Xây dựng

1. Đồng chí Lù Văn Sạch (1958 - 9/1974).

2. Đồng chí Nông Văn Thượng (10/1974 - 11/1986).

3. Đồng chí Nguyễn Thanh Xuân (12/1986 - 4/1988).

IV. Danh sách các đồng chí Phó trưởng Phòng Xây dựng

1. Đồng chí Phúc Văn Toản (5/1965 - 5/1975).

2. Đồng chí Nguyễn Văn Chí (6/1975 - 10/10/1981).

3. Đồng chí Bùi Xuân Thu (11/1981 - 6/1984).

4. Đồng chí Nguyễn Thanh Xuân (7/1981 - 11/1986).

V. Danh sách các đồng chí Trưởng Phòng sau khi được sáp nhập và tái thành lập

1. Đồng chí Ngô Lê Lợi (5/1988 - 11/1991; 4/1993 - 3/2005).

2. Đồng chí Trần Quốc Huy (3/2005 - 11/2015).

3. Đồng chí Vương Văn Thắng (11/2015 - 11/2016; 01/2018 đến nay).

4. Đồng chí Hoàng Đăng Thành (12/2016 - 11/2017).

VI. Danh sách các đồng chí Phó trưởng Phòng sau khi được sáp nhập và tái thành lập

1. Đồng chí Trần Quốc Huy (2000 - 2/2005).

2. Đồng chí Vương Kim Thành (6/2005 - 7/2009).

3. Đồng chí Hoàng Văn Pao (11/2009 - 9/2010).

4. Đồng chí Lại Trần Hà (12/2011 - 10/2015).

5. Đồng chí Vương Văn Thắng (12/2011 - 10/2015).

6. Đồng chí Vương Thị Nga (4/2013 - 7/2017).

7. Đồng chí Lò Văn Chinh (5/2016 đến nay).

8. Đồng chí Trần Trung Sơn (9/2018 - 7/2021).

MỘT SỐ THÀNH TÍCH THI ĐUA TIÊU BIỂU

I. Huân chương

1. Huân chương kháng chiến hạng Ba của Chủ tịch nước tặng đồng chí Vương Tiến Ba - Nguyên Trưởng Phòng Giao thông Vận tải năm 1963.

2. Huân chương lao động hạng Ba của Chủ tịch nước tặng đồng chí Ngô Lê Lợi - Nguyên Trưởng Phòng Giao thông - Xây dựng năm 2010.

II. Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ

1. Tập thể:

 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng tập thể cán bộ, công chức Phòng Công thương năm 2012.

2.Cá nhân:

Bằng khen của Thủ tướng chính phủ tặng đồng chí Ngô Lê Lợi - Nguyên Trưởng Phòng Giao thông - Xây dựng năm 2009.

III. Bằng khen của các Bộ, ngành

1. Bằng khen của Bộ Giao thông Vận tải tặng tập thể Phòng Giao thông Vận tải năm 1964; tặng cán bộ nhân viên Phòng Giao thông Công nghiệp - Xây dựng năm 1996, 1997.

2. Bằng khen của Bộ Công thương tặng tập thể cán bộ, công chức Phòng Công thương năm 2010.

IV. Khen thưởng của UBND tỉnh Hà Giang

1. Tập thể

 UBND tỉnh tặng danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc các năm 2001, 2002, 2003, 2009, 2010, 2011.

2. UBND tỉnh tặng bằng khen đơn vị có thành tích xuất sắt năm 2009, 2011, 2012.

V. Khen thưởng của Ban Thường vụ Huyện ủy

1. Tập thể

Danh hiệu Chi bộ trong sạch vững mạnh các năm 2011 - 2013; 2006 - 2008.



[1] Dân tộc Nùng chiếm 38%; Dao 20,2%; Mông 12,6%; Tày 15,3%; La Chí 6,1%; Kinh 4,4%; Hán 1,25%; Cờ Lao 1,6,%; Phù Lá 0,3%; Cao Lan 0,14%; Mường 0,09%; còn lại là một số dân tộc khác chiếm tỷ lệ 0,07%.

[2] Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2017), Xuất bản năm 2020. Tr 79.

 

[3] Văn kiện Đảng tập 21. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002.

[4]Văn kiện Đảng tập 26. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002. Trang 619.

[5] Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ III diễn ra vào ngày 26/7/1964. Đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.

[6] Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XII, nhiệm kỳ 1971 - 1973, ngày 23/11/1971 của BCH Đảng bộ huyện.

[7] Văn kiện Đảng tập 47. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 859.

[8] Văn kiện Đảng tập 50. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 467.

[9] Văn kiện Đảng tập 50. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 470, 471.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét