Xem Phong thủy-Tử vi ở Hà Nội
NHẬN TƯ VẤN: Xem phong thủy Dương trạch tư vấn Nhà ở; Công trình; Văn phòng:Chọn hướng tốt. Phòng làm việc; phòng khách; bếp; phòng thờ; phòng ngủ; phòng tắm... hợp phong thủy. Xem tuổi Xây dựng nhà , sửa nhà; chọn ngày tốt để khởi công, động thổ; nhập trạch. Xem ngày khai trương.Âm trạch mồ mả tư vấn xem hướng đặt mộ hợp phong thủy, tư vấn đặt mộ trong nghĩa trang. Xem tuổi lấy chồng, lấy vợ. Xem ngày cưới,ngày ăn hỏi. Đặt tên cho con; Chọn năm để sinh con. Chọn số, biển số đẹp cho: ô tô; xe máy; điện thoại. Chọn màu sắc hợp tuổi và bản mệnh.Xem Tử vi để biết vận mệnh cuộc đời; dự báo ngày cưới; dự báo tang ma; dự báo công danh, sự nghiệp, thăng quan, tiến chức.Các đại, tiểu vận trong cuộc đời...Điện thoại: 036.439.6238
Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016
Khuyên Người Niệm Phật –Phần thứ 4
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM
LÂM TAI NẠN BÁC SĨ BÓ TAY: “CHỜ CHẾT” GIA ĐÌNH NIỆM PHẬT 3 NGÀY “SỐNG LẠI !”
Người sống kể lại : "Thấy ông nội vừa mới vãng sanh cùng đi với Quán Thế Âm Bồ Tát đến cứu sống”
LỜI GIỚI THIỆU: Cách nay 7 hay 8 tháng, chúng tôi có dịp điện đàm với Diệu Âm ở Úc Cả 2 chúng tôi
đều đồng ý với nhau là thời này trợ niệm đúng pháp theo Đại nguyện thứ 18 của đức Từ Phụ A Di Đà thì người
nguời đều vãng sanh hết. Chúng tôi có đưa ý kiến nhờ Diệu Âm viết một loạt bài. Diệu Âm than quá bận, trao
cho chúng loạt bài này tùy nghi xử dụng. Loạt bài chúng tôi đăng dưới cũng hợp với ý chúng tôi và xin cống
hiến chư liệt vị.
Cư Sĩ Tịnh Hải
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/1)
Kính gởi cô Lệ Tân,
Pháp môn niệm Phật là pháp rất khó tin, như trong kinh Phật nói là "nan tín chi pháp"! Chính vì thế, nói
ra mà người ta không tin tưởng là chuyện thường tình, không có gì xa lạ. Nhưng một người nào đó vừa mới nghe nhắc đến câu "A Di Đà Phật" mà phát tâm tu hành, ngày đêm cố gắng chấp trì danh hiệu để niệm, một lòng cầu nguyện vãng sanh thì thật sự là đặc biệt, nhất định không thể là người tầm thường. Những người này trong quá khứ chắc chắn đã cúng dường vô số đức Phật mà chúng ta không biết. Chính nhờ thiện căn vô cùng lớn đó mới tạo tín tâm vào pháp môn một đời thành Phật này. Nói như vậy, để cho cô Lệ Tân cùng quý cô bác
đang lập nhóm liên hữu ở thôn Cây Quân thấy rõ được rằng, nếu chân thành niệm Phật, chí kính lễ Phật, với đầy đủ niềm tin, tha thiết nguyện cầu vãng sanh, thì có thể biết được thiện căn của mình lớn lắm và xác định vị trí của từng người ở Liên Trì Hải Hội. Niệm Phật vãng sanh về Cực Lạc, dự phần ở ao sen thất bảo là điều chắc chắn, không thể sai lệch. Đây là lời Phật. Người nào quyết lòng theo đúng lời Phật dạy để tu hành, thì sự thành đạo ở ngay trong đời này. Diệu Âm xin thành tâm chúc mừng tất cả quý đạo hữu.
Mấy vấn đề của cô Lệ Tân đưa ra khá thực tế, rất hữu ích. Diệu Âm sẽ cố gắng nêu ra đây một vài ý kiến
cá nhân đã học hỏi được, rồi xin tùy duyên nhận xét, chứ không dám nhận lãnh tiếng "chỉ bảo" như cô Lệ Tân nói đâu. Vấn đề đầu tiên của cô Lệ Tân đưa ra có liên quan đến sự tụng kinh cầu an, cầu siêu, cầu tiêu tai giải nạn, tụng kinh báo hiếu mùa vu lan. Trong đó cô Lệ Tân có đưa ra các bộ kinh Pháp-Hoa, kinh Địa-Tạng Bổn Nguyện, kinh Đại Mục Kiền Liên báo hiếu v.v...
Đầu tiên, Diệu Âm xin thưa rằng, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, cầu sám... nào cũng tốt cả. Thành tâm
tụng niệm kinh điển của Phật đều có công đức, dùng công đức ấy hồi hướng cho ông bà cha mẹ, cho vong linh và hồi hướng cho chính mình vãng sanh đều được. Điểm chính yếu là công đức tu hành, công đức lớn thành tựu lớn, công đức nhỏ thành tựu nhỏ. Chúng ta muốn cứu độ vong linh, cứu độ cha mẹ, ông bà, hoặc đi hộ niệm cho người khác, đều có sự đóng góp công đức của chính mình đã tu được mà hồi hướng cho họ. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện có nói, khi hồi hướng công đức, thì người tu hành hưởng được sáu phần, còn người được hồi hướng hưởng một phần. Khi cầu siêu, cầu an, cầu tiêu tai giải nạn... nếu công đức của mình lớn thì vong linh được lợi ích lớn, công đức của mình nhỏ thì họ được lợi ích nhỏ. Do đó, khi lập đàn làm Phật sự, nếu càng được nhiều người tham gia cầu nguyện thì công đức hồi hướng càng lớn, vì nhờ sự đóng góp của nhiều người. Biết vậy rồi, muốn hồi hướng công đức cho người thân, chúng ta nên khuyên người trong gia đình tham gia càng đông càng tốt, vừa tỏ lòng hiếu kính vừa tạo thêm công đức gởi cho họ. Trong thư cô Lệ Tân có ý nghĩ rằng, cầu siêu thì đọc kinh Địa Tạng, cầu an thì đọc Pháp Hoa, trả hiếu cha mẹ thì đọc kinh Mục Kiền Liên v.v.. Điều này không có gì sai, vì đọc tụng các kinh điển Phật đều có sự lợi ích. Tuy nhiên, điểm chính yếu vẫn là công phu của mình. Nếu công phu thành thục thì có thể nói rằng, đọc kinh, niệm Phật, niệm chú nào cũng đều có quả báo tốt. Nếu công phu không có, hoặc quá yếu thì sự cầu nguyện khó có lợi ích lớn.
Công phu thành thục là người có lòng thành kính và tinh tấn chuyên tâm tu hành. Người có lòng thành tín,
có tâm lễ kính, biết y giáo phụng hành, trường kỳ chuyên tâm tu học thì người đó sẽ dễ đạt đến công phu thành thục. Người không thành tâm, tu hành không chuyên nhất, thích ôm đồm nhiều thứ thì thường chỉ thu lượm những kiến thức bên lề, dễ biến thành vọng tưởng, khó thâm nhập vào đạo pháp. Trong đó sự thành kính là chìa khóa khai đạo. Thành tất linh. Thành kính sẽ được linh ứng. Đây là điều tối quan trọng chúng ta cần nên chú ý. Xin kể ra đây một chuyện vừa mới xảy ra năm ngoái (2004) về một sự linh ứng bất khả tư nghì cho cô bác nghe. Câu chuyện do ông Lâm Tâm Nhuận, một thành viên trong Ban-Trị-Sự hội Tịnh Tông ở Sydney Úc châu kể lại về một sự có liên quan đến đứa cháu trai, con người anh thứ tư của ông. Khi đó, người cháu trai 29 tuổi, có vợ và một con mới 18 tháng, là nạn nhân trong một tai nạn lưu thông khá nặng vào ngày 28/2/2004 tại Mã lai.
Sau khi bị tai nạn, người cháu của ông được đưa về bệnh viện cấp cứu, nhưng đã bị chấn thương sọ não,
nên đã hoàn toàn mê man bất tỉnh. Trong suốt ba ngày liền bác sĩ Tây y và Đông y đều liên tục theo dõi và
chữa trị, nhưng sau cùng họ xác định rằng khó có hy vọng tỉnh lại, và báo cho gia đình biết rằng nạn nhân có thể ra đi bất cứ lúc nào. Biết được bác sĩ đã vô phương cứu chữa, người anh của ông quyết định đem con về nhà niệm Phật hộ niệm, việc sống chết quyết lòng giao trọn cho Phật Bồ tát gia trì.
Cháu ông được đưa về nhà và đặt nằm trong phòng thờ Phật. Trước thân thể bất động của con, người cha
đã khai thị như vầy:
- Con à, hiện tại, vì một tai nạn xe mà khiến con bị ảnh hưởng và lâm vào tình trạng vô cùng nguy kịch,
tánh mạng như chỉ mành treo chuông. Các bác sĩ ở bệnh viện đều phải bó tay chịu thua, cho nên ba mới đem con về đây niệm Phật. Nếu duyên thọ của con chưa dứt, thì hãy mau mau tỉnh dậy. Bằng ngược lại, thì ba đây vì con mà niệm Phật, niệm cho đến khi nào được đức Phật A Di Đà tới tiếp dẫn thì con mới đi. Bằng không, nếu có ai khác tới dụ dẫn con, con cũng mặc kệ, nhất định không theo. Nhớ lời dặn dò của ba và nương vào Phật mà liễu thoát sanh tử. Nhớ nhé! Nhớ nhé!
Nói xong, anh của ông bắt đầu đem hết tâm thành ra niệm từng câu Phật hiệu. Cả nhà cũng đều dốc lòng
kiên trì thành tâm hộ niệm. Họ thành tâm niệm Phật, khẩn thiết cầu Phật Bồ-tát gia bị. Tất cả đều niệm Phật nhiếp tâm đến nỗi dường như quên cả thời gian và thực tại bên ngoài. Họ cứ niệm mãi, niệm mãi... không ngừng. Niệm cho đến sáng ngày thứ ba, (nghĩa là thêm ba ngày nữa, tất cả là sáu ngày trong cảnh mê man bất tỉnh), thì đứa cháu ông tỉnh dậy, tỉnh hẳn như người bình thường và có thể trở lại sở làm việc. Thật bất khả tư nghì!
Ai đã cứu cháu của ông thoát cái chết. Ông viết tiếp:
-Tôi hỏi đứa cháu: "Trong lúc hôn mê con có thấy gì đặc biệt không? Con đã thấy gì, và đi đâu? Cháu tôi
kể ra hết, đặc biệt nó nói là nó đã thấy đức Quán Thế Âm Bồ tát (giống y như bức Thánh dung mà ba mẹ đang thờ trong nhà) nhưng cao lớn lạ thường. Ngài được vây quanh bởi nhiều Thánh chúng, xuất gia có, tại gia có, số lượng đông đến không thể kể hết. Và đặc biệt trong số đó nó thấy có cả ông nội nữa. Quán Thế Âm Bồ-tát tay cầm nhành dương liễu đã rảy nước lên người con ba vòng. Khi con vừa chợt phát khởi lên ý gọi Ngài, thì ngay lúc ấy con đã tỉnh dậy".
Câu chuyện này có thật sự, mới vừa xảy ra. Như vậy, tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể giải nạn,
thì niệm Phật cũng được tiêu tai giải nạn...
Cũng xin nói thêm là, người cháu có nhắc đến ông nội của anh ta đã cùng đến với Quán Thế Âm Bồ tát,
đây chính là cụ Lâm-Đạo-Truyền đã vãng sanh lúc 11 giờ 20, ngày rằm tháng 2 năm Giáp-Thân (2004), nghĩa là trước đó không lâu. Cụ đã biết trước ngày ra đi ba tháng và âm thầm chuẩn bị tất cả những gói quà cùng tiền bạc chia phần cho từng người, nhưng việc vãng sanh thì chỉ báo cho người nhà biết trước khi ra đi 30 phút.
Cụ nói cho người con trai trưởng biết rằng vào giờ phút đó A Di Đà Phật sẽ tới tiếp dẫn, rồi cụ an nhiên
nằm theo thế kiết tường vãng sanh, hưởng thọ 101 tuổi. Đây là chuyện có thật.
Một chuyện khác, vào tháng 7/2003, khi tôi về quê thăm gia đình. Trước đó một ngày có một người
trong làng vác cuốc ra đồng thăm ruộng, cô ta trượt chân té xuống bờ ruộng rồi bất tỉnh. Khi đem đến bệnh viện cấp cứu thì bác sĩ cho biết bị chấn thương sọ não, và không thể cứu lại được.
Khi đem về nhà cô vẫn chưa chết, rất nhiều người trong thôn hàng ngày tới thăm, than thở chia buồn, con
cháu trong nhà thì khóc lóc lu bù. Trong gia đình có người cháu trai cũng biết tu chút ít, có thiết lập bàn thờ và tụng kinh Địa Tạng.
Khi tôi tới thăm thì thấy cô đó nằm bất động trên giường, chỉ thấy còn thở nên biết chưa chết mà
thôi. Tôi khuyên mọi người nên niệm Phật hộ niệm cho cô, cầu Phật Bồ tát gia trì, nếu mệnh đã dứt thì được vãng sanh, nếu mệnh chưa dứt thì được tỉnh lại. Thế nhưng, không ai chịu nghe theo. Tôi nhìn thấy nước mắt cô cứ trào ra lăn dài xuống má, những người chung quanh phải thường xuyên chặm nước mắt cho cô và khóc cùng với cô. Nhìn thấy cảnh tượng quá thương tâm, nhưng tôi không có cách nào chuyển đổi tâm ý của mọi người, không đủ sức giải cứu cho cô.
Phàm con người ít ai chịu lo toan việc thoát nạn. Trong lúc còn khỏe mạnh thì buông lung, cứ nghĩ rằng
đời mình còn xuân xanh, còn nhiều may mắn cớ chi phải lo tu sớm. Đâu ngờ rằng, như cô đó, mới bước ra cửa thì không còn sức để bước trở vào, phải nhờ đến người khác, đem cái võng khiên xác về nhà, đặt trên chiếc chõng tre, nằm đó bất động mà chờ cái giây phút trút hơi thở cuối cùng.
Trước phút lâm chung, nghiệp báo hiện hành, oan gia trái chủ bủa vây trả thù, đòi nợ, chúng ngăn chận tất
cả các nẻo đường giải thoát, thẳng thắn ra tay chộp cổ người thân của mình lôi vào nơi khổ nạn mà không ai hay!
Tôi biết vậy, nhưng không biết cách nào để giải tỏa, không biết nói sao cho người ta tin, không đủ sức
giúp cô xa lánh đường hiểm ác. Thật quá tội nghiệp! Tôi bước ra ngoài, thì ở hè trước có bày một bàn tiệc nhỏ,
với vài tách trà, vài chung rượu. Một vài người đàn ông trong làng đang trò chuyện, rượu cũng đã thấm môi, đã
bắt đầu nói hơi lớn tiếng, có một vài lời phát biểu không kiêng dè gì đến sự đau khổ của nạn nhân đang đếm
từng hơi thở để ra đi. Đứa cháu trai thì lâu lâu tới ngồi trước bàn thờ tụng một phẩm kinh Địa Tạng. Tụng xong
rồi trở ra nhấm nhí chút rượu...
Tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có thể làm tiêu nhiều tai ương khổ nạn cho mình, cho người
thân, nhưng phải thành tâm, chí kính, phải tha thiết nguyện cầu mới được sự gia bị. Đọc kinh Phật còn giúp cho
những người còn đang sống hiểu được lời dạy của Phật, theo đó mà làm. Vạn sự đều do nhân quả. Vì vô minh
lầm lạc mà trong vô lượng kiếp nay ta tạo quá nhiều nghiệp chướng, hôm nay đọc đến kinh Phật hiểu rõ nhân
quả nghiệp báo ở địa ngục thì phải biết giác ngộ, phải sám hối tội lỗi, phải sớm bỏ ác làm lành, tạo nhiều công
đức để hóa giải nghiệp báo, chứ đâu phải tụng mấy câu kinh cho Phật nghe, trong khi tiệc rượu thì đang chờ dở
dang trước hè!
Hai câu chuyện có thật đã xảy ra, tương tự nhau, nạn nhân đều bị chấn thương sọ não bất tỉnh nằm chờ
chết. Một người đã được thoát nạn một cách thần kỳ ngoài sức tưởng tượng, một người đã gặp nạn còn chịu
nạn nặng hơn, giống như người rớt giếng còn bị đá rơi theo! Đây là những bài học quý giá giúp cho chúng ta ý
thức đứng đắn về sự tu hành. Tu hành chính là ở cái tâm chân thành thanh tịnh, chứ không phải hình tướng bên
ngoài. Người mà cứ mãi chạy theo cái danh hão huyền hư vọng của thế gian, thiếu niềm tin, thiếu thành kính
thì khó có sự cảm ứng đạo giao, không thể tiếp nhận được Phật lực gia trì.
Người có lòng tin, tha thiết nguyện vãng sanh, thành tâm niệm câu A Di Đà Phật thì một đời đắc được sở
nguyện. Còn tu theo những pháp không hợp căn, hợp cơ, không liễu giáo, thì như Phật nói: "Ức ức người tu
hành, khó tìm ra một người chứng đắc" vậy.
Trong kinh Địa Tạng, Phật dạy, trong đời sau người nào chỉ cần nghe danh hiệu của Bồ tát Địa Tạng, hoặc
đảnh lễ, ngợi khen, luyến mộ, vẽ hình, đúc tượng Ngài hoặc đọc kinh Địa Tạng... đều có phước báu vô lượng,
như thoát khỏi nạn tam đồ, được tái sanh vào các cõi trời, cõi người, làm được đế vương nhiều kiếp số để hưởng
phước báu.
Trong kinh này Phật cũng nói rất rõ về lý nhân quả báo ứng, giúp cho chúng sanh giác ngộ đường thiện
lành để tạo phước đức hầu tránh cái duyên địa ngục. Khi hộ niệm, nếu bệnh nhân bị nghiệp chướng hiện hành,
hoặc bị oan gia báo hại quá nặng, ta nên tụng vài biến kinh Địa Tạng để khai thị và giải nghiệp trước mắt cho
họ. Đây là điều rất tốt. Nhưng nên tụng trong lúc còn tỉnh táo hoặc sau khi xong tang sự, chứ không nên tụng
ngay giờ phút lâm chung.
Giờ phút lâm chung phải quyết lòng niệm Phật trợ niệm để giúp cho bệnh nhân vãng sanh trước đã. Mọi
chuyện khác sau đó mới được tính tới.
Như vậy, tụng kinh Địa Tạng có công đức to lớn vô cùng, được phước đức vô lượng, chúng ta không thể
xem thường. Nhưng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ Phật lại dạy, dù một người có làm
tội lỗi đến ngũ nghịch thập ác, nghiệp báo này nhất định phải bị đọa vào địa ngục A-tỳ, mà lúc lâm chung được
thiện tri thức khai thị chỉ điểm đường vãng sanh Tây Phương. Nếu người đó tin tưởng, biết thành sám hối,
thành tâm niệm Phật, niệm được 10 câu Phật hiệu "Nam mô A Di Đà Phật" cầu sanh Tịnh Độ thì vẫn được vãng
sanh, chứng bất thối chuyển, nhẫn đến đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
So sánh giữa hai sự lợi ích, một là phước báu nhân thiên, hai là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, thì vãng
sanh Cực Lạc thù thắng hơn quá nhiều, thật là "bất-khả-thuyết" công đức. Vì phước báu trời người dù lớn tới
đâu cũng chỉ giúp chúng sanh thoát khỏi tam đồ ác đạo, sanh trở lại làm người hoặc lên đến các cõi trời, vẫn
còn trong tam giới, chứ chưa thoát vòng sanh tử, chưa ra khỏi lục đạo.
Còn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì không những qua khỏi tam giới lục đạo, thoát ly được sanh tử
luân hồi, mà còn vượt qua khỏi thập pháp giới, trụ tại nhất chân pháp giới của Phật. Đây là điều bất khả tư
nghì, không lời nào tán thán cho xứng vậy. Hơn nữa, chúng ta cũng nên nhớ điều này, phước báu công đức dù
to lớn, có thể vượt thoát tam đồ trong đời, có thể hưởng lạc nhiều kiếp ở các cõi trời người, nhưng người có
phước phải biết cách gìn giữ cẩn thận mới có thể hưởng được trọn vẹn. Còn nếu sơ ý, đem công đức phước báu
ném vào hầm lửa thì đành phải phủi bàn tay trắng, đọa lạc cũng đành phải chịu đọa lạc. Ví dụ như người có bạc
tỷ, có thể sống trọn đời sung sướng, và dành lại cho con cháu thừa hưởng. Nhưng nếu dại khờ, đem tiền tung
vào sòng bạc một đêm thì có thể thua sạch. Phước báu bỗng chốc trở thành số 0 Bần cùng vẫn hoàn lại là bần
cùng mà thôi!
Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng có nói rằng, chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề khởi tâm
động niệm đều là nghiệp chướng. Tạo nghiệp chướng thì tiêu công đức, đã tiêu công đức thì làm sao giữ gìn
công đức cho trọn vẹn?! Do đó, dù phước báu lớn tới đâu mà còn kẹt lại trong lục đạo tam giới, thì không ai
dám bảo đảm tương lai sẽ thoát nạn, nhất là nay đã rơi vào thời mạt thế, càng ngày càng hiểm nguy! Chúng ta
cần chú ý đến điểm này.
"Đời mạt pháp ức ức người tu hành, khó tìm ra một một người chứng đắc", đây là lời Phật dạy trong kinh
Đại Tập. Tại sao vậy? Vì chúng sanh có quá nhiều nghiệp chướng, nhiều phiền não. Sinh ra trong thời buổi mạt
pháp, chúng ta nên tự biết rằng nghiệp chướng của mình nặng lắm, cái quả báo rất tệ hại chứ không tốt lành gì
đâu. Chính vì thế, con người dù có tu hành, nhưng đường tu thường gặp nhiều chướng ngại, nhiều khó khăn,
chứ không phải dễ dàng. Nói cho dễ hiểu hơn, tu hành thì có, nhưng không thể tạo nhiều được công đức để hóa
giải nghiệp chướng, nên nghiệp chướng càng ngày càng lớn, thành ra rốt cuộc con người phải theo nghiệp thọ
báo, chịu ách nạn nặng nề.
Người biết tu hành chân chính mà Phật còn nhắc nhở như vậy, huống chi là người không tu! Không chịu
tu hành thì quả báo của họ sẽ tệ hại biết chừng nào!
Một trong những yếu tố chính yếu tạo ra chướng ngại là vì tâm hồn đã bị ô nhiễm khá nặng! Ba chất độc
Tham-Sân-Si đã thấm nhiễm quá sâu, thành ra tư tưởng và hành động của con người đời nay xa lìa đạo pháp,
chạy theo thế tục, thích làm ác, ít làm lành, không chịu tu hành, không tin nhân quả. Thế giới ngày nay trọng về
khoa học kỹ thuật, tranh đua về vật chất nhiều hơn tu dưỡng tinh thần, thiện tri thức càng ngày càng ít. Người
muốn tu hành không biết ai để học hỏi, không biết đâu là chánh pháp để nương tựa. Đây thật sự là một chướng
ngại lớn cho chúng sanh trong thời này. Người thực tâm muốn tu hành thì lại thường bị lạc mất hướng đi, mù
mờ con đường giải thoát. Có người sau một thời gian tu hành đâm ra thất vọng, chán nản. Cái kinh nghiệm này
chắc có lẽ nhiều vị đồng tu cũng ít nhiều biết qua.
Thời mạt pháp tu hành bị nhiều chướng ngại lắm! Một người muốn tu hành, nếu sơ ý, không theo đúng lời
dạy của Phật, nhất là kinh điển đại thừa, thì dễ dàng bị lạc vào các đường hiểm ác. Nếu không bị lạc vào các
pháp tu tà vạy, thì cảnh nhẹ nhất cũng vướng vào chữ phước báu nhân thiên. Tiền tài, danh vọng, sắc dục... thực
tế, dễ thấy, nó có mãnh lực rất lớn, dễ làm cho con người tham đắm vào đó mà quên hẳn chuyện chứng đắc,
thành đạo. Người tu hành nên nhớ rằng, có phước không huệ thì giống như người đi đường có lương thực mà
không biết đường đi, lỡ lạc vào hang hùm rồi thì bị tiêu mạng. Lúc đó phước báu ai sẽ hưởng đây?
Người được nhiều phước báu là do trong nhiều đời nhiều kiếp trước có làm phước, bố thí, cúng dường,
chứ không phải là do sự mong cầu. Cầu phước là tham, là một trong ba thứ độc tố hại chết chúng sanh thê thảm
ở tam ác đạo. Nếu trong mệnh có phước, không cầu cũng có. Nếu mệnh có phước mà còn lo cầu phước nữa, thì
cũng được phước, nhưng với cái tâm này chắc chắn sẽ xa lìa đường tu hành. Không tu thì tạo nghiệp. Phước
càng lớn tạo nghiệp càng nhiều. Bây giờ sướng bao nhiêu, tương lai khổ bấy nhiêu. Đây là nạn tam thế oán vậy.
Biết vậy rồi thì cô bác chớ nên tham cầu phước báu nhiều quá, không tốt về sau. Có tu thì tự nhiên có
phước. Đừng cầu. Việc chính yếu là chúng ta phải nhắm tới sự chứng đạo giải thoát, quyết lòng ra khỏi tam
giới, lục đạo. Được vậy mới gọi là chứng đắc. Như vậy, ý nghĩa chứng đắc gần gũi nhất là phải thoát ly sanh tử
luân hồi. Làm sao thoát? Phật dạy: "Chỉ còn cách nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi",
(Kinh Đại Tập). Phải vượt qua cho được cái cửa ải này mới khỏi uổng công tu tập. Nếu không, dù hình thức có
đẹp cho mấy, lý luận có hay cho mấy, kiến giải có thông cho mấy, mà đường sanh tử vẫn chưa rõ ràng, sự thoát
nạn còn mờ mờ mịt mịt, thì tất cả sau cùng cũng chỉ là vọng tưởng mà thôi!...
Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Phật đã đưa ra giải pháp rốt ráo để một đời viên mãn đạo
quả. Niệm Phật thành Phật. Sự việc đã quá rõ ràng. Đường thoát nạn cho chúng sanh trong thời mạt tận này đã
quá minh bạch. Cứu cánh giải thoát đã được Thế Tôn xác quyết. Người nào muốn một đời này đắc đạo thành
Phật thì phải mau mau niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Người nào không chịu niệm Phật, không thèm nhờ Phật lực
gia trì thì khó lòng thoát khỏi trần lao, đành phải tham dự vào nhóm đại chúng đông đảo trong ức ức người kia
để tiếp tục nếm mùi khổ lụy trong vô lượng kiếp nữa chứ có cách nào khác hơn!...
Trở lại vấn đề tụng kinh, đã là kinh Phật thì tụng kinh nào cũng đều có công đức. Tuy nhiên, vì nghiệp
chướng quá nặng, những pháp tu hành bình thường không thể đối trị nổi với nghiệp chướng, nên phải bị nghiệp
chướng báo hại. Một trong những nguyên do chính là vì căn cơ của chúng sanh quá thấp, không thể tự khai mở
trí huệ. Không khai được trí huệ thì không thể đột phá vô minh, không thể đoạn trừ phiền não.
Ấn Quang Đại sư nói, người tự lực tu chứng, nếu nghiệp chưa sạch tình chưa không, thì phải trở lại trong
lục đạo để theo nghiệp thọ báo. Nói cách khác là không thể thoát nạn. Tu giới được định, nhân định phát
huệ. Giới-Định-Huệ là tam vô lậu học, là tổng cương lĩnh của Phật pháp. Nhưng thời mạt pháp, tự lực tu
chứng để đắc trí huệ bát-nhã không phải là chuyện tô son điểm phấn trên đầu môi!...
Hiểu được điều này, chúng ta mới thấy muốn vượt qua tam giới, thoát ly sanh tử luân hồi quả thật quá khó
khăn. Phật dạy, thời mạt pháp tâm trí chúng sanh hầu hết là trung-hạ căn. Nghĩa là, người dù cho thông minh
tài trí cao đến mấy đi nữa thì cũng chỉ là loại trung căn, còn bình thường đều thuộc về hạ căn. Người đệ tử Phật
nên thành tâm tiếp nhận lời Phật dạy, nên biết khiêm hạ xác thực căn cơ của mình, quyết lòng nương theo pháp
môn nhị lực mà niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, nhờ Phật lực gia trì để đới nghiệp vãng sanh, một đời này thành vị
Bất thối chuyển tại cõi Tây Phương hầu viên thành Phật đạo. Nếu không chịu nghe lời Phật dạy, thì coi chừng
suốt đời tu hành không ít khó khăn mà sau cùng cũng chỉ kết được một chút duyên lành với Phật pháp, còn
chuyện liễu sanh thoát tử vẫn xa vời mù mịt!.
Mọi pháp tu hành đều nhắm vào sự thành tựu cái tâm thanh tịnh. Tụng nhiều bộ kinh khác nhau tâm rất
khó được thanh tịnh. Trong kinh Phật, mỗi bộ kinh có rất nhiều thuật ngữ khác nhau, có nhiều thuật ngữ rất khó
hiểu thấu đối với người căn tánh chưa khai. Nhưng sự thực thì "đồng quy nhi thù đồ". Pháp môn tuy khác
nhưng cùng quy về một mục đích. Nhiều thuật ngữ tuy khác nhau nhưng ý nghĩa đều tương đồng. Phật thuyết
nhiều kinh vì căn cơ chúng sanh sai biệt, nói nhiều thuật ngữ khác nhau vì muốn phá chấp cho chúng sanh. Vạn
pháp giai không, thì thuật ngữ vẫn là không. Chúng ta không nên chấp trước. Pháp Phật chỉ là phương tiện dẫn
dắt chúng sanh tiến tới bờ giác mà thôi.
Bờ giác là một nhưng đường đi thì có khác. Kinh pháp là phương tiện, đại giác đại ngộ thành Phật mới là
cứu cánh. Đã là phương tiện thì phương tiện nào thích hợp nhất, thuận lợi nhất đối với ta thì cứ vững tâm, giữ
thẳng một đường mà tiến mới mong ngày tới đích. Nên nhớ rằng kinh Phật một lời vạn nghĩa, pháp Phật không
ở nơi danh tự mà phát xuất từ chân tâm. Phải tu tâm thanh tịnh trước để khai mở chơn tâm mới có cơ hội liễu
giải kinh Phật.
Làm sao khai mở chân tâm? Phải lo tu "Căn Bản Trí" trước, mới có được "Hậu Đắc Trí" sau. Nhưng thời
mạt pháp này có mấy ai có thể tự khai ngộ được?! Không thể tự khai ngộ, thì hãy chí tâm niệm Phật, dùng câu
Phật hiệu bao phủ nghiệp chướng, nhờ Phật cứu độ mà được đới nghiệp vãng sanh. Về tới Tây Phương, nhờ
Đức Di Đà gia trì thì liền được khai mở chân tâm, một đời thành đạo Vô Thượng. Như vậy không hay hơn
sao? Người tâm chưa khai mà cứ đi tra cứu để mong liễu giải kinh Phật thì dễ rơi vào tình trạng thiên chấp,
hiểu sai. Hiểu sai thì giải sai, giải sai thì thực hành sai. Vô hình chung, dễ đưa đến tình trạng càng tu càng lộn
xộn, càng phiền não. Chính vì thế tụng nhiều loại kinh điển thì tâm khó được định, công phu thường bị trở ngại,
không hay bằng chuyên tâm trì tụng một bộ kinh vậy.
Tu hành cần có phương hướng rõ ràng, có đường đi nhất định. Chỉ dựa theo một bộ kinh thì tâm mới dễ an
định, có an định mới thâm nhập vào lý đạo. Đây gọi là "tâm an lý đắc". Đừng nên lăng xăng tìm hiểu đủ thứ,
đừng nên tham cầu biết nhiều mà tâm bị tạp loạn, chao đảo hay bất tịnh. Một khi tâm đã loạn thì thường gặp
phải chướng ngại, rất khó tiến tu đạo nghiệp. Chuyên trì tụng một bộ kinh thì lời kinh càng ngày càng rõ, ý kinh
càng ngày càng sáng. Tín-Giải-Hành-Chứng các cảnh giới tự đó tuần tự tăng tiến.
Nhất kinh thông nhất thiết kinh thông. Đây là phương pháp của HT Tịnh Không hướng dẫn tứ chúng đồng
tu. Các đệ tử của Ngài đều y giáo phụng hành, chỉ cần một thời gian hạn hữu mà hầu hết ai cũng đều giảng giải
khá thông suốt kinh pháp. Mỗi vị tự chọn một bộ kinh để giảng, bất luận là tiểu thừa hay đại thừa. Nhất môn
thâm nhập. Pháp sư giảng kinh giảng đi giảng lại chỉ một bộ kinh, lần giảng sau bổ túc những khiếm khuyết của
lần trước, mỗi lần giảng cảnh giới mỗi mới, mỗi cao, tăng cao mãi...
Lúc đầu có người tưởng rằng các thầy này giảng kinh sao "nghèo" quá! Chỉ có một quyển kinh cứ lập đi
lập lại hoài. Nhưng nếu tạm xa cách họ một vài tháng rồi trở lại nghe, thì mới thấy không ít ngạc nhiên! Lời
pháp bây giờ đã vượt trội, cảnh giới đã thăng tiến không ngờ. Họ sẵn sàng trở thành "chuyên gia" thuyết kinh
giảng đạo cứu độ chúng sanh chứ không phải tầm thường. HT Tịnh Không, có đôi lúc, chỉ từ một câu kinh Ngài
giảng rộng bao trùm đến tam tạng kinh điển. Thật cảm phục!
Pháp sư giảng kinh nhất môn thâm nhập, thì đồng tu nghe pháp cũng nhất môn thâm nhập. Không ai có
khả năng nghe kinh một lần mà khai ngộ, thì nghe pháp cũng phải kiên nhẫn nghe đi nghe lại nhiều lần. Có vậy
mới thành tựu. Cảnh giới người giảng tăng cao thì người nghe cũng tăng theo, trên dưới đồng tiến. Tất cả đạo
tràng của Tịnh Tông thế giới, tứ chúng đồng tu, một năm 365 ngày chỉ tụng một bộ kinh duy nhất là Vô Lượng
Thọ Kinh. Những ngày cộng tu thì tụng kinh A Di Đà. Ngoài ra thì trì niệm bốn chữ "A Di Đà Phật". Nhờ nhất
môn thâm nhập, trường kỳ huân tu mà khá nhiều người thâm nhập được lý đạo. Họ thấy rõ đường đi, họ quyết
tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.
Kết quả thì, nhiều người đã vãng sanh, không ít người biết trước ngày giờ ra đi, lúc lâm chung đều được
trợ niệm cẩn thận, không ít người thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện thân tiếp dẫn. Khi vãng sanh, sắc
diện tươi đẹp, thân thể mềm mại, thoại tướng tốt lành, có hương, có quang v.v...
Những chuyện này chính tôi đã biết quá nhiều. Có những cuộc vãng sanh đích thân tôi đã hộ niệm, thoại
tướng vãng sanh hiển hiện rõ ràng trước mắt. Thật bất khả tư nghì! Có chứng kiến được, ta mới thấy lời Phật
dạy không sai: "Chỉ nương theo pháp niệm Phật mới thoát luân hồi".
Cô Lệ Tân thân mến, hãy nghĩ thử, mục đích tu hành của mình là gì? Nếu vì để thành tựu đạo quả, thì
vãng sanh về Cực Lạc, một đời bất thối thành Phật có phải là con đường ngắn nhất, dễ nhất và viên mãn nhất
không? Có phải là nó quý hóa đến muôn ức triệu lần hơn những cảnh ra đi khổ đau, mê mê hồ hồ, thả thần thức
cuốn trôi theo nghiệp báo không?!
Ngài Triệt Ngộ thiền sư đời nhà Thanh nói, "Nhất cú Di Đà, viên dung pháp giới". Một câu danh hiệu A
Di Đà Phật đã hàm chứa cả vũ trụ hư không pháp giới, có đầy đủ tất cả Phật pháp trong đó rồi.
Cũng trong thời nhà Thanh, Ngài Quán Đảnh pháp sư thì nói, thời mạt pháp tất cả kinh sám không còn đủ
khả năng, chỉ còn có câu A Di Đà Phật... Chư Tổ Sư Đại đức nói, một câu phật hiệu A Di Đà Phật là tất cả 49
năm thuyết kinh giảng đạo của Thế Tôn. Còn chính Phật thì dạy rằng, thời này chỉ nương theo pháp niệm Phật
mới xuất luân hồi. Thế mà, nhiều người cứ mãi chạy tìm pháp khắp nơi làm chi vậy?! Xin cô bác hãy sớm xác
định đường tu hành vững chắc, đừng bán tín bán nghi, lỡ đời này luống qua rồi, thì trăm ngàn vạn kiếp sau chưa
chắc sẽ có cơ hội gặp lại để bàn chuyện giải thoát đó!...
Niệm Phật thành Phật, hãy chấp trì Thánh hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật" niệm tới cùng thì đủ sức hoàn
thành tâm nguyện thành đạo Bồ-đề, cứu độ chúng sanh. Nhất định vững lòng một đường thâm nhập, kiên trì
chuyên tu để quyết đắc được thiện lợi.
Còn về việc tụng kinh, nên chọn bộ kinh đồng bộ với tôn chỉ tịnh tông để trì tụng là cách tốt nhất để hỗ trợ
cho phương pháp nhất hướng chuyên niệm. Trong pháp môn Tịnh độ, kinh Vô Lượng Thọ là đại kinh viên mãn
nhất được Ngài Tịnh Không đánh giá là đệ nhất kinh trong tam tạng kinh điển, trong đó Phật nói rõ 48 đại
nguyện của đức Phật A Di Đà, cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, và cách tu hành để vãng sanh. Nếu quý cô bác
tụng niệm được thì quá tốt. Nhưng kinh Vô Lượng Thọ hơi dài, nếu không đủ sức tụng, thì nên lấy kinh A Di
Đà làm khóa tụng hằng ngày. Kinh Phật thuyết A Di Đà là kinh đặc biệt trong tam tạng kinh điển, được chư
Phật mười phương đồng hộ niệm, gọi là "Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh", chứ không phải thường. Công
đức của nó khó có bộ kinh nào sánh bằng vậy.
Tụng kinh A Di Đà thì được mười phương chư Phật hộ niệm. Thành tâm niệm một câu A Di Đà Phật thì
phá được 80 ức đại kiếp sanh tử tội trọng. Như vậy hằng ngày ta cứ tụng một biến kinh A Di Đà rồi thành tâm
niệm Phật. Niệm Phật có tín, có nguyện, có hạnh. Nơi trang nghiêm thì niệm thành tiếng, chỗ không trang
nghiêm thì niệm thầm, đi đường thì mỗi bước chân mỗi câu Phật hiệu, khi nằm trên giường chờ ngủ thì hít vào
"A Di Đà Phật", thở ra "A Di Đà Phật", tiếng Phật hiệu theo hơi thở mà luân lưu bất tận, thì công đức ta tạo ra
hàng ngày sẽ lớn vô lượng.
Đem công đức ấy hồi hướng cho chúng sanh, hồi hướng oan gia trái chủ, hồi hướng cho ông bà cha mẹ,
hồi hướng Cực Lạc cầu vãng sanh thì chắc rằng sẽ được như ý. Đây mới chính là công phu tu hành tích cực,
chứ còn lâu lâu ngồi trước bàn thờ Phật tụng một biến kinh, giống như kiểu trả nợ, trong khi tâm hồn lại rối
bùng ben, nghĩ tưởng đủ thứ, thì làm sao có công đức để cầu tiêu tai giải nạn, cầu siêu, báo hiếu đây!...
Niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đạo cứu độ chúng sanh trong thời mạt pháp. Nói vậy xin cô bác đừng vội
hiểu lầm cho rằng, pháp niệm Phật bình thường, chỉ dành cho kẻ sơ cơ thấp kém tu hành trong thời mạt vận.
Thực ra, đây là pháp môn đại uy lực, đại phước đức, đại bát nhã, đại thiền định, đại trang nghiêm, đại thanh
tịnh, đại Bồ đề, đại siêu việt... mà ba đời mười phương chư Phật cũng chỉ dùng pháp này để độ khắp chúng
sanh, (kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, phẩm 1). Đây là pháp môn tam căn phổ bị, phàm thánh tề thâu, khế hợp mọi
căn cơ, trên từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến địa ngục chúng sanh đều được phổ độ.
Chính vì thế mà ngài Thiện Đạo đại sư nói, "Dù cho mười phương chư Phật đầy cả hư không pháp giới
hiện thân, phóng quang bảo bỏ môn Tịnh độ, rồi các Ngài truyền dạy pháp môn thù thắng khác, cũng không
dám vâng theo...". Vì sao vậy? Vì làm gì có chuyện này xảy ra! Nếu như có, thì đó chắc chắn là giả chứ không
phải thật!
Đức Thích Ca Mâu Ni đại diện mười phương chư Phật tuyên dương pháp niệm Phật là pháp tối thắng và
là pháp độc nhất mà mười phương ba đời chư Phật đều phải dùng để độ tất cả chúng sanh, thì có Phật nào lại
nói sai lời Phật.
Đại Thế chí Bồ Tát dạy, hãy đóng sáu căn lại cho tâm hồn thanh tịnh mà liên tục niệm Phật, cứ vậy mà tu,
không cần nhờ cậy vào các pháp nào khác thì tâm được khai mở. Các cô bác muốn được một đời này vãng sanh,
giải quyết ách nạn sanh tử khổ đau mà trong vô lượng kiếp đến nay chưa làm được, thì hãy tập buông xả hàng
ngày, mỗi ngày mỗi buông để gánh nghiệp chướng của mình càng ngày càng nhẹ. Nghiệp nhẹ thì phước
tăng. Phước này không còn là phước thế gian nữa đâu, mà là tư lương để giúp chúng ta vãng sanh thành Phật.
Buông xả tham sân si. Xả tham là xả phước thế gian để đổi lấy công đức. Đừng tham đắm danh vọng, tiền
bạc, nhơn nghĩa... nhiều quá. Các thứ đó mới thấy thì có lợi, nhưng thực tế thì có hại lắm đó, chớ nên tìm cầu.
Những sự đấu tranh, thị phi, ganh tỵ, mưu hại lẫn nhau là đại nhân chủng của địa ngục, quyết định phải từ bỏ.
Nếu thực sự muốn tu hành thì xin cô bác đừng nên đem những cái xấu của thiên hạ ra bàn. Ai xấu mặc họ, còn
ta hãy cố gắng giữ tâm thanh tịnh là tốt nhất. Những kiến thức thế gian, triết lý, tư tưởng, học thuật... nói lên thì
nghe hay lắm. Nhưng ít ai biết rằng, Phật nói, thế trí biện thông là một trong tám thứ của "Tam đồ bát nạn khổ",
vướng vào đó thì khó có ngày được giải thoát.
Giữ tâm thanh tịnh, khiêm nhường kính trọng mọi người, làm lành lánh ác, kiêng cữ sát sanh... Đã hiểu
được cuộc đời này chỉ là giả tạm thì mạnh dạn coi tất cả mọi chuyện đều bình thường. Vạn vật vạn sự chẳng
qua là sự diễn kịch trên sân khấu thì còn chấp nê làm chi nữa. Đó là tu phước. Chân thành niệm Phật, cung kính
lạy Phật, tha thiết cầu sanh Tịnh độ, đây là tu huệ. Cứ tu hành như vậy thì cảnh Cực Lạc sẽ hiện ra ngay trong
đời này, tại đây chứ có đâu xa. Ta đang sống chung với mọi người giữa cõi ngũ trược ác thế, nhưng tâm ta đã
hòa với tâm Phật, ta đã có sẵn chiếc vé để chờ ngày đi về Tây Phương thành Phật rồi vậy.
Thư chưa hết ý, nhưng xin tạm ngừng đây. Mấy vấn đề khác thư sau sẽ bàn tới.
Chúc cô Lệ Tân và quý cô bác tinh tấn niệm Phật.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư.
Viết xong tại Brisbane, ngày 24/6/2005.
Chuyên tu không gián đoạn, tức là thân phải chuyên lễ Phật A-Di-Đà không lễ các Phật khác; miệng phải
chuyên xưng danh hiệu Phật A-Di-Đà không xưng hiệu Phật khác hoặc tụng các kinh khác; ý phải chuyên quán
tưởng Phật A-Di-Đà không quán tưởng gì khác.
(Đại Sư Thiên Như, đời nhà Nguyên)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM
3 THỨ CHƯỚNG NGẠI CẦN BIẾT
PHIỀN NÃO, NGHIỆP CHƯỚNG, BÁO CHƯỚNG
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/2)
(Viết tiếp thư trước)
Kính gởi cô Lệ Tân cùng cô bác cộng tu!
Thời này tu hành có nhiều chướng ngại lắm. Chướng ngại có ba loại, một là phiền não chướng, hai là
nghiệp chướng, ba là báo chướng.
Phiền não chướng là tham-sân-si; Cô bác muốn tu hành cho thành tựu thì nên tìm cách giảm bớt ba chất
độc này, mỗi ngày mỗi giảm cho đến hết luôn mới trốn thoát ba cảnh đọa lạc. Tham lam là đường ngạ quỷ, sân
khuể là đường địa ngục, ngu si là đường súc sanh.
Nghiệp chướng là ngũ nghịch thập ác, sát đạo dâm vọng. Muốn tu thì cố gắng giữ năm giới, nhất là giới
sát sanh. Hãy giữ lòng từ bi thương mạng chúng nó, có thế thì ta dễ được thoát nạn.
Báo chướng là hậu quả bị đọa lạc trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phiền não nghiệp
chướng là nhân, báo chướng là quả. Nhân nào quả đó, nhân duyên quả báo không sai một ly một tấc.
Khi thấy được đường tu hành mới biết rằng trong quá khứ chính mình đã sơ ý tạo ra quá nhiều nghiệp ác
như giết hại chúng sanh, tham lạm công quỹ, chống báng Phật pháp, sân giận, đố kỵ, vọng ngôn, xảo ngữ, trộm
cướp, lường gạt, ganh tỵ, thị phi, v.v... nay gặp được Phật pháp mới hay quả báo này toàn là địa ngục, không địa
ngục thì ngạ quỷ, không ngạ quỷ cũng là đường súc vật thì sợ đến đêm ngày ăn ngủ không yên!
Đối điện với cảnh khổ mới thương hại kẻ bần cùng, nhìn thấy người chết mới lo buồn cho thân phận người
sống, nhìn cảnh tra tấn dã man trong địa ngục mới sợ hãi đến tương lai của mình.
Nhờ cơ duyên này mà nhiều người biết quay đầu sám hối không dám phạm tội nữa. Nhiều người phát khởi
tâm từ bi lo làm lành tích phước. Nhiều người khởi phát tâm bình đẳng, nguyện trả cho sạch nghiệp để mong
thoát cảnh tam đồ. Những người có những tâm nguyện này chứng tỏ đã biết tu hành, đáng khen! Nhưng nếu
những người này gặp Diệu Âm thì tôi sẽ bày cho họ một sự phát nguyện khác. Đó là hãy niệm Nam Mô A Di
Đà Phật và phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.
Vì sao vậy? Vì niệm Phật cầu sanh Cực Lạc là đới nghiệp vãng sanh, bất thối thành Phật. Cái điểm chính
là nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là cầu sám hối, cầu phước báu, cầu trả sạch
nghiệp...
Một chúng sanh phàm phu tội lỗi như chúng ta không thể nào mơ có ngày trả cho đến nghiệp sạch tình không!
Người biết sám hối nghiệp chướng, không dám phạm tội nữa thì rất tốt.
Nhưng đâu phải không làm tội mới thì tội cũ sẽ hết đâu! Đã ra tay giết hại người ta rồi, mối thù này là
mạng phải đền mạng, làm sao đền?
Người phát tâm tu hành làm lành tích phước là tu phước. Nhân tu phước thì có quả báo phước, còn nhân
đã gây tội trong quá khứ thì phải trả tội. Tội chướng chất chồng vô lượng kiếp chẳng lẽ mới đem vài đồng bố thí
là xong được sao? Còn người phát tâm bình đẳng, dám làm dám chịu, nghe qua thấy khá cảm khái, khá anh
hùng! Nhưng nhân duyên quả báo tơ hào không sai, giết một mạng phải đền một mạng!
Hỏi rằng ta có được bao nhiêu cái mạng để trả đến hàng vạn ức chúng sanh đã bị ta sát hại? Hôm nay ta
mới biết đường tu hành, nhưng có ai ý thức được cái số lượng tội lỗi do mình gây ra trong vô lượng kiếp qua là
bao nhiêu chưa?
Sống trong cảnh phàm phu ngu muội, ta tiếp tục tạo nghiệp mới, sát đạo dâm vọng mỗi đời mỗi tăng, trả
chỉ có một mà tạo hàng vạn, thì bao giờ mới thực hiện xong cái anh hùng tính này đây?!!!...
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, nếu nghiệp chướng của chúng sanh mà có hình tướng, thì hư không này
không còn chỗ chứa. Chẳng lẽ cam tâm ở lại trong chốn tam đồ lục đạo hàng vô lượng vô biên kiếp để chịu chết
đi sống lại trả cho xong nợ sao?
Giáo pháp nhiệm mầu của Phật là cứu độ chúng sanh vượt qua tam đồ lục đạo, thoát khổ được vui, vãng
sanh Tây Phương, chuyển phàm thành Thánh. Nếu một pháp mà bắt có nợ phải trả cho hết, có nghiệp phải báo
cho tận mới được giải thoát, thì bao giờ mới độ được một chúng sanh?
Độ là gì? Là chuyển phàm thành Thánh, là đáo bỉ ngạn, là vượt qua sanh tử. Chúng sanh đang tạo tội lỗi,
lặn ngụp trong sanh tử, đọa lạc, nhờ Phật lực gia trì mà được độ thoát. Đây mới thật là nhiệm mầu! Phật pháp
đâu có thể cay nghiệt. Luật pháp thế gian mà cũng không đến nỗi cay nghiệt như vậy, hà huống là pháp Phật lấy
từ bi làm gốc...
Cô Lệ Tân và quý cô bác ạ, nếu thực sự muốn tu hành, cô bác phải cần có nhiều lần tự phản tỉnh lại cách
tu hành để coi có gì sơ suất hoặc sai lầm không hay. Có rất nhiều người tu hành khá lâu năm, nhưng vẫn còn có
những ý niệm không chánh pháp, có những lời nguyện sai lạc! Nhiều người vẫn thường nghiên cứu kinh pháp,
nhưng những sự lệch lạc này chưa chắc đã nhận ra; Nhiều người hàng ngày có tới chùa tu học, nhưng chưa
chắc phát hiện được.
Trong năm vừa qua (2004), tôi có tiếp xúc với một vị, suốt một đời hầu như ở chùa tu hành, đã nói với tôi
như vầy, "Tôi nguyện rằng, kiếp sau tôi sẽ không bao giờ cúng dường cho chùa lớn, chỉ cúng cho chùa nhỏ mà
thôi. Chùa càng nhỏ tôi sẽ cúng dường càng nhiều. Người đời nay bất công quá, chùa lớn đã giàu mà lại cúng
nhiều, còn chùa nhỏ nghèo xác xơ thì lại cúng ít, nhiều khi không thèm cúng!".
Tôi hiểu được chút ít tâm trạng của vị đó nên khuyên rằng, thay vì chúng ta nguyện trở lại trong lục đạo
này để cúng dường, thì đâu bằng nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc để thành Phật cứu độ chúng sanh
không hay hơn sao?
Vị đó lại nói, "Cái gì cũng phải cần có nhân duyên, có lý có sự chứ! Có lý mà không sự thì đạt lý không
được. Có thực mới vực được đạo, không có ăn thì làm sao thành đạo!".
Nghe lời biện bạch đó làm tôi hơi giật mình! Chẳng lẽ thực sự có nhiều người suốt đời tu hành nhưng lại
âm thầm đi theo con đường riêng của họ, chứ không chịu nghe theo lời Phật dạy trong kinh điển hay sao?!... Lời
nguyện này có tác dụng như một "Dẫn Nghiệp", có thể đưa đến hậu quả là ta chịu cái "Mãn Nghiệp" ở trong lục
đạo.
Nhất thiết duy tâm tạo. Cảnh giới tương lai ở từ tâm nguyện mà thành. Chúng ta cần cẩn thận, không nên
dùng nó như chuyện thế gian thường tình để đối chọi với vài điều bất công riêng lẻ của người đời, hoặc phát lời
nguyện lệch ra khỏi quỹ đạo giải thoát mà lạc mất mục đích chính của việc tu hành, đưa đến hậu quả một đời
này dù có khổ công tu hành vẫn đành phải chịu luống qua oan uổng!
Chính cái nội tâm của con người tạo ra cảnh giới cho họ. Nếu tâm nguyện muốn thành Phật thì họ thành
Phật. Cái tâm muốn được có ăn thì họ trở thành người đi kiếm ăn. Một người muốn vãng sanh Cực Lạc để hội
kiến đức Di Đà thì tương lai họ sẽ thành vị A-duy-việt-trí Bồ-tát, một người cứ lo nghĩ chuyện thế gian thì
không thể nào thoát ly luân hồi sanh tử.
Người ở thế giới Cực Lạc có phước báu vô tận, mà ta ở đây cứ đắm tâm vào vài bó rau muống nhỏ xíu,
thì làm sao đủ sức để hưởng được cái đại phước báu bao trùm vũ trụ. Cảnh giới Tây Phương của A Di Đà Phật
là nhất chân pháp giới, mọi người đều có thần thông quảng đại, một tích tắc thời gian họ có thể đi tới khắp cùng
hư không pháp giới để dạo chơi, còn chúng ta ở đây cứ bám riết vào căn nhà lụp xụp không nỡ rời, cứ nghĩ rằng
cái làng nghèo nàn này là quê cha đất tổ, thì tương lai không đói cũng rách, không rách cũng nghèo, không
nghèo thì ngày ngày cũng phải kiếm ăn từng bữa đổ mồ hôi, sôi nước mắt... chứ có cách nào được du hí thần
thông, được du hành khắp chốn, hưởng vô tận an vui cực lạc ở cảnh Tây Phương!...
Một ví dụ khác, cách đây mấy năm, tôi có quen một người, cũng khá thân, anh là chủ một tiệm cắt may
gia công. Anh ta có tu hành, tính tình khiêm nhường, thiện lương. Một hôm anh gặp tôi và tâm sự rằng, "Tôi chỉ
làm cho đủ sống là được chứ không cầu làm giàu có gì đâu, tôi cũng cố gắng tu hành mong khỏi bị đọa lạc. Tâm
nguyện của tôi cho kiếp sau là không cần danh vọng, không cần sự nghiệp, chỉ là một người thất nghiệp nhưng
tôi nhất thiết không nhận một đồng tiền trợ cấp. Tôi cầu xin được làm người ăn mày thấp hèn và mong sao trong
đời mình giúp được cho một người, giúp một người thôi là cũng đủ mãn nguyện rồi...!".
Nghe nói vậy tôi mắc cười và nói với anh rằng, anh là người khiêm nhường, có lòng từ bi! Nhưng ở nước
Úc này không có người nghèo đói làm sao anh đi ăn xin? Tôi nói đùa thêm, nếu anh nguyện như vậy, lỡ chánh
phủ Úc nghe được, họ sợ tương lai ở xứ này có người ăn mày mà không cho phép anh định cư ở đây đâu...
Anh ta thật sự là một người hiền lành, chân thật, không bao giờ dám nghĩ đến lợi dụng ai. Lời nói của anh
thật chân thành, không kiểu cách. Nhưng có lẽ vì quá hiền lành mà thành ra thiếu sáng suốt! Tôi hiểu được tâm
ý của anh, tôi cố gắng phân giải với anh vài điều lợi hại trong lời phát nguyện. Tôi nói, đời này dù anh không
cứu được nhiều người chứ ít ra cũng giúp được một số công nhân có công ăn việc làm, giúp được vợ con anh
không đói khổ. Anh không cần cố gắng lắm nhưng ít ra cũng giúp ích được hơn một người, vậy mà xã hội này
vẫn còn nhiều người thất nghiệp, nhiều nơi khác vẫn cần đến sự giúp đỡ của anh. Nếu anh có tâm từ bi, muốn
giúp ích người khác bớt khổ, sao anh không nguyện thành người triệu phú, thành tỷ phú, rồi đem khối tài sản đó
đi bố thí giúp người thì có hay hơn không? Chứ còn anh muốn trở thành một người ăn mày, là kẻ tận mạt trong
xã hội rồi thì giúp ích được ai? Giả như, xã hội còn có những người cần đến một kẻ ăn mày giúp đỡ, thì những
người đó cũng là kẻ mạt tận còn tệ hại hơn giới ăn mày nữa, thì xã hội đó có tốt lành gì đâu! Chẳng lẽ đã thành
một người ăn mày mà mong cho có người còn tệ hơn kẻ ăn mày để mình có dịp thực hiện cái hạnh bố thí mà tốt
lắm sao!... Anh ta có vẻ hiểu thấu và làm thinh!...
Đi phải có đường, nhắm phải có hướng. Tu hành cũng vậy, ta phải xác định rõ rệt hướng đi, điểm đến, nếu
không thì đường tu hành của ta sẽ bị mông lung vô định hướng hoặc lạc đường! Trong kinh Viên Giác, Phật có
đưa ra vấn đề Liễu Nghĩa và Bất Liễu Nghĩa. Kinh bất liễu nghĩa là thuyết phương tiện chưa trọn vẹn. Kinh liễu
nghĩa là kinh nói đến giáo pháp chân thực cứu cánh. Nói cho dễ hiểu, liễu nghĩa là pháp tu hành thành Phật, bất
liễu nghĩa là các pháp tu hành chưa thể đạt đến quả vị Phật cứu cánh. Phật dạy, chúng sanh nên y theo kinh liễu
nghĩa, đừng nên theo kinh bất liễu nghĩa. Thành Phật chính là khai mở chân tâm tự tánh. Bất liễu nghĩa thì rất
nhiều, vì đó là pháp phương tiện dùng để dẫn dắt chúng sanh lạc đường quay về với đạo. Còn liễu nghĩa là mục
đích tối hậu, chỉ có một chứ không phải hai.
Niệm Phật là pháp môn thành Phật, là liễu nghĩa trong các pháp liễu nghĩa, là pháp môn ở ngoài tất cả các
pháp môn, đưa chúng sanh thẳng về cảnh giới Phật, gọi "Môn dư đại đạo". Chính vì chỗ này mà sự tu hành cần
nên chuyên nhất để thâm nhập thẳng vào cửa đạo, khai mở chân tâm. Ngài Tịnh Không nói rằng, pháp môn thì
vô lượng vô biên, nhưng quy tụ lại không ngoài ba cửa, đó là: Giác môn, Chánh môn, Tịnh môn.
Giác môn thuộc về pháp tu thiền định, trực chỉ nhân tâm để Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.
Đây là pháp tự lực tu chứng chỉ dành cho bậc Thượng - Thượng căn trong thời chánh pháp;
Chánh môn thuộc về giáo hạ, thông đạt kinh giáo để chứng cảnh giới Đại khai viên giải, đây cũng là pháp
tự lực, hợp với bậc Thượng - Trung căn ở thời kỳ tượng pháp;
Tịnh môn là pháp nhị lực, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, hợp cho cả tất cả mọi căn cơ, thích hợp với thời
mạt pháp. Đây là đại pháp để cứu độ tất cả chúng sanh viên thành Phật đạo trong một đời tu hành. Phật dạy,
đời mạt pháp phải tu tịnh độ mới thoát khỏi luân hồi, còn tu theo các pháp tự lực thì ức triệu người tu tìm không
ra một người đắc đạo. Như vậy, trong thời mạt pháp này, niệm Phật là pháp đại liễu nghĩa trong pháp liễu
nghĩa. Ta là người trung hạ căn nhất định phải y giáo phụng hành, tu đúng theo lời Phật dạy để được thiện lợi,
quyết lòng không dám tự kiêu ngã mạn mà tự hại mình triệu đời vạn kiếp trong lục đạo luân hồi sanh tử khổ
đau!...
Đã là hạng trung hạ căn thì trí huệ chưa khai mở, chưa đủ khả năng tự tu tự độ. Chúng ta rất cần sự gia trì
chư Phật, chư Bồ-tát. Có nhiều người tu hành, có tâm lượng rất tốt, phát tâm Bồ-đề cao cả, nhưng họ không ý
thức được đâu là năng lực của họ. Học đạo cần biết đến lý vô ngại, sự vô ngại. "Lý" thì hay(?), nhưng "Sự" bị
bế tắt thì việc làm sẽ biến thành vọng tưởng, không thể thực hiện. Đây cũng là một điều cần phải nghiêm chỉnh
xét lại.
Ví dụ, Tứ hoằng thệ nguyện của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Đây là cương yếu của sự phát tâm Bồ-đề. Nhiều người y theo Tứ-Hoằng-Thệ-Nguyện mà phát tâm đi cứu
độ chúng sanh, đoạn diệt phiền não, học nhiều pháp môn, để cầu thành Phật đạo. Tâm nguyện này tốt
lắm! Nhưng kết quả thì nhiều khi một điều cũng không thực hiện được! Tại sao vậy? Muốn hiểu tường tận kinh
Phật, chúng ta cần phải cẩn thận, nếu không sẽ dễ dàng giải sai chân thật nghĩa của Như Lai!...
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Người học Phật phải phát tâm nguyện độ chúng sanh, nếu không phát
tâm nguyện này thì tâm hồn quá hẹp hòi ích kỷ. Tu hành mà tự tư ích kỷ thì không thể thành tựu. Nhưng muốn
độ chúng sanh phải có phước báu và trí huệ đầy đủ, hay nói cách khác, phải có phương tiện và năng lực.
Phương tiện không có, năng lực chưa đủ để tự cứu lấy mình, thì làm sao độ được chúng sanh. Thấy một người
đang ngoi ngốp giữa sông, mình vội nhảy xuống cứu mà quên rằng mình không biết bơi thì thật là điều buồn
cười vậy! Do đó, một người chưa có năng lực độ lấy chính mình mà lo đi độ chúng sanh, nếu không dẫn chúng
sanh đi sai đường thì cũng bị chúng sanh "Độ" mất. Nghĩa là, nếu không hại người thì cũng hại ta! Nên nhớ,
"Độ" chúng sanh là thành tựu cho một chúng sanh thành Phật. Đường thành Phật chính ta chưa rõ thì làm sao có
thể hướng dẫn người khác thành Phật? Thề độ tận vô biên chúng sanh, mà trong khi chính ta chỉ là một chúng
sanh phàm phu chính hiệu, tương lai chưa chắc sẽ tránh khỏi đọa lạc, mà có tư cách độ chúng sanh tới bờ giác
ư?!...
Cách đây mấy năm, có một cô gái trẻ, khá thông minh, thường nghiên cứu nhiều kinh sách về cả triết học
và Phật học. Cô rất thích bàn thảo, lý luận về những triết lý cao siêu huyền nhiệm trong Phật pháp. Cô thường
đem theo mình một tập nhỏ ghi chép những tư tưởng cao siêu của các triết gia cả Đông lẫn Tây. Cô cũng rất sốt
sắng trong những chuyện xã hội, bố thí, gây quỹ, cúng dường.
Có một hôm cô đến bàn chuyện Phật pháp với tôi. Cô nói,
-Tu hành chính là làm lành làm thiện, cứu khổ cứu nạn và giảng giải Phật pháp cho chúng sanh. Đây mới
là tâm nguyện của Phật Bồ-tát, còn chú sao chỉ ở nhà niệm Phật hoài vậy?
Tôi nói, "Chú dở quá, không đủ khả năng!". Cô ta lại nói,
- Chú có biết Bồ-tát đạo là gì không?
Tôi nói, "Chú chưa phải là Bồ-tát, thành ra hành đạo Bồ-tát không nổi!". Cô ta trố mắt, không giữ được
bình tĩnh nữa và nói hơi lớn tiếng.
- Tu hành mà không lo cứu giúp người nghèo khổ, cứ ngày ngày niệm Phật cầu về Cực Lạc làm chi? Tìm
cách trốn đời để tìm chỗ hưởng phước, tu hành kiểu gì kỳ lạ vậy!...
Tôi mỉm cười và đành chịu thua cuộc! Cô nói cũng có lý lẽ của riêng cô, nhưng xét kỹ thì thật tội nghiệp!
Một người muốn hành Bồ-tát đạo, nhưng còn khá nhiều tập khí chưa phục được. Chính vì vậy, khi vừa gặp một
sự bất như ý nhỏ thì phiền não liền nổi lên, sân si không kềm nổi, khai khẩu nói ào, phạm phải tội phỉ báng pháp
Phật mà cô không hay!...
Niệm Phật là đại pháp cứu độ tất cả chúng sanh, chư Phật đều tán thán tuyên dương, người học Phật chân
chính sao lại dám khinh thường! Tình thật, tôi hơi lo sợ cho cô, vì quá nhiệt tâm vào việc bố thí, tu phước, mà
lại sơ ý cứ buông lời phỉ báng chánh pháp thì tội sẽ khá nghiêm trọng! Tu phước được phước. Với chút phước
báu hữu lậu thế gian làm sao cứu nổi cái "báo chướng" từ "nghiệp chướng" và "phiền não chướng" đã gây ra
đây! Giúp người phải biết tùy duyên, nếu cố phan duyên thì phiền não càng ngày càng nhiều, nghiệp chướng
cũng từ đó phát sinh. Tăng trưởng phiền não và nghiệp chướng thì quả báo không thể tốt được! Cứu người khó
lắm, phải lo tu cho tâm của mình thanh tịnh trước mới có thể giúp được chúng sanh. Nếu sơ ý, cứu người không
được mà còn gây thêm tội cho người, thêm tội cho ta vậy!
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Độ chúng sanh không phải là đem tiền giúp người nghèo khổ. Giúp
người nghèo khó chỉ là sự bố thí tài vật. Bố thí tài được giàu có, bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô
úy được khỏe mạnh kiên khang. Người đi thuyết kinh giảng pháp cũng chưa phải là độ được chúng sanh, đó chỉ
là sự bố thí pháp, nhiều khi chỉ là sự gieo duyên Phật pháp mà thôi!
Tổ Ấn Quang nói, giúp một chúng sanh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì công đức vô lượng vô biên,
thù thắng hơn việc gieo duyên Phật pháp cho hàng ngàn người. Chính vì vậy mà Ngài chủ trương, hãy xây dựng
những nhóm niệm Phật nhỏ, không quá 20 người, chí đồng đạo hiệp, quyết lòng niệm Phật, một đường cầu sanh
Tịnh độ để cho tất cả 20 người này chắc chắn được vãng sanh. Đây mới là một đạo tràng đại thành tựu.
Ngài Huệ Viễn Đại sư đời nhà Tùy lập ra Bạch Liên Xã tại đỉnh núi Lư Sơn, gồm 123 người cả xuất gia
lẫn tại gia, chuyên tu tịnh độ, chỉ có một đường đi là niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Kết quả 123 người đều
đã được vãng sanh. Ngài không cần độ đến tất cả chúng sanh. Ngài chỉ cần độ 123 người tu chung với Ngài
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, nhưng nhờ cái gương đó mà vô lượng chúng sanh về sau được độ thoát.
Như vậy, thế nào gọi là độ chúng sanh? Ngài Ấn Quang dạy, "khuyên người niệm Phật là giúp cho một
người phàm phu thành bậc Chánh Giác, công đức này vô lượng vô biên, đem công đức đó cầu sanh Tịnh độ thì
ắt thành Phật đạo". Lời của Tổ Sư đã quá rõ ràng minh bạch. Độ chúng sanh chính là: "khuyên người niệm Phật,
cầu sanh Tịnh độ".
Người ở nhân gian này khổ quá, người ở Cực Lạc sướng quá. Người ở Ta-bà bị đọa lạc, người ở Tây
Phương được siêu thoát. Người ở cõi ngũ trược ác thế hung hiểm xấu xa, người ở Tịnh độ đại thiện đại thánh...
Người nào có lòng từ bi hỷ xả, biết thương xót chúng sanh, thì hãy mau mau khuyên người niệm Phật, chỉ
đường cho họ đi thẳng về Tây Phương để họ sớm được hưởng Cực Lạc an vui, để họ thành Phật.
Đừng nên có những ý tưởng quá nông cạn, cứ khuyên người ta ở lại đây chịu khổ nạn đau thương. Đừng
thấy quyên được chút ít tiền còm, biếu tặng một vài người tượng trưng nào đó rồi cho đó là Tâm Bồ -đề cao
thượng, cứu được "vô biên chúng sanh".
Không phải vậy đâu! Đây là một việc thiện, nên làm, đáng làm, hãy cố gắng làm nhiều hơn. Nhưng nên
nhớ rằng, dù sao đây cũng chỉ là sự bố thí, tu phước, chứ không phải là cứu độ chúng sanh.
Giúp cho người một bữa cơm để cho họ no lòng rồi khuyên họ niệm Phật mới đúng hơn, chứ đừng sơ ý
khuyên họ bỏ đường thành đạo để lo đi làm phước mà đoạn mất đường giải thoát của họ, hoặc làm cho họ lầm
lạc mục đích tu hành để phải chịu vạn kiếp trầm luân. Sơ suất điều này sẽ gây tội không nhỏ, ta gánh không nổi
đâu!
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Phải đoạn phiền não. Nhưng làm sao đoạn đây? Nhiều người tu lâu
năm mà kiến-hoặc phiền não 88 phẩm chưa phá nổi được một phẩm, thì còn nói chi đến Tư-hoặc, Trần-sa, Vôminh?
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Nhưng có thể học hết được chăng? Đừng nói chi vô lượng pháp
môn, chỉ cần 8 vạn 4 ngàn pháp môn, giả sử một người tu 50 năm, muốn học hết thì mỗi năm phải tu tới 1.680
pháp môn, mỗi ngày phải tu 5 pháp môn mới, không được ôn lại pháp cũ. Hỏi rằng, ai có năng lực này?
Sự thật là, nhiều khi chỉ có một quyển kinh tụng đi tụng lại suốt năm cũng không thuộc, không hiểu nổi,
thì mơ chi tới cả ngàn pháp môn một năm! Khi nghĩ đến điều này, tôi mới giựt mình tỉnh ngộ ra câu: "Y kinh
giảng nghĩa, tam thế Phật oan". HT Tịnh Không thường nói, "... không được giải sai ý nghĩa chân thật của Như
Lai". Chúng ta cần nhớ đến lời nhắc nhở này.
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" là lời nguyện của Phật. Một phàm phu tội chướng tràn trề có tư cách
nào thực hiện được lời nguyện này! Như vậy, muốn độ chúng sanh ta phải thành Phật trước. Chưa thành Phật
chưa thể độ tận chúng sanh! Hoặc ít ra, cũng phải đoạn được kiến tư phiền não, đắc Thánh quả A-la-hán, chánh
tri chánh kiến, vòng sanh tử không cần vướng bận, lúc đó mới mong độ được chúng sanh. Đạo lý này thật
chính xác vậy.
Làm sao thành Phật? Hãy vãng sanh Tây Phương. Vãng sanh Tây Phương thì chắc chắn sẽ thành Bồ-tát
bất thối, thành Phật. Lời nguyện thứ hai là đoạn phiền não, nhưng diệt đoạn thì chúng ta làm không nổi, còn phủ
phục phiền não thì có thể được. Phủ phục phiền não bằng cách niệm Phật. Một tạp niệm khởi lên hãy nhanh
chóng niệm A Di Đà Phật. Bao nhiêu niệm khởi chuyển thành bấy nhiêu câu Phật hiệu. Niệm Phật liên tục,
niệm Phật trong bất cứ trường hợp nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, cứ niệm Phật tương kế thì câu Phật hiệu sẽ dễ
dàng bao phủ phiền não. Đây cũng là cách lấy chấp phá chấp. Chấp vào câu Phật hiệu giác ngộ để phá chấp
trước phiền não. Phủ phục phiền não là có thể đới nghiệp vãng sanh. Vãng sanh về Tây Phương, nhờ cơ duyên
thù thắng mà nghiệp chướng phiền não không thể hiện hành, tự nó sẽ tiêu tan. Như vậy thực hiện hai nguyện
đầu chỉ cần Tín-Nguyện-Niệm Phật là hoàn thành.
Vãng sanh được về Tây Phương, mỗi ngày chúng ta có thể biến hóa đi khắp mười phương cúng dường
chư Phật Như Lai, mỗi vị Phật chỉ giảng cho ta một pháp thôi, thì một ngày ta có thể học được vô lượng pháp
môn rồi, nhờ thế Phật đạo vô thượng chắc chắn sớm được viên thành. Như vậy, chân thành niệm Phật cầu sanh
Tây Phương thì chúng ta đã hoàn thành được đầy đủ Tứ-Hoằng-Thệ-Nguyện của đức Thế Tôn rồi.
Sự khai thị này tôi học được từ HT Tịnh Không, đã giúp tôi ngộ nhập được một chút ít đạo lý cho việc tu
tập. Cho nên, xin khuyên cô bác hãy tìm cách thân cận với thiện tri thức, nhờ thiện tri thức họ chỉ điểm, ta mới
có cơ hội khai ngộ. Chứ kinh điển của Phật có nhiều huyền nghĩa cao siêu mà vội vã đi tra cứu, tự tìm hiểu lấy,
thì rất dễ giải sai lắm vậy.
Trở lại vấn đề những chướng ngại của sự tu hành. Có nhiều vị đồng tu trong nhà chất cả một kho băng
giảng kinh thuyết pháp và kinh sách, thế mà họ vẫn cứ thường xuyên săn tìm pháp mới. Tôi không biết là làm
sao họ có đủ thời giờ để nghe cho hết đây? Trong khi đó, chính tôi, nhiều khi chỉ một bộ pháp mà tôi nghe đi
nghe lại hoài vẫn chưa hiểu thấu, còn cần phải nghe thêm. Thật sự tôi không có giờ để nghe nhiều pháp như họ!
Ở đây có một cô đạo hữu còn rất trẻ, chưa tới 30 tuổi, có gia đình, vừa mới phát tâm ăn chay trường niệm
Phật cỡ hơn một năm. Chồng của cô cũng phát tâm tu hành khá tốt. Trước đây anh ta rất thích đi câu cá để giải
trí. Một cần câu trị giá cả ngàn đô la, nhưng khi biết tu, anh đã bẻ liệng rồi. Bây giờ thì anh lại thích cúng
dường, bố thí, phóng sanh. Cô đạo hữu này nhiều lần tới gặp tôi, rồi nhờ tôi "Độ" giùm cha của cô. Cô nói, hầu
hết cả nhà của cô đã chuyển hướng tu hành, niệm Phật. Chỉ riêng cha cô thì nhất định không theo. Tôi ở Úc, cha
cô ở VN, hai nơi xa cách, thế mà cô cứ tới nhờ tôi "Độ!" giùm. Làm sao "Độ" đây? Có lẽ cô thấy tôi viết được
vài lá thư khuyên người niệm Phật, thì tưởng rằng tôi là Bồ-tát chăng? Xin thành thật thưa rằng, cô ta đã lầm
rồi, vì tôi dù sao cũng chỉ là thứ Bồ-tát bằng đất, qua sông tự mình giữ mạng không xong, làm sao có khả năng
độ người!
Cô thật là một người đáng mến, đáng thương, có tâm hồn hiền lành, hiếu thảo. Nhiều lần cô nói chuyện
với tôi mà nước mắt lưng tròng. Cô nghĩ tới cái cảnh người cha khó tránh khỏi khổ nạn trong tương lai mà
nhiều lần cô nghẹn ngào rơi lệ. Cô nói với tôi,
- Cứ mỗi lần em khuyên cha em niệm Phật thì bị cha chửi mắng. Cha em nói, cha em biết Phật pháp từ lúc
em chưa sanh ra kìa. Nếu muốn thì cha giảng cho nghe, chứ đâu cần gì em phải khuyên cha! Em sợ cha em cứ
cống cao ngã mạn như vậy mà sau này bị đọa lạc!...
Nói đến đó thì cô bậc khóc! Tấm lòng hiếu thảo, tâm địa thiện lương, tha thiết thương cha kính mẹ, có
nghĩa với anh chị em, cô đã làm tôi nhiều lần phải cảm động!
Những người trong gia đình cô, mẹ, anh chị em, chồng con... hầu hết cô khuyên được. Họ là những người
trước giờ chưa biết pháp, chưa biết tu hành, thế mà lại dễ chuyển. Còn người cha thì đã nghiên cứu quá nhiều
kinh pháp, sách vở, nhưng lại không chịu tu!
Có một chị đạo hữu khác cũng thường tới đạo tràng niệm Phật. Có lần, chị cảm thấy quá buồn tức, mới
đến tâm sự với tôi như vầy,
- Anh nghĩ coi, ảnh thì hiểu nhiều Phật pháp, nhiều lúc giảng Phậ pháp cho tôi nghe. Thế mà bây giờ thấy
tôi đi chùa, làm Phật sự thì ảnh lại la, không muốn cho tôi đi. Thật sự Phật nói không sai mà, khi phát Bồ-đề
tâm thì liền bị ma chướng. Nhưng tức một nỗi, con ma này lại là người trong nhà của mình!...
Nhiều chuyện kể ra giống như chuyện tiếu lâm, nhưng lại là sự thật! Những người nghe nhiều pháp lại tu
không được, đây đúng là điều buồn cười! Hay nói rõ hơn một chút nữa là, đời mạt pháp này nếu ham thích
nhiều pháp thì thường bỏ tu. Đây thật là những chuyện lắt léo, tiếu lâm! Vì sao vậy? Vì tâm mất thanh tịnh. Căn
cơ của chúng sanh trong thời này không đủ sâu để tiếp nhận giáo lý của Phật, không đủ năng lực để đi theo
đường giáo hạ. Nếu không phải là hàng thượng căn mà ham nghiên cứu nhiều pháp môn, nhiều kinh điển, sẽ dễ
bị mắc kẹt trong rừng thuật ngữ, mông lung trong biển pháp. Pháp giới mông huân, người căn tánh yếu, chính
họ đã không biết đường đi, nếu không gặp được thiện tri thức hướng dẫn chuyên nhất, thì nay người chỉ hướng
này, mai người khác dẫn hướng kia, mới đầu thì hay, nhưng sau cùng thì mù mịt! Nghe một pháp thấy một
đường, hai pháp thấy hai đường, nghe nhiều pháp thì trở thành mông lung ngỡ ngàng ở giữa vạn nẻo đường!
Đây chính là người kém phước vậy. Cuộc đời vô thường, số mệnh ngắn ngủi mà cứ chập chờn phân vân
vô định, cứ chạy cà rông để thỏa tánh hiếu kỳ, một mai tử ma gõ cửa thì ô-hô! Cơ hội nào nữa để hồi đầu!
Ngài Ấn Quang dạy, chí thành chí kính thật là pháp nhiệm mầu để thành đạo nghiệp. Chí thành nghe theo
lời Phật, hành theo lời Phật thì làm sao không đắc. Có thiện tri thức nào đáng tin hơn Phật. Phật dạy thời mạt
pháp phải tu tịnh độ, thế mà con người còn cứ chạy lung tung! Trong hàng chư Phật có Phật nào cao hơn Phật A
Di Đà. Đức A Di Đà phát thệ: 10 niệm tất sanh. Thế mà chúng sanh không niệm, lại chạy khắp đó đây để cầu
kiếm thêm chút ít kiến thức. Vì mê kiến thức thế gian nên đường công phu mới hững hờ, dang dỡ! Người chưa
có tâm thành kính mà hiểu biết nhiều pháp thường tự kiêu, cống cao ngã mạn, kém đức khiêm nhường. Những
khuyết điểm này nó phá hỏng tâm thanh tịnh, che lấp cái chơn như bản tánh. Ngài Tịnh Không nói, người
nghiên cứu nhiều, biết quá nhiều pháp môn không tin Tịnh độ, họ không chịu niệm Phật. Đây chính là hạng
người thiếu thiện căn. Những lời này mới nghe qua giống như chuyện tiếu lâm, nhưng quả thực như vậy. Quý vị
cứ thử đi tìm hiểu sẽ rõ.
Người đam mê đọc nhiều sách, muốn nghe nhiều pháp, muốn hiểu nhiều chuyện là vì chính tâm họ chưa
có một chỗ nhất định để an trụ, thành ra tâm hồn cứ chơi vơi, lạc loài. Không có định tâm, thì tâm đang ở trong
cảnh giới loạn động, hồ nghi, mập mờ, bất định. Họ thích sưu tầm những kiến thức thế gian bên ngoài để thỏa
mãn sự đói khát của tình thức mà cứ lầm tưởng là chân lý. Họ đâu biết rằng, Phật gọi, kiến thức thế gian là thế
trí biện thông, một loại sở tri chướng, cản trở sự thành tựu chân chính của người học Phật. Trong kinh Duy Ma
nói, thế trí biện thông là một trong "bát nạn" của người tu hành!
Trong kinh Kim Cang, Phật dạy, "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm". Nhiều người nói "Vô sở trụ" là không
trụ ở đâu hết, tâm để trống không. Nhưng tôi thì không đủ khả năng nghĩ vậy, vì nếu để tâm trống không thì
quá nguy hiểm, chẳng khác gì ngủ mê mà quên đóng cửa, lỡ kẻ xấu xâm chiếm vào thì tiêu mạng! Thành ra,
"Vô sở trụ" chính là trụ vào cái chơn tâm, trụ nơi tâm thanh tịnh của mình, đừng buông lung ra ngoài nữa. Tập
buông xả, đừng tham quá nhiều pháp, đừng cầu hiểu nhiều lý. Nên nhớ, tất cả đã có sẵn trong tâm rồi vậy.
Làm sao trụ vào chơn tâm? Cứ thành tâm niệm Phật, chí thành chí thiết cầu về Tây Phương. Một lòng
niệm Phật, tưởng Phật, đem tâm trụ vào câu danh hiệu Phật, trụ vào Tây Phương Cực Lạc, thì chơn tâm sẽ có
ngày hiển lộ. Đây gọi là "nhi sanh kỳ tâm" vậy.
Cũng xin đính chính rõ điều này, là chúng ta không nên "nghe nhiều pháp", chứ không phải nói: không
"nghe pháp nhiều". "Nghe nhiều pháp" là nay nghe pháp này, mai nghe pháp nọ, cái gì cũng muốn thâu lượm
cả. Người tu hành trong thời đại mạt pháp mà không chú ý đến điều này, thì như trong kinh Đại-Tập Phật nói,
"...ức ức người tu hành không có một người chứng đắc". Đây gọi là tạp tu, tạp niệm, xen tạp, một trong ba thứ
kỵ cho người niệm Phật. Niệm Phật phải không hồ nghi, không xen tạp, không gián đoạn, trong đó xen tạp là tối
kỵ trong tối kỵ, dễ đánh lạc tâm người niệm Phật mà mất phần vãng sanh. Còn "nghe pháp nhiều" là cách
chuyên tu, nhất hướng chuyên niệm, một pháp thực hành cho tinh thuần, nghe đi nghe lại cho thật nhuyễn, càng
nghe lý đạo càng thâm nhập vào tâm. Một pháp nhập tâm, thì tự tâm ta sẽ có tất cả pháp. Lục Tổ Huệ Năng nói,
"Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp", thật sự tất cả pháp ở trong chân tâm của chính chúng ta, chứ không phải ở
ngoài. Cứ đi thẳng một đường để khai tâm, khi tâm được khai sẽ tự nhiên thấy tất cả.
Cô Lệ Tân cùng quý cô bác thân mến, nói lòng vòng khắp nơi nhưng rồi chúng ta cũng quay về với câu A
Di Đà Phật. Có lẽ đây cũng là cái duyên của tôi. Nhiều người đọc được những lá thư "Khuyên Người Niệm
Phật" thì cứ tưởng chú Diệu Âm này giỏi lắm, hay lắm!... Nhưng thực ra, đó chẳng qua là sự cốp nhặt lời giảng
của các vị Tổ Sư, Hòa Thượng, Đại đức... rồi thuật lại mà thôi. Diệu Âm có lòng tin, biết đường niệm Phật,
nhưng công phu còn quá yếu, có nhiều lời thư còn thiếu chính xác. Chính vì thế tôi đã xin được gác bút tịnh tu
sau khi làm xong bộ Khuyên Người Niệm Phật. Nhưng hình như Diệu Âm còn một số duyên nợ, một vài vị
muốn tôi viết thêm, một vài đề tài có đề nghị tới.
Thỉnh thoảng cũng thường có thư của các vị đồng tu khắp nơi gởi tới hỏi việc. Có nhiều vấn đề khá cần
thiết đối với việc tu hành của họ, ví dụ như cô Lệ Tân đây chẳng hạn, thành ra tôi lại viết thư trả lời trở lại. Có
lẽ đây cũng là duyên với nhau. Thôi thì, nếu là duyên thì tùy theo duyên. Duyên của Diệu Âm là "Khuyên
người niệm Phật", "nhất môn thâm nhập, trường kỳ huân tu", cho nên, nếu có viết tôi cũng chỉ tiếp tục viết thư
"Khuyên người niệm Phật". Còn duyên còn viết, tùy theo duyên chúng ta khuyên nhau cố gắng niệm Phật cầu
sanh Tịnh độ. Hết duyên thì hết viết, hết nợ. Duyên nợ hết là cơ hội tốt cho chúng ta nguyện xin Phật A Di Đà
tiếp độ vãng sanh. Sớm về Tây Phương gặp Phật, nghe pháp, tận hưởng an nhàn khoái lạc không sướng hơn ở
đây sao...
Xin báo cho cô lệ Tân biết, ngày mai 8/7/2005 Diệu Âm về Việt Nam thăm gia đình, thời gian ở VN có
thể mấy tháng. Mấy lời thư này vẫn chưa trả lời hết những điều của cô Lệ Tân nêu ra trong thư, nhưng vì việc
cần gia đình nên đành phải gián đoạn. Còn duyên thì còn gặp, xin cô và quý cô bác chớ nóng lòng. Nếu có
duyên có thể gặp được ở quê nhà, còn không thì khi thuận dịp Diệu Âm sẽ viết tiếp để giải quyết vào mấy vấn
đề chính khác của cô sau. Diệu Âm xin hứa sẽ cố gắng trả lời rõ ràng và chi tiết theo khả năng riêng của Diệu
Âm.
Cầu nguyện cho cô Lệ Tân cùng tất cả cô bác đồng tu pháp hỷ sung mãn, tinh tấn niệm Phật. Đời này ta có
được thành tựu đạo pháp hay không đều do nơi lòng tín tâm vững mạnh, tha thiết cầu vãng sanh, và ngày đêm
không rời câu Phật hiệu của quý cô bác. Pháp niệm Phật dễ tu dễ chứng. Cố gắng xa lìa thế sự thường tình, ngày
ngày cầm chuỗi niệm Phật. Tin Phật, tưởng Phật, niệm Phật, cầu sớm về Tây Phương thì thành đạo dễ dàng
vậy.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư, (Viết xong tại Brisbane, ngày 7/7/05).
Tâm hay tạo nghiệp, tâm hay chuyển nghiệp, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh, mới hay
dẫn dắt thọ sanh. Nếu ta dùng tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì tịnh nghiệp mạnh. Tâm chú trọng, nghiệp mạnh
chỉ hướng tới Tây Phương, khi lâm chung quyết định sanh về Tây Phương, chẳng sanh vào nới khác.
Đại Sư Triệt Ngộ (đời nhà Thanh)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM
KHÓC LÓC ! MỐI NGUY HẠI
CHO NHGƯỜI LÚC LÂM CHUNG
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/3)
Cô Lệ Tân cùng quý đạo hữu!
Đời người thật ngắn ngủi, sống chết là chuyện thường tình. Có người coi cái chết nhẹ tợ lông hồng,
nhưng có người coi cái chết nặng hơn dãy núi Trường sơn. Người hiểu Phật đạo không sợ chết, họ an nhiên tự
tại vãng sanh. Người không hiểu Phật pháp họ sợ cảnh ra đi làm cho tâm hồn thường trực đối diện với nỗi hãi
hùng khủng bố! Chung quanh chuyện người lâm chung, trước đây có một vài đạo hữu có nêu lên vấn đề
chướng ngại do con cháu khóc lóc, người thân yêu trong gia đình không hiểu đạo gây ra sự ồn náo. Thư của cô
Lệ Tân cũng có nêu lên những khó khăn tương tự. Hai thư trước giải quyết một ít chuyện. Hôm nay Diệu Âm
xin cố gắng bàn đến những chuyện khá phổ biến này. Những chướng ngại này, nếu nhẹ thì làm mất phần siêu
thoát, nếu nặng có thể đày đọa người thân vào ba đường ác để chịu vạn kiếp khổ đau. Những chướng ngại ở
đây suy cho cùng thì thật quá oan uổng, vì nó chính lại là hậu quả của tình cảm, thương yêu mà vụng dại! Bình
thường, con người hẹp hòi, ganh ghét, đố kỵ mới hại nhau, đây là chuyện thường tình của thế nhân. Nhưng còn
thương yêu chân tình mà vô ý để đến nỗi phải gây hại cho nhau một cách thê thảm thì thật là điều quá đáng
tiếc!...
Ở đây chúng ta hoàn toàn không có ngụ ý nói về những chuyện tình yêu và thù hận hoặc những cảnh thất
tình lục dục của thế nhân, mà chúng ta đang nhấn mạnh đến những hành động lỗi đạo do sự thiếu hiểu biết về
Phật pháp gây ra. Trong thư cô Lệ Tân viết: "...có người cho rằng bố mẹ ra đi con cái phải khóc, không khóc
thì thiên hạ bảo là bất hiếu...". Cô đã đưa ra vấn đề rất hay, rất thực tế, rất phổ thông. Cứu khổ chúng sanh, cứu
nạn nhân loại, giúp người tránh khỏi đọa lạc... không phải là khoe trên đầu môi những điều siêu huyền diệu lý,
mà chính là giải tỏa những vấn nạn này đây. Diệu Âm sẽ cố gắng hết sức mổ xẻ vấn đề, mong sao cho cô bác
đồng tu biết thêm một ít điều lợi ích.
Đầu tiên, khi nghe được "Thiên hạ" còn nhắc đến hiếu, đây là điều thiện lành đáng mừng. Nhưng biết
được chữ hiếu và làm trọn chữ hiếu là hai chuyện khác nhau. Thường tình, người ta hay nói rằng, tu hành là
làm lành đừng làm ác, có lòng từ bi thương người là được. Nhưng thực ra, không phải quá đơn giản như vậy
đâu!
Tại sao vậy? Lời ngạn ngữ trong nhân gian thường nói, "Từ bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ lưu", đã lật
ra bề trái nào đó đầy phũ phàng, đau đớn! Đối với người lâm chung, thì ảnh hưởng của tình cảm lớn lắm, nó có
thể cứu một huệ mạng vượt qua ách nạn, cũng có thể đẩy một thần thức vào ba đường ác. Từ bi, lòng thương
yêu thuộc về tình cảm, chứ không phải lý trí. Từ bi gây nhiều tai họa, vì vậy chúng ta phải hết sức cẩn thận về
chuyện này, chớ nên xem thường mà vô tình gây đại họa cho nhau. Đầu tiên xin nhắc nhở rằng, lời ngạn ngữ
này hoàn toàn không có ý phỉ báng lòng từ bi thương người, hoặc chống lại việc làm lành tích thiện đâu, xin
đừng lạm dụng nó để làm điều sai trái, mà tinh thần của nó chính là nhắc nhở những người có tâm thiện lành
cần phải sáng suốt, minh mẫn. Từ bi cần đến trí huệ mới thật sự làm lợi ích cho chúng sanh, mới tránh điều họa
hại. Không có trí huệ thì coi chừng càng có nhiều phương tiện như: tiền bạc, thế lực, địa vị bao nhiêu càng gây
khổ nạn cho đại chúng bấy nhiêu!...
Chuyện đời xưa nay thiện ác nhiều lúc khó phân minh. Có những việc con người cho là thuần phong mỹ
tục, có đạo nghĩa... nhưng thực ra chỉ là mê tín, hủ lậu, bất nhân! Ví dụ, trên thế giới có nhiều dân tộc khi có
người chết, họ đem gạo, nếp, đậu... nhét đầy vào miệng, để cho người ra đi khỏi bị cảnh chết đói. Tệ hại hơn,
có lúc người bệnh chưa kịp chết, đã bị người nhà vạch miệng đổ đầy những thứ đó vào mồm làm cho nghẹt thở
chết luôn! Có chỗ họ đem tiền bạc dí vào tay, nhét vào túi để người chết xuống âm ty có chút tiền xài. Trước
đây vào thời đại vua chúa, có nhiều nơi khi nhà vua chết họ bắt người hầu cận, cung nữ chôn theo để hầu hạ cho
vua. Nhiều dân tộc họ phân chia tài sản chôn theo dưới mộ, bắt những kẻ nô tỳ chôn theo chủ nhân. Ngoài ra,
còn rất nhiều những tập tục bất nhân, như bắt người thả xuống sông tế thần linh để cầu mưa thuận gió
hòa... Những hình thức đó, làm sao gọi là thiện lành được? Thế nhưng vì mê muội, cố chấp, con người đã làm
điều tệ hại mà cứ cho là đúng!
Trong xã hội hiện nay, cũng đâu thiếu những tư tưởng, sinh hoạt lầm lạc! Ví dụ, nhiều người làm cha mẹ
vì thương con cái mà cưng chìu chúng thái quá, vô tình tạo nên những đứa con hỗn hào, vô lễ, ương
ngạnh. Nhiều cha mẹ muốn con cái lễ phép thì thường lại đi vạch ra những sai lầm của kẻ khác: con thấy đó,
gia đình kia vô lễ, mất dạy, xấu xa, vô giáo dục, là thứ hạ cấp, đáng khinh... con đừng gần với chúng nó!!! Lối
giáo dục kiểu này có thể tạo nên người tốt chăng, hay là chỉ tạo ra những kẻ xấu tệ trong xã hội?... Vạn vật vạn
sự luôn luôn có hai mặt: phải - trái, thiện - ác, trắng - đen... Dạy cho con cái điều phải thì chúng làm theo điều
phải, chỉ cho chúng thấy việc sai trái thì chúng cảm nhiễm việc sai trái. Làm điều thiện con cái sẽ noi theo điều
thiện, nêu ra điều ác con cái sẽ nhập tâm điều ác. Dạy con cái biết lễ phép thì đừng nên để chúng thấy những
cảnh vô lễ. Muốn được tính khiêm cung thì chính ta đừng biểu diễn tính cống cao, ngã mạn đối với mọi
người. Người có lòng từ bi, thương người, tính tình quảng đại mới làm gương mẫu tốt, chứ chỉ cho con cái thấy
những kẻ ích kỷ, hẹp hòi, đanh đá... làm chi?... Muốn con cái trở thành người tốt mà hàng ngày cha mẹ cứ
trương lên những cái gương xấu cho chúng nhìn, thì chúng không thể nào trở thành một đấng trượng phu
được!... Người lớn mà thường chỉ trích người này, chê bai người nọ, thì giới trẻ sẽ là kẻ thị phi, cạnh tranh,
ganh tị, ngạo đời... nói chung chắc chắn sẽ là giới hạ lưu trong tương lai. Cho nên, dạy điều tốt hoàn toàn
không có nghĩa là chửi bới điều xấu.
Làm cha mẹ đã khó, làm con cũng đâu phải dễ! Ví dụ, nhiều người con có lòng hiếu thảo, biết thương
cha mẹ, gặp khi cha mẹ bị đau bệnh là họ lo sợ cuống cuồng, cầu vái khắp nơi, giết heo giết gà đi cúng tế thần
linh cầu cho cha mẹ tai qua nạn khỏi. Họ tưởng vậy là có hiếu có nghĩa, nhưng thực sự là họ đang gây thêm
nghiệp ác cho cha mẹ, bắt cha mẹ phải chịu thêm quả báo xấu! Rõ ràng, từ bi thương người không phải là
không gây họa đâu!
Nhiều tình cảm, biết thương người, có lòng từ bi chưa phải là đủ! Người thế gian mỗi khi người thân
chết, họ khóc than, níu kéo, lay động, vạch mắt, vạch mồn... họ làm đủ cách trên thân người mới chết. Vì quá
nhiều tình cảm, quá thương tiếc người thân mà họ không đành lòng để người thân an lành nhắm mắt ra đi. Theo
như kinh Phật nói, những hành động này gây đau đớn vô cùng cho người chết về cả thể chất lẫn linh
hồn. Chính những hành động phũ phàng này tạo ra cái nhân chủng xấu dẫn đến sự đọa lạc cho người thân yêu
trong chốn đại hiểm nạn! Từ bi đa họa hại! Có hiếu, có tình, có nghĩa nhưng vô tình tạo ra hậu quả bất hiếu,
bất tình, bất nghĩa! Thật quá oan uổng!...
Như vậy, người tốt không phải chỉ cần lòng tốt là được. Người hiếu nghĩa không phải chỉ biết thương
cha mẹ là có hiếu đâu! Điểm chính yếu là việc làm của mình có đem lại hậu quả tốt hay không? Tốt thì thiện
lành, có hiếu. Xấu thì sai trái, bất hiếu! Người hiểu được Phật đạo mới nhận ra suốt vấn đề, mới mong trọn vẹn
được cái đạo làm người thiện lành vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, "Quên phát Bồ-đề tâm mà làm các việc thiện lành, thì đó là nghiệp của
ma". Bồ đề tâm là tâm giác ngộ. Quên phát tâm bồ đề là chưa có tâm giác ngộ. Chưa có tâm giác ngộ, dù có
làm việc thiện, thì nhiều lúc cũng biến thành ma nghiệp. Ma nghiệp thì tính chất của nó là tà vạy, hậu quả là tai
họa! Thế gian pháp và Phật pháp đều có lời cảnh cáo tương tự về sự thiện ác. Nhiều người tu hành mà tâm Bồ
đề không vững thì hướng tu dễ bị biến dạng. Nghĩa là, càng tu càng sai, càng xa đường chánh giác!... Lại có
nhiều người cho rằng, sống với đời ăn ở hiền lành là được, cần chi tu hành, cần chi hiểu đạo. Thực sự không
đơn giản như vậy đâu! Hiền lành mà thiếu sáng suốt, thường sanh chuyện hạ hưu. Làm việc thiện lành mà
thiếu trí huệ, rất dễ dàng tiếp tay cho tội ác!... tâm tánh thiện lành mà gây nên tai họa chính là vì chưa sáng suốt
nhìn thấu vấn đề, không lường trước cái hậu quả của việc làm đó thôi.
Chưa phát Bồ-đề tâm, chưa thể hoàn thành thiện pháp! Tâm Bồ-đề là tâm thành Phật, nếu tâm chưa biết
đường thành Phật, thì hãy lo tìm đường vãng sanh Cực Lạc để thành Phật trước. Nếu tâm chưa khai ngộ mà
chăm chú vào việc thiện, thì thiện nghiệp càng lớn, nợ sanh tử càng nặng, nó sẽ lôi cuốn chúng sanh lún sâu vào
luân hồi, khó có thể thoát ly tam giới!
Cho nên, làm thiện làm lành thấy vậy mà không đơn giản! Xin kể cho cô bác nghe về một câu chuyện
phát nguyện tâm, tốt thì có tốt, nhưng theo thì không nên theo! Tháng 8/2005 tôi về thăm VN, có một đạo hữu
gặp tôi tâm sự rằng, người thân của chị đã phát một tâm nguyện là đời đời kiếp kiếp xin được làm người để cứu
giúp người nghèo khổ. Chị hỏi, lời nguyện này có đúng không? Tôi nói, nếu thực sự là Bồ-tát tái lai thì có thể
đúng! Còn chỉ là kẻ phàm phu, thì lời nguyện này không đúng với lời Phật dạy. Phát một nguyện tâm không y
cứ vào kinh Phật thì coi chừng bị vướng nghiệp ma! Tại sao vậy? Mất phần vãng sanh!
Phật dạy thời này chúng sanh phải niệm Phật, nguyện sanh Cực Lạc để thành Phật, thành Phật mới có khả
năng cứu độ chúng sanh. Một người phàm phu chưa có năng lực tự cứu lấy mình, mà đòi đi cứu chúng sanh thì
đây chính là vọng tưởng! Dù lòng từ bi có lớn đi nữa, cũng vẫn là vọng tưởng! Không làm theo lời Phật để
thành đạo Vô Thượng, lại đi làm khác lời Phật dạy, đã không cứu được ai mà chính mình bị kẹt lại trong luân
hồi.
Tệ hơn nữa, nếu khuyên người khác chú tâm làm việc thiện mà quên mất đường về Tây Phương, thì thật
sự là sai lầm! Xin nghĩ thử coi, đánh lạc mất hướng vãng sanh của người, đoạn cái cơ hội thành đạo của chúng
sanh, thì đây là hành nghiệp gì? Xin quý đạo hữu thức tỉnh!
Thời mạt pháp, chân tâm đã bị vô minh che lấp, vọng tưởng nhiều. Sống theo vọng tưởng thì lạc mất
chánh pháp, gây nghiệp luân hồi. Trải qua một cuộc cách ấm, thần trí sẽ mê mờ và quên hết những gì xảy ra
trong quá khứ. Phàm phu thì sức định yếu, không đủ năng lực để giữ vững ý nguyện. Do đó, dù đời này có
phát tâm thiện lành, nhưng chưa chắc đời sau sẽ tiếp tục làm người thiện lành. Không định, không lực, không
đủ phước báu thì không chuyển đổi được hoàn cảnh. Ngược lại, sẽ bị hoàn cảnh chuyển xoay thành một thứ
con vụ quay cuồng theo vọng niệm của thế gian. Khi đó, lấy gì bảo đảm rằng ta sẽ giữ vững lý tưởng thiện
lành?
Vị đạo hữu đã phát nguyện đời đời kiếp kiếp ở lại trong cảnh người để cứu khổ cứu nạn. Đây là hạnh Bồ
tát, tốt đấy! Nhưng đáng tiếc, ta chưa phải là Bồ tát. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, "Nghiệp nhân quả
báo bất khả tư nghì". Nghiệp chướng của chúng sanh đều do nhân quả, chư Phật Như Lai cũng không cứu nổi,
thì kể chi đến kẻ phàm phu! Chính thế mới có câu, "Phật không độ kẻ vô duyên". Chúng sanh phải có duyên
với Phật mới mong có ngày được độ thoát. Hữu duyên chính là tin Phật và biết làm theo lời Phật dạy. Ta là
một chúng sanh mà không chịu y giáo phụng hành theo lời Phật, thì đành phải chịu làm kẻ vô duyên vậy.
Hơn nữa, nên nhớ cho, chúng sanh không phải chỉ có cảnh giới người. Và, cứu độ chúng sanh, như lời
Ấn Tổ dạy, là "giúp cho một chúng sanh phàm phu thành bậc Chánh Giác".
Muốn chúng sanh thành bậc Chánh Giác thì hãy tích cực khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, chứ
không phải là chạy lo chuyện bố thí. Bố thí giúp người chỉ là điều căn bản phải làm của người tu hành, chỉ là
một độ trong "Lục độ Ba-la-mật" của hạnh Bồ tát mà thôi, chứ không phải là mục đích chính trong giáo pháp
giải thoát của các đức Như Lai!
Rất nhiều người tu hành cốt để cầu phước, điều này không phải xấu. Nhưng làm lành hưởng phước là
đạo Nhân-Thiên, chứ không phải là đạo giải thoát, siêu việt tam giới, vĩnh ly sanh tử.
Người học Phật mà cầu xin chỉ được làm người, thì tâm đạo thật sự còn quá hạn hẹp, chỉ vương vấn trong
cảnh giới người, thì làm sao có ngày thành đạo Vô Thượng?
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy, người cầu hưởng phước báu nhân thiên không được vãng sanh.
Trong kinh Hoa nghiêm Phật nói, Vạn pháp duy tâm sở hiện, tâm còn tham đắm ở cảnh giới người, thì dù
tu hành có giỏi cho mấy đi nữa, cũng chỉ đầu thai trở lại làm người, tốt hay xấu còn tùy thuộc vào nhiều nhân
duyên, nhưng chắc chắn còn phải chịu trầm luân trong biển khổ, không thể thoát nạn. Đây là tự mình làm mất
phần thành đạo của chính mình, tự chọn con đường khổ hải trong tương lai!...
Làm thiện mà chấp trước vào việc thiện thì chưa phải là thiện! Phật gọi đây là "Hữu tướng tam luân",
(Kinh Tâm-Địa-Quán). Những người này lúc mới phát tâm thì khá tốt, nhưng vì nghiệp chướng phiền não chưa
đoạn, tâm chưa thanh tịnh, định chưa đủ để đối đầu với những thử thách phức tạp bên ngoài, thành ra sau cùng
thường gặp phải nhiều chướng ngại. Vì chấp vào việc thiện, nên dễ sinh ra: khó chịu, chỉ trích, phê phán, đánh
giá thấp những người ít làm thiện, hoặc ghét bỏ những người bất thiện, v.v... đây chính là cơ hội phát triển
những thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, hoặc phân biệt, chấp trước... làm cho tâm mất thanh tịnh.
Tâm đã mất thanh tịnh thì căn bản thiện đã bị mất. Căn bản thiện bị mất thì làm sao thành tựu đạo
nghiệp! Lục Tổ Thiền-tông Huệ-Năng dạy, "người tu hành chân chính không bao giờ nhìn thấy lỗi của kẻ
khác". Người làm thiện mà chấp thiện thường vướng phải cái lỗi này. Nói cách khác, người còn chấp lỗi kẻ
khác, ưa vạch điều sai lầm của người này người nọ, thì không có thể trở thành người tu hành chân chính được!...
"Tam-Luân" là người bố thí, kẻ được bố thí, phẩm vật bố thí. "Hữu Tướng" là còn so đo, ghi nhớ, tính
toán, hơn thua, cố chấp những việc đã làm. Làm thiện mà tâm cứ dính vào đó thì dù việc thiện có lớn cũng chỉ
tạo thêm nghiệp chướng của luân hồi chứ không có đường giải thoát.
Đại sư Tĩnh-Am, tổ thứ 9 của Liên Tông Tịnh độ Trung Hoa nói: "Việc thiện càng nhiều, sanh tử càng
lớn; một niệm tâm ái khởi lên, muôn kiếp bị trói buộc". Đây là lời nói khá thấm thía khi Ngài nghiêm khắc
cảnh cáo một vị cư sĩ suốt đời lấy việc làm thiện, bố thí, công quả làm chính, mà lơ là chuyện niệm Phật cầu
sanh Tịnh-độ.
Nói vậy, chẳng lẽ Tổ Sư xúi làm ác sao? Thưa không!
"Yếu vô phiền não, yếu vô sầu,
Bổn phận tùy duyên mạc cưỡng cầu..."
Điều chính yếu là tâm không bị phiền não, không buồn sầu khổ đau. Bổn phận cũng phải tùy theo hoàn
cảnh chứ đừng nên gượng ép. Người tu hành mà còn khó chịu vì chồng con chống đối, ảo não vì bị mất ngủ, lo
sợ vì bệnh hoạn nhiều, khổ tâm vì con cái chưa thành danh, buồn phiền vì sự nghiệp chưa thành, ái ngại vì chưa
giúp được ai, xấu hổ vì chưa làm được nhiều việc thiện, v.v... thì đường tu hành đã bị mất hướng hoặc bị lạc
đường rồi vậy. Dù có tu theo chánh pháp, thì dụng tâm cũng đã sai!
Tại sao vậy? Vì tu hành là để thoát khổ được vui. Nếu tu mà không vui thì đường tu làm sao đúng
được! Người tu mà không được vui, thì một trong những lý do chính là vì không chịu buông xả, cái gì cũng
muốn ôm đồm, cái gì cũng muốn trọn vẹn, cái gì cũng muốn xảy ra đúng theo ý của mình. Không buông xả thì
không tự tại thoải mái. Lòng tham chấp còn quá nặng thì tâm chưa được an trụ, không được thanh tịnh. Đây
chính là mẫu người chưa nhìn thấu chân tướng của vũ trụ nhân sinh, nên cứ cố chấp vào cảnh vô thường.
Muốn được thanh tịnh thì tâm phải an trụ trong chánh định, còn tất cả những thứ khác phải bỏ đi, hoặc ít
ra cũng biết xem nhẹ mới được. Chánh Định là an trụ trong lý tưởng chân chính của mình. Còn chạy xiên xiên
xéo xéo, gọi là Tà Định.
Làm sao an trụ trong chánh định? Người niệm Phật thì giữ tâm mình trong câu Phật hiệu là an trụ trong
chánh định. An trụ vào câu A Di Đà Phật, an trụ vào Tây Phương Cực Lạc. Tâm nguyện chỉ có một điều duy
nhất là được vãng sanh Cực Lạc để thành Phật. Còn tất cả những việc khác hãy xem nhẹ nhàng, phụ
thuộc. Như vậy thì còn có gì có thể làm cho ta buồn với khổ. Còn có "bổn phận" nào khác để cho ta cầu với
mong.
Làm thiện đừng nên chấp vào việc thiện, mới thật là thiện. Tùy duyên, chứ không phan duyên. Có cơ
hội, có khả năng thì gặp việc thiện hãy cố gắng hết sức mà làm. Không có cơ hội, không có khả năng thì cứ an
nhiên niệm Phật, đừng móng khởi niệm nào khác, đừng để gián đoạn câu Phật hiệu. Sự làm thiện này gọi là 'Vô
Tướng Tam Luân', "Tam Luân Không Tịch", hay là "Tam Luân Thanh Tịnh". Đây mới thực sự là đại
thiện. Làm thiện thì tốt, nhưng nên nhớ đừng để việc thiện trở thành một cái nghiệp. Đã là nghiệp thì dù thiện
hay ác vẫn là nghiệp, vẫn làm chướng ngại cho đường vãng sanh thành đạo.
Như vậy làm thiện làm lành có công đức hay không là do sự dụng tâm. Làm thiện, hãy lấy tinh thần:
"Làm mà không làm, không làm mà làm". Nghĩa là, làm mà không chấp, không tham, không khoe, không cầu...
Làm rồi quên chúng đi để cho tâm hồn thanh thản, ngày ngày niệm Phật, giờ giờ niệm Phật, đem tất cả công
đức tu hành được hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng về Tây-Phương trang nghiêm Tịnh-độ. Vừa
tu huệ vừa tu phước, phước huệ đầy đủ, thì đường vãng sanh Cực-Lạc sẽ phẳng lặng an toàn. Ví dụ, giả như
người cư sĩ suốt đời làm thiện kia mà dụng tâm được như vậy, thì có lẽ ngài Tĩnh-Am sẽ khen ông ta không tiếc
lời, chứ làm gì có chuyện chê trách...
"Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo". Giáo pháp của Phật là dạy
làm thiện, nhưng cái thiện này là đại thiện để thành tựu Bồ-đề được soi sáng bởi lý trí, còn cái thiện phàm phu
chúng ta làm là cái tiểu thiện thiên lệch, dụng tâm theo cảm tình. Chính vì dụng tâm theo cảm tình mà thường
bị mê muội, gây ra không biết bao nhiêu nỗi niềm đau khổ!
Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy: "Ngày đêm thường giữ tâm thiện lành, suy nghĩ về điều thiện lành,
và quán xét về những việc làm thiện lành". Ba điều này phải luôn luôn để tâm, nếu thiếu một thì việc thiện
không trọn. Giữ cái tâm thiện lành để không móng khởi ý nghĩ xấu ác. Suy nghĩ về điều thiện lành để làm lợi
ích chúng sanh. Và điều sau cùng, rất quan trọng, đó là quan sát, xem xét việc làm của mình thực sự có thiện
hay không? Việc này phải cần đến trí huệ mới làm được.
Nhưng hỏi rằng, làm sao biết mình đã có trí huệ hay chưa? Xin thưa rằng, đã hỏi tức là chưa có! Chưa
có trí huệ thì tự ta chưa thể quán sát việc thiện lành một cách chính xác. Nghĩa là, nhiều khi một việc ta cho là
thiện, nhưng thực chất lại là ác. Nhiều thói quen ta cho là tốt nhưng xét kỹ lại là xấu. Nhiều tập tục nhân gian
cho là hay nhưng lại là điều quá dở. Vậy thì, phương cách tốt nhất cho người đệ tử Phật chân chính là dựa vào
lời Phật dạy mà hành sự. Phải lấy kinh Phật ra để y giáo phụng hành, lấy lời chư Tổ Sư ra làm mẫu mực. Đó là
chỗ y cứ căn bản nhất, an ổn nhất và vững tâm nhất để tu hành trong thời mạt pháp này.
Học Phật hãy quyết lòng nghe theo Phật, không nghe theo người. Trên đường tu hành, gặp bất cứ một
người nào, dù chức phận, địa vị, danh tiếng cao tới đâu, nhưng những điều họ nói ra không có trong kinh Phật,
xin cô bác chớ nghe theo. Những lý luận hay ho, những triết lý cao siêu, những sự thuyết giảng bóng bẩy...
nhưng chỉ dựa theo tri kiến cá nhân, không y cứ vào kinh điển, chúng ta chớ vội tham đắm. Thời mạt pháp, thế
gian nhiễu loạn, thường phát sinh những sự cám dỗ khá lòe loẹt... xin chư vị đồng tu cần phải cẩn thận, không
nên hiếu kỳ. Ví dụ, Phật dạy chúng sanh niệm Phật, nếu người nào bảo đừng niệm Phật thì ta biết người đó đã
tự đi đường riêng của họ, ta không theo. Phật dạy nguyện vãng sanh Tịnh-độ, có người dạy chỉ cần giữ tâm an
lạc là được, không cần cầu vãng sanh, thì họ đã không theo con đường thẳng tắt thành Phật, khó có thể có được
cơ duyên vãng sanh, v.v... Phải chủ tâm đề phòng, nếu không chúng ta sẽ rất dễ vướng vào cái bẫy của luân hồi
mà ân hận không kịp.
Phật dạy, "Y pháp bất y nhân". "Y pháp" là đúng theo chánh pháp để tu tập. "Bất y nhân" là không theo
tư tưởng, cách nghĩ, cách làm của ai cả. Tất cả phải lấy kinh của Phật làm ấn chứng. Đúng theo kinh Phật thì ta
tán thán, không đúng theo kinh Phật thì ta "kính nhi viễn chi". Phải như vậy, chúng ta mới giữ vững được
chánh đạo, bảo đảm những điều mình làm là chính xác, thật sự thiện lành.
Thôi chuyện thế gian thì nhiều lắm và rối ren lắm, hãy trở lại chuyện chính yếu của chúng ta, chuyện
niệm Phật thành Phật.
Pháp môn niệm Phật là chánh pháp của Phật ứng hợp với thời kỳ mạt pháp này để cứu độ tất cả chúng
vãng sanh về nước Cực-Lạc, một đời siêu vượt tam giới lục đạo, vĩnh ly sanh tử luân hồi. Phật dạy, thời mạt
pháp mà chúng sanh không niệm Phật, thì ức ức người tu cũng khó tìm ra một người chứng đắc.
Cô bác đồng tu hãy nhớ đạo lý này mà quyết định đường tu để cứu lấy huệ mạng của mình. Huệ mạng
chính là thần thức vô sanh vô tử của ta chứ không phải là cái thân xác này đâu. Xác thịt này là cái thân nghiệp
báo trong đời này, nó sống lăn lóc khổ cực mấy chục năm, trăn qua trở lại để kiếm ăn từng bữa đói bữa no rồi
chết, thế thôi!
Đời này khổ, chúng ta phải chịu khổ, đó là nghiệp ta đành phải chịu. Nhưng cái khổ này chưa thấm thía
gì đâu, đến lúc chết rồi cũng không phải hết, trăm ngàn lần xin cô bác đừng lầm lẫn mà ân hận về sau!
Vậy thì, phải có đường giải thoát rõ rệt sau khi mãn cái báo thân này. Đường đó chắc chắn là vãng sanh
Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu không quyết lòng cầu sanh Cực-Lạc, thì coi chừng chúng ta phải chịu khổ đến ngàn
vạn lần hơn cái khổ của hiện tại và trải qua hàng vạn đời vạn kiếp, chứ không phải thường! Dễ sợ lắm, kinh
khủng lắm!
Đọc thư của cô Lệ-Tân, có những vấn đề đưa ra rất hay, rất thực tiễn, rất phổ thông. Phân tích những vấn
đề này có thể sẽ thành những ấn tượng sâu sắc, lợi ích cho nhiều người. Trước đây cũng có một số vị đồng tu
đưa ra, nhưng chưa được bàn tới. Hôm nay mượn lời thư này Diệu-Âm sẽ cố gắng giải bày cho cô Lệ-Tân và
chung cho quý vị hữu duyên khác.
Cô viết: "... việc hộ niệm khó quá, nó mới mẻ quá, có người chấp nhận, có người lại cho rằng bố mẹ ra đi
con cái phải khóc, không khóc thì thiên hạ bảo là bất hiếu...".
Việc hộ niệm xin gác lại thư sau sẽ bàn tới. Trong suốt bộ "Khuyên Người Niệm Phật", tập 1, 2 và 3 đều
có đề cập đến việc này, dù rằng chưa được đầy đủ lắm, nhưng cũng khá cần thiết, xin cô bác đọc thêm vài
lần. Thư tới chúng ta sẽ bàn thêm sau.
Về chữ hiếu, trước đây cũng có một vài đạo hữu đề cập đến. Nay xin trả lời chung. Chữ hiếu thực ra chỉ
có trong nền văn hóa Á-Đông, chứ bên Âu-Mỹ không có chữ hiếu, họ không đặt ra tinh thần hiếu đễ hoặc bổn
phận làm con rõ rệt như người Á-Đông. Bên Âu-Mỹ chỉ có triết học, ta thường gọi là Triết-học Tây-Phương,
thiên về tư tưởng luận lý có tính cá nhân, phát triển khá mạnh về khoa học, kỹ thuật, vật chất kinh tế. Còn nền
văn hóa Á-Châu thuộc về triết lý sống, có truyền thống đạo đức nhân sinh lâu đời, hay gọi là Đạo-học ĐôngPhương, mạnh về tinh thần, nhắm đến sự tương quan giữa con người với vũ trụ và pháp giới.
Trong đó, Phật-học, Lão-học, Khổng-học, gọi là "Tam-Huyền-Học", ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần và
văn hóa Á-Đông. Trong Đạo-học Đông-Phương rất đề cao chữ hiếu. Đây chính là điểm nổi bậc, làm cho nền
văn hóa Á-Đông có giá trị, được tôn thành bậc thầy tinh thần cho loài người.
"Hiếu dưỡng phụ mẫu" là điều căn bản đầu tiên trong 11 điều tu phúc của chư Phật. Phật giáo là đạo dạy
hiếu thân, tôn sư. Người học Phật không thể bất hiếu được. Như vậy, phận làm con phải có hiếu thảo, phải trả
hiếu đối với cha mẹ. Nhưng trả hiếu bằng cách nào cho trọn vẹn đây? Chứ không phải đợi cha mẹ chết rồi
khóc cho nhiều, để được thiên hạ khen tức là mình đã có hiếu đâu!...
Trong cuộn VCD tựa đề: "Việc lớn nhất của đời người", do Phật giáo Đài-Loan thực hiện, có kể lại một
câu chuyện trích từ kinh Phật như vầy:
Thuở đó, có một người suốt đời làm rất nhiều việc thiện lành, khi chết quả báo đáng lẽ được sanh lên một
cõi trời để hưởng phước. Nhưng lúc lâm chung, người vợ vì quá thương chồng, đã khóc than thảm thiết, kể lể
nhiều nỗi thương tiếc bi ai, làm cho người chồng khởi dậy tâm luyến ái màø biến thành con sâu chui vào lỗ mũi
của vợ. Người vợ thấy đau nhức trong lỗ mũi mới hỷ mạnh, thì con sâu văng ra. Người vợ định giết chết
nó. Vừa lúc đó có một vị sư biết được, đến ngăn cản lại...
Người chết, người thân phải khóc, không khóc thì thiên hạ cho là bất hiếu, bất nghĩa! Chồng chết, vợ
khóc lóc mới tỏ được sự thương yêu. Điều này hiểu ra đơn giản! Vì có thương mới khóc chứ không thương ai
thèm khóc! Về mặt tình cảm thì nói vậy là đúng (!), nhưng về mặt lý trí thì nên bình tĩnh xét suy lại. Từ câu
chuyện của Phật, ta mới thấy, cái đúng này chỉ đúng với người vợ bị mất chồng, chứ không đúng với người
chồng đang chết! Đúng với tâm trạng người sống đang sầu khổ vì cảnh đời góa bụa, chứ đâu có đúng với người
chết đang van xin một vài giờ an lành để ra đi! Đúng với người đời ham thích tiếng khen, chứ làm sao đúng đối
với người vừa thoát khỏi báo thân đáng lẽ sẽ được thành một vị thiên nhân hưởng phước lạc, mà nay bỗng chốc
đành phải làm loài sâu bọ!
Khóc lóc là chuyện thường tình của thế gian, nhưng lại là điều đại kỵ cho một thần thức đang lìa khỏi
xác! Rõ ràng, nếu người vợ im lìm lặng lẽ thì chồng đã được vãng sanh lên trời hưởng phước, nhưng chỉ vì
khóc lóc than van mà người chồng đã bị đọa vào hàng thú vật, một con vật xấu xí, nhơ bẩn trong tam ác
đạo. Câu chuyện này thật là một bài học thấm thía!
Sẵn đây, xin kể cho cô bác nghe một chuyện rất hay, rất ý nhị vừa mới xảy ra! Trong chuyến về thăm
Việt Nam kỳ này, Diệu Âm tình cờ có cơ duyên đi hộ niệm cho một người vãng sanh. Chị đó tên là Bùi Thị
Gái, 45 tuổi, ở Bến Vân Đồn Sài gòn, bị ung thư gan, bác sĩ đã báo cho biết là sắp sửa chết. Chị đó hồi giờ
không biết tu hành gì cả, nhưng do một duyên lành nào đó, những ngày sắp chết lại được quý Phật tử khuyên
nên để cho chúng tôi tới hộ niệm. Gia đình đồng ý. Chúng tôi tới khuyên chị buông xả vạn duyên để niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Chị vui vẻ nghe theo, hứa bỏ hết mọi chuyện và thành tâm niệm Phật, cầu xin được về
cõi Cực Lạc. Ngay ngày đầu tiên, chúng tôi khuyên giải, khai thị cách niệm cách nguyện. Chị chú ý lắng nghe
và làm theo. Chúng tôi có hỏi chị rằng đã sẵn sàng đi về với Phật chưa? Có điều gì khó khăn chưa giải quyết
không?... Hãy nói ra hết đi, để chúng tôi giải quyết giùm cho. Chị nói, " Tôi sẵn sàng rồi, không có gì bận bịu
cả...". Thật quá tốt!
Thế nhưng, cũng trong đêm đó, khi vừa mới nghe nói rằng có bà mẹ chồng cũng đang ngồi niệm Phật hộ
niệm cho chị, thì chị lại bậc khóc nức nở... Tôi hỏi,
- Tại sao chị khóc vậy?... Chị nói,
- Mẹ chồng của tôi thương tôi nhiều lắm, tội nghiệp cho mẹ tôi quá đi...
Thật tội nghiệp! Thật đáng mến! Thương tâm vô cùng! Một người sắp chết, đang bị đau đớn quằn quại
với bệnh ung thư, mà còn nghĩ thương đến người mẹ chồng già yếu, tuổi bát tuần, phải ngồi niệm Phật hộ niệm
cho mình. Tâm tình này thật quá quý hóa, tha thiết, cảm động! Nhìn cảnh tượng này ai mà không thương, ai
mà không đau lòng, ai mà không xúc động! Bình thường có lẽ ai mà không khóc theo. Thế nhưng... trong lúc
mọi người còn đang ngỡ ngàng, người nhà chưa có ai kịp khóc, thì tôi đã liền lên tiếng "nói đùa(!)" với chị,
- Ôi chao! Chị này lạ chưa! Rõ ràng vừa rồi chị hứa với chúng tôi là buông bỏ hết, thế tại sao bây giờ lại
thương bà mẹ, lại khóc tùm lum vậy?... Chúng tôi tiếp tục "đùa(!)" thêm,
- Nếu chị còn khóc, còn thương, còn nhớ bà mẹ chồng tức là chưa muốn vãng sanh. Thôi kỳ này để tôi
vãng sanh giùm cho, còn chị thì tiếp tục nằm trên giường bệnh vài năm nữa để khóc nghen. Chịu không? Hình
như... chị đã hiểu ra vấn đề, nên ngưng khóc rồi niệm Phật:
- Nam mô ... A Di ... Đà Phật... xin Phật.. cho . con . v(z)ề ... Tây Phương ... trong đêm nay.
Chúng tôi thì chỉ chị nguyện là: "Xin Phật cho con về Tây Phương", còn chị thì tự động nói thêm ba chữ
"... trong đêm nay".
Lời nói của chị rất yếu đuối, cố gắng phát lên từng hai tiếng một, khá khó khăn, vậy mà còn ráng nói
thêm ba chữ "...trong đêm nay" rồi mới ngưng. Hàm răng thì rụng mất hai cái răng cửa, ráng nói nên phải chu
nhọn cái miệng lại, các vị đồng tu trông thấy không ai nín được cười! Chính tôi cũng phải mắc cười và mọi
người đồng cười rộ lên.
Chúng tôi vừa cười vừa vỗ tay hoan nghênh tình thần của chị. Chính chị Gái cũng vui theo và ráng vỗ tay
được vài cái.
Trong suốt mấy ngày sau, mỗi lần thấy chị phấn khởi niệm Phật, dũng mãnh phát nguyện vãng sanh,
chúng tôi đều vỗ tay hoan nghênh. Thấy vậy, có nhiều người tâm sự: "Thật là một cảnh tiễn đưa người ra đi
khá lạ lùng, chưa từng thấy. Cảnh sắp chết mà lại vui vẻ, thoải mái, cười đùa vỗ tay".
Và kết quả, chị đó đã niệm Phật ra đi, thoại tướng rất tốt, mặt mỉm cười, sắc da từ màu vàng như nghệ vì
bệnh gan đã biến nên hồng hào. Niệm Phật hộ niệm 15 giờ sau mới tẩn liệm mà thân xác vẫn tươi nhuận, mềm
mại. Một đám tang khác lạ với nhiều đám tang, người đi vui vẻ, người nhà vui vẻ, người người đều vui vẻ,
không có một tiếng khóc. Cả gia đình tràn ngập niềm tin vào Phật pháp và đồng phát tâm niệm Phật. Rất nhiều
người trong xóm cũng đồng loạt phát tâm niệm Phật tu hành.
Chị Bùi Thị Gái vãng sanh vào lúc 10:50 tối đêm 10/9/2005, nhằm ngày mồng 7 tháng 8 năm Ất
Dậu. Vừa ra đi là chị đã tạo duyên lành cho nhiều người. Rồi đây chị sẽ độ được biết bao nhiêu người khác
nữa... (Chuyện này xin gác lại và sẽ kể rõ chi tiết hơn vào thư tới).
Theo như trong kinh Phật dạy, nếu một người lúc lâm chung mà bị con cháu khóc than, người thân níu
kéo, hàng xóm gây ồn ào, va chạm vào thân thể thì thật là đại bất hạnh cho người đó. Trong giờ phút cuối cuộc
đời, người đang chết sẽ đối diện với nhiều cảnh giới hãi hùng đau khổ. Đau khổ vì thân xác tứ đại phân ly, đau
khổ vì oán thân trái chủ trả thù, đau khổ vì nghiệp chướng hành hạ v.v... bao nhiêu nỗi thống khổ đang ào ào ập
tới bắt người ra đi phải chịu lấy. Tinh thần hãi kinh, tâm hồn hoảng sợ, tâm lý rối bời... Họ đang chới với trong
những cảnh giới quá hãi hùng, quá tội nghiệp! Nếu lúc đó người thân trong gia đình tới quây quanh an ủi, bình
tĩnh khuyên lơn, thì người ra đi an lòng, sẽ đỡ khổ biết chừng nào.
Và, hay hơn nữa, nếu người thân hiểu đạo thì hãy bao quanh niệm Phật, nhờ bạn đồng tu tới hộ niệm,
khuyên nhủ buông xả thế trần, chỉ dẫn nguyện cầu vãng sanh Cực-Lạc. Nếu mọi người đồng tâm thành ý niệm
Phật cầu xin Phật A-Di-Đà tiếp độ, thì người ra đi không những được an lòng bớt khổ, mà còn thoát nạn tam đồ,
thoát ly tam giới, vãng sanh Tịnh-độ, một đời bất thối thành Phật. Đây là đại thiện căn, đại phúc đức, đại nhân
duyên. Quý hóa, đại quý hóa...
Cứu người là vậy đó, hiếu nghĩa là vậy đó, thương yêu nhau là vậy đó. Chứ đâu phải thương yêu là phải
khóc cho nhiều, phải than cho dữ! Giả sử như ngày chị Bùi Thị Gái ra đi, mọi người trong gia đình khóc lóc
than van. Khóc cho lớn để được tiếng khen tặng của hàng xóm. Than thật nhiều cho đã cái nư "Ái biệt ly
khổ"! Ôm ấp, lay động, vằn vọt thân thể người đi cho dữ để người đi không đành lòng nhắm mắt chia tay. Thì
chúng ta hãy nghĩ thử, việc gì đã xảy ra?
Xin thưa rằng, chắc chắn hôm đó đã có một người bị hãm hại! Có một thần thức bị đọa đày! Có một
oan hồn bị ném vào hầm lửa! Có một chị tên là Gái bị bệnh ung thư gan đau đớn phải chết và sau đó sẽ bị đau
khổ hơn gấp trăm ngàn vạn lần cái bệnh ung thư này! Thương tâm biết chừng nào! Người ở lại sẽ buồn khổ
sầu đau, người ra đi còn tức tưởi buồn đau vạn kiếp! Kẻ ra đi thì đã bị đọa lạc, người ở lại thì sống trong cảnh
khổ não chờ đợi tới phiên mình chịu chung cảnh ngộ! Nhân nào quả đó. Hôm nay gây nên đại họa làm cho
người thân bị đọa lạc, thì ngày mai tới phiên mình cũng bị con cháu nó mạnh tay ném vào ác đạo để ta trả trọn
cái quả báo này, chứ có cách nào khác hơn!
Vậy thì, khi có người ra đi, xin cô bác đừng khóc. Khóc lóc là bất hiếu, bất nghĩa! Sống chết là lẽ
thường! Hãy phát tâm hộ niệm cho nhau, để cứu độ từng người một vãng sanh Cực-Lạc. Lời Phật nhất định
không sai. Chị Bùi Thị Gái niệm Phật chỉ vỏn vẹn 11 ngày, nhờ hộ niệm mà an nhiên vãng sanh thoát vòng sanh
tử.
Xin cô bác quyết lòng tin tưởng, niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Niệm Phật sẽ thành Phật. (Hẹn thư sau trả
lời tiếp).
Diệu Âm kính thư,
(Viết xong, Úc châu ngày 29/9/05).
Người bệnh khi sắp tắt thở cũng chính là lúc phải phân biệt cảnh giới giữa phàm, thánh, người và quỉ ma. Cho
nên, ngay lúc này chỉ có thể dùng danh hiệu Phật để khai thị, hướng dẫn thần thức của họ, chứ không được tắm
rửa, thay quần áo, di động, than khóc. Tùy theo ý thích của người bệnh muốn ngồi hay nằm cũng được. Nóng
ở đầu sanh về Tịnh độ, ở trán sanh về Trời, ở ngực sanh cõi người, ở bụng sanh ngạ quỉ, ở đầu gối sanh vào cõi
súc sanh, dưới bàn chân sanh về địa ngục. Biết vậy thì mọi người đều phải niệm Phật một cách khẩn thiết, đừng
để ý thăm dò hơi nóng nằm ở đâu, quyết định giúp được họ đới nghiệp vãng sanh.
Đại sư Ấn Quang (Tổ thứ 13 Liên Tông)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM 4
1 CHUYỆN VÃNG SANH HY HỮU Ở V.N.
NHỜ VÀO “ TRỢ NIỆM CỦA PHẬT TỬ ”
* Thầy Giác Chỉ : “Gia đình của bà này trước giờ chưa biết mái chùa là cong hay thẳng, thế mà không ngờ lại
có thiện căn phước đức lớn quá như vậy. Có lẽ 85 triệu người Việt Nam, bà này là người đầu tiên được vãng
sanh chăng?...
* Kinh nghiệm trợ niệm thứ 2: “khai thị phải biết tùy cơ úng biến"
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/4)
Kính gửi cô Lệ Tân và quý đồng tu,
Chúng ta tiếp tục bàn chuyện còn đang dở dang:
"... việc hộ niệm khó quá, nó mới mẻ quá, có người chấp nhận, có người lại cho rằng bố mẹ ra đi con cái
phải khóc, không khóc thì thiên hạ bảo là bất hiếu..."
Vấn đề con cháu khóc lóc khi người thân ra đi là một đại nạn cho người chết, chúng ta đã bàn qua trong
thư trước. Xin cô bác đồng tu nhớ kỹ, đừng vì một chút tình cảm thế tục mà vô tình hãm hại người thân của
mình trong tam đồ ác đạo vạn kiếp. Tội nghiệp lắm! Hôm nay xin nói về "... việc hộ niệm khó quá, mới mẻ
quá...!".
Người ta nghĩ hộ niệm khó quá cũng có thể đúng đấy! Tuy nhiên không phải quá khó như nhiều người
tưởng, vì chính tôi cũng từng hộ niệm cho người vãng sanh. Còn sự hộ niệm có vẻ mới mẻ, thì chỉ mới mẻ đối
với người Việt Nam chứ không xa lạ lắm đối với người học Phật Trung Quốc và các nơi khác. Hơn nữa, người
niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thì sự hộ niệm lại rất quen thuộc, đây là điều cần thiết để bảo đảm sự vãng sanh
được chắc chắn. Riêng ở VN, vì sự tuyên truyền Phật pháp còn yếu, người giảng kinh thuyết đạo còn quá ít.
Nhiều người đi chùa lễ Phật tụng kinh lâu năm, nhưng tình thực mà nói, nhiều khi chưa hiểu rõ Phật pháp là gì.
Thành ra cứ thấy có tới chùa tới miễu quỳ lạy các pho tượng cầu tài, cầu lộc, cầu mua may bán đắc, v.v.. thì
tưởng mình đã tu theo Phật. Có người còn âm thầm thực hành theo những pháp ngoại đạo, không có trong kinh
Phật mà cứ tưởng là Phật pháp! Đây là một sự thực khá phổ biến, làm cho nhiều người hiểu lầm mà đánh giá sai
lệch về Phật giáo!
Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc là pháp môn Tịnh độ, một đại pháp của đức Thế Tôn thuyết
giảng, ứng hợp với thời mạt pháp này để cứu độ tất cả chúng sanh vãng sanh về Tây Phương, thành bậc bất thối
chuyển, một đời viên mãn Phật quả.
Vãng sanh Tây Phương là điều có thực. Hàng năm, hàng tháng, thậm chí hàng ngày ở khắp nơi đều có
người niệm Phật vãng sanh. Họ vãng sanh thực sự chứ không phải là chuyện huyền thoại. Chính tôi đã có cơ
may chứng kiến, dù không nhiều lắm, nhưng cũng không phải là ít, những trường hợp vãng sanh. Có những
người vãng sanh chính tôi tham gia hộ niệm, có những cuộc đã được quay VCD để lại, xa nữa thì nhiều chuyện
vãng sanh đọc được qua truyện ký của các vị Tổ sư, Đại đức, Cao tăng. Nhiều lắm! Những hiện tượng vãng
sanh này được ấn chứng đúng như kinh Phật nói, đã xảy ra ngoài sức tưởng tượng của tôi, và tôi nghĩ rằng, với
lý luận bình thường không cách nào có thể giải thích nổi, không thể nào dùng đến cái gọi là văn minh khoa học
mà biện giải được. Vì sao vậy? Vì đây là Phật pháp, là pháp xuất thế gian. Đã là pháp xuất thế gian thì chỉ có
thể dùng tâm để chứng ngộ, chứ không thể dùng tri kiến hữu lậu thế gian mà giải thích. Kiến thức thế gian chỉ
gói ghém trong phạm vi hiện tượng nghiệm chứng, không đủ khả năng liễu giải phần siêu hình. Nói theo nhà
Phật, tức là không thể đột phá Vô-minh, Phân-biệt, Chấp-trước. Không đột phá nổi Vô-minh, Phân-biệt, Chấptrước thì làm sao ngộ nhập vào Phật pháp! Nếu gượng ép luận giải thì chắc chắn sẽ rơi vào trạng huống 'Y kinh
giảng nghĩa tam thế Phật oan' vậy!.
Hộ niệm có lúc khó, có lúc dễ. Nghĩa là, có người được vãng sanh, có người không được vãng
sanh. Được vãng sanh, gọi là 'DỄ', không được vãng sanh, gọi là 'KHÓ'! Tại sao dễ? Vì biết niệm Phật, muốn
vãng sanh. Tại sao khó? Vì tu lòng vòng để chờ chết rồi nhờ con cháu tới chùa xin cầu siêu, chứ không chịu
niệm Phật, không tha thiết nguyện vãng sanh.
Thư này chúng ta cố gắng bàn đến chuyện hộ niệm khó hay dễ. Sẵn đây tôi sẽ kể thêm chi tiết chuyện
chị Bùi Thị Gái, 45 tuổi, vừa mới vãng sanh ở Bến Vân Đồn Q.7 Sài gòn để làm ví dụ về sự hộ niệm. Thật ra,
đến giờ phút này tôi không biết phải kể câu chuyện nào cho hợp lý đây, vì tôi định kể một chuyện vãng sanh
khác, nhưng chưa kịp kể thì lại có chuyện vãng sanh khác nữa xảy ra. Và cũng thưa thực rằng, trong lúc đang
viết lời thư này, thì hàng ngày tôi phải đi hộ niệm cho một người khác nữa, cũng là bệnh ung thư sắp chết. Kết
quả có được vãng sanh không? Xin chư vị đồng tu chờ câu trả lời ở cuối thư!... Vãng sanh nhiều quá, tôi không
biết lựa chọn chuyện nào trước, chuyện nào sau.
Ví dụ, như khi nhận được thư của quý cô bác đề cập đến việc hộ niệm, thì ở đây chúng tôi vừa nhận được
2 cuộn VCD quay lại hai người, một đàn ông, một đàn bà, vãng sanh trong năm 2004 tại đạo tràng niệm Phật
Đông-Thiên-Mục-Sơn ở Trung Quốc. Hai cuộc vãng sanh này khá lý thú, quay phim được khá chi tiết, nhưng
chưa kịp dịch ra tiếng Việt. Tôi dự định kể lại vài nét đại cương về chuyện đó cho cô bác nghe, nhưng chưa kịp
kể, thì ngày 10/6/2005 ở Brisbane này lại có một người VN, bác Dương Thị Ngà, 84 tuổi vãng sanh. Cuộc vãng
sanh này chính tôi có tham gia hộ niệm. Ngay sau đó tôi phải về VN thăm cha mẹ. Không ngờ, trong chuyến
về quê này lại được cơ duyên khởi sự hộ niệm cho một người ung thư gan sắp chết, đó chính là chị Bùi Thị
Gái. Chuyện chị Bùi Thị Gái vãng sanh đã ghi nên một trang sử khá đặc biệt của Phật giáo ở quê nhà, một ấn
tích quí giá của người Phật tử VN. Chuyện này gần gũi và mới xảy ra, cô bác có thể liên lạc được để tìm hiểu
thêm.
Chuyện này do một cơ duyên ngẫu nhiên. Trong những ngày cuối tháng 8/05, tôi vào Sài gòn để chuẩn
bị hành trang qua lại Úc, thì thầy Thích Giác Châu, vị pháp sư khá quen thuộc với giới Phật giáo VN, nổi tiếng
về tranh pháp và bút pháp cả trong nước lẫn ngoài nước, gọi một số vị Phật tử đến gặp tôi để hỏi việc. Nhờ dịp
này, tôi lại gặp thêm một vị pháp sư nữa, đó là thầy Thích Giác Chỉ, trụ trì chùa Phước Thành Q.7 Sài gòn, là sư
huynh đệ của thầy Giác Châu. Cả hai thầy đều muốn tôi trình bày một ít kinh nghiệm về sự hộ niệm. Quý
Thầy bảo thì tôi phải vâng lời. Sau buổi nói chuyện, có mấy vị Phật tử nêu ý kiến rằng:
- Có một người bệnh sắp chết, chúng tôi sẽ liên lạc với gia đình, nếu họ chấp nhận, anh Diệu Âm có sẵn
lòng đi hộ niệm không?
- Quá tốt! Tôi nói. Đây là dịp quá tốt để thực tập, vừa lý thuyết xong thì có dịp thực hành liền, còn gì
may mắn hơn. Tìm đâu ra một cơ hội trùng hợp hiếm có như vậy!
Sau khi tiếp xúc, gia đình bệnh nhân đã vui vẻ đồng ý. Tối ngày hôm sau, tôi còn nhớ có lẽ là ngày
31/8/05, chúng tôi được chị đạo hữu Diệu Thường, một Phật tử thuần thành với tâm đạo rất tốt, cùng một số
Phật tử khác hướng dẫn đến nhà bệnh nhân. Khi đến, tôi thấy bệnh nhân nằm trên chiếc giường bố nhỏ kê sát
cửa chính ra vào trong một căn nhà hẹp. Bệnh nhân đã ở vào giai đoạn kiệt tận, theo như bác sĩ nói, phải chết
trong vòng một vài tháng mà thôi. Nước da chị vàng hoe, tròng mắt thì vàng như nghệ, thân thể ốm yếu, nằm
luỗi trên giường, hai chân bị phù, bụng sưng chướng lên... Chị bị giải phẫu để đặt một ống cao-su từ trong thân
chạy ra để chuyển một thứ nước màu vàng tiết ra vào một túi nhựa đeo trước bụng... Đây là lần đầu tiên trong
đời tôi tận mắt chứng kiến một người bị ung thư gan sắp chết!... Trong kinh Phật nói: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, thì
đây thật sự là một ấn tượng rõ rệt về Bệnh Khổ đang nằm chờ Tử Khổ vậy!
Thực ra, tôi chỉ tham dự một phần vào cuộc vãng sanh này, chứ không phải trọn vẹn. Tôi chỉ khởi sự
hướng dẫn cách thức hộ niệm, cách khai thị một cách tổng quát cho các vị đồng tu theo đó mà làm, còn riêng tôi
thì chỉ niệm Phật cho chị được có ba đêm. Đêm thứ tư, tức là ngày 4/9/2005, tôi phải bay trở về Úc. Các vị đồng
tu tiếp tục hộ niệm thêm bảy ngày nữa.
Qua Úc xong, tôi thường xuyên điện thoại liên lạc liên tục để theo dõi tình hình hộ niệm. Đúng ra, tôi
nên hoãn lại chuyến bay thêm một thời gian nữa để cùng với mấy vị Phật tử hộ niệm cho chị Gái được viên mãn
mới phải. Chính thầy Giác Chỉ cũng đề nghị với tôi như vậy. Thầy bảo tôi, hãy đổi vé máy bay, rồi tới chùa
Thầy ở thêm vài tuần. Tôi cũng có dự định như vậy. Tuy nhiên, khi thấy mấy vị Phật tử, cùng với đạo hữu Diệu
Thường phát tâm rất mạnh, tất cả đều thành tâm, nhiệt tình, tin tưởng. Thầy trụ trì thì vui vẻ, tận tình hướng dẫn
Phật tử niệm Phật. Còn chị Gái thì đã phát tâm niệm Phật, tha thiết nguyện vãng sanh. Thấy vậy làm cho tôi rất
yên tâm. Tôi nghĩ thầm: thật là tốt lắm rồi... thôi, hãy để cho mọi người tự chứng nghiệm lấy thì hay hơn. Tôi
lên máy bay ra đi với một niềm tin rất lớn...
Và, kết quả thì đúng như mọi người mong muốn. Chị Bùi Thị Gái đã được vãng sanh lúc 10 giờ 50 đêm
10/9/2005.
Sau khi chị vãng sanh, tôi điện thoại về thầy Giác Chỉ. Thầy nói:
- ... Gia đình của bà này trước giờ chưa biết mái chùa là cong hay thẳng, thế mà không ngờ lại có thiện
căn phước đức lớn quá như vậy. Có lẽ 85 triệu người Việt Nam, bà này là người đầu tiên được vãng sanh
chăng?...
Thầy Giác Chỉ đã xác định chị Gái vãng sanh. Tôi điện thoại hỏi mấy người khác, ai cũng sung sướng
khai ra chuyện lạ. Chị Diệu Thường thì rất vui mừng báo cho tôi biết,
- Chị Gái đã vãng sanh rồi, vi diệu quá anh Diệu Âm ơi! Chúng tôi đã báo cho Thầy trụ trì chùa Hoằng
Pháp biết sự việc, thầy trụ trì cũng nói rằng bà đó thực sự được vãng sanh.
Chị Gái đã vãng sanh, một chuyện lạ vừa xảy ra làm cho mọi người đều phấn khởi. Ở phút lâm chung,
chính thầy Giác Chỉ đã khai thị, nhắc chị niệm Phật và cầu vãng sanh. Chị phát nguyện vãng sanh xong thì nhẹ
nhàng ra đi và được đồng tu tiếp tục hộ niệm 15 tiếng đồng hồ. Chị ra đi với sắc mặt an nhiên, nước da vàng
như nghệ từ từ hồng hào trở lại như người bình thường. Người em ruột của tôi cũng có tham gia hộ niệm lúc
lâm chung, nó nói,
- Lạ thật! Lúc chị đó tắt thở thì đôi mắt hơi mở một chút, miệng hô nên môi không ngậm được. Thế mà
khi niệm Phật một chặp thì mắt từ từ nhắm lại, miệng cũng ngậm kín lại, nước da thì từ từ hồng hào tươi ra, chứ
không phải vàng khè như lúc còn sống nữa...
Đến 7 giờ sáng, tức là hộ niệm được 8 tiếng, người chồng thay quần áo thì phát hiện ra thân xác còn
mềm mại, tươi hồng. Mọi người tiếp tục niệm Phật đến 3 giờ chiều, tức là 15 giờ sau khi tắt hơi, nhà quàng tới
làm việc thì thân thể vẫn tiếp tục tươi nhuận và mềm mại như người đang ngủ. Tất cả mọi người rất đỗi ngạc
nhiên và bắt đầu hồ hởi báo tin chuyện lạ...
Chuyện chị Bùi Thị Gái vãng sanh tại hẻm số 277 bến Vân Đồn quận 7 Sài gòn phải chăng là một tiếng
sét làm giật mình những ai chưa tin vào Phật pháp, một tiếng chuông làm thức tỉnh nhiều người còn đang mê
man theo các cách tu vô định hướng. Cuộc vãng sanh của chị là sự đại hỷ cho gia đình, mọi người đều phát tâm
tu hành, còn người trong xóm thì đều bàng hoàng tỉnh ngộ, và cùng phát lòng niệm Phật. Thật là một tin đáng
mừng.
Như vậy hộ niệm không đến nỗi nào khó lắm! Có khó là vì chưa hiểu mà khó, tâm lý khó, lòng tin khó,
hoàn cảnh khó, người thân khó, nghiệp chướng khó, v.v.. Những vấn đề này nếu mổ xẻ tường tận thì giải tỏa
được nhiều khó khăn cho cô bác. Tuy nhiên, thư này dù sao cũng có hạn, chúng ta sẽ cố gắng bàn được tới đâu
hay tới đó, phần còn lại sẽ tính sau!
(*) Một là, chưa hiểu thấu đạo lý. Có lẽ rằng, trước giờ ở VN nhiều người chưa biết đến danh từ vãng
sanh, chưa thấy thế nào là vãng sanh, thành ra rất nhiều người chưa tin được chuyện vãng sanh là thực, hoặc là
hiểu lầm sự vãng sanh! Tình thực mà nói, đối với đại đa số quần chúng, Phật tử khắp nơi, thường chỉ nghe nói
đến cầu an, cầu siêu, cầu tiêu tai giải nạn, cầu phước lộc, cầu trường thọ, cầu mua may bán đắt... chứ ít ai nghe
nhắc đến hộ niệm để vãng sanh. Ngược lại, có người còn sợ và né tránh đến tiếng vãng sanh nữa là khác!
Vì sao vậy? Vì chưa hiểu thấu đạo lý vãng sanh, vì lầm lẫn cho rằng 'Vãng Sanh' là 'Chết'. Nếu vãng
sanh là chết, thì ai lại đi cầu chết! Con người thường chấp vào thân mạng, cứ cho rằng Ta chính là cái thân xác
này, cho nên khi mất cái thân xác thì họ tưởng rằng mất tất cả, không còn gì hết! Chính vì thế, nghe đến tiếng
vãng sanh thì sợ như sợ chết vậy!...
Thật là một ý nghĩ sai lầm, đáng thương hại! Chính vì sự mê lầm này đã làm cho chúng sanh không giải
thoát được, đời đời kiếp kiếp phải chịu trầm luân đọa lạc. Thực tế thì cái thân này chỉ là 'Cái Vật ta dùng' chứ
không phải là 'Ta'. Cái vật ta dùng, thì dùng một thời gian nó phải hư. Hư thì phải liệng, không liệng thì cái túi
da này nó sẽ thối ùm lên, chính ta cũng phải chạy trốn! Nó không phải là Ta, chứ nếu thực sự nó là 'Ta', thì bao
giờ lại có chuyện 'Ta phải bỏ Ta'! Liệng một cái áo cũ để thay vào chiếc áo mới, thì liệng một cái thân hư ta sẽ
đội lên một cái thân mới, thế thôi. Ai hiểu được vậy thì đã giác ngộ. Giác ngộ rồi thì hết khổ, hết sầu, hết lo sợ
chết. Thành ra, nếu thực là người thông minh trí huệ thì không sợ chết, chỉ có một điều đáng phải quan tâm là
khi liệng cái báo thân này phải có cái thân 'chân kim sắc' ánh vàng rực rỡ, tướng hảo quang minh, phước trí vẹn
toàn, chứ đừng nên vô ý mang lông đội sừng mà đành sống trong cảnh nô lệ ngu si vạn kiếp!
Như vậy, lìa bỏ cái báo thân này không phải là mất tất cả. Không những thế, mà ta vẫn còn sống và sẽ đi
vào những cảnh giới khác, có sướng, có khổ, có sáng, có tối...
Vãng sanh và chết là hai cảnh giới hoàn toàn trái ngược nhau, không thể lầm lẫn! Đáng tiếc, nhiều người
vẫn còn mơ hồ giữa hai cảnh giới này! Người đời thiếu quá nhiều thiện căn phước đức nên khó tiếp nhận được
câu Phật hiệu. Không tiếp nhận câu Phật hiệu thì tiếp tục sống theo mê mờ lầm lạc. Lầm lạc cách tu hành, mê
mờ đường giải thoát, do đó mà chúng sanh cứ nhắm mắt dắt nhau đâm đầu vào cảnh tối tăm để chịu khổ nạn
triền miên. Người đời chưa biết Phật pháp nên phải mê lầm thì cũng đành đi. Còn nhiều người đã học Phật lâu
năm, mà vẫn chưa giác ngộ ra đường nào giải thoát, đường nào luân hồi, thì thật là đáng tiếc lắm vậy!
Ngoài ra, còn có một sự hiểu lầm khác nữa, là nhiều người cho rằng chết là dành cho người thế tục hoặc
tại gia, còn vãng sanh chỉ có người tu hành xuất gia mới được. Thành ra cứ thấy một người tu sĩ ra đi thì nói là
'Vãng Sanh', bất cần là thực hay giả, nhiều khi họ còn tặng thêm danh từ 'Viên Tịch' nữa. Những ý tưởng này
thật sự không đúng!
'Chết' thì người nào cũng có thể chết. Người thế tục chết, người tu tại gia chết, người tu xuất gia cũng có
thể bị chết như thường! Trong mấy thư trước chúng ta có thường nhắc qua một lời Phật dạy trong kinh, 'Thời
mạt pháp ức ức người tu hành khó có một người chứng đắc'. Người tu hành mà không được chứng đắc thì cuối
đời phải chết. Chết nghĩa là thần thức đi theo nghiệp báo thọ sanh, xả thân thọ thân trong lục đạo, tiếp tục sanh
tử trong sáu nẻo luân hồi. Như vậy, chết có tha một người nào đâu!
'Vãng Sanh' thì người xuất gia được vãng sanh, người tu tại tại gia cũng được vãng sanh. Đặc biệt, với
pháp niệm Phật thì rất hợp với người tu tại gia. Trong pháp hội kinh Vô Lượng Thọ, phần đại diện cho pháp
môn, các vị thượng thủ tại gia nhiều hơn xuất gia tới ba lần. Trong thực tế chuyện vãng sanh xảy ra khắp nơi
cũng đã chứng minh được rằng người niệm Phật tại gia vãng sanh rất nhiều. Đây là sự thật, xin cô bác đừng nên
lo ngại về điều này. Phật dạy, đời mạt pháp 'Chỉ nương theo pháp niệm Phật mà xuất luân hồi'. Niệm Phật xuất
luân hồi tức là vãng sanh Tịnh độ. Người thế tục chưa biết tu hành, nhưng trước phút lâm chung nếu biết ăn năn
sám hối, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn được vãng sanh. Đây là lời Phật dạy, hoàn toàn có thực, trong
đời tôi đã chính mắt chứng kiến qua.
Vãng sanh là sống mà đi vãng sanh chứ không phải chết. Đây là cảnh giới nói trong kinh Phật, chư Tổ
Sư cũng bàn rất nhiều trong các luận Tịnh độ tông, dùng để chỉ cho những người lìa bỏ thế giới ta-bà, sanh về
cõi Cực-Lạc của Phật A Di Đà, dự vào chín phẩm hoa sen ở Liên Trì hải hội tại cõi Tây Phương, viên chứng
tam bất thối: Vị-Bất-Thối, Hạnh-Bất-Thối, Niệm-Bất-Thôi, khi hoa khai thấy Phật chứng quả 'Vô Sanh Pháp
Nhẫn'. Theo Trí Độ Luận, đây là cảnh giới của thực tướng lý thể Chân Như, an trụ nơi lý vô sanh vô diệt, không
dấy lên hành động của nghiệp, thông suốt các pháp mà không vướng mắc, không thối chuyển, gọi là Bồ-tát BấtThối-Chuyển, kinh Phật Thuyết A Di Đà gọi là A-bệ-bạt-trí bồ tát, kinh Vô Lượng Thọ gọi làø A-duy-việt-trí
bồ tát. Cái năng lực chứng đắc này tương đương với các bậc Bồ tát từ Thất Địa đến Cửu Địa. Trong kinh Nhân
Vương có nói đến Ngũ Nhẫn, thì Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả đắc thứ tư, chỉ dưới Tịch Diệt Nhẫn mà thôi. Thực
bất khả tư nghì! Năng lực này là nhờ thần lực của đức A Di Đà Phật gia trì, chứ không phải là tự lực chứng đắc.
Còn 'Viên Tịch' là cảnh giới cao thượng chí tôn chứ không phải đơn giản. 'Viên' là viên mãn chư đức;
'Tịch' là tịch diệt chư ác, một chứng đắc đến quả đức cùng cực để nhập Niết -bàn tịch diệt. Cảnh giới này còn
gọi là 'Tịch Diệt Nhẫn', quả đức cuối cùng trong kinh Nhân Vương, cao hơn Vô Sanh Nhẫn một bực. Đây là quả
chứng đắc từ Pháp Vân Địa đến quả địa Như Lai, nghĩa là ba phẩm cuối cùng: Thập-Địa, Đẳng-Giác, DiệuGiác. Như vậy, Viên Tịch là cảnh giới của Phật, chứ không phải bình thường.
Tuy nhiên, ta cũng thường nghe thấy rằng danh từ này được dùng để chỉ cho sự ra đi của các vị xuất
gia. Đây chỉ là sự tôn kính của hàng đệ tử, chứ còn thực tế thì chỉ có những vị Đại Sư, Cao Tăng đắc đạo mới
có thể Viên Tịch chứ không phải dễ dàng!
Nói chung, Chết, Vãng-Sanh, Viên-Tịch là ba cảnh giới khác nhau, chúng ta không nên sơ ý trong cách
gọi mà dễ làm cho người đời sinh ra mơ hồ lầm lẫn. Để tránh sự lầm lẫn này, khi nói đến chuyện vãng sanh
chúng ta cần phải cẩn thận. Như riêng tôi, đôi khi có người điện thoại tới, hoặc trực tiếp tới gặp, đề nghị tôi viết
những chuyện vãng sanh của người này, người nọ. Nhiều khi họ đưa ra những bằng chứng như xá lợi, thấy này
thấy nọ, v.v... nhưng tôi cũng không dám vội vã viết. Vì tình thực, có nhiều trường hợp khá mơ hồ, rất khó
quyết đoán. Ví dụ như nói về 'xá lợi' chẳng hạn, trước đây có lần tôi thỉnh ý Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, vị
thượng thủ Giáo Hội Khất Sĩ Tăng Già Thế Giới. Ngài nói, '... họ gọi là xá lợi, nhưng nếu xem kỹ, thì nhiều khi
chỉ là số xương chưa kịp cháy hết mà thôi...'. Còn Ngài Tịnh Không nói, nếu thực là xá lợi thì để nó trên cái đe
sắt mà đập, chỉ có móp đe chứ không bể xá lợi. Hơn nữa, Ngài nói tiếp, chết có lưu lại xá lợi cũng không hẳn là
được vãng sanh. Có được xá lợi chỉ cộng thêm vào thoại tướng tốt và chỉ bảo đảm được rằng người chết đó
không bị đọa vào ba đường ác mà thôi.
Như vậy, có xá lợi và được vãng sanh là hai việc hoàn toàn khác nhau. Xin chư vị chớ nên sơ ý mà nhập
chung hai việc thành một. Theo HT Tịnh Không, thì Vãng sanh, chắc chắn nhất là chính người niệm Phật, trước
lúc lâm chung, thấy A Di Đà Phật hoặc Tây Phương Tam Thánh hiện thân tiếp dẫn.
Nếu không được vậy, thì chúng ta cần quan sát kỹ các thoại tướng ứng hợp với kinh Phật và đồng thời
phải có sự tương ứng đầy đủ với Tín-Hạnh-Nguyện. Nên nhớ, vãng sanh Cực Lạc có Tứ Độ, Tam Bối, Cửu
Phẩm. Mỗi phẩm đều có thoại tướng khác nhau. Nhưng dù sao vẫn phải cẩn thận y cứ vào kinh điển.
Phật dạy tín hạnh nguyện vãng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, hạ phẩm vãng sanh chỉ mộng
thấy Phật mà được vãng sanh. Trường hợp này thường không có thoại tướng hiển hiện. Trong kinh Pháp Hoa
cũng có nói rằng sự cảm ứng đạo giao có 'Hiển', có 'Minh'. Hiển là rõ ràng, Minh là âm thầm. Đó đều do cái
nhân tu hành từ trong quá khứ. Tuy nhiên, thời mạt pháp chúng sanh nghiệp nặng, đức mỏng, thường xa lìa Phật
pháp. Trong đó thiếu lòng tin, không thiết nguyện là chướng ngại chính yếu cho việc vãng sanh vậy.
Tóm lại, Chết là thông thường nhất, dễ thấy nhất và tệ hại nhất! Chết thì phải luân hồi trong lục đạo, nếu
rơi vào tam ác đạo thì gọi là đọa lạc. Những người không biết tu hành thì chắc chắn phải chịu chết, không còn
đường nào tốt hơn! Người tu hành mà không rõ đường đi nẻo về, thực hành những pháp không khế hợp căn cơ,
không y theo kinh điển của Phật mà phụng hành, thì hầu hết cũng đành chịu chung số phận hẩm hiu!
Viên Tịch là hiện đời thành Phật, chứng nhập Niết bàn, là cảnh giới cao tột, chứng đạo nhanh chóng nhất
nhưng chỉ dành cho bậc thượng thượng căn, chư đại Bồ tát thị hiện, chứ không dễ dàng cho bậc trung hạ căn mơ
tưởng.
Vãng sanh thì ngự vào chín phẩm hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi Tây Phương, viên chứng tam bất thối,
một đời thành Phật. Vãng sanh là pháp dễ tu nhất, thích hợp nhất, thù thắng nhất cho chúng sanh trong thời mạt
pháp. Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ là pháp môn cứu cánh viên mãn, ứng hợp cả ba căn thượng trung hạ,
phổ độ tất cả chúng sanh một đời thành Phật. Phật nói, thời mạt pháp này chúng sanh chỉ nương theo pháp niệm
Phật mới thoát được luân hồi. Một chúng sanh còn đầy nghiệp chướng như chúng ta hãy quyết lòng chọn lấy
pháp niệm Phật để vãng sanh. Đây là con đường hợp căn hợp cơ nhất, tốt nhất và duy nhất khả dĩ có thể giúp ta
thoát vòng sanh tử trong thời mạt pháp này.
Những người đi hộ niệm cần nên hiểu những lý đạo căn bản này, nhất là ý nghĩa của sự vãng sanh, để
khai thị cho bệnh nhân. Khi hộ niệm cho những người chưa biết tu hành, chưa biết niệm Phật, thì điểm đầu tiên
cần phải giải thích cho họ thấy rõ sự khác biệt giữa chết và vãng sanh. Hãy tùy cơ khai thị, giúp họ vững tâm
niệm Phật, tha thiết cầu vãng sanh để được hưởng cảnh an vui cực lạc, chứ không phải chết.
(*) Hai là, vấn đề tâm lý rất cần thiết khi hộ niệm cho người bệnh. Đối với những người chưa tu hành,
hoặc ít tu hành, khi hộ niệm chúng ta cần phải chú ý sử dụng đến thiện xảo phương tiện để hóa giải những
chướng ngại về mặt tâm lý trước, có như vậy thì sự hộ niệm mới khỏi bị bế tắc, giúp người bệnh có được cơ
duyên tin tưởng, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.
Ví dụ như chuyện chị Bùi Thị Gái, trước khi đến hộ niệm cho chị, tôi có hỏi qua mấy vị đồng tu tiến dẫn
và biết được rằng gia đình của chị ít tu hành, ít đi chùa, chưa biết niệm Phật. Khi tới nơi, những lời đầu tiên tôi
nói với chị không phải về Phật pháp, không khuyên chị niệm Phật, mà tôi chỉ hỏi chị đã nằm như vầy bao lâu
rồi? Bị đau lưng lắm phải không? Chị than, '... mỏi mê trong người, đau lưng, nhức vai... quá chịu hết nổi!'. Tôi
nói, 'mỏi mê, đau nhức như vậy, sao không có ai xoa bóp giùm cho chị. Thôi để tôi giúp cho...'. Miệng nói tay
làm, tôi thành thực muốn giúp chị giảm bớt sự khổ đau, được một vài phút thoải mái sau khi đã trải qua những
tháng ngày đau đớn trên giường bệnh. Tôi chưa cần các thứ khác...
Đây không phải là khơi chuyện thường tình thế tục, mà chính là đòn tâm lý đầu tiên. Chuyện này tôi đã
vô tình học được ở người em gái út của tôi. Tôi dạy cho em tôi niệm Phật, còn em tôi thì dạy ngược lại tôi cách
khai thị cho người bệnh mà chính nó không hay. Khi cha tôi bệnh, tôi khuyên cha tôi niệm Phật, ông nghe một
cách khá miễn cưỡng. Mấy đứa em trai của tôi tới khuyên thì cha tôi lại càng không thèm nghe nữa. Ấy thế, mỗi
khi em gái tôi khuyên thì cha tôi vui vẻ niệm Phật, vui vẻ phát nguyện vãng sanh. Thấy vậy tôi mới để ý, cứ
mỗi lần em gái tôi tới chăm sóc cho cha, thì nó lúc nào cũng cười đùa với cha tôi trước. Nó thường gọi cha tôi là
'Thái Thượng Hoàng' và mời Thái Thượng Hoàng nằm nghiêng lại cho hạ thần đấm lưng, xoa bóp. Đấm một
chút rồi nó mới nói, 'thôi mời Thái Thượng Hoàng niệm Phật đi..., cầu về Tây Phương sớm sướng hơn, nằm đây
làm chi cho khổ...!'. Thế là cha tôi vui vẻ niệm Phật.
Khi xem đến các cuộn VCD vãng sanh, tôi thấy cách khai thị của người Hoa cũng thường dùng đến
phương cách này. Họ khuyến khích, hướng dẫn người bệnh bằng những cử chỉ vui vẻ, thoải mái giống như đùa
vui vậy. Nhưng thực ra đây không phải là đùa giỡn, mà chính là họ đang tạo nên bầu không khí vui vẻ để vãng
sanh. Đây là một sự lịch lãm trong phương cách khai thị hữu hiệu, giúp người bệnh nhanh chóng phá tan nỗi
khổ, không còn sầu bi lo sợ nữa, mà vững lòng tin tưởng niệm Phật, và hoan hỉ cầu sanh về Tịnh độ. Trải qua
một số kinh nghiệm rồi, chúng tôi mới thấy được rằng phương cách khai thị này hay lắm.
Tôi đã bắt chước cách của em gái tôi để khai thị cho chị Gái và thực sự là tôi đã thuyết phục được chị rất
nhanh. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ của đêm đầu tiên, mà chị đã làm hết tất cả mấy việc tôi khuyên như:
quyết lòng niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, mạnh dạn phát lồ sám hối tội lỗi, không sợ chết, thích vãng sanh,
buông bỏ vạn duyên, sẵn sàng đi theo Phật bất cứ lúc nào... Thấy chị phát tâm mạnh mẽ ai thấy cũng phải
khen. Các đồng tu cũng cùng vui vẻ thoải mái niệm Phật, nhiều lần vỗ tay khen thưởng người bệnh. Chính chị
Gái cũng vui vẻ và nhiều lần vỗ tay mỉm cười cảm ơn mọi người. Tôi còn nhớ, trong đêm đầu tiên khi tôi
khuyên chị hãy thành tâm sám hối lỗi lầm của mình. Chị đã mạnh dạn khai như vầy:
- Tội lỗi của con nhiều lắm. Có khi con ra ngoài chợ lén ăn cắp đồ đem về. Vì gia đình nghèo quá
không có tiền nên con đành phải làm vậy để về nuôi gia đình. Nam Mô A Di Đà Phật, con xin thành tâm sám
hối.
Tôi chỉ nói tổng quát rằng ai cũng có lỗi lầm, thì chị cũng có. Bây giờ hãy thành tâm sám hối để nhẹ bớt
tội lỗi mà xin được về với Phật. Thế mà, tự chị dám mạnh dạn khai lên những điều sai trái. Chị muốn khai nữa,
nhưng tôi nói, 'Thôi đủ rồi! Thành thật như vậy là quá tốt, khỏi cần khai thêm'. Tâm địa thành thực, thật đáng
khen! Hỏi rằng, liệu trong chúng ta có ai dám can đảm nói lên những điều hạ tiện của mình cho người khác
nghe không?!
Một người quá nghèo, không có tiền nuôi gia đình đành ra chợ lén lấy trộm một vài bó rau về nuôi gia
đình là đáng thương hay đáng tội! Chúng ta thường khinh thị những kẻ bần cùng, hạ lưu, trộm cắp. Nhưng có
biết đâu, coi chừng chính ta lại là thứ đại hạ lưu mà không hay: đố kị, hẹp hòi, trốn thuế, bóc lột, gian xảo...
đang đội trong lớp áo trí thức cao sang! Trong xã hội này, có biết bao nhiêu người lịch sự, giàu có, quyền thế,
họ có thể liệng tiền qua cửa sổ không tiếc, trong khi lại đi xua đuổi những đứa trẻ đánh giày, những bà cụ bán
vé số lang thang ngoài đường phố. Những bữa cơm trưa của hạng bần cùng này là thường chực chờ ở các quán
phở để năn nỉ xin chút nước thừa mứa còn sót trong tô mà húp cho qua cơn đói khát, vậy mà nhiều khi họ không
cho, lại còn xua đuổi! Từ bi ở đâu? Đạo đức ở đâu? Nhân ái ở đâu!
Khai thị rất cần đến thiện xảo phương tiện. Nhất là những người chưa biết tu hành nhiều, muốn họ an
lòng nghe theo mình mà niệm Phật, thì người hộ niệm phải biết tùy cơ ứng biến, tìm cách giải quyết những khó
khăn tại chỗ của bệnh nhân trước đã.
Một kinh nghiệm trợ niệm thứ 2
Tôi xin kể ra đây một ví dụ khác khá hay, cũng trong tháng 8/2005, trước chuyện chị Gái cỡ một tuần, tôi
ra Long Khánh thăm người em gái. Nhà em gái tôi có mở cửa mỗi đêm cho một ít đồng tu trong làng tới niệm
Phật. Có một chị trong nhóm cộng tu tới tâm sự với tôi rất nhiều về hoàn cảnh gia đình chị, và chị muốn nhờ tôi
tới khuyên mẹ chị niệm Phật. Chị nói, mẹ chị nghiệp chướng quá nặng, đã liệt chân nằm trên giường hơn một
năm rưỡi qua, và bây giờ chỉ còn chờ chết. Chị nhiều lần khuyên mẹ niệm Phật, nhưng không thành công.
Không những bà mẹ không chịu niệm, mà mỗi lần chị tới niệm Phật thì bà cụ la làng la xóm vang trời, bà hét
lên chống đối. Nếu chị tiếp tục niệm Phật thì bà tức giận mà cắn chặt hàm răng lại không chịu ăn uống, v.v...
Người em trai cũng chống đối kịch liệt việc chị niệm Phật. Chị nói, 'có lần nó vác cây ra mà ngăn chận tôi...'.
Quả đúng như vậy thì nghiệp chướng của bà cụ đã quá nặng, hết cách cứu rồi! Nghe nói mà tôi đành phải
lắc đầu! Với sức của tôi làm sao cứu nổi đây? Thế nhưng chị đó cứ nài nỉ hoài, sau cùng tôi cũng đành nhận lời
để đến thăm, chứ không dám hứa gì hơn. Tôi hẹn ngày hôm đó đến thăm gia đình nói chuyện với chị, rồi mới
gặp bà cụ. Không ngờ, sự việc xảy ra ngoài sự dự liệu của tôi, chỉ trong khoảng mười mấy phút nói chuyện thì
bà cụ ngoan ngoãn chịu niệm Phật, chịu chắp tay nguyện vãng sanh Cực Lạc. Chị con gái thấy vậy, quá cảm
động mà đứng khóc ròng. Tôi nói, 'mẹ chị nay đã niệm Phật rồi, sao chị không niệm theo mà lại đứng khóc
vậy...'?! Tôi bảo người em gái của tôi và chị cùng với tôi niệm Phật chung với bà cụ.
Sau đó chị dẫn tôi tới thăm người em trai, tôi cũng có khuyên anh đó cố gắng hộ niệm cho mẹ để trả tròn
chữ hiếu. Và, anh ta cũng chấp nhận dễ dàng...
Sự việc diễn tiến quá tốt đẹp mà trước đó vài giờ tôi nghĩ không bao giờ sẽ có. Sở dĩ được vậy chỉ vì tôi
đã dùng cái đòn thiện xảo phương tiện để thuyết phục. Người đời gọi là cái đòn tâm lý 'ma lanh!'.
Đòn gì? Bổn cũ soạn lại. Việc đầu tiên là tôi xoa nhẹ nỗi khổ của bà cụ, chứ không phải khuyên niệm
Phật. Nỗi khổ gì? Đau lưng, nhức mình, tay chân bị ngứa ngáy, khí trời nóng bức, .v.v... Xoa nhẹ bằng cách
nào? Đấm lưng, xoa vai, gãi ngứa cho bà cụ, v.v... giúp cho bà cụ một chút thoải mái, rồi sau đó mới từ từ gợi
chuyện, khuyên nhủ sau.
Khai thị phải biết tùy cơ ứng biến, chứ không hẳn cứ gặp mặt là thao thao diễn thuyết đâu. Chúng ta hãy
thông cảm cho người bệnh, họ đang chịu đựng quá nhiều sự khổ sở, buồn bực, lo âu, tâm trạng bất an... Một
người đang đói thì hãy đút họ muỗng cháo, đang khát thì cho họ một hớp nước là cả một ơn huệ lớn lao. Bệnh
nhân đang bị nóng bức, mà ta tới nói chuyện Thiên Đường, Cực Lạc, thì họ đuổi cổ mình ra cũng là phải
lẽ! Muốn cho bệnh nhân hoan hỉ tiếp nhận lời khuyên, thì người hộ niệm phải tạo không khí thoải mái cho
họ. Phải chú ý điều này thì mới hướng dẫn họ được.
Người hộ niệm nhất định không được làm điều gì trái ý bệnh nhân, không thể ép buộc hoặc cưỡng bức
họ được. Tất cả đều có nhân có duyên có quả, phải tùy theo duyên mà tìm cách chuyển. Ví dụ, ngay cả khi họ
bảo đừng niệm Phật nữa, mình cũng phải ngừng niệm để họ vui lòng trước đã, rồi tìm cách giải tỏa tâm lý khó
khăn sau. Thế gian có câu nói, 'muốn câu được cá thì phải dùng mồi nào cá thích, chứ không thể dùng cái mồi
mình thích'.
Mình muốn người bệnh niệm Phật, chứ chưa chắc người bệnh đã biết niệm Phật là gì. Như vậy, đầu tiên
phải thả cái mồi họ thích ra để câu họ về với mình trước. Câu được rồi thì xoay dễ lắm. Phải tận dụng tâm lý,
chớ nên lỗ mãng mà thất bại.
Cũng xin nói rõ điều này, ngón đòn tâm lý này chỉ là phương tiện thiện xảo dùng để giải tỏa những
trường hợp quá khó khăn lúc đầu mà thôi. 'Vạn sự khởi đầu nan'. Cái khó nhất là lúc khởi đầu làm cho người
bệnh phát lòng tin tưởng. 'Đầu xuôi đuôi lọt', khởi đầu đã êm xuôi rồi thì sau đó sẽ dễ dàng. Sau khi người
bệnh đã phát tâm niệm Phật rồi, thì người hộ niệm phải chuyển hướng khuyên họ buông xả vạn duyên để nhất
tâm niệm Phật cầu về Tây Phương, chứ không được tiếp tục dùng phương pháp này mà tạo ra tình cảm mới, làm
tâm họ quyến luyến vào mình mà đi lạc đường. Trước phút lâm chung mà còn dùng đến những cử chỉ xoa đầu,
vỗ về, ôm ấp, hoặc nói lời thương yêu, âu yếm... thì rất có hại cho người ra đi vì dễ làm lạc tâm của họ.
Nên nhớ, phương tiện khai thị có hai phần: lời nói và cử chỉ, trong đó tư thái, cử chỉ, cung cách của
người hộ niệm rất quan trọng, nó ảnh hưởng lớn hơn lời nói.
Cho nên, muốn cho người bệnh vui vẻ, thì cử chỉ nét mặt của người hộ niệm phải vui vẻ. Muốn người ra
đi vững tâm thì tâm mình phải vững. Muốn người ra đi tin tưởng, cương quyết cầu vãng sanh thì lời nói của
mình phải cương quyết, tin tưởng. Đó là điều quan trọng, chứ không phải cứ bảo vui là họ vui, bảo cương
quyết, tin tưởng... là họ cương quyết, tin tưởng đâu.
Vấn đề khai thị chưa xong, nhưng thư có hạn, xin hẹn thêm kỳ thư nữa. Trong khi đang viết thư này thì
chúng tôi phải hộ niệm cho một chị ở Brisbane bị ung thư đang nằm chờ chết. Kết quả thì chị đó vừa được
vãng sanh vào ngày 21/10/05, hỏa thiêu vào ngày 25/10/05. Chị niệm Phật lặng lẽ ra đi, suốt bốn ngày sắc diện
tươi vui, hồng hào, thân xác mềm mại. Chư Tổ Sư nói, 'Niệm Phật, trăm người tu trăm người vãng sanh, ngàn
người tu ngàn người vãng sanh, gọi là muôn người tu muôn người đắc'. Đã là Tổ, thì có bao giờ nói chơi! Xin
cô bác vững lòng tin tưởng để niệm Phật, đừng nghi ngờ thì được vãng sanh vậy.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư.
(Viết xong tại Brisbane, ngày 1/11/05).
Sáu nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ, nếu một niệm chuyên chú niệm Phật thì thân tuy bại hoại nhưng
tâm thần không tán loạn, liền theo một niệm ấy vãng sanh Tịnh độ.
(Đại sư Diệu Không)
LÂM TAI NẠN BÁC SĨ BÓ TAY: “CHỜ CHẾT” GIA ĐÌNH NIỆM PHẬT 3 NGÀY “SỐNG LẠI !”
Người sống kể lại : "Thấy ông nội vừa mới vãng sanh cùng đi với Quán Thế Âm Bồ Tát đến cứu sống”
LỜI GIỚI THIỆU: Cách nay 7 hay 8 tháng, chúng tôi có dịp điện đàm với Diệu Âm ở Úc Cả 2 chúng tôi
đều đồng ý với nhau là thời này trợ niệm đúng pháp theo Đại nguyện thứ 18 của đức Từ Phụ A Di Đà thì người
nguời đều vãng sanh hết. Chúng tôi có đưa ý kiến nhờ Diệu Âm viết một loạt bài. Diệu Âm than quá bận, trao
cho chúng loạt bài này tùy nghi xử dụng. Loạt bài chúng tôi đăng dưới cũng hợp với ý chúng tôi và xin cống
hiến chư liệt vị.
Cư Sĩ Tịnh Hải
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/1)
Kính gởi cô Lệ Tân,
Pháp môn niệm Phật là pháp rất khó tin, như trong kinh Phật nói là "nan tín chi pháp"! Chính vì thế, nói
ra mà người ta không tin tưởng là chuyện thường tình, không có gì xa lạ. Nhưng một người nào đó vừa mới nghe nhắc đến câu "A Di Đà Phật" mà phát tâm tu hành, ngày đêm cố gắng chấp trì danh hiệu để niệm, một lòng cầu nguyện vãng sanh thì thật sự là đặc biệt, nhất định không thể là người tầm thường. Những người này trong quá khứ chắc chắn đã cúng dường vô số đức Phật mà chúng ta không biết. Chính nhờ thiện căn vô cùng lớn đó mới tạo tín tâm vào pháp môn một đời thành Phật này. Nói như vậy, để cho cô Lệ Tân cùng quý cô bác
đang lập nhóm liên hữu ở thôn Cây Quân thấy rõ được rằng, nếu chân thành niệm Phật, chí kính lễ Phật, với đầy đủ niềm tin, tha thiết nguyện cầu vãng sanh, thì có thể biết được thiện căn của mình lớn lắm và xác định vị trí của từng người ở Liên Trì Hải Hội. Niệm Phật vãng sanh về Cực Lạc, dự phần ở ao sen thất bảo là điều chắc chắn, không thể sai lệch. Đây là lời Phật. Người nào quyết lòng theo đúng lời Phật dạy để tu hành, thì sự thành đạo ở ngay trong đời này. Diệu Âm xin thành tâm chúc mừng tất cả quý đạo hữu.
Mấy vấn đề của cô Lệ Tân đưa ra khá thực tế, rất hữu ích. Diệu Âm sẽ cố gắng nêu ra đây một vài ý kiến
cá nhân đã học hỏi được, rồi xin tùy duyên nhận xét, chứ không dám nhận lãnh tiếng "chỉ bảo" như cô Lệ Tân nói đâu. Vấn đề đầu tiên của cô Lệ Tân đưa ra có liên quan đến sự tụng kinh cầu an, cầu siêu, cầu tiêu tai giải nạn, tụng kinh báo hiếu mùa vu lan. Trong đó cô Lệ Tân có đưa ra các bộ kinh Pháp-Hoa, kinh Địa-Tạng Bổn Nguyện, kinh Đại Mục Kiền Liên báo hiếu v.v...
Đầu tiên, Diệu Âm xin thưa rằng, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, cầu sám... nào cũng tốt cả. Thành tâm
tụng niệm kinh điển của Phật đều có công đức, dùng công đức ấy hồi hướng cho ông bà cha mẹ, cho vong linh và hồi hướng cho chính mình vãng sanh đều được. Điểm chính yếu là công đức tu hành, công đức lớn thành tựu lớn, công đức nhỏ thành tựu nhỏ. Chúng ta muốn cứu độ vong linh, cứu độ cha mẹ, ông bà, hoặc đi hộ niệm cho người khác, đều có sự đóng góp công đức của chính mình đã tu được mà hồi hướng cho họ. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện có nói, khi hồi hướng công đức, thì người tu hành hưởng được sáu phần, còn người được hồi hướng hưởng một phần. Khi cầu siêu, cầu an, cầu tiêu tai giải nạn... nếu công đức của mình lớn thì vong linh được lợi ích lớn, công đức của mình nhỏ thì họ được lợi ích nhỏ. Do đó, khi lập đàn làm Phật sự, nếu càng được nhiều người tham gia cầu nguyện thì công đức hồi hướng càng lớn, vì nhờ sự đóng góp của nhiều người. Biết vậy rồi, muốn hồi hướng công đức cho người thân, chúng ta nên khuyên người trong gia đình tham gia càng đông càng tốt, vừa tỏ lòng hiếu kính vừa tạo thêm công đức gởi cho họ. Trong thư cô Lệ Tân có ý nghĩ rằng, cầu siêu thì đọc kinh Địa Tạng, cầu an thì đọc Pháp Hoa, trả hiếu cha mẹ thì đọc kinh Mục Kiền Liên v.v.. Điều này không có gì sai, vì đọc tụng các kinh điển Phật đều có sự lợi ích. Tuy nhiên, điểm chính yếu vẫn là công phu của mình. Nếu công phu thành thục thì có thể nói rằng, đọc kinh, niệm Phật, niệm chú nào cũng đều có quả báo tốt. Nếu công phu không có, hoặc quá yếu thì sự cầu nguyện khó có lợi ích lớn.
Công phu thành thục là người có lòng thành kính và tinh tấn chuyên tâm tu hành. Người có lòng thành tín,
có tâm lễ kính, biết y giáo phụng hành, trường kỳ chuyên tâm tu học thì người đó sẽ dễ đạt đến công phu thành thục. Người không thành tâm, tu hành không chuyên nhất, thích ôm đồm nhiều thứ thì thường chỉ thu lượm những kiến thức bên lề, dễ biến thành vọng tưởng, khó thâm nhập vào đạo pháp. Trong đó sự thành kính là chìa khóa khai đạo. Thành tất linh. Thành kính sẽ được linh ứng. Đây là điều tối quan trọng chúng ta cần nên chú ý. Xin kể ra đây một chuyện vừa mới xảy ra năm ngoái (2004) về một sự linh ứng bất khả tư nghì cho cô bác nghe. Câu chuyện do ông Lâm Tâm Nhuận, một thành viên trong Ban-Trị-Sự hội Tịnh Tông ở Sydney Úc châu kể lại về một sự có liên quan đến đứa cháu trai, con người anh thứ tư của ông. Khi đó, người cháu trai 29 tuổi, có vợ và một con mới 18 tháng, là nạn nhân trong một tai nạn lưu thông khá nặng vào ngày 28/2/2004 tại Mã lai.
Sau khi bị tai nạn, người cháu của ông được đưa về bệnh viện cấp cứu, nhưng đã bị chấn thương sọ não,
nên đã hoàn toàn mê man bất tỉnh. Trong suốt ba ngày liền bác sĩ Tây y và Đông y đều liên tục theo dõi và
chữa trị, nhưng sau cùng họ xác định rằng khó có hy vọng tỉnh lại, và báo cho gia đình biết rằng nạn nhân có thể ra đi bất cứ lúc nào. Biết được bác sĩ đã vô phương cứu chữa, người anh của ông quyết định đem con về nhà niệm Phật hộ niệm, việc sống chết quyết lòng giao trọn cho Phật Bồ tát gia trì.
Cháu ông được đưa về nhà và đặt nằm trong phòng thờ Phật. Trước thân thể bất động của con, người cha
đã khai thị như vầy:
- Con à, hiện tại, vì một tai nạn xe mà khiến con bị ảnh hưởng và lâm vào tình trạng vô cùng nguy kịch,
tánh mạng như chỉ mành treo chuông. Các bác sĩ ở bệnh viện đều phải bó tay chịu thua, cho nên ba mới đem con về đây niệm Phật. Nếu duyên thọ của con chưa dứt, thì hãy mau mau tỉnh dậy. Bằng ngược lại, thì ba đây vì con mà niệm Phật, niệm cho đến khi nào được đức Phật A Di Đà tới tiếp dẫn thì con mới đi. Bằng không, nếu có ai khác tới dụ dẫn con, con cũng mặc kệ, nhất định không theo. Nhớ lời dặn dò của ba và nương vào Phật mà liễu thoát sanh tử. Nhớ nhé! Nhớ nhé!
Nói xong, anh của ông bắt đầu đem hết tâm thành ra niệm từng câu Phật hiệu. Cả nhà cũng đều dốc lòng
kiên trì thành tâm hộ niệm. Họ thành tâm niệm Phật, khẩn thiết cầu Phật Bồ-tát gia bị. Tất cả đều niệm Phật nhiếp tâm đến nỗi dường như quên cả thời gian và thực tại bên ngoài. Họ cứ niệm mãi, niệm mãi... không ngừng. Niệm cho đến sáng ngày thứ ba, (nghĩa là thêm ba ngày nữa, tất cả là sáu ngày trong cảnh mê man bất tỉnh), thì đứa cháu ông tỉnh dậy, tỉnh hẳn như người bình thường và có thể trở lại sở làm việc. Thật bất khả tư nghì!
Ai đã cứu cháu của ông thoát cái chết. Ông viết tiếp:
-Tôi hỏi đứa cháu: "Trong lúc hôn mê con có thấy gì đặc biệt không? Con đã thấy gì, và đi đâu? Cháu tôi
kể ra hết, đặc biệt nó nói là nó đã thấy đức Quán Thế Âm Bồ tát (giống y như bức Thánh dung mà ba mẹ đang thờ trong nhà) nhưng cao lớn lạ thường. Ngài được vây quanh bởi nhiều Thánh chúng, xuất gia có, tại gia có, số lượng đông đến không thể kể hết. Và đặc biệt trong số đó nó thấy có cả ông nội nữa. Quán Thế Âm Bồ-tát tay cầm nhành dương liễu đã rảy nước lên người con ba vòng. Khi con vừa chợt phát khởi lên ý gọi Ngài, thì ngay lúc ấy con đã tỉnh dậy".
Câu chuyện này có thật sự, mới vừa xảy ra. Như vậy, tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện có thể giải nạn,
thì niệm Phật cũng được tiêu tai giải nạn...
Cũng xin nói thêm là, người cháu có nhắc đến ông nội của anh ta đã cùng đến với Quán Thế Âm Bồ tát,
đây chính là cụ Lâm-Đạo-Truyền đã vãng sanh lúc 11 giờ 20, ngày rằm tháng 2 năm Giáp-Thân (2004), nghĩa là trước đó không lâu. Cụ đã biết trước ngày ra đi ba tháng và âm thầm chuẩn bị tất cả những gói quà cùng tiền bạc chia phần cho từng người, nhưng việc vãng sanh thì chỉ báo cho người nhà biết trước khi ra đi 30 phút.
Cụ nói cho người con trai trưởng biết rằng vào giờ phút đó A Di Đà Phật sẽ tới tiếp dẫn, rồi cụ an nhiên
nằm theo thế kiết tường vãng sanh, hưởng thọ 101 tuổi. Đây là chuyện có thật.
Một chuyện khác, vào tháng 7/2003, khi tôi về quê thăm gia đình. Trước đó một ngày có một người
trong làng vác cuốc ra đồng thăm ruộng, cô ta trượt chân té xuống bờ ruộng rồi bất tỉnh. Khi đem đến bệnh viện cấp cứu thì bác sĩ cho biết bị chấn thương sọ não, và không thể cứu lại được.
Khi đem về nhà cô vẫn chưa chết, rất nhiều người trong thôn hàng ngày tới thăm, than thở chia buồn, con
cháu trong nhà thì khóc lóc lu bù. Trong gia đình có người cháu trai cũng biết tu chút ít, có thiết lập bàn thờ và tụng kinh Địa Tạng.
Khi tôi tới thăm thì thấy cô đó nằm bất động trên giường, chỉ thấy còn thở nên biết chưa chết mà
thôi. Tôi khuyên mọi người nên niệm Phật hộ niệm cho cô, cầu Phật Bồ tát gia trì, nếu mệnh đã dứt thì được vãng sanh, nếu mệnh chưa dứt thì được tỉnh lại. Thế nhưng, không ai chịu nghe theo. Tôi nhìn thấy nước mắt cô cứ trào ra lăn dài xuống má, những người chung quanh phải thường xuyên chặm nước mắt cho cô và khóc cùng với cô. Nhìn thấy cảnh tượng quá thương tâm, nhưng tôi không có cách nào chuyển đổi tâm ý của mọi người, không đủ sức giải cứu cho cô.
Phàm con người ít ai chịu lo toan việc thoát nạn. Trong lúc còn khỏe mạnh thì buông lung, cứ nghĩ rằng
đời mình còn xuân xanh, còn nhiều may mắn cớ chi phải lo tu sớm. Đâu ngờ rằng, như cô đó, mới bước ra cửa thì không còn sức để bước trở vào, phải nhờ đến người khác, đem cái võng khiên xác về nhà, đặt trên chiếc chõng tre, nằm đó bất động mà chờ cái giây phút trút hơi thở cuối cùng.
Trước phút lâm chung, nghiệp báo hiện hành, oan gia trái chủ bủa vây trả thù, đòi nợ, chúng ngăn chận tất
cả các nẻo đường giải thoát, thẳng thắn ra tay chộp cổ người thân của mình lôi vào nơi khổ nạn mà không ai hay!
Tôi biết vậy, nhưng không biết cách nào để giải tỏa, không biết nói sao cho người ta tin, không đủ sức
giúp cô xa lánh đường hiểm ác. Thật quá tội nghiệp! Tôi bước ra ngoài, thì ở hè trước có bày một bàn tiệc nhỏ,
với vài tách trà, vài chung rượu. Một vài người đàn ông trong làng đang trò chuyện, rượu cũng đã thấm môi, đã
bắt đầu nói hơi lớn tiếng, có một vài lời phát biểu không kiêng dè gì đến sự đau khổ của nạn nhân đang đếm
từng hơi thở để ra đi. Đứa cháu trai thì lâu lâu tới ngồi trước bàn thờ tụng một phẩm kinh Địa Tạng. Tụng xong
rồi trở ra nhấm nhí chút rượu...
Tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có thể làm tiêu nhiều tai ương khổ nạn cho mình, cho người
thân, nhưng phải thành tâm, chí kính, phải tha thiết nguyện cầu mới được sự gia bị. Đọc kinh Phật còn giúp cho
những người còn đang sống hiểu được lời dạy của Phật, theo đó mà làm. Vạn sự đều do nhân quả. Vì vô minh
lầm lạc mà trong vô lượng kiếp nay ta tạo quá nhiều nghiệp chướng, hôm nay đọc đến kinh Phật hiểu rõ nhân
quả nghiệp báo ở địa ngục thì phải biết giác ngộ, phải sám hối tội lỗi, phải sớm bỏ ác làm lành, tạo nhiều công
đức để hóa giải nghiệp báo, chứ đâu phải tụng mấy câu kinh cho Phật nghe, trong khi tiệc rượu thì đang chờ dở
dang trước hè!
Hai câu chuyện có thật đã xảy ra, tương tự nhau, nạn nhân đều bị chấn thương sọ não bất tỉnh nằm chờ
chết. Một người đã được thoát nạn một cách thần kỳ ngoài sức tưởng tượng, một người đã gặp nạn còn chịu
nạn nặng hơn, giống như người rớt giếng còn bị đá rơi theo! Đây là những bài học quý giá giúp cho chúng ta ý
thức đứng đắn về sự tu hành. Tu hành chính là ở cái tâm chân thành thanh tịnh, chứ không phải hình tướng bên
ngoài. Người mà cứ mãi chạy theo cái danh hão huyền hư vọng của thế gian, thiếu niềm tin, thiếu thành kính
thì khó có sự cảm ứng đạo giao, không thể tiếp nhận được Phật lực gia trì.
Người có lòng tin, tha thiết nguyện vãng sanh, thành tâm niệm câu A Di Đà Phật thì một đời đắc được sở
nguyện. Còn tu theo những pháp không hợp căn, hợp cơ, không liễu giáo, thì như Phật nói: "Ức ức người tu
hành, khó tìm ra một người chứng đắc" vậy.
Trong kinh Địa Tạng, Phật dạy, trong đời sau người nào chỉ cần nghe danh hiệu của Bồ tát Địa Tạng, hoặc
đảnh lễ, ngợi khen, luyến mộ, vẽ hình, đúc tượng Ngài hoặc đọc kinh Địa Tạng... đều có phước báu vô lượng,
như thoát khỏi nạn tam đồ, được tái sanh vào các cõi trời, cõi người, làm được đế vương nhiều kiếp số để hưởng
phước báu.
Trong kinh này Phật cũng nói rất rõ về lý nhân quả báo ứng, giúp cho chúng sanh giác ngộ đường thiện
lành để tạo phước đức hầu tránh cái duyên địa ngục. Khi hộ niệm, nếu bệnh nhân bị nghiệp chướng hiện hành,
hoặc bị oan gia báo hại quá nặng, ta nên tụng vài biến kinh Địa Tạng để khai thị và giải nghiệp trước mắt cho
họ. Đây là điều rất tốt. Nhưng nên tụng trong lúc còn tỉnh táo hoặc sau khi xong tang sự, chứ không nên tụng
ngay giờ phút lâm chung.
Giờ phút lâm chung phải quyết lòng niệm Phật trợ niệm để giúp cho bệnh nhân vãng sanh trước đã. Mọi
chuyện khác sau đó mới được tính tới.
Như vậy, tụng kinh Địa Tạng có công đức to lớn vô cùng, được phước đức vô lượng, chúng ta không thể
xem thường. Nhưng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ Phật lại dạy, dù một người có làm
tội lỗi đến ngũ nghịch thập ác, nghiệp báo này nhất định phải bị đọa vào địa ngục A-tỳ, mà lúc lâm chung được
thiện tri thức khai thị chỉ điểm đường vãng sanh Tây Phương. Nếu người đó tin tưởng, biết thành sám hối,
thành tâm niệm Phật, niệm được 10 câu Phật hiệu "Nam mô A Di Đà Phật" cầu sanh Tịnh Độ thì vẫn được vãng
sanh, chứng bất thối chuyển, nhẫn đến đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
So sánh giữa hai sự lợi ích, một là phước báu nhân thiên, hai là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, thì vãng
sanh Cực Lạc thù thắng hơn quá nhiều, thật là "bất-khả-thuyết" công đức. Vì phước báu trời người dù lớn tới
đâu cũng chỉ giúp chúng sanh thoát khỏi tam đồ ác đạo, sanh trở lại làm người hoặc lên đến các cõi trời, vẫn
còn trong tam giới, chứ chưa thoát vòng sanh tử, chưa ra khỏi lục đạo.
Còn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thì không những qua khỏi tam giới lục đạo, thoát ly được sanh tử
luân hồi, mà còn vượt qua khỏi thập pháp giới, trụ tại nhất chân pháp giới của Phật. Đây là điều bất khả tư
nghì, không lời nào tán thán cho xứng vậy. Hơn nữa, chúng ta cũng nên nhớ điều này, phước báu công đức dù
to lớn, có thể vượt thoát tam đồ trong đời, có thể hưởng lạc nhiều kiếp ở các cõi trời người, nhưng người có
phước phải biết cách gìn giữ cẩn thận mới có thể hưởng được trọn vẹn. Còn nếu sơ ý, đem công đức phước báu
ném vào hầm lửa thì đành phải phủi bàn tay trắng, đọa lạc cũng đành phải chịu đọa lạc. Ví dụ như người có bạc
tỷ, có thể sống trọn đời sung sướng, và dành lại cho con cháu thừa hưởng. Nhưng nếu dại khờ, đem tiền tung
vào sòng bạc một đêm thì có thể thua sạch. Phước báu bỗng chốc trở thành số 0 Bần cùng vẫn hoàn lại là bần
cùng mà thôi!
Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cũng có nói rằng, chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề khởi tâm
động niệm đều là nghiệp chướng. Tạo nghiệp chướng thì tiêu công đức, đã tiêu công đức thì làm sao giữ gìn
công đức cho trọn vẹn?! Do đó, dù phước báu lớn tới đâu mà còn kẹt lại trong lục đạo tam giới, thì không ai
dám bảo đảm tương lai sẽ thoát nạn, nhất là nay đã rơi vào thời mạt thế, càng ngày càng hiểm nguy! Chúng ta
cần chú ý đến điểm này.
"Đời mạt pháp ức ức người tu hành, khó tìm ra một một người chứng đắc", đây là lời Phật dạy trong kinh
Đại Tập. Tại sao vậy? Vì chúng sanh có quá nhiều nghiệp chướng, nhiều phiền não. Sinh ra trong thời buổi mạt
pháp, chúng ta nên tự biết rằng nghiệp chướng của mình nặng lắm, cái quả báo rất tệ hại chứ không tốt lành gì
đâu. Chính vì thế, con người dù có tu hành, nhưng đường tu thường gặp nhiều chướng ngại, nhiều khó khăn,
chứ không phải dễ dàng. Nói cho dễ hiểu hơn, tu hành thì có, nhưng không thể tạo nhiều được công đức để hóa
giải nghiệp chướng, nên nghiệp chướng càng ngày càng lớn, thành ra rốt cuộc con người phải theo nghiệp thọ
báo, chịu ách nạn nặng nề.
Người biết tu hành chân chính mà Phật còn nhắc nhở như vậy, huống chi là người không tu! Không chịu
tu hành thì quả báo của họ sẽ tệ hại biết chừng nào!
Một trong những yếu tố chính yếu tạo ra chướng ngại là vì tâm hồn đã bị ô nhiễm khá nặng! Ba chất độc
Tham-Sân-Si đã thấm nhiễm quá sâu, thành ra tư tưởng và hành động của con người đời nay xa lìa đạo pháp,
chạy theo thế tục, thích làm ác, ít làm lành, không chịu tu hành, không tin nhân quả. Thế giới ngày nay trọng về
khoa học kỹ thuật, tranh đua về vật chất nhiều hơn tu dưỡng tinh thần, thiện tri thức càng ngày càng ít. Người
muốn tu hành không biết ai để học hỏi, không biết đâu là chánh pháp để nương tựa. Đây thật sự là một chướng
ngại lớn cho chúng sanh trong thời này. Người thực tâm muốn tu hành thì lại thường bị lạc mất hướng đi, mù
mờ con đường giải thoát. Có người sau một thời gian tu hành đâm ra thất vọng, chán nản. Cái kinh nghiệm này
chắc có lẽ nhiều vị đồng tu cũng ít nhiều biết qua.
Thời mạt pháp tu hành bị nhiều chướng ngại lắm! Một người muốn tu hành, nếu sơ ý, không theo đúng lời
dạy của Phật, nhất là kinh điển đại thừa, thì dễ dàng bị lạc vào các đường hiểm ác. Nếu không bị lạc vào các
pháp tu tà vạy, thì cảnh nhẹ nhất cũng vướng vào chữ phước báu nhân thiên. Tiền tài, danh vọng, sắc dục... thực
tế, dễ thấy, nó có mãnh lực rất lớn, dễ làm cho con người tham đắm vào đó mà quên hẳn chuyện chứng đắc,
thành đạo. Người tu hành nên nhớ rằng, có phước không huệ thì giống như người đi đường có lương thực mà
không biết đường đi, lỡ lạc vào hang hùm rồi thì bị tiêu mạng. Lúc đó phước báu ai sẽ hưởng đây?
Người được nhiều phước báu là do trong nhiều đời nhiều kiếp trước có làm phước, bố thí, cúng dường,
chứ không phải là do sự mong cầu. Cầu phước là tham, là một trong ba thứ độc tố hại chết chúng sanh thê thảm
ở tam ác đạo. Nếu trong mệnh có phước, không cầu cũng có. Nếu mệnh có phước mà còn lo cầu phước nữa, thì
cũng được phước, nhưng với cái tâm này chắc chắn sẽ xa lìa đường tu hành. Không tu thì tạo nghiệp. Phước
càng lớn tạo nghiệp càng nhiều. Bây giờ sướng bao nhiêu, tương lai khổ bấy nhiêu. Đây là nạn tam thế oán vậy.
Biết vậy rồi thì cô bác chớ nên tham cầu phước báu nhiều quá, không tốt về sau. Có tu thì tự nhiên có
phước. Đừng cầu. Việc chính yếu là chúng ta phải nhắm tới sự chứng đạo giải thoát, quyết lòng ra khỏi tam
giới, lục đạo. Được vậy mới gọi là chứng đắc. Như vậy, ý nghĩa chứng đắc gần gũi nhất là phải thoát ly sanh tử
luân hồi. Làm sao thoát? Phật dạy: "Chỉ còn cách nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi",
(Kinh Đại Tập). Phải vượt qua cho được cái cửa ải này mới khỏi uổng công tu tập. Nếu không, dù hình thức có
đẹp cho mấy, lý luận có hay cho mấy, kiến giải có thông cho mấy, mà đường sanh tử vẫn chưa rõ ràng, sự thoát
nạn còn mờ mờ mịt mịt, thì tất cả sau cùng cũng chỉ là vọng tưởng mà thôi!...
Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Phật đã đưa ra giải pháp rốt ráo để một đời viên mãn đạo
quả. Niệm Phật thành Phật. Sự việc đã quá rõ ràng. Đường thoát nạn cho chúng sanh trong thời mạt tận này đã
quá minh bạch. Cứu cánh giải thoát đã được Thế Tôn xác quyết. Người nào muốn một đời này đắc đạo thành
Phật thì phải mau mau niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Người nào không chịu niệm Phật, không thèm nhờ Phật lực
gia trì thì khó lòng thoát khỏi trần lao, đành phải tham dự vào nhóm đại chúng đông đảo trong ức ức người kia
để tiếp tục nếm mùi khổ lụy trong vô lượng kiếp nữa chứ có cách nào khác hơn!...
Trở lại vấn đề tụng kinh, đã là kinh Phật thì tụng kinh nào cũng đều có công đức. Tuy nhiên, vì nghiệp
chướng quá nặng, những pháp tu hành bình thường không thể đối trị nổi với nghiệp chướng, nên phải bị nghiệp
chướng báo hại. Một trong những nguyên do chính là vì căn cơ của chúng sanh quá thấp, không thể tự khai mở
trí huệ. Không khai được trí huệ thì không thể đột phá vô minh, không thể đoạn trừ phiền não.
Ấn Quang Đại sư nói, người tự lực tu chứng, nếu nghiệp chưa sạch tình chưa không, thì phải trở lại trong
lục đạo để theo nghiệp thọ báo. Nói cách khác là không thể thoát nạn. Tu giới được định, nhân định phát
huệ. Giới-Định-Huệ là tam vô lậu học, là tổng cương lĩnh của Phật pháp. Nhưng thời mạt pháp, tự lực tu
chứng để đắc trí huệ bát-nhã không phải là chuyện tô son điểm phấn trên đầu môi!...
Hiểu được điều này, chúng ta mới thấy muốn vượt qua tam giới, thoát ly sanh tử luân hồi quả thật quá khó
khăn. Phật dạy, thời mạt pháp tâm trí chúng sanh hầu hết là trung-hạ căn. Nghĩa là, người dù cho thông minh
tài trí cao đến mấy đi nữa thì cũng chỉ là loại trung căn, còn bình thường đều thuộc về hạ căn. Người đệ tử Phật
nên thành tâm tiếp nhận lời Phật dạy, nên biết khiêm hạ xác thực căn cơ của mình, quyết lòng nương theo pháp
môn nhị lực mà niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, nhờ Phật lực gia trì để đới nghiệp vãng sanh, một đời này thành vị
Bất thối chuyển tại cõi Tây Phương hầu viên thành Phật đạo. Nếu không chịu nghe lời Phật dạy, thì coi chừng
suốt đời tu hành không ít khó khăn mà sau cùng cũng chỉ kết được một chút duyên lành với Phật pháp, còn
chuyện liễu sanh thoát tử vẫn xa vời mù mịt!.
Mọi pháp tu hành đều nhắm vào sự thành tựu cái tâm thanh tịnh. Tụng nhiều bộ kinh khác nhau tâm rất
khó được thanh tịnh. Trong kinh Phật, mỗi bộ kinh có rất nhiều thuật ngữ khác nhau, có nhiều thuật ngữ rất khó
hiểu thấu đối với người căn tánh chưa khai. Nhưng sự thực thì "đồng quy nhi thù đồ". Pháp môn tuy khác
nhưng cùng quy về một mục đích. Nhiều thuật ngữ tuy khác nhau nhưng ý nghĩa đều tương đồng. Phật thuyết
nhiều kinh vì căn cơ chúng sanh sai biệt, nói nhiều thuật ngữ khác nhau vì muốn phá chấp cho chúng sanh. Vạn
pháp giai không, thì thuật ngữ vẫn là không. Chúng ta không nên chấp trước. Pháp Phật chỉ là phương tiện dẫn
dắt chúng sanh tiến tới bờ giác mà thôi.
Bờ giác là một nhưng đường đi thì có khác. Kinh pháp là phương tiện, đại giác đại ngộ thành Phật mới là
cứu cánh. Đã là phương tiện thì phương tiện nào thích hợp nhất, thuận lợi nhất đối với ta thì cứ vững tâm, giữ
thẳng một đường mà tiến mới mong ngày tới đích. Nên nhớ rằng kinh Phật một lời vạn nghĩa, pháp Phật không
ở nơi danh tự mà phát xuất từ chân tâm. Phải tu tâm thanh tịnh trước để khai mở chơn tâm mới có cơ hội liễu
giải kinh Phật.
Làm sao khai mở chân tâm? Phải lo tu "Căn Bản Trí" trước, mới có được "Hậu Đắc Trí" sau. Nhưng thời
mạt pháp này có mấy ai có thể tự khai ngộ được?! Không thể tự khai ngộ, thì hãy chí tâm niệm Phật, dùng câu
Phật hiệu bao phủ nghiệp chướng, nhờ Phật cứu độ mà được đới nghiệp vãng sanh. Về tới Tây Phương, nhờ
Đức Di Đà gia trì thì liền được khai mở chân tâm, một đời thành đạo Vô Thượng. Như vậy không hay hơn
sao? Người tâm chưa khai mà cứ đi tra cứu để mong liễu giải kinh Phật thì dễ rơi vào tình trạng thiên chấp,
hiểu sai. Hiểu sai thì giải sai, giải sai thì thực hành sai. Vô hình chung, dễ đưa đến tình trạng càng tu càng lộn
xộn, càng phiền não. Chính vì thế tụng nhiều loại kinh điển thì tâm khó được định, công phu thường bị trở ngại,
không hay bằng chuyên tâm trì tụng một bộ kinh vậy.
Tu hành cần có phương hướng rõ ràng, có đường đi nhất định. Chỉ dựa theo một bộ kinh thì tâm mới dễ an
định, có an định mới thâm nhập vào lý đạo. Đây gọi là "tâm an lý đắc". Đừng nên lăng xăng tìm hiểu đủ thứ,
đừng nên tham cầu biết nhiều mà tâm bị tạp loạn, chao đảo hay bất tịnh. Một khi tâm đã loạn thì thường gặp
phải chướng ngại, rất khó tiến tu đạo nghiệp. Chuyên trì tụng một bộ kinh thì lời kinh càng ngày càng rõ, ý kinh
càng ngày càng sáng. Tín-Giải-Hành-Chứng các cảnh giới tự đó tuần tự tăng tiến.
Nhất kinh thông nhất thiết kinh thông. Đây là phương pháp của HT Tịnh Không hướng dẫn tứ chúng đồng
tu. Các đệ tử của Ngài đều y giáo phụng hành, chỉ cần một thời gian hạn hữu mà hầu hết ai cũng đều giảng giải
khá thông suốt kinh pháp. Mỗi vị tự chọn một bộ kinh để giảng, bất luận là tiểu thừa hay đại thừa. Nhất môn
thâm nhập. Pháp sư giảng kinh giảng đi giảng lại chỉ một bộ kinh, lần giảng sau bổ túc những khiếm khuyết của
lần trước, mỗi lần giảng cảnh giới mỗi mới, mỗi cao, tăng cao mãi...
Lúc đầu có người tưởng rằng các thầy này giảng kinh sao "nghèo" quá! Chỉ có một quyển kinh cứ lập đi
lập lại hoài. Nhưng nếu tạm xa cách họ một vài tháng rồi trở lại nghe, thì mới thấy không ít ngạc nhiên! Lời
pháp bây giờ đã vượt trội, cảnh giới đã thăng tiến không ngờ. Họ sẵn sàng trở thành "chuyên gia" thuyết kinh
giảng đạo cứu độ chúng sanh chứ không phải tầm thường. HT Tịnh Không, có đôi lúc, chỉ từ một câu kinh Ngài
giảng rộng bao trùm đến tam tạng kinh điển. Thật cảm phục!
Pháp sư giảng kinh nhất môn thâm nhập, thì đồng tu nghe pháp cũng nhất môn thâm nhập. Không ai có
khả năng nghe kinh một lần mà khai ngộ, thì nghe pháp cũng phải kiên nhẫn nghe đi nghe lại nhiều lần. Có vậy
mới thành tựu. Cảnh giới người giảng tăng cao thì người nghe cũng tăng theo, trên dưới đồng tiến. Tất cả đạo
tràng của Tịnh Tông thế giới, tứ chúng đồng tu, một năm 365 ngày chỉ tụng một bộ kinh duy nhất là Vô Lượng
Thọ Kinh. Những ngày cộng tu thì tụng kinh A Di Đà. Ngoài ra thì trì niệm bốn chữ "A Di Đà Phật". Nhờ nhất
môn thâm nhập, trường kỳ huân tu mà khá nhiều người thâm nhập được lý đạo. Họ thấy rõ đường đi, họ quyết
tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.
Kết quả thì, nhiều người đã vãng sanh, không ít người biết trước ngày giờ ra đi, lúc lâm chung đều được
trợ niệm cẩn thận, không ít người thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện thân tiếp dẫn. Khi vãng sanh, sắc
diện tươi đẹp, thân thể mềm mại, thoại tướng tốt lành, có hương, có quang v.v...
Những chuyện này chính tôi đã biết quá nhiều. Có những cuộc vãng sanh đích thân tôi đã hộ niệm, thoại
tướng vãng sanh hiển hiện rõ ràng trước mắt. Thật bất khả tư nghì! Có chứng kiến được, ta mới thấy lời Phật
dạy không sai: "Chỉ nương theo pháp niệm Phật mới thoát luân hồi".
Cô Lệ Tân thân mến, hãy nghĩ thử, mục đích tu hành của mình là gì? Nếu vì để thành tựu đạo quả, thì
vãng sanh về Cực Lạc, một đời bất thối thành Phật có phải là con đường ngắn nhất, dễ nhất và viên mãn nhất
không? Có phải là nó quý hóa đến muôn ức triệu lần hơn những cảnh ra đi khổ đau, mê mê hồ hồ, thả thần thức
cuốn trôi theo nghiệp báo không?!
Ngài Triệt Ngộ thiền sư đời nhà Thanh nói, "Nhất cú Di Đà, viên dung pháp giới". Một câu danh hiệu A
Di Đà Phật đã hàm chứa cả vũ trụ hư không pháp giới, có đầy đủ tất cả Phật pháp trong đó rồi.
Cũng trong thời nhà Thanh, Ngài Quán Đảnh pháp sư thì nói, thời mạt pháp tất cả kinh sám không còn đủ
khả năng, chỉ còn có câu A Di Đà Phật... Chư Tổ Sư Đại đức nói, một câu phật hiệu A Di Đà Phật là tất cả 49
năm thuyết kinh giảng đạo của Thế Tôn. Còn chính Phật thì dạy rằng, thời này chỉ nương theo pháp niệm Phật
mới xuất luân hồi. Thế mà, nhiều người cứ mãi chạy tìm pháp khắp nơi làm chi vậy?! Xin cô bác hãy sớm xác
định đường tu hành vững chắc, đừng bán tín bán nghi, lỡ đời này luống qua rồi, thì trăm ngàn vạn kiếp sau chưa
chắc sẽ có cơ hội gặp lại để bàn chuyện giải thoát đó!...
Niệm Phật thành Phật, hãy chấp trì Thánh hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật" niệm tới cùng thì đủ sức hoàn
thành tâm nguyện thành đạo Bồ-đề, cứu độ chúng sanh. Nhất định vững lòng một đường thâm nhập, kiên trì
chuyên tu để quyết đắc được thiện lợi.
Còn về việc tụng kinh, nên chọn bộ kinh đồng bộ với tôn chỉ tịnh tông để trì tụng là cách tốt nhất để hỗ trợ
cho phương pháp nhất hướng chuyên niệm. Trong pháp môn Tịnh độ, kinh Vô Lượng Thọ là đại kinh viên mãn
nhất được Ngài Tịnh Không đánh giá là đệ nhất kinh trong tam tạng kinh điển, trong đó Phật nói rõ 48 đại
nguyện của đức Phật A Di Đà, cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, và cách tu hành để vãng sanh. Nếu quý cô bác
tụng niệm được thì quá tốt. Nhưng kinh Vô Lượng Thọ hơi dài, nếu không đủ sức tụng, thì nên lấy kinh A Di
Đà làm khóa tụng hằng ngày. Kinh Phật thuyết A Di Đà là kinh đặc biệt trong tam tạng kinh điển, được chư
Phật mười phương đồng hộ niệm, gọi là "Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh", chứ không phải thường. Công
đức của nó khó có bộ kinh nào sánh bằng vậy.
Tụng kinh A Di Đà thì được mười phương chư Phật hộ niệm. Thành tâm niệm một câu A Di Đà Phật thì
phá được 80 ức đại kiếp sanh tử tội trọng. Như vậy hằng ngày ta cứ tụng một biến kinh A Di Đà rồi thành tâm
niệm Phật. Niệm Phật có tín, có nguyện, có hạnh. Nơi trang nghiêm thì niệm thành tiếng, chỗ không trang
nghiêm thì niệm thầm, đi đường thì mỗi bước chân mỗi câu Phật hiệu, khi nằm trên giường chờ ngủ thì hít vào
"A Di Đà Phật", thở ra "A Di Đà Phật", tiếng Phật hiệu theo hơi thở mà luân lưu bất tận, thì công đức ta tạo ra
hàng ngày sẽ lớn vô lượng.
Đem công đức ấy hồi hướng cho chúng sanh, hồi hướng oan gia trái chủ, hồi hướng cho ông bà cha mẹ,
hồi hướng Cực Lạc cầu vãng sanh thì chắc rằng sẽ được như ý. Đây mới chính là công phu tu hành tích cực,
chứ còn lâu lâu ngồi trước bàn thờ Phật tụng một biến kinh, giống như kiểu trả nợ, trong khi tâm hồn lại rối
bùng ben, nghĩ tưởng đủ thứ, thì làm sao có công đức để cầu tiêu tai giải nạn, cầu siêu, báo hiếu đây!...
Niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đạo cứu độ chúng sanh trong thời mạt pháp. Nói vậy xin cô bác đừng vội
hiểu lầm cho rằng, pháp niệm Phật bình thường, chỉ dành cho kẻ sơ cơ thấp kém tu hành trong thời mạt vận.
Thực ra, đây là pháp môn đại uy lực, đại phước đức, đại bát nhã, đại thiền định, đại trang nghiêm, đại thanh
tịnh, đại Bồ đề, đại siêu việt... mà ba đời mười phương chư Phật cũng chỉ dùng pháp này để độ khắp chúng
sanh, (kinh Niệm Phật Ba-La-Mật, phẩm 1). Đây là pháp môn tam căn phổ bị, phàm thánh tề thâu, khế hợp mọi
căn cơ, trên từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến địa ngục chúng sanh đều được phổ độ.
Chính vì thế mà ngài Thiện Đạo đại sư nói, "Dù cho mười phương chư Phật đầy cả hư không pháp giới
hiện thân, phóng quang bảo bỏ môn Tịnh độ, rồi các Ngài truyền dạy pháp môn thù thắng khác, cũng không
dám vâng theo...". Vì sao vậy? Vì làm gì có chuyện này xảy ra! Nếu như có, thì đó chắc chắn là giả chứ không
phải thật!
Đức Thích Ca Mâu Ni đại diện mười phương chư Phật tuyên dương pháp niệm Phật là pháp tối thắng và
là pháp độc nhất mà mười phương ba đời chư Phật đều phải dùng để độ tất cả chúng sanh, thì có Phật nào lại
nói sai lời Phật.
Đại Thế chí Bồ Tát dạy, hãy đóng sáu căn lại cho tâm hồn thanh tịnh mà liên tục niệm Phật, cứ vậy mà tu,
không cần nhờ cậy vào các pháp nào khác thì tâm được khai mở. Các cô bác muốn được một đời này vãng sanh,
giải quyết ách nạn sanh tử khổ đau mà trong vô lượng kiếp đến nay chưa làm được, thì hãy tập buông xả hàng
ngày, mỗi ngày mỗi buông để gánh nghiệp chướng của mình càng ngày càng nhẹ. Nghiệp nhẹ thì phước
tăng. Phước này không còn là phước thế gian nữa đâu, mà là tư lương để giúp chúng ta vãng sanh thành Phật.
Buông xả tham sân si. Xả tham là xả phước thế gian để đổi lấy công đức. Đừng tham đắm danh vọng, tiền
bạc, nhơn nghĩa... nhiều quá. Các thứ đó mới thấy thì có lợi, nhưng thực tế thì có hại lắm đó, chớ nên tìm cầu.
Những sự đấu tranh, thị phi, ganh tỵ, mưu hại lẫn nhau là đại nhân chủng của địa ngục, quyết định phải từ bỏ.
Nếu thực sự muốn tu hành thì xin cô bác đừng nên đem những cái xấu của thiên hạ ra bàn. Ai xấu mặc họ, còn
ta hãy cố gắng giữ tâm thanh tịnh là tốt nhất. Những kiến thức thế gian, triết lý, tư tưởng, học thuật... nói lên thì
nghe hay lắm. Nhưng ít ai biết rằng, Phật nói, thế trí biện thông là một trong tám thứ của "Tam đồ bát nạn khổ",
vướng vào đó thì khó có ngày được giải thoát.
Giữ tâm thanh tịnh, khiêm nhường kính trọng mọi người, làm lành lánh ác, kiêng cữ sát sanh... Đã hiểu
được cuộc đời này chỉ là giả tạm thì mạnh dạn coi tất cả mọi chuyện đều bình thường. Vạn vật vạn sự chẳng
qua là sự diễn kịch trên sân khấu thì còn chấp nê làm chi nữa. Đó là tu phước. Chân thành niệm Phật, cung kính
lạy Phật, tha thiết cầu sanh Tịnh độ, đây là tu huệ. Cứ tu hành như vậy thì cảnh Cực Lạc sẽ hiện ra ngay trong
đời này, tại đây chứ có đâu xa. Ta đang sống chung với mọi người giữa cõi ngũ trược ác thế, nhưng tâm ta đã
hòa với tâm Phật, ta đã có sẵn chiếc vé để chờ ngày đi về Tây Phương thành Phật rồi vậy.
Thư chưa hết ý, nhưng xin tạm ngừng đây. Mấy vấn đề khác thư sau sẽ bàn tới.
Chúc cô Lệ Tân và quý cô bác tinh tấn niệm Phật.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư.
Viết xong tại Brisbane, ngày 24/6/2005.
Chuyên tu không gián đoạn, tức là thân phải chuyên lễ Phật A-Di-Đà không lễ các Phật khác; miệng phải
chuyên xưng danh hiệu Phật A-Di-Đà không xưng hiệu Phật khác hoặc tụng các kinh khác; ý phải chuyên quán
tưởng Phật A-Di-Đà không quán tưởng gì khác.
(Đại Sư Thiên Như, đời nhà Nguyên)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM
3 THỨ CHƯỚNG NGẠI CẦN BIẾT
PHIỀN NÃO, NGHIỆP CHƯỚNG, BÁO CHƯỚNG
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/2)
(Viết tiếp thư trước)
Kính gởi cô Lệ Tân cùng cô bác cộng tu!
Thời này tu hành có nhiều chướng ngại lắm. Chướng ngại có ba loại, một là phiền não chướng, hai là
nghiệp chướng, ba là báo chướng.
Phiền não chướng là tham-sân-si; Cô bác muốn tu hành cho thành tựu thì nên tìm cách giảm bớt ba chất
độc này, mỗi ngày mỗi giảm cho đến hết luôn mới trốn thoát ba cảnh đọa lạc. Tham lam là đường ngạ quỷ, sân
khuể là đường địa ngục, ngu si là đường súc sanh.
Nghiệp chướng là ngũ nghịch thập ác, sát đạo dâm vọng. Muốn tu thì cố gắng giữ năm giới, nhất là giới
sát sanh. Hãy giữ lòng từ bi thương mạng chúng nó, có thế thì ta dễ được thoát nạn.
Báo chướng là hậu quả bị đọa lạc trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Phiền não nghiệp
chướng là nhân, báo chướng là quả. Nhân nào quả đó, nhân duyên quả báo không sai một ly một tấc.
Khi thấy được đường tu hành mới biết rằng trong quá khứ chính mình đã sơ ý tạo ra quá nhiều nghiệp ác
như giết hại chúng sanh, tham lạm công quỹ, chống báng Phật pháp, sân giận, đố kỵ, vọng ngôn, xảo ngữ, trộm
cướp, lường gạt, ganh tỵ, thị phi, v.v... nay gặp được Phật pháp mới hay quả báo này toàn là địa ngục, không địa
ngục thì ngạ quỷ, không ngạ quỷ cũng là đường súc vật thì sợ đến đêm ngày ăn ngủ không yên!
Đối điện với cảnh khổ mới thương hại kẻ bần cùng, nhìn thấy người chết mới lo buồn cho thân phận người
sống, nhìn cảnh tra tấn dã man trong địa ngục mới sợ hãi đến tương lai của mình.
Nhờ cơ duyên này mà nhiều người biết quay đầu sám hối không dám phạm tội nữa. Nhiều người phát khởi
tâm từ bi lo làm lành tích phước. Nhiều người khởi phát tâm bình đẳng, nguyện trả cho sạch nghiệp để mong
thoát cảnh tam đồ. Những người có những tâm nguyện này chứng tỏ đã biết tu hành, đáng khen! Nhưng nếu
những người này gặp Diệu Âm thì tôi sẽ bày cho họ một sự phát nguyện khác. Đó là hãy niệm Nam Mô A Di
Đà Phật và phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.
Vì sao vậy? Vì niệm Phật cầu sanh Cực Lạc là đới nghiệp vãng sanh, bất thối thành Phật. Cái điểm chính
là nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là cầu sám hối, cầu phước báu, cầu trả sạch
nghiệp...
Một chúng sanh phàm phu tội lỗi như chúng ta không thể nào mơ có ngày trả cho đến nghiệp sạch tình không!
Người biết sám hối nghiệp chướng, không dám phạm tội nữa thì rất tốt.
Nhưng đâu phải không làm tội mới thì tội cũ sẽ hết đâu! Đã ra tay giết hại người ta rồi, mối thù này là
mạng phải đền mạng, làm sao đền?
Người phát tâm tu hành làm lành tích phước là tu phước. Nhân tu phước thì có quả báo phước, còn nhân
đã gây tội trong quá khứ thì phải trả tội. Tội chướng chất chồng vô lượng kiếp chẳng lẽ mới đem vài đồng bố thí
là xong được sao? Còn người phát tâm bình đẳng, dám làm dám chịu, nghe qua thấy khá cảm khái, khá anh
hùng! Nhưng nhân duyên quả báo tơ hào không sai, giết một mạng phải đền một mạng!
Hỏi rằng ta có được bao nhiêu cái mạng để trả đến hàng vạn ức chúng sanh đã bị ta sát hại? Hôm nay ta
mới biết đường tu hành, nhưng có ai ý thức được cái số lượng tội lỗi do mình gây ra trong vô lượng kiếp qua là
bao nhiêu chưa?
Sống trong cảnh phàm phu ngu muội, ta tiếp tục tạo nghiệp mới, sát đạo dâm vọng mỗi đời mỗi tăng, trả
chỉ có một mà tạo hàng vạn, thì bao giờ mới thực hiện xong cái anh hùng tính này đây?!!!...
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, nếu nghiệp chướng của chúng sanh mà có hình tướng, thì hư không này
không còn chỗ chứa. Chẳng lẽ cam tâm ở lại trong chốn tam đồ lục đạo hàng vô lượng vô biên kiếp để chịu chết
đi sống lại trả cho xong nợ sao?
Giáo pháp nhiệm mầu của Phật là cứu độ chúng sanh vượt qua tam đồ lục đạo, thoát khổ được vui, vãng
sanh Tây Phương, chuyển phàm thành Thánh. Nếu một pháp mà bắt có nợ phải trả cho hết, có nghiệp phải báo
cho tận mới được giải thoát, thì bao giờ mới độ được một chúng sanh?
Độ là gì? Là chuyển phàm thành Thánh, là đáo bỉ ngạn, là vượt qua sanh tử. Chúng sanh đang tạo tội lỗi,
lặn ngụp trong sanh tử, đọa lạc, nhờ Phật lực gia trì mà được độ thoát. Đây mới thật là nhiệm mầu! Phật pháp
đâu có thể cay nghiệt. Luật pháp thế gian mà cũng không đến nỗi cay nghiệt như vậy, hà huống là pháp Phật lấy
từ bi làm gốc...
Cô Lệ Tân và quý cô bác ạ, nếu thực sự muốn tu hành, cô bác phải cần có nhiều lần tự phản tỉnh lại cách
tu hành để coi có gì sơ suất hoặc sai lầm không hay. Có rất nhiều người tu hành khá lâu năm, nhưng vẫn còn có
những ý niệm không chánh pháp, có những lời nguyện sai lạc! Nhiều người vẫn thường nghiên cứu kinh pháp,
nhưng những sự lệch lạc này chưa chắc đã nhận ra; Nhiều người hàng ngày có tới chùa tu học, nhưng chưa
chắc phát hiện được.
Trong năm vừa qua (2004), tôi có tiếp xúc với một vị, suốt một đời hầu như ở chùa tu hành, đã nói với tôi
như vầy, "Tôi nguyện rằng, kiếp sau tôi sẽ không bao giờ cúng dường cho chùa lớn, chỉ cúng cho chùa nhỏ mà
thôi. Chùa càng nhỏ tôi sẽ cúng dường càng nhiều. Người đời nay bất công quá, chùa lớn đã giàu mà lại cúng
nhiều, còn chùa nhỏ nghèo xác xơ thì lại cúng ít, nhiều khi không thèm cúng!".
Tôi hiểu được chút ít tâm trạng của vị đó nên khuyên rằng, thay vì chúng ta nguyện trở lại trong lục đạo
này để cúng dường, thì đâu bằng nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc để thành Phật cứu độ chúng sanh
không hay hơn sao?
Vị đó lại nói, "Cái gì cũng phải cần có nhân duyên, có lý có sự chứ! Có lý mà không sự thì đạt lý không
được. Có thực mới vực được đạo, không có ăn thì làm sao thành đạo!".
Nghe lời biện bạch đó làm tôi hơi giật mình! Chẳng lẽ thực sự có nhiều người suốt đời tu hành nhưng lại
âm thầm đi theo con đường riêng của họ, chứ không chịu nghe theo lời Phật dạy trong kinh điển hay sao?!... Lời
nguyện này có tác dụng như một "Dẫn Nghiệp", có thể đưa đến hậu quả là ta chịu cái "Mãn Nghiệp" ở trong lục
đạo.
Nhất thiết duy tâm tạo. Cảnh giới tương lai ở từ tâm nguyện mà thành. Chúng ta cần cẩn thận, không nên
dùng nó như chuyện thế gian thường tình để đối chọi với vài điều bất công riêng lẻ của người đời, hoặc phát lời
nguyện lệch ra khỏi quỹ đạo giải thoát mà lạc mất mục đích chính của việc tu hành, đưa đến hậu quả một đời
này dù có khổ công tu hành vẫn đành phải chịu luống qua oan uổng!
Chính cái nội tâm của con người tạo ra cảnh giới cho họ. Nếu tâm nguyện muốn thành Phật thì họ thành
Phật. Cái tâm muốn được có ăn thì họ trở thành người đi kiếm ăn. Một người muốn vãng sanh Cực Lạc để hội
kiến đức Di Đà thì tương lai họ sẽ thành vị A-duy-việt-trí Bồ-tát, một người cứ lo nghĩ chuyện thế gian thì
không thể nào thoát ly luân hồi sanh tử.
Người ở thế giới Cực Lạc có phước báu vô tận, mà ta ở đây cứ đắm tâm vào vài bó rau muống nhỏ xíu,
thì làm sao đủ sức để hưởng được cái đại phước báu bao trùm vũ trụ. Cảnh giới Tây Phương của A Di Đà Phật
là nhất chân pháp giới, mọi người đều có thần thông quảng đại, một tích tắc thời gian họ có thể đi tới khắp cùng
hư không pháp giới để dạo chơi, còn chúng ta ở đây cứ bám riết vào căn nhà lụp xụp không nỡ rời, cứ nghĩ rằng
cái làng nghèo nàn này là quê cha đất tổ, thì tương lai không đói cũng rách, không rách cũng nghèo, không
nghèo thì ngày ngày cũng phải kiếm ăn từng bữa đổ mồ hôi, sôi nước mắt... chứ có cách nào được du hí thần
thông, được du hành khắp chốn, hưởng vô tận an vui cực lạc ở cảnh Tây Phương!...
Một ví dụ khác, cách đây mấy năm, tôi có quen một người, cũng khá thân, anh là chủ một tiệm cắt may
gia công. Anh ta có tu hành, tính tình khiêm nhường, thiện lương. Một hôm anh gặp tôi và tâm sự rằng, "Tôi chỉ
làm cho đủ sống là được chứ không cầu làm giàu có gì đâu, tôi cũng cố gắng tu hành mong khỏi bị đọa lạc. Tâm
nguyện của tôi cho kiếp sau là không cần danh vọng, không cần sự nghiệp, chỉ là một người thất nghiệp nhưng
tôi nhất thiết không nhận một đồng tiền trợ cấp. Tôi cầu xin được làm người ăn mày thấp hèn và mong sao trong
đời mình giúp được cho một người, giúp một người thôi là cũng đủ mãn nguyện rồi...!".
Nghe nói vậy tôi mắc cười và nói với anh rằng, anh là người khiêm nhường, có lòng từ bi! Nhưng ở nước
Úc này không có người nghèo đói làm sao anh đi ăn xin? Tôi nói đùa thêm, nếu anh nguyện như vậy, lỡ chánh
phủ Úc nghe được, họ sợ tương lai ở xứ này có người ăn mày mà không cho phép anh định cư ở đây đâu...
Anh ta thật sự là một người hiền lành, chân thật, không bao giờ dám nghĩ đến lợi dụng ai. Lời nói của anh
thật chân thành, không kiểu cách. Nhưng có lẽ vì quá hiền lành mà thành ra thiếu sáng suốt! Tôi hiểu được tâm
ý của anh, tôi cố gắng phân giải với anh vài điều lợi hại trong lời phát nguyện. Tôi nói, đời này dù anh không
cứu được nhiều người chứ ít ra cũng giúp được một số công nhân có công ăn việc làm, giúp được vợ con anh
không đói khổ. Anh không cần cố gắng lắm nhưng ít ra cũng giúp ích được hơn một người, vậy mà xã hội này
vẫn còn nhiều người thất nghiệp, nhiều nơi khác vẫn cần đến sự giúp đỡ của anh. Nếu anh có tâm từ bi, muốn
giúp ích người khác bớt khổ, sao anh không nguyện thành người triệu phú, thành tỷ phú, rồi đem khối tài sản đó
đi bố thí giúp người thì có hay hơn không? Chứ còn anh muốn trở thành một người ăn mày, là kẻ tận mạt trong
xã hội rồi thì giúp ích được ai? Giả như, xã hội còn có những người cần đến một kẻ ăn mày giúp đỡ, thì những
người đó cũng là kẻ mạt tận còn tệ hại hơn giới ăn mày nữa, thì xã hội đó có tốt lành gì đâu! Chẳng lẽ đã thành
một người ăn mày mà mong cho có người còn tệ hơn kẻ ăn mày để mình có dịp thực hiện cái hạnh bố thí mà tốt
lắm sao!... Anh ta có vẻ hiểu thấu và làm thinh!...
Đi phải có đường, nhắm phải có hướng. Tu hành cũng vậy, ta phải xác định rõ rệt hướng đi, điểm đến, nếu
không thì đường tu hành của ta sẽ bị mông lung vô định hướng hoặc lạc đường! Trong kinh Viên Giác, Phật có
đưa ra vấn đề Liễu Nghĩa và Bất Liễu Nghĩa. Kinh bất liễu nghĩa là thuyết phương tiện chưa trọn vẹn. Kinh liễu
nghĩa là kinh nói đến giáo pháp chân thực cứu cánh. Nói cho dễ hiểu, liễu nghĩa là pháp tu hành thành Phật, bất
liễu nghĩa là các pháp tu hành chưa thể đạt đến quả vị Phật cứu cánh. Phật dạy, chúng sanh nên y theo kinh liễu
nghĩa, đừng nên theo kinh bất liễu nghĩa. Thành Phật chính là khai mở chân tâm tự tánh. Bất liễu nghĩa thì rất
nhiều, vì đó là pháp phương tiện dùng để dẫn dắt chúng sanh lạc đường quay về với đạo. Còn liễu nghĩa là mục
đích tối hậu, chỉ có một chứ không phải hai.
Niệm Phật là pháp môn thành Phật, là liễu nghĩa trong các pháp liễu nghĩa, là pháp môn ở ngoài tất cả các
pháp môn, đưa chúng sanh thẳng về cảnh giới Phật, gọi "Môn dư đại đạo". Chính vì chỗ này mà sự tu hành cần
nên chuyên nhất để thâm nhập thẳng vào cửa đạo, khai mở chân tâm. Ngài Tịnh Không nói rằng, pháp môn thì
vô lượng vô biên, nhưng quy tụ lại không ngoài ba cửa, đó là: Giác môn, Chánh môn, Tịnh môn.
Giác môn thuộc về pháp tu thiền định, trực chỉ nhân tâm để Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.
Đây là pháp tự lực tu chứng chỉ dành cho bậc Thượng - Thượng căn trong thời chánh pháp;
Chánh môn thuộc về giáo hạ, thông đạt kinh giáo để chứng cảnh giới Đại khai viên giải, đây cũng là pháp
tự lực, hợp với bậc Thượng - Trung căn ở thời kỳ tượng pháp;
Tịnh môn là pháp nhị lực, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, hợp cho cả tất cả mọi căn cơ, thích hợp với thời
mạt pháp. Đây là đại pháp để cứu độ tất cả chúng sanh viên thành Phật đạo trong một đời tu hành. Phật dạy,
đời mạt pháp phải tu tịnh độ mới thoát khỏi luân hồi, còn tu theo các pháp tự lực thì ức triệu người tu tìm không
ra một người đắc đạo. Như vậy, trong thời mạt pháp này, niệm Phật là pháp đại liễu nghĩa trong pháp liễu
nghĩa. Ta là người trung hạ căn nhất định phải y giáo phụng hành, tu đúng theo lời Phật dạy để được thiện lợi,
quyết lòng không dám tự kiêu ngã mạn mà tự hại mình triệu đời vạn kiếp trong lục đạo luân hồi sanh tử khổ
đau!...
Đã là hạng trung hạ căn thì trí huệ chưa khai mở, chưa đủ khả năng tự tu tự độ. Chúng ta rất cần sự gia trì
chư Phật, chư Bồ-tát. Có nhiều người tu hành, có tâm lượng rất tốt, phát tâm Bồ-đề cao cả, nhưng họ không ý
thức được đâu là năng lực của họ. Học đạo cần biết đến lý vô ngại, sự vô ngại. "Lý" thì hay(?), nhưng "Sự" bị
bế tắt thì việc làm sẽ biến thành vọng tưởng, không thể thực hiện. Đây cũng là một điều cần phải nghiêm chỉnh
xét lại.
Ví dụ, Tứ hoằng thệ nguyện của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Đây là cương yếu của sự phát tâm Bồ-đề. Nhiều người y theo Tứ-Hoằng-Thệ-Nguyện mà phát tâm đi cứu
độ chúng sanh, đoạn diệt phiền não, học nhiều pháp môn, để cầu thành Phật đạo. Tâm nguyện này tốt
lắm! Nhưng kết quả thì nhiều khi một điều cũng không thực hiện được! Tại sao vậy? Muốn hiểu tường tận kinh
Phật, chúng ta cần phải cẩn thận, nếu không sẽ dễ dàng giải sai chân thật nghĩa của Như Lai!...
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Người học Phật phải phát tâm nguyện độ chúng sanh, nếu không phát
tâm nguyện này thì tâm hồn quá hẹp hòi ích kỷ. Tu hành mà tự tư ích kỷ thì không thể thành tựu. Nhưng muốn
độ chúng sanh phải có phước báu và trí huệ đầy đủ, hay nói cách khác, phải có phương tiện và năng lực.
Phương tiện không có, năng lực chưa đủ để tự cứu lấy mình, thì làm sao độ được chúng sanh. Thấy một người
đang ngoi ngốp giữa sông, mình vội nhảy xuống cứu mà quên rằng mình không biết bơi thì thật là điều buồn
cười vậy! Do đó, một người chưa có năng lực độ lấy chính mình mà lo đi độ chúng sanh, nếu không dẫn chúng
sanh đi sai đường thì cũng bị chúng sanh "Độ" mất. Nghĩa là, nếu không hại người thì cũng hại ta! Nên nhớ,
"Độ" chúng sanh là thành tựu cho một chúng sanh thành Phật. Đường thành Phật chính ta chưa rõ thì làm sao có
thể hướng dẫn người khác thành Phật? Thề độ tận vô biên chúng sanh, mà trong khi chính ta chỉ là một chúng
sanh phàm phu chính hiệu, tương lai chưa chắc sẽ tránh khỏi đọa lạc, mà có tư cách độ chúng sanh tới bờ giác
ư?!...
Cách đây mấy năm, có một cô gái trẻ, khá thông minh, thường nghiên cứu nhiều kinh sách về cả triết học
và Phật học. Cô rất thích bàn thảo, lý luận về những triết lý cao siêu huyền nhiệm trong Phật pháp. Cô thường
đem theo mình một tập nhỏ ghi chép những tư tưởng cao siêu của các triết gia cả Đông lẫn Tây. Cô cũng rất sốt
sắng trong những chuyện xã hội, bố thí, gây quỹ, cúng dường.
Có một hôm cô đến bàn chuyện Phật pháp với tôi. Cô nói,
-Tu hành chính là làm lành làm thiện, cứu khổ cứu nạn và giảng giải Phật pháp cho chúng sanh. Đây mới
là tâm nguyện của Phật Bồ-tát, còn chú sao chỉ ở nhà niệm Phật hoài vậy?
Tôi nói, "Chú dở quá, không đủ khả năng!". Cô ta lại nói,
- Chú có biết Bồ-tát đạo là gì không?
Tôi nói, "Chú chưa phải là Bồ-tát, thành ra hành đạo Bồ-tát không nổi!". Cô ta trố mắt, không giữ được
bình tĩnh nữa và nói hơi lớn tiếng.
- Tu hành mà không lo cứu giúp người nghèo khổ, cứ ngày ngày niệm Phật cầu về Cực Lạc làm chi? Tìm
cách trốn đời để tìm chỗ hưởng phước, tu hành kiểu gì kỳ lạ vậy!...
Tôi mỉm cười và đành chịu thua cuộc! Cô nói cũng có lý lẽ của riêng cô, nhưng xét kỹ thì thật tội nghiệp!
Một người muốn hành Bồ-tát đạo, nhưng còn khá nhiều tập khí chưa phục được. Chính vì vậy, khi vừa gặp một
sự bất như ý nhỏ thì phiền não liền nổi lên, sân si không kềm nổi, khai khẩu nói ào, phạm phải tội phỉ báng pháp
Phật mà cô không hay!...
Niệm Phật là đại pháp cứu độ tất cả chúng sanh, chư Phật đều tán thán tuyên dương, người học Phật chân
chính sao lại dám khinh thường! Tình thật, tôi hơi lo sợ cho cô, vì quá nhiệt tâm vào việc bố thí, tu phước, mà
lại sơ ý cứ buông lời phỉ báng chánh pháp thì tội sẽ khá nghiêm trọng! Tu phước được phước. Với chút phước
báu hữu lậu thế gian làm sao cứu nổi cái "báo chướng" từ "nghiệp chướng" và "phiền não chướng" đã gây ra
đây! Giúp người phải biết tùy duyên, nếu cố phan duyên thì phiền não càng ngày càng nhiều, nghiệp chướng
cũng từ đó phát sinh. Tăng trưởng phiền não và nghiệp chướng thì quả báo không thể tốt được! Cứu người khó
lắm, phải lo tu cho tâm của mình thanh tịnh trước mới có thể giúp được chúng sanh. Nếu sơ ý, cứu người không
được mà còn gây thêm tội cho người, thêm tội cho ta vậy!
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Độ chúng sanh không phải là đem tiền giúp người nghèo khổ. Giúp
người nghèo khó chỉ là sự bố thí tài vật. Bố thí tài được giàu có, bố thí pháp được thông minh trí huệ, bố thí vô
úy được khỏe mạnh kiên khang. Người đi thuyết kinh giảng pháp cũng chưa phải là độ được chúng sanh, đó chỉ
là sự bố thí pháp, nhiều khi chỉ là sự gieo duyên Phật pháp mà thôi!
Tổ Ấn Quang nói, giúp một chúng sanh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì công đức vô lượng vô biên,
thù thắng hơn việc gieo duyên Phật pháp cho hàng ngàn người. Chính vì vậy mà Ngài chủ trương, hãy xây dựng
những nhóm niệm Phật nhỏ, không quá 20 người, chí đồng đạo hiệp, quyết lòng niệm Phật, một đường cầu sanh
Tịnh độ để cho tất cả 20 người này chắc chắn được vãng sanh. Đây mới là một đạo tràng đại thành tựu.
Ngài Huệ Viễn Đại sư đời nhà Tùy lập ra Bạch Liên Xã tại đỉnh núi Lư Sơn, gồm 123 người cả xuất gia
lẫn tại gia, chuyên tu tịnh độ, chỉ có một đường đi là niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Kết quả 123 người đều
đã được vãng sanh. Ngài không cần độ đến tất cả chúng sanh. Ngài chỉ cần độ 123 người tu chung với Ngài
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, nhưng nhờ cái gương đó mà vô lượng chúng sanh về sau được độ thoát.
Như vậy, thế nào gọi là độ chúng sanh? Ngài Ấn Quang dạy, "khuyên người niệm Phật là giúp cho một
người phàm phu thành bậc Chánh Giác, công đức này vô lượng vô biên, đem công đức đó cầu sanh Tịnh độ thì
ắt thành Phật đạo". Lời của Tổ Sư đã quá rõ ràng minh bạch. Độ chúng sanh chính là: "khuyên người niệm Phật,
cầu sanh Tịnh độ".
Người ở nhân gian này khổ quá, người ở Cực Lạc sướng quá. Người ở Ta-bà bị đọa lạc, người ở Tây
Phương được siêu thoát. Người ở cõi ngũ trược ác thế hung hiểm xấu xa, người ở Tịnh độ đại thiện đại thánh...
Người nào có lòng từ bi hỷ xả, biết thương xót chúng sanh, thì hãy mau mau khuyên người niệm Phật, chỉ
đường cho họ đi thẳng về Tây Phương để họ sớm được hưởng Cực Lạc an vui, để họ thành Phật.
Đừng nên có những ý tưởng quá nông cạn, cứ khuyên người ta ở lại đây chịu khổ nạn đau thương. Đừng
thấy quyên được chút ít tiền còm, biếu tặng một vài người tượng trưng nào đó rồi cho đó là Tâm Bồ -đề cao
thượng, cứu được "vô biên chúng sanh".
Không phải vậy đâu! Đây là một việc thiện, nên làm, đáng làm, hãy cố gắng làm nhiều hơn. Nhưng nên
nhớ rằng, dù sao đây cũng chỉ là sự bố thí, tu phước, chứ không phải là cứu độ chúng sanh.
Giúp cho người một bữa cơm để cho họ no lòng rồi khuyên họ niệm Phật mới đúng hơn, chứ đừng sơ ý
khuyên họ bỏ đường thành đạo để lo đi làm phước mà đoạn mất đường giải thoát của họ, hoặc làm cho họ lầm
lạc mục đích tu hành để phải chịu vạn kiếp trầm luân. Sơ suất điều này sẽ gây tội không nhỏ, ta gánh không nổi
đâu!
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Phải đoạn phiền não. Nhưng làm sao đoạn đây? Nhiều người tu lâu
năm mà kiến-hoặc phiền não 88 phẩm chưa phá nổi được một phẩm, thì còn nói chi đến Tư-hoặc, Trần-sa, Vôminh?
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Nhưng có thể học hết được chăng? Đừng nói chi vô lượng pháp
môn, chỉ cần 8 vạn 4 ngàn pháp môn, giả sử một người tu 50 năm, muốn học hết thì mỗi năm phải tu tới 1.680
pháp môn, mỗi ngày phải tu 5 pháp môn mới, không được ôn lại pháp cũ. Hỏi rằng, ai có năng lực này?
Sự thật là, nhiều khi chỉ có một quyển kinh tụng đi tụng lại suốt năm cũng không thuộc, không hiểu nổi,
thì mơ chi tới cả ngàn pháp môn một năm! Khi nghĩ đến điều này, tôi mới giựt mình tỉnh ngộ ra câu: "Y kinh
giảng nghĩa, tam thế Phật oan". HT Tịnh Không thường nói, "... không được giải sai ý nghĩa chân thật của Như
Lai". Chúng ta cần nhớ đến lời nhắc nhở này.
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" là lời nguyện của Phật. Một phàm phu tội chướng tràn trề có tư cách
nào thực hiện được lời nguyện này! Như vậy, muốn độ chúng sanh ta phải thành Phật trước. Chưa thành Phật
chưa thể độ tận chúng sanh! Hoặc ít ra, cũng phải đoạn được kiến tư phiền não, đắc Thánh quả A-la-hán, chánh
tri chánh kiến, vòng sanh tử không cần vướng bận, lúc đó mới mong độ được chúng sanh. Đạo lý này thật
chính xác vậy.
Làm sao thành Phật? Hãy vãng sanh Tây Phương. Vãng sanh Tây Phương thì chắc chắn sẽ thành Bồ-tát
bất thối, thành Phật. Lời nguyện thứ hai là đoạn phiền não, nhưng diệt đoạn thì chúng ta làm không nổi, còn phủ
phục phiền não thì có thể được. Phủ phục phiền não bằng cách niệm Phật. Một tạp niệm khởi lên hãy nhanh
chóng niệm A Di Đà Phật. Bao nhiêu niệm khởi chuyển thành bấy nhiêu câu Phật hiệu. Niệm Phật liên tục,
niệm Phật trong bất cứ trường hợp nào, ở bất cứ hoàn cảnh nào, cứ niệm Phật tương kế thì câu Phật hiệu sẽ dễ
dàng bao phủ phiền não. Đây cũng là cách lấy chấp phá chấp. Chấp vào câu Phật hiệu giác ngộ để phá chấp
trước phiền não. Phủ phục phiền não là có thể đới nghiệp vãng sanh. Vãng sanh về Tây Phương, nhờ cơ duyên
thù thắng mà nghiệp chướng phiền não không thể hiện hành, tự nó sẽ tiêu tan. Như vậy thực hiện hai nguyện
đầu chỉ cần Tín-Nguyện-Niệm Phật là hoàn thành.
Vãng sanh được về Tây Phương, mỗi ngày chúng ta có thể biến hóa đi khắp mười phương cúng dường
chư Phật Như Lai, mỗi vị Phật chỉ giảng cho ta một pháp thôi, thì một ngày ta có thể học được vô lượng pháp
môn rồi, nhờ thế Phật đạo vô thượng chắc chắn sớm được viên thành. Như vậy, chân thành niệm Phật cầu sanh
Tây Phương thì chúng ta đã hoàn thành được đầy đủ Tứ-Hoằng-Thệ-Nguyện của đức Thế Tôn rồi.
Sự khai thị này tôi học được từ HT Tịnh Không, đã giúp tôi ngộ nhập được một chút ít đạo lý cho việc tu
tập. Cho nên, xin khuyên cô bác hãy tìm cách thân cận với thiện tri thức, nhờ thiện tri thức họ chỉ điểm, ta mới
có cơ hội khai ngộ. Chứ kinh điển của Phật có nhiều huyền nghĩa cao siêu mà vội vã đi tra cứu, tự tìm hiểu lấy,
thì rất dễ giải sai lắm vậy.
Trở lại vấn đề những chướng ngại của sự tu hành. Có nhiều vị đồng tu trong nhà chất cả một kho băng
giảng kinh thuyết pháp và kinh sách, thế mà họ vẫn cứ thường xuyên săn tìm pháp mới. Tôi không biết là làm
sao họ có đủ thời giờ để nghe cho hết đây? Trong khi đó, chính tôi, nhiều khi chỉ một bộ pháp mà tôi nghe đi
nghe lại hoài vẫn chưa hiểu thấu, còn cần phải nghe thêm. Thật sự tôi không có giờ để nghe nhiều pháp như họ!
Ở đây có một cô đạo hữu còn rất trẻ, chưa tới 30 tuổi, có gia đình, vừa mới phát tâm ăn chay trường niệm
Phật cỡ hơn một năm. Chồng của cô cũng phát tâm tu hành khá tốt. Trước đây anh ta rất thích đi câu cá để giải
trí. Một cần câu trị giá cả ngàn đô la, nhưng khi biết tu, anh đã bẻ liệng rồi. Bây giờ thì anh lại thích cúng
dường, bố thí, phóng sanh. Cô đạo hữu này nhiều lần tới gặp tôi, rồi nhờ tôi "Độ" giùm cha của cô. Cô nói, hầu
hết cả nhà của cô đã chuyển hướng tu hành, niệm Phật. Chỉ riêng cha cô thì nhất định không theo. Tôi ở Úc, cha
cô ở VN, hai nơi xa cách, thế mà cô cứ tới nhờ tôi "Độ!" giùm. Làm sao "Độ" đây? Có lẽ cô thấy tôi viết được
vài lá thư khuyên người niệm Phật, thì tưởng rằng tôi là Bồ-tát chăng? Xin thành thật thưa rằng, cô ta đã lầm
rồi, vì tôi dù sao cũng chỉ là thứ Bồ-tát bằng đất, qua sông tự mình giữ mạng không xong, làm sao có khả năng
độ người!
Cô thật là một người đáng mến, đáng thương, có tâm hồn hiền lành, hiếu thảo. Nhiều lần cô nói chuyện
với tôi mà nước mắt lưng tròng. Cô nghĩ tới cái cảnh người cha khó tránh khỏi khổ nạn trong tương lai mà
nhiều lần cô nghẹn ngào rơi lệ. Cô nói với tôi,
- Cứ mỗi lần em khuyên cha em niệm Phật thì bị cha chửi mắng. Cha em nói, cha em biết Phật pháp từ lúc
em chưa sanh ra kìa. Nếu muốn thì cha giảng cho nghe, chứ đâu cần gì em phải khuyên cha! Em sợ cha em cứ
cống cao ngã mạn như vậy mà sau này bị đọa lạc!...
Nói đến đó thì cô bậc khóc! Tấm lòng hiếu thảo, tâm địa thiện lương, tha thiết thương cha kính mẹ, có
nghĩa với anh chị em, cô đã làm tôi nhiều lần phải cảm động!
Những người trong gia đình cô, mẹ, anh chị em, chồng con... hầu hết cô khuyên được. Họ là những người
trước giờ chưa biết pháp, chưa biết tu hành, thế mà lại dễ chuyển. Còn người cha thì đã nghiên cứu quá nhiều
kinh pháp, sách vở, nhưng lại không chịu tu!
Có một chị đạo hữu khác cũng thường tới đạo tràng niệm Phật. Có lần, chị cảm thấy quá buồn tức, mới
đến tâm sự với tôi như vầy,
- Anh nghĩ coi, ảnh thì hiểu nhiều Phật pháp, nhiều lúc giảng Phậ pháp cho tôi nghe. Thế mà bây giờ thấy
tôi đi chùa, làm Phật sự thì ảnh lại la, không muốn cho tôi đi. Thật sự Phật nói không sai mà, khi phát Bồ-đề
tâm thì liền bị ma chướng. Nhưng tức một nỗi, con ma này lại là người trong nhà của mình!...
Nhiều chuyện kể ra giống như chuyện tiếu lâm, nhưng lại là sự thật! Những người nghe nhiều pháp lại tu
không được, đây đúng là điều buồn cười! Hay nói rõ hơn một chút nữa là, đời mạt pháp này nếu ham thích
nhiều pháp thì thường bỏ tu. Đây thật là những chuyện lắt léo, tiếu lâm! Vì sao vậy? Vì tâm mất thanh tịnh. Căn
cơ của chúng sanh trong thời này không đủ sâu để tiếp nhận giáo lý của Phật, không đủ năng lực để đi theo
đường giáo hạ. Nếu không phải là hàng thượng căn mà ham nghiên cứu nhiều pháp môn, nhiều kinh điển, sẽ dễ
bị mắc kẹt trong rừng thuật ngữ, mông lung trong biển pháp. Pháp giới mông huân, người căn tánh yếu, chính
họ đã không biết đường đi, nếu không gặp được thiện tri thức hướng dẫn chuyên nhất, thì nay người chỉ hướng
này, mai người khác dẫn hướng kia, mới đầu thì hay, nhưng sau cùng thì mù mịt! Nghe một pháp thấy một
đường, hai pháp thấy hai đường, nghe nhiều pháp thì trở thành mông lung ngỡ ngàng ở giữa vạn nẻo đường!
Đây chính là người kém phước vậy. Cuộc đời vô thường, số mệnh ngắn ngủi mà cứ chập chờn phân vân
vô định, cứ chạy cà rông để thỏa tánh hiếu kỳ, một mai tử ma gõ cửa thì ô-hô! Cơ hội nào nữa để hồi đầu!
Ngài Ấn Quang dạy, chí thành chí kính thật là pháp nhiệm mầu để thành đạo nghiệp. Chí thành nghe theo
lời Phật, hành theo lời Phật thì làm sao không đắc. Có thiện tri thức nào đáng tin hơn Phật. Phật dạy thời mạt
pháp phải tu tịnh độ, thế mà con người còn cứ chạy lung tung! Trong hàng chư Phật có Phật nào cao hơn Phật A
Di Đà. Đức A Di Đà phát thệ: 10 niệm tất sanh. Thế mà chúng sanh không niệm, lại chạy khắp đó đây để cầu
kiếm thêm chút ít kiến thức. Vì mê kiến thức thế gian nên đường công phu mới hững hờ, dang dỡ! Người chưa
có tâm thành kính mà hiểu biết nhiều pháp thường tự kiêu, cống cao ngã mạn, kém đức khiêm nhường. Những
khuyết điểm này nó phá hỏng tâm thanh tịnh, che lấp cái chơn như bản tánh. Ngài Tịnh Không nói, người
nghiên cứu nhiều, biết quá nhiều pháp môn không tin Tịnh độ, họ không chịu niệm Phật. Đây chính là hạng
người thiếu thiện căn. Những lời này mới nghe qua giống như chuyện tiếu lâm, nhưng quả thực như vậy. Quý vị
cứ thử đi tìm hiểu sẽ rõ.
Người đam mê đọc nhiều sách, muốn nghe nhiều pháp, muốn hiểu nhiều chuyện là vì chính tâm họ chưa
có một chỗ nhất định để an trụ, thành ra tâm hồn cứ chơi vơi, lạc loài. Không có định tâm, thì tâm đang ở trong
cảnh giới loạn động, hồ nghi, mập mờ, bất định. Họ thích sưu tầm những kiến thức thế gian bên ngoài để thỏa
mãn sự đói khát của tình thức mà cứ lầm tưởng là chân lý. Họ đâu biết rằng, Phật gọi, kiến thức thế gian là thế
trí biện thông, một loại sở tri chướng, cản trở sự thành tựu chân chính của người học Phật. Trong kinh Duy Ma
nói, thế trí biện thông là một trong "bát nạn" của người tu hành!
Trong kinh Kim Cang, Phật dạy, "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm". Nhiều người nói "Vô sở trụ" là không
trụ ở đâu hết, tâm để trống không. Nhưng tôi thì không đủ khả năng nghĩ vậy, vì nếu để tâm trống không thì
quá nguy hiểm, chẳng khác gì ngủ mê mà quên đóng cửa, lỡ kẻ xấu xâm chiếm vào thì tiêu mạng! Thành ra,
"Vô sở trụ" chính là trụ vào cái chơn tâm, trụ nơi tâm thanh tịnh của mình, đừng buông lung ra ngoài nữa. Tập
buông xả, đừng tham quá nhiều pháp, đừng cầu hiểu nhiều lý. Nên nhớ, tất cả đã có sẵn trong tâm rồi vậy.
Làm sao trụ vào chơn tâm? Cứ thành tâm niệm Phật, chí thành chí thiết cầu về Tây Phương. Một lòng
niệm Phật, tưởng Phật, đem tâm trụ vào câu danh hiệu Phật, trụ vào Tây Phương Cực Lạc, thì chơn tâm sẽ có
ngày hiển lộ. Đây gọi là "nhi sanh kỳ tâm" vậy.
Cũng xin đính chính rõ điều này, là chúng ta không nên "nghe nhiều pháp", chứ không phải nói: không
"nghe pháp nhiều". "Nghe nhiều pháp" là nay nghe pháp này, mai nghe pháp nọ, cái gì cũng muốn thâu lượm
cả. Người tu hành trong thời đại mạt pháp mà không chú ý đến điều này, thì như trong kinh Đại-Tập Phật nói,
"...ức ức người tu hành không có một người chứng đắc". Đây gọi là tạp tu, tạp niệm, xen tạp, một trong ba thứ
kỵ cho người niệm Phật. Niệm Phật phải không hồ nghi, không xen tạp, không gián đoạn, trong đó xen tạp là tối
kỵ trong tối kỵ, dễ đánh lạc tâm người niệm Phật mà mất phần vãng sanh. Còn "nghe pháp nhiều" là cách
chuyên tu, nhất hướng chuyên niệm, một pháp thực hành cho tinh thuần, nghe đi nghe lại cho thật nhuyễn, càng
nghe lý đạo càng thâm nhập vào tâm. Một pháp nhập tâm, thì tự tâm ta sẽ có tất cả pháp. Lục Tổ Huệ Năng nói,
"Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp", thật sự tất cả pháp ở trong chân tâm của chính chúng ta, chứ không phải ở
ngoài. Cứ đi thẳng một đường để khai tâm, khi tâm được khai sẽ tự nhiên thấy tất cả.
Cô Lệ Tân cùng quý cô bác thân mến, nói lòng vòng khắp nơi nhưng rồi chúng ta cũng quay về với câu A
Di Đà Phật. Có lẽ đây cũng là cái duyên của tôi. Nhiều người đọc được những lá thư "Khuyên Người Niệm
Phật" thì cứ tưởng chú Diệu Âm này giỏi lắm, hay lắm!... Nhưng thực ra, đó chẳng qua là sự cốp nhặt lời giảng
của các vị Tổ Sư, Hòa Thượng, Đại đức... rồi thuật lại mà thôi. Diệu Âm có lòng tin, biết đường niệm Phật,
nhưng công phu còn quá yếu, có nhiều lời thư còn thiếu chính xác. Chính vì thế tôi đã xin được gác bút tịnh tu
sau khi làm xong bộ Khuyên Người Niệm Phật. Nhưng hình như Diệu Âm còn một số duyên nợ, một vài vị
muốn tôi viết thêm, một vài đề tài có đề nghị tới.
Thỉnh thoảng cũng thường có thư của các vị đồng tu khắp nơi gởi tới hỏi việc. Có nhiều vấn đề khá cần
thiết đối với việc tu hành của họ, ví dụ như cô Lệ Tân đây chẳng hạn, thành ra tôi lại viết thư trả lời trở lại. Có
lẽ đây cũng là duyên với nhau. Thôi thì, nếu là duyên thì tùy theo duyên. Duyên của Diệu Âm là "Khuyên
người niệm Phật", "nhất môn thâm nhập, trường kỳ huân tu", cho nên, nếu có viết tôi cũng chỉ tiếp tục viết thư
"Khuyên người niệm Phật". Còn duyên còn viết, tùy theo duyên chúng ta khuyên nhau cố gắng niệm Phật cầu
sanh Tịnh độ. Hết duyên thì hết viết, hết nợ. Duyên nợ hết là cơ hội tốt cho chúng ta nguyện xin Phật A Di Đà
tiếp độ vãng sanh. Sớm về Tây Phương gặp Phật, nghe pháp, tận hưởng an nhàn khoái lạc không sướng hơn ở
đây sao...
Xin báo cho cô lệ Tân biết, ngày mai 8/7/2005 Diệu Âm về Việt Nam thăm gia đình, thời gian ở VN có
thể mấy tháng. Mấy lời thư này vẫn chưa trả lời hết những điều của cô Lệ Tân nêu ra trong thư, nhưng vì việc
cần gia đình nên đành phải gián đoạn. Còn duyên thì còn gặp, xin cô và quý cô bác chớ nóng lòng. Nếu có
duyên có thể gặp được ở quê nhà, còn không thì khi thuận dịp Diệu Âm sẽ viết tiếp để giải quyết vào mấy vấn
đề chính khác của cô sau. Diệu Âm xin hứa sẽ cố gắng trả lời rõ ràng và chi tiết theo khả năng riêng của Diệu
Âm.
Cầu nguyện cho cô Lệ Tân cùng tất cả cô bác đồng tu pháp hỷ sung mãn, tinh tấn niệm Phật. Đời này ta có
được thành tựu đạo pháp hay không đều do nơi lòng tín tâm vững mạnh, tha thiết cầu vãng sanh, và ngày đêm
không rời câu Phật hiệu của quý cô bác. Pháp niệm Phật dễ tu dễ chứng. Cố gắng xa lìa thế sự thường tình, ngày
ngày cầm chuỗi niệm Phật. Tin Phật, tưởng Phật, niệm Phật, cầu sớm về Tây Phương thì thành đạo dễ dàng
vậy.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư, (Viết xong tại Brisbane, ngày 7/7/05).
Tâm hay tạo nghiệp, tâm hay chuyển nghiệp, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh, mới hay
dẫn dắt thọ sanh. Nếu ta dùng tâm chú trọng tu Tịnh nghiệp thì tịnh nghiệp mạnh. Tâm chú trọng, nghiệp mạnh
chỉ hướng tới Tây Phương, khi lâm chung quyết định sanh về Tây Phương, chẳng sanh vào nới khác.
Đại Sư Triệt Ngộ (đời nhà Thanh)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM
KHÓC LÓC ! MỐI NGUY HẠI
CHO NHGƯỜI LÚC LÂM CHUNG
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/3)
Cô Lệ Tân cùng quý đạo hữu!
Đời người thật ngắn ngủi, sống chết là chuyện thường tình. Có người coi cái chết nhẹ tợ lông hồng,
nhưng có người coi cái chết nặng hơn dãy núi Trường sơn. Người hiểu Phật đạo không sợ chết, họ an nhiên tự
tại vãng sanh. Người không hiểu Phật pháp họ sợ cảnh ra đi làm cho tâm hồn thường trực đối diện với nỗi hãi
hùng khủng bố! Chung quanh chuyện người lâm chung, trước đây có một vài đạo hữu có nêu lên vấn đề
chướng ngại do con cháu khóc lóc, người thân yêu trong gia đình không hiểu đạo gây ra sự ồn náo. Thư của cô
Lệ Tân cũng có nêu lên những khó khăn tương tự. Hai thư trước giải quyết một ít chuyện. Hôm nay Diệu Âm
xin cố gắng bàn đến những chuyện khá phổ biến này. Những chướng ngại này, nếu nhẹ thì làm mất phần siêu
thoát, nếu nặng có thể đày đọa người thân vào ba đường ác để chịu vạn kiếp khổ đau. Những chướng ngại ở
đây suy cho cùng thì thật quá oan uổng, vì nó chính lại là hậu quả của tình cảm, thương yêu mà vụng dại! Bình
thường, con người hẹp hòi, ganh ghét, đố kỵ mới hại nhau, đây là chuyện thường tình của thế nhân. Nhưng còn
thương yêu chân tình mà vô ý để đến nỗi phải gây hại cho nhau một cách thê thảm thì thật là điều quá đáng
tiếc!...
Ở đây chúng ta hoàn toàn không có ngụ ý nói về những chuyện tình yêu và thù hận hoặc những cảnh thất
tình lục dục của thế nhân, mà chúng ta đang nhấn mạnh đến những hành động lỗi đạo do sự thiếu hiểu biết về
Phật pháp gây ra. Trong thư cô Lệ Tân viết: "...có người cho rằng bố mẹ ra đi con cái phải khóc, không khóc
thì thiên hạ bảo là bất hiếu...". Cô đã đưa ra vấn đề rất hay, rất thực tế, rất phổ thông. Cứu khổ chúng sanh, cứu
nạn nhân loại, giúp người tránh khỏi đọa lạc... không phải là khoe trên đầu môi những điều siêu huyền diệu lý,
mà chính là giải tỏa những vấn nạn này đây. Diệu Âm sẽ cố gắng hết sức mổ xẻ vấn đề, mong sao cho cô bác
đồng tu biết thêm một ít điều lợi ích.
Đầu tiên, khi nghe được "Thiên hạ" còn nhắc đến hiếu, đây là điều thiện lành đáng mừng. Nhưng biết
được chữ hiếu và làm trọn chữ hiếu là hai chuyện khác nhau. Thường tình, người ta hay nói rằng, tu hành là
làm lành đừng làm ác, có lòng từ bi thương người là được. Nhưng thực ra, không phải quá đơn giản như vậy
đâu!
Tại sao vậy? Lời ngạn ngữ trong nhân gian thường nói, "Từ bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ lưu", đã lật
ra bề trái nào đó đầy phũ phàng, đau đớn! Đối với người lâm chung, thì ảnh hưởng của tình cảm lớn lắm, nó có
thể cứu một huệ mạng vượt qua ách nạn, cũng có thể đẩy một thần thức vào ba đường ác. Từ bi, lòng thương
yêu thuộc về tình cảm, chứ không phải lý trí. Từ bi gây nhiều tai họa, vì vậy chúng ta phải hết sức cẩn thận về
chuyện này, chớ nên xem thường mà vô tình gây đại họa cho nhau. Đầu tiên xin nhắc nhở rằng, lời ngạn ngữ
này hoàn toàn không có ý phỉ báng lòng từ bi thương người, hoặc chống lại việc làm lành tích thiện đâu, xin
đừng lạm dụng nó để làm điều sai trái, mà tinh thần của nó chính là nhắc nhở những người có tâm thiện lành
cần phải sáng suốt, minh mẫn. Từ bi cần đến trí huệ mới thật sự làm lợi ích cho chúng sanh, mới tránh điều họa
hại. Không có trí huệ thì coi chừng càng có nhiều phương tiện như: tiền bạc, thế lực, địa vị bao nhiêu càng gây
khổ nạn cho đại chúng bấy nhiêu!...
Chuyện đời xưa nay thiện ác nhiều lúc khó phân minh. Có những việc con người cho là thuần phong mỹ
tục, có đạo nghĩa... nhưng thực ra chỉ là mê tín, hủ lậu, bất nhân! Ví dụ, trên thế giới có nhiều dân tộc khi có
người chết, họ đem gạo, nếp, đậu... nhét đầy vào miệng, để cho người ra đi khỏi bị cảnh chết đói. Tệ hại hơn,
có lúc người bệnh chưa kịp chết, đã bị người nhà vạch miệng đổ đầy những thứ đó vào mồm làm cho nghẹt thở
chết luôn! Có chỗ họ đem tiền bạc dí vào tay, nhét vào túi để người chết xuống âm ty có chút tiền xài. Trước
đây vào thời đại vua chúa, có nhiều nơi khi nhà vua chết họ bắt người hầu cận, cung nữ chôn theo để hầu hạ cho
vua. Nhiều dân tộc họ phân chia tài sản chôn theo dưới mộ, bắt những kẻ nô tỳ chôn theo chủ nhân. Ngoài ra,
còn rất nhiều những tập tục bất nhân, như bắt người thả xuống sông tế thần linh để cầu mưa thuận gió
hòa... Những hình thức đó, làm sao gọi là thiện lành được? Thế nhưng vì mê muội, cố chấp, con người đã làm
điều tệ hại mà cứ cho là đúng!
Trong xã hội hiện nay, cũng đâu thiếu những tư tưởng, sinh hoạt lầm lạc! Ví dụ, nhiều người làm cha mẹ
vì thương con cái mà cưng chìu chúng thái quá, vô tình tạo nên những đứa con hỗn hào, vô lễ, ương
ngạnh. Nhiều cha mẹ muốn con cái lễ phép thì thường lại đi vạch ra những sai lầm của kẻ khác: con thấy đó,
gia đình kia vô lễ, mất dạy, xấu xa, vô giáo dục, là thứ hạ cấp, đáng khinh... con đừng gần với chúng nó!!! Lối
giáo dục kiểu này có thể tạo nên người tốt chăng, hay là chỉ tạo ra những kẻ xấu tệ trong xã hội?... Vạn vật vạn
sự luôn luôn có hai mặt: phải - trái, thiện - ác, trắng - đen... Dạy cho con cái điều phải thì chúng làm theo điều
phải, chỉ cho chúng thấy việc sai trái thì chúng cảm nhiễm việc sai trái. Làm điều thiện con cái sẽ noi theo điều
thiện, nêu ra điều ác con cái sẽ nhập tâm điều ác. Dạy con cái biết lễ phép thì đừng nên để chúng thấy những
cảnh vô lễ. Muốn được tính khiêm cung thì chính ta đừng biểu diễn tính cống cao, ngã mạn đối với mọi
người. Người có lòng từ bi, thương người, tính tình quảng đại mới làm gương mẫu tốt, chứ chỉ cho con cái thấy
những kẻ ích kỷ, hẹp hòi, đanh đá... làm chi?... Muốn con cái trở thành người tốt mà hàng ngày cha mẹ cứ
trương lên những cái gương xấu cho chúng nhìn, thì chúng không thể nào trở thành một đấng trượng phu
được!... Người lớn mà thường chỉ trích người này, chê bai người nọ, thì giới trẻ sẽ là kẻ thị phi, cạnh tranh,
ganh tị, ngạo đời... nói chung chắc chắn sẽ là giới hạ lưu trong tương lai. Cho nên, dạy điều tốt hoàn toàn
không có nghĩa là chửi bới điều xấu.
Làm cha mẹ đã khó, làm con cũng đâu phải dễ! Ví dụ, nhiều người con có lòng hiếu thảo, biết thương
cha mẹ, gặp khi cha mẹ bị đau bệnh là họ lo sợ cuống cuồng, cầu vái khắp nơi, giết heo giết gà đi cúng tế thần
linh cầu cho cha mẹ tai qua nạn khỏi. Họ tưởng vậy là có hiếu có nghĩa, nhưng thực sự là họ đang gây thêm
nghiệp ác cho cha mẹ, bắt cha mẹ phải chịu thêm quả báo xấu! Rõ ràng, từ bi thương người không phải là
không gây họa đâu!
Nhiều tình cảm, biết thương người, có lòng từ bi chưa phải là đủ! Người thế gian mỗi khi người thân
chết, họ khóc than, níu kéo, lay động, vạch mắt, vạch mồn... họ làm đủ cách trên thân người mới chết. Vì quá
nhiều tình cảm, quá thương tiếc người thân mà họ không đành lòng để người thân an lành nhắm mắt ra đi. Theo
như kinh Phật nói, những hành động này gây đau đớn vô cùng cho người chết về cả thể chất lẫn linh
hồn. Chính những hành động phũ phàng này tạo ra cái nhân chủng xấu dẫn đến sự đọa lạc cho người thân yêu
trong chốn đại hiểm nạn! Từ bi đa họa hại! Có hiếu, có tình, có nghĩa nhưng vô tình tạo ra hậu quả bất hiếu,
bất tình, bất nghĩa! Thật quá oan uổng!...
Như vậy, người tốt không phải chỉ cần lòng tốt là được. Người hiếu nghĩa không phải chỉ biết thương
cha mẹ là có hiếu đâu! Điểm chính yếu là việc làm của mình có đem lại hậu quả tốt hay không? Tốt thì thiện
lành, có hiếu. Xấu thì sai trái, bất hiếu! Người hiểu được Phật đạo mới nhận ra suốt vấn đề, mới mong trọn vẹn
được cái đạo làm người thiện lành vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, "Quên phát Bồ-đề tâm mà làm các việc thiện lành, thì đó là nghiệp của
ma". Bồ đề tâm là tâm giác ngộ. Quên phát tâm bồ đề là chưa có tâm giác ngộ. Chưa có tâm giác ngộ, dù có
làm việc thiện, thì nhiều lúc cũng biến thành ma nghiệp. Ma nghiệp thì tính chất của nó là tà vạy, hậu quả là tai
họa! Thế gian pháp và Phật pháp đều có lời cảnh cáo tương tự về sự thiện ác. Nhiều người tu hành mà tâm Bồ
đề không vững thì hướng tu dễ bị biến dạng. Nghĩa là, càng tu càng sai, càng xa đường chánh giác!... Lại có
nhiều người cho rằng, sống với đời ăn ở hiền lành là được, cần chi tu hành, cần chi hiểu đạo. Thực sự không
đơn giản như vậy đâu! Hiền lành mà thiếu sáng suốt, thường sanh chuyện hạ hưu. Làm việc thiện lành mà
thiếu trí huệ, rất dễ dàng tiếp tay cho tội ác!... tâm tánh thiện lành mà gây nên tai họa chính là vì chưa sáng suốt
nhìn thấu vấn đề, không lường trước cái hậu quả của việc làm đó thôi.
Chưa phát Bồ-đề tâm, chưa thể hoàn thành thiện pháp! Tâm Bồ-đề là tâm thành Phật, nếu tâm chưa biết
đường thành Phật, thì hãy lo tìm đường vãng sanh Cực Lạc để thành Phật trước. Nếu tâm chưa khai ngộ mà
chăm chú vào việc thiện, thì thiện nghiệp càng lớn, nợ sanh tử càng nặng, nó sẽ lôi cuốn chúng sanh lún sâu vào
luân hồi, khó có thể thoát ly tam giới!
Cho nên, làm thiện làm lành thấy vậy mà không đơn giản! Xin kể cho cô bác nghe về một câu chuyện
phát nguyện tâm, tốt thì có tốt, nhưng theo thì không nên theo! Tháng 8/2005 tôi về thăm VN, có một đạo hữu
gặp tôi tâm sự rằng, người thân của chị đã phát một tâm nguyện là đời đời kiếp kiếp xin được làm người để cứu
giúp người nghèo khổ. Chị hỏi, lời nguyện này có đúng không? Tôi nói, nếu thực sự là Bồ-tát tái lai thì có thể
đúng! Còn chỉ là kẻ phàm phu, thì lời nguyện này không đúng với lời Phật dạy. Phát một nguyện tâm không y
cứ vào kinh Phật thì coi chừng bị vướng nghiệp ma! Tại sao vậy? Mất phần vãng sanh!
Phật dạy thời này chúng sanh phải niệm Phật, nguyện sanh Cực Lạc để thành Phật, thành Phật mới có khả
năng cứu độ chúng sanh. Một người phàm phu chưa có năng lực tự cứu lấy mình, mà đòi đi cứu chúng sanh thì
đây chính là vọng tưởng! Dù lòng từ bi có lớn đi nữa, cũng vẫn là vọng tưởng! Không làm theo lời Phật để
thành đạo Vô Thượng, lại đi làm khác lời Phật dạy, đã không cứu được ai mà chính mình bị kẹt lại trong luân
hồi.
Tệ hơn nữa, nếu khuyên người khác chú tâm làm việc thiện mà quên mất đường về Tây Phương, thì thật
sự là sai lầm! Xin nghĩ thử coi, đánh lạc mất hướng vãng sanh của người, đoạn cái cơ hội thành đạo của chúng
sanh, thì đây là hành nghiệp gì? Xin quý đạo hữu thức tỉnh!
Thời mạt pháp, chân tâm đã bị vô minh che lấp, vọng tưởng nhiều. Sống theo vọng tưởng thì lạc mất
chánh pháp, gây nghiệp luân hồi. Trải qua một cuộc cách ấm, thần trí sẽ mê mờ và quên hết những gì xảy ra
trong quá khứ. Phàm phu thì sức định yếu, không đủ năng lực để giữ vững ý nguyện. Do đó, dù đời này có
phát tâm thiện lành, nhưng chưa chắc đời sau sẽ tiếp tục làm người thiện lành. Không định, không lực, không
đủ phước báu thì không chuyển đổi được hoàn cảnh. Ngược lại, sẽ bị hoàn cảnh chuyển xoay thành một thứ
con vụ quay cuồng theo vọng niệm của thế gian. Khi đó, lấy gì bảo đảm rằng ta sẽ giữ vững lý tưởng thiện
lành?
Vị đạo hữu đã phát nguyện đời đời kiếp kiếp ở lại trong cảnh người để cứu khổ cứu nạn. Đây là hạnh Bồ
tát, tốt đấy! Nhưng đáng tiếc, ta chưa phải là Bồ tát. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, "Nghiệp nhân quả
báo bất khả tư nghì". Nghiệp chướng của chúng sanh đều do nhân quả, chư Phật Như Lai cũng không cứu nổi,
thì kể chi đến kẻ phàm phu! Chính thế mới có câu, "Phật không độ kẻ vô duyên". Chúng sanh phải có duyên
với Phật mới mong có ngày được độ thoát. Hữu duyên chính là tin Phật và biết làm theo lời Phật dạy. Ta là
một chúng sanh mà không chịu y giáo phụng hành theo lời Phật, thì đành phải chịu làm kẻ vô duyên vậy.
Hơn nữa, nên nhớ cho, chúng sanh không phải chỉ có cảnh giới người. Và, cứu độ chúng sanh, như lời
Ấn Tổ dạy, là "giúp cho một chúng sanh phàm phu thành bậc Chánh Giác".
Muốn chúng sanh thành bậc Chánh Giác thì hãy tích cực khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, chứ
không phải là chạy lo chuyện bố thí. Bố thí giúp người chỉ là điều căn bản phải làm của người tu hành, chỉ là
một độ trong "Lục độ Ba-la-mật" của hạnh Bồ tát mà thôi, chứ không phải là mục đích chính trong giáo pháp
giải thoát của các đức Như Lai!
Rất nhiều người tu hành cốt để cầu phước, điều này không phải xấu. Nhưng làm lành hưởng phước là
đạo Nhân-Thiên, chứ không phải là đạo giải thoát, siêu việt tam giới, vĩnh ly sanh tử.
Người học Phật mà cầu xin chỉ được làm người, thì tâm đạo thật sự còn quá hạn hẹp, chỉ vương vấn trong
cảnh giới người, thì làm sao có ngày thành đạo Vô Thượng?
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy, người cầu hưởng phước báu nhân thiên không được vãng sanh.
Trong kinh Hoa nghiêm Phật nói, Vạn pháp duy tâm sở hiện, tâm còn tham đắm ở cảnh giới người, thì dù
tu hành có giỏi cho mấy đi nữa, cũng chỉ đầu thai trở lại làm người, tốt hay xấu còn tùy thuộc vào nhiều nhân
duyên, nhưng chắc chắn còn phải chịu trầm luân trong biển khổ, không thể thoát nạn. Đây là tự mình làm mất
phần thành đạo của chính mình, tự chọn con đường khổ hải trong tương lai!...
Làm thiện mà chấp trước vào việc thiện thì chưa phải là thiện! Phật gọi đây là "Hữu tướng tam luân",
(Kinh Tâm-Địa-Quán). Những người này lúc mới phát tâm thì khá tốt, nhưng vì nghiệp chướng phiền não chưa
đoạn, tâm chưa thanh tịnh, định chưa đủ để đối đầu với những thử thách phức tạp bên ngoài, thành ra sau cùng
thường gặp phải nhiều chướng ngại. Vì chấp vào việc thiện, nên dễ sinh ra: khó chịu, chỉ trích, phê phán, đánh
giá thấp những người ít làm thiện, hoặc ghét bỏ những người bất thiện, v.v... đây chính là cơ hội phát triển
những thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, hoặc phân biệt, chấp trước... làm cho tâm mất thanh tịnh.
Tâm đã mất thanh tịnh thì căn bản thiện đã bị mất. Căn bản thiện bị mất thì làm sao thành tựu đạo
nghiệp! Lục Tổ Thiền-tông Huệ-Năng dạy, "người tu hành chân chính không bao giờ nhìn thấy lỗi của kẻ
khác". Người làm thiện mà chấp thiện thường vướng phải cái lỗi này. Nói cách khác, người còn chấp lỗi kẻ
khác, ưa vạch điều sai lầm của người này người nọ, thì không có thể trở thành người tu hành chân chính được!...
"Tam-Luân" là người bố thí, kẻ được bố thí, phẩm vật bố thí. "Hữu Tướng" là còn so đo, ghi nhớ, tính
toán, hơn thua, cố chấp những việc đã làm. Làm thiện mà tâm cứ dính vào đó thì dù việc thiện có lớn cũng chỉ
tạo thêm nghiệp chướng của luân hồi chứ không có đường giải thoát.
Đại sư Tĩnh-Am, tổ thứ 9 của Liên Tông Tịnh độ Trung Hoa nói: "Việc thiện càng nhiều, sanh tử càng
lớn; một niệm tâm ái khởi lên, muôn kiếp bị trói buộc". Đây là lời nói khá thấm thía khi Ngài nghiêm khắc
cảnh cáo một vị cư sĩ suốt đời lấy việc làm thiện, bố thí, công quả làm chính, mà lơ là chuyện niệm Phật cầu
sanh Tịnh-độ.
Nói vậy, chẳng lẽ Tổ Sư xúi làm ác sao? Thưa không!
"Yếu vô phiền não, yếu vô sầu,
Bổn phận tùy duyên mạc cưỡng cầu..."
Điều chính yếu là tâm không bị phiền não, không buồn sầu khổ đau. Bổn phận cũng phải tùy theo hoàn
cảnh chứ đừng nên gượng ép. Người tu hành mà còn khó chịu vì chồng con chống đối, ảo não vì bị mất ngủ, lo
sợ vì bệnh hoạn nhiều, khổ tâm vì con cái chưa thành danh, buồn phiền vì sự nghiệp chưa thành, ái ngại vì chưa
giúp được ai, xấu hổ vì chưa làm được nhiều việc thiện, v.v... thì đường tu hành đã bị mất hướng hoặc bị lạc
đường rồi vậy. Dù có tu theo chánh pháp, thì dụng tâm cũng đã sai!
Tại sao vậy? Vì tu hành là để thoát khổ được vui. Nếu tu mà không vui thì đường tu làm sao đúng
được! Người tu mà không được vui, thì một trong những lý do chính là vì không chịu buông xả, cái gì cũng
muốn ôm đồm, cái gì cũng muốn trọn vẹn, cái gì cũng muốn xảy ra đúng theo ý của mình. Không buông xả thì
không tự tại thoải mái. Lòng tham chấp còn quá nặng thì tâm chưa được an trụ, không được thanh tịnh. Đây
chính là mẫu người chưa nhìn thấu chân tướng của vũ trụ nhân sinh, nên cứ cố chấp vào cảnh vô thường.
Muốn được thanh tịnh thì tâm phải an trụ trong chánh định, còn tất cả những thứ khác phải bỏ đi, hoặc ít
ra cũng biết xem nhẹ mới được. Chánh Định là an trụ trong lý tưởng chân chính của mình. Còn chạy xiên xiên
xéo xéo, gọi là Tà Định.
Làm sao an trụ trong chánh định? Người niệm Phật thì giữ tâm mình trong câu Phật hiệu là an trụ trong
chánh định. An trụ vào câu A Di Đà Phật, an trụ vào Tây Phương Cực Lạc. Tâm nguyện chỉ có một điều duy
nhất là được vãng sanh Cực Lạc để thành Phật. Còn tất cả những việc khác hãy xem nhẹ nhàng, phụ
thuộc. Như vậy thì còn có gì có thể làm cho ta buồn với khổ. Còn có "bổn phận" nào khác để cho ta cầu với
mong.
Làm thiện đừng nên chấp vào việc thiện, mới thật là thiện. Tùy duyên, chứ không phan duyên. Có cơ
hội, có khả năng thì gặp việc thiện hãy cố gắng hết sức mà làm. Không có cơ hội, không có khả năng thì cứ an
nhiên niệm Phật, đừng móng khởi niệm nào khác, đừng để gián đoạn câu Phật hiệu. Sự làm thiện này gọi là 'Vô
Tướng Tam Luân', "Tam Luân Không Tịch", hay là "Tam Luân Thanh Tịnh". Đây mới thực sự là đại
thiện. Làm thiện thì tốt, nhưng nên nhớ đừng để việc thiện trở thành một cái nghiệp. Đã là nghiệp thì dù thiện
hay ác vẫn là nghiệp, vẫn làm chướng ngại cho đường vãng sanh thành đạo.
Như vậy làm thiện làm lành có công đức hay không là do sự dụng tâm. Làm thiện, hãy lấy tinh thần:
"Làm mà không làm, không làm mà làm". Nghĩa là, làm mà không chấp, không tham, không khoe, không cầu...
Làm rồi quên chúng đi để cho tâm hồn thanh thản, ngày ngày niệm Phật, giờ giờ niệm Phật, đem tất cả công
đức tu hành được hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng về Tây-Phương trang nghiêm Tịnh-độ. Vừa
tu huệ vừa tu phước, phước huệ đầy đủ, thì đường vãng sanh Cực-Lạc sẽ phẳng lặng an toàn. Ví dụ, giả như
người cư sĩ suốt đời làm thiện kia mà dụng tâm được như vậy, thì có lẽ ngài Tĩnh-Am sẽ khen ông ta không tiếc
lời, chứ làm gì có chuyện chê trách...
"Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo". Giáo pháp của Phật là dạy
làm thiện, nhưng cái thiện này là đại thiện để thành tựu Bồ-đề được soi sáng bởi lý trí, còn cái thiện phàm phu
chúng ta làm là cái tiểu thiện thiên lệch, dụng tâm theo cảm tình. Chính vì dụng tâm theo cảm tình mà thường
bị mê muội, gây ra không biết bao nhiêu nỗi niềm đau khổ!
Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy: "Ngày đêm thường giữ tâm thiện lành, suy nghĩ về điều thiện lành,
và quán xét về những việc làm thiện lành". Ba điều này phải luôn luôn để tâm, nếu thiếu một thì việc thiện
không trọn. Giữ cái tâm thiện lành để không móng khởi ý nghĩ xấu ác. Suy nghĩ về điều thiện lành để làm lợi
ích chúng sanh. Và điều sau cùng, rất quan trọng, đó là quan sát, xem xét việc làm của mình thực sự có thiện
hay không? Việc này phải cần đến trí huệ mới làm được.
Nhưng hỏi rằng, làm sao biết mình đã có trí huệ hay chưa? Xin thưa rằng, đã hỏi tức là chưa có! Chưa
có trí huệ thì tự ta chưa thể quán sát việc thiện lành một cách chính xác. Nghĩa là, nhiều khi một việc ta cho là
thiện, nhưng thực chất lại là ác. Nhiều thói quen ta cho là tốt nhưng xét kỹ lại là xấu. Nhiều tập tục nhân gian
cho là hay nhưng lại là điều quá dở. Vậy thì, phương cách tốt nhất cho người đệ tử Phật chân chính là dựa vào
lời Phật dạy mà hành sự. Phải lấy kinh Phật ra để y giáo phụng hành, lấy lời chư Tổ Sư ra làm mẫu mực. Đó là
chỗ y cứ căn bản nhất, an ổn nhất và vững tâm nhất để tu hành trong thời mạt pháp này.
Học Phật hãy quyết lòng nghe theo Phật, không nghe theo người. Trên đường tu hành, gặp bất cứ một
người nào, dù chức phận, địa vị, danh tiếng cao tới đâu, nhưng những điều họ nói ra không có trong kinh Phật,
xin cô bác chớ nghe theo. Những lý luận hay ho, những triết lý cao siêu, những sự thuyết giảng bóng bẩy...
nhưng chỉ dựa theo tri kiến cá nhân, không y cứ vào kinh điển, chúng ta chớ vội tham đắm. Thời mạt pháp, thế
gian nhiễu loạn, thường phát sinh những sự cám dỗ khá lòe loẹt... xin chư vị đồng tu cần phải cẩn thận, không
nên hiếu kỳ. Ví dụ, Phật dạy chúng sanh niệm Phật, nếu người nào bảo đừng niệm Phật thì ta biết người đó đã
tự đi đường riêng của họ, ta không theo. Phật dạy nguyện vãng sanh Tịnh-độ, có người dạy chỉ cần giữ tâm an
lạc là được, không cần cầu vãng sanh, thì họ đã không theo con đường thẳng tắt thành Phật, khó có thể có được
cơ duyên vãng sanh, v.v... Phải chủ tâm đề phòng, nếu không chúng ta sẽ rất dễ vướng vào cái bẫy của luân hồi
mà ân hận không kịp.
Phật dạy, "Y pháp bất y nhân". "Y pháp" là đúng theo chánh pháp để tu tập. "Bất y nhân" là không theo
tư tưởng, cách nghĩ, cách làm của ai cả. Tất cả phải lấy kinh của Phật làm ấn chứng. Đúng theo kinh Phật thì ta
tán thán, không đúng theo kinh Phật thì ta "kính nhi viễn chi". Phải như vậy, chúng ta mới giữ vững được
chánh đạo, bảo đảm những điều mình làm là chính xác, thật sự thiện lành.
Thôi chuyện thế gian thì nhiều lắm và rối ren lắm, hãy trở lại chuyện chính yếu của chúng ta, chuyện
niệm Phật thành Phật.
Pháp môn niệm Phật là chánh pháp của Phật ứng hợp với thời kỳ mạt pháp này để cứu độ tất cả chúng
vãng sanh về nước Cực-Lạc, một đời siêu vượt tam giới lục đạo, vĩnh ly sanh tử luân hồi. Phật dạy, thời mạt
pháp mà chúng sanh không niệm Phật, thì ức ức người tu cũng khó tìm ra một người chứng đắc.
Cô bác đồng tu hãy nhớ đạo lý này mà quyết định đường tu để cứu lấy huệ mạng của mình. Huệ mạng
chính là thần thức vô sanh vô tử của ta chứ không phải là cái thân xác này đâu. Xác thịt này là cái thân nghiệp
báo trong đời này, nó sống lăn lóc khổ cực mấy chục năm, trăn qua trở lại để kiếm ăn từng bữa đói bữa no rồi
chết, thế thôi!
Đời này khổ, chúng ta phải chịu khổ, đó là nghiệp ta đành phải chịu. Nhưng cái khổ này chưa thấm thía
gì đâu, đến lúc chết rồi cũng không phải hết, trăm ngàn lần xin cô bác đừng lầm lẫn mà ân hận về sau!
Vậy thì, phải có đường giải thoát rõ rệt sau khi mãn cái báo thân này. Đường đó chắc chắn là vãng sanh
Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu không quyết lòng cầu sanh Cực-Lạc, thì coi chừng chúng ta phải chịu khổ đến ngàn
vạn lần hơn cái khổ của hiện tại và trải qua hàng vạn đời vạn kiếp, chứ không phải thường! Dễ sợ lắm, kinh
khủng lắm!
Đọc thư của cô Lệ-Tân, có những vấn đề đưa ra rất hay, rất thực tiễn, rất phổ thông. Phân tích những vấn
đề này có thể sẽ thành những ấn tượng sâu sắc, lợi ích cho nhiều người. Trước đây cũng có một số vị đồng tu
đưa ra, nhưng chưa được bàn tới. Hôm nay mượn lời thư này Diệu-Âm sẽ cố gắng giải bày cho cô Lệ-Tân và
chung cho quý vị hữu duyên khác.
Cô viết: "... việc hộ niệm khó quá, nó mới mẻ quá, có người chấp nhận, có người lại cho rằng bố mẹ ra đi
con cái phải khóc, không khóc thì thiên hạ bảo là bất hiếu...".
Việc hộ niệm xin gác lại thư sau sẽ bàn tới. Trong suốt bộ "Khuyên Người Niệm Phật", tập 1, 2 và 3 đều
có đề cập đến việc này, dù rằng chưa được đầy đủ lắm, nhưng cũng khá cần thiết, xin cô bác đọc thêm vài
lần. Thư tới chúng ta sẽ bàn thêm sau.
Về chữ hiếu, trước đây cũng có một vài đạo hữu đề cập đến. Nay xin trả lời chung. Chữ hiếu thực ra chỉ
có trong nền văn hóa Á-Đông, chứ bên Âu-Mỹ không có chữ hiếu, họ không đặt ra tinh thần hiếu đễ hoặc bổn
phận làm con rõ rệt như người Á-Đông. Bên Âu-Mỹ chỉ có triết học, ta thường gọi là Triết-học Tây-Phương,
thiên về tư tưởng luận lý có tính cá nhân, phát triển khá mạnh về khoa học, kỹ thuật, vật chất kinh tế. Còn nền
văn hóa Á-Châu thuộc về triết lý sống, có truyền thống đạo đức nhân sinh lâu đời, hay gọi là Đạo-học ĐôngPhương, mạnh về tinh thần, nhắm đến sự tương quan giữa con người với vũ trụ và pháp giới.
Trong đó, Phật-học, Lão-học, Khổng-học, gọi là "Tam-Huyền-Học", ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần và
văn hóa Á-Đông. Trong Đạo-học Đông-Phương rất đề cao chữ hiếu. Đây chính là điểm nổi bậc, làm cho nền
văn hóa Á-Đông có giá trị, được tôn thành bậc thầy tinh thần cho loài người.
"Hiếu dưỡng phụ mẫu" là điều căn bản đầu tiên trong 11 điều tu phúc của chư Phật. Phật giáo là đạo dạy
hiếu thân, tôn sư. Người học Phật không thể bất hiếu được. Như vậy, phận làm con phải có hiếu thảo, phải trả
hiếu đối với cha mẹ. Nhưng trả hiếu bằng cách nào cho trọn vẹn đây? Chứ không phải đợi cha mẹ chết rồi
khóc cho nhiều, để được thiên hạ khen tức là mình đã có hiếu đâu!...
Trong cuộn VCD tựa đề: "Việc lớn nhất của đời người", do Phật giáo Đài-Loan thực hiện, có kể lại một
câu chuyện trích từ kinh Phật như vầy:
Thuở đó, có một người suốt đời làm rất nhiều việc thiện lành, khi chết quả báo đáng lẽ được sanh lên một
cõi trời để hưởng phước. Nhưng lúc lâm chung, người vợ vì quá thương chồng, đã khóc than thảm thiết, kể lể
nhiều nỗi thương tiếc bi ai, làm cho người chồng khởi dậy tâm luyến ái màø biến thành con sâu chui vào lỗ mũi
của vợ. Người vợ thấy đau nhức trong lỗ mũi mới hỷ mạnh, thì con sâu văng ra. Người vợ định giết chết
nó. Vừa lúc đó có một vị sư biết được, đến ngăn cản lại...
Người chết, người thân phải khóc, không khóc thì thiên hạ cho là bất hiếu, bất nghĩa! Chồng chết, vợ
khóc lóc mới tỏ được sự thương yêu. Điều này hiểu ra đơn giản! Vì có thương mới khóc chứ không thương ai
thèm khóc! Về mặt tình cảm thì nói vậy là đúng (!), nhưng về mặt lý trí thì nên bình tĩnh xét suy lại. Từ câu
chuyện của Phật, ta mới thấy, cái đúng này chỉ đúng với người vợ bị mất chồng, chứ không đúng với người
chồng đang chết! Đúng với tâm trạng người sống đang sầu khổ vì cảnh đời góa bụa, chứ đâu có đúng với người
chết đang van xin một vài giờ an lành để ra đi! Đúng với người đời ham thích tiếng khen, chứ làm sao đúng đối
với người vừa thoát khỏi báo thân đáng lẽ sẽ được thành một vị thiên nhân hưởng phước lạc, mà nay bỗng chốc
đành phải làm loài sâu bọ!
Khóc lóc là chuyện thường tình của thế gian, nhưng lại là điều đại kỵ cho một thần thức đang lìa khỏi
xác! Rõ ràng, nếu người vợ im lìm lặng lẽ thì chồng đã được vãng sanh lên trời hưởng phước, nhưng chỉ vì
khóc lóc than van mà người chồng đã bị đọa vào hàng thú vật, một con vật xấu xí, nhơ bẩn trong tam ác
đạo. Câu chuyện này thật là một bài học thấm thía!
Sẵn đây, xin kể cho cô bác nghe một chuyện rất hay, rất ý nhị vừa mới xảy ra! Trong chuyến về thăm
Việt Nam kỳ này, Diệu Âm tình cờ có cơ duyên đi hộ niệm cho một người vãng sanh. Chị đó tên là Bùi Thị
Gái, 45 tuổi, ở Bến Vân Đồn Sài gòn, bị ung thư gan, bác sĩ đã báo cho biết là sắp sửa chết. Chị đó hồi giờ
không biết tu hành gì cả, nhưng do một duyên lành nào đó, những ngày sắp chết lại được quý Phật tử khuyên
nên để cho chúng tôi tới hộ niệm. Gia đình đồng ý. Chúng tôi tới khuyên chị buông xả vạn duyên để niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Chị vui vẻ nghe theo, hứa bỏ hết mọi chuyện và thành tâm niệm Phật, cầu xin được về
cõi Cực Lạc. Ngay ngày đầu tiên, chúng tôi khuyên giải, khai thị cách niệm cách nguyện. Chị chú ý lắng nghe
và làm theo. Chúng tôi có hỏi chị rằng đã sẵn sàng đi về với Phật chưa? Có điều gì khó khăn chưa giải quyết
không?... Hãy nói ra hết đi, để chúng tôi giải quyết giùm cho. Chị nói, " Tôi sẵn sàng rồi, không có gì bận bịu
cả...". Thật quá tốt!
Thế nhưng, cũng trong đêm đó, khi vừa mới nghe nói rằng có bà mẹ chồng cũng đang ngồi niệm Phật hộ
niệm cho chị, thì chị lại bậc khóc nức nở... Tôi hỏi,
- Tại sao chị khóc vậy?... Chị nói,
- Mẹ chồng của tôi thương tôi nhiều lắm, tội nghiệp cho mẹ tôi quá đi...
Thật tội nghiệp! Thật đáng mến! Thương tâm vô cùng! Một người sắp chết, đang bị đau đớn quằn quại
với bệnh ung thư, mà còn nghĩ thương đến người mẹ chồng già yếu, tuổi bát tuần, phải ngồi niệm Phật hộ niệm
cho mình. Tâm tình này thật quá quý hóa, tha thiết, cảm động! Nhìn cảnh tượng này ai mà không thương, ai
mà không đau lòng, ai mà không xúc động! Bình thường có lẽ ai mà không khóc theo. Thế nhưng... trong lúc
mọi người còn đang ngỡ ngàng, người nhà chưa có ai kịp khóc, thì tôi đã liền lên tiếng "nói đùa(!)" với chị,
- Ôi chao! Chị này lạ chưa! Rõ ràng vừa rồi chị hứa với chúng tôi là buông bỏ hết, thế tại sao bây giờ lại
thương bà mẹ, lại khóc tùm lum vậy?... Chúng tôi tiếp tục "đùa(!)" thêm,
- Nếu chị còn khóc, còn thương, còn nhớ bà mẹ chồng tức là chưa muốn vãng sanh. Thôi kỳ này để tôi
vãng sanh giùm cho, còn chị thì tiếp tục nằm trên giường bệnh vài năm nữa để khóc nghen. Chịu không? Hình
như... chị đã hiểu ra vấn đề, nên ngưng khóc rồi niệm Phật:
- Nam mô ... A Di ... Đà Phật... xin Phật.. cho . con . v(z)ề ... Tây Phương ... trong đêm nay.
Chúng tôi thì chỉ chị nguyện là: "Xin Phật cho con về Tây Phương", còn chị thì tự động nói thêm ba chữ
"... trong đêm nay".
Lời nói của chị rất yếu đuối, cố gắng phát lên từng hai tiếng một, khá khó khăn, vậy mà còn ráng nói
thêm ba chữ "...trong đêm nay" rồi mới ngưng. Hàm răng thì rụng mất hai cái răng cửa, ráng nói nên phải chu
nhọn cái miệng lại, các vị đồng tu trông thấy không ai nín được cười! Chính tôi cũng phải mắc cười và mọi
người đồng cười rộ lên.
Chúng tôi vừa cười vừa vỗ tay hoan nghênh tình thần của chị. Chính chị Gái cũng vui theo và ráng vỗ tay
được vài cái.
Trong suốt mấy ngày sau, mỗi lần thấy chị phấn khởi niệm Phật, dũng mãnh phát nguyện vãng sanh,
chúng tôi đều vỗ tay hoan nghênh. Thấy vậy, có nhiều người tâm sự: "Thật là một cảnh tiễn đưa người ra đi
khá lạ lùng, chưa từng thấy. Cảnh sắp chết mà lại vui vẻ, thoải mái, cười đùa vỗ tay".
Và kết quả, chị đó đã niệm Phật ra đi, thoại tướng rất tốt, mặt mỉm cười, sắc da từ màu vàng như nghệ vì
bệnh gan đã biến nên hồng hào. Niệm Phật hộ niệm 15 giờ sau mới tẩn liệm mà thân xác vẫn tươi nhuận, mềm
mại. Một đám tang khác lạ với nhiều đám tang, người đi vui vẻ, người nhà vui vẻ, người người đều vui vẻ,
không có một tiếng khóc. Cả gia đình tràn ngập niềm tin vào Phật pháp và đồng phát tâm niệm Phật. Rất nhiều
người trong xóm cũng đồng loạt phát tâm niệm Phật tu hành.
Chị Bùi Thị Gái vãng sanh vào lúc 10:50 tối đêm 10/9/2005, nhằm ngày mồng 7 tháng 8 năm Ất
Dậu. Vừa ra đi là chị đã tạo duyên lành cho nhiều người. Rồi đây chị sẽ độ được biết bao nhiêu người khác
nữa... (Chuyện này xin gác lại và sẽ kể rõ chi tiết hơn vào thư tới).
Theo như trong kinh Phật dạy, nếu một người lúc lâm chung mà bị con cháu khóc than, người thân níu
kéo, hàng xóm gây ồn ào, va chạm vào thân thể thì thật là đại bất hạnh cho người đó. Trong giờ phút cuối cuộc
đời, người đang chết sẽ đối diện với nhiều cảnh giới hãi hùng đau khổ. Đau khổ vì thân xác tứ đại phân ly, đau
khổ vì oán thân trái chủ trả thù, đau khổ vì nghiệp chướng hành hạ v.v... bao nhiêu nỗi thống khổ đang ào ào ập
tới bắt người ra đi phải chịu lấy. Tinh thần hãi kinh, tâm hồn hoảng sợ, tâm lý rối bời... Họ đang chới với trong
những cảnh giới quá hãi hùng, quá tội nghiệp! Nếu lúc đó người thân trong gia đình tới quây quanh an ủi, bình
tĩnh khuyên lơn, thì người ra đi an lòng, sẽ đỡ khổ biết chừng nào.
Và, hay hơn nữa, nếu người thân hiểu đạo thì hãy bao quanh niệm Phật, nhờ bạn đồng tu tới hộ niệm,
khuyên nhủ buông xả thế trần, chỉ dẫn nguyện cầu vãng sanh Cực-Lạc. Nếu mọi người đồng tâm thành ý niệm
Phật cầu xin Phật A-Di-Đà tiếp độ, thì người ra đi không những được an lòng bớt khổ, mà còn thoát nạn tam đồ,
thoát ly tam giới, vãng sanh Tịnh-độ, một đời bất thối thành Phật. Đây là đại thiện căn, đại phúc đức, đại nhân
duyên. Quý hóa, đại quý hóa...
Cứu người là vậy đó, hiếu nghĩa là vậy đó, thương yêu nhau là vậy đó. Chứ đâu phải thương yêu là phải
khóc cho nhiều, phải than cho dữ! Giả sử như ngày chị Bùi Thị Gái ra đi, mọi người trong gia đình khóc lóc
than van. Khóc cho lớn để được tiếng khen tặng của hàng xóm. Than thật nhiều cho đã cái nư "Ái biệt ly
khổ"! Ôm ấp, lay động, vằn vọt thân thể người đi cho dữ để người đi không đành lòng nhắm mắt chia tay. Thì
chúng ta hãy nghĩ thử, việc gì đã xảy ra?
Xin thưa rằng, chắc chắn hôm đó đã có một người bị hãm hại! Có một thần thức bị đọa đày! Có một
oan hồn bị ném vào hầm lửa! Có một chị tên là Gái bị bệnh ung thư gan đau đớn phải chết và sau đó sẽ bị đau
khổ hơn gấp trăm ngàn vạn lần cái bệnh ung thư này! Thương tâm biết chừng nào! Người ở lại sẽ buồn khổ
sầu đau, người ra đi còn tức tưởi buồn đau vạn kiếp! Kẻ ra đi thì đã bị đọa lạc, người ở lại thì sống trong cảnh
khổ não chờ đợi tới phiên mình chịu chung cảnh ngộ! Nhân nào quả đó. Hôm nay gây nên đại họa làm cho
người thân bị đọa lạc, thì ngày mai tới phiên mình cũng bị con cháu nó mạnh tay ném vào ác đạo để ta trả trọn
cái quả báo này, chứ có cách nào khác hơn!
Vậy thì, khi có người ra đi, xin cô bác đừng khóc. Khóc lóc là bất hiếu, bất nghĩa! Sống chết là lẽ
thường! Hãy phát tâm hộ niệm cho nhau, để cứu độ từng người một vãng sanh Cực-Lạc. Lời Phật nhất định
không sai. Chị Bùi Thị Gái niệm Phật chỉ vỏn vẹn 11 ngày, nhờ hộ niệm mà an nhiên vãng sanh thoát vòng sanh
tử.
Xin cô bác quyết lòng tin tưởng, niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Niệm Phật sẽ thành Phật. (Hẹn thư sau trả
lời tiếp).
Diệu Âm kính thư,
(Viết xong, Úc châu ngày 29/9/05).
Người bệnh khi sắp tắt thở cũng chính là lúc phải phân biệt cảnh giới giữa phàm, thánh, người và quỉ ma. Cho
nên, ngay lúc này chỉ có thể dùng danh hiệu Phật để khai thị, hướng dẫn thần thức của họ, chứ không được tắm
rửa, thay quần áo, di động, than khóc. Tùy theo ý thích của người bệnh muốn ngồi hay nằm cũng được. Nóng
ở đầu sanh về Tịnh độ, ở trán sanh về Trời, ở ngực sanh cõi người, ở bụng sanh ngạ quỉ, ở đầu gối sanh vào cõi
súc sanh, dưới bàn chân sanh về địa ngục. Biết vậy thì mọi người đều phải niệm Phật một cách khẩn thiết, đừng
để ý thăm dò hơi nóng nằm ở đâu, quyết định giúp được họ đới nghiệp vãng sanh.
Đại sư Ấn Quang (Tổ thứ 13 Liên Tông)
NHỮNG LÁ THƯ DIỆU ÂM 4
1 CHUYỆN VÃNG SANH HY HỮU Ở V.N.
NHỜ VÀO “ TRỢ NIỆM CỦA PHẬT TỬ ”
* Thầy Giác Chỉ : “Gia đình của bà này trước giờ chưa biết mái chùa là cong hay thẳng, thế mà không ngờ lại
có thiện căn phước đức lớn quá như vậy. Có lẽ 85 triệu người Việt Nam, bà này là người đầu tiên được vãng
sanh chăng?...
* Kinh nghiệm trợ niệm thứ 2: “khai thị phải biết tùy cơ úng biến"
Thư Khuyên Người Niệm Phật (IV/4)
Kính gửi cô Lệ Tân và quý đồng tu,
Chúng ta tiếp tục bàn chuyện còn đang dở dang:
"... việc hộ niệm khó quá, nó mới mẻ quá, có người chấp nhận, có người lại cho rằng bố mẹ ra đi con cái
phải khóc, không khóc thì thiên hạ bảo là bất hiếu..."
Vấn đề con cháu khóc lóc khi người thân ra đi là một đại nạn cho người chết, chúng ta đã bàn qua trong
thư trước. Xin cô bác đồng tu nhớ kỹ, đừng vì một chút tình cảm thế tục mà vô tình hãm hại người thân của
mình trong tam đồ ác đạo vạn kiếp. Tội nghiệp lắm! Hôm nay xin nói về "... việc hộ niệm khó quá, mới mẻ
quá...!".
Người ta nghĩ hộ niệm khó quá cũng có thể đúng đấy! Tuy nhiên không phải quá khó như nhiều người
tưởng, vì chính tôi cũng từng hộ niệm cho người vãng sanh. Còn sự hộ niệm có vẻ mới mẻ, thì chỉ mới mẻ đối
với người Việt Nam chứ không xa lạ lắm đối với người học Phật Trung Quốc và các nơi khác. Hơn nữa, người
niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thì sự hộ niệm lại rất quen thuộc, đây là điều cần thiết để bảo đảm sự vãng sanh
được chắc chắn. Riêng ở VN, vì sự tuyên truyền Phật pháp còn yếu, người giảng kinh thuyết đạo còn quá ít.
Nhiều người đi chùa lễ Phật tụng kinh lâu năm, nhưng tình thực mà nói, nhiều khi chưa hiểu rõ Phật pháp là gì.
Thành ra cứ thấy có tới chùa tới miễu quỳ lạy các pho tượng cầu tài, cầu lộc, cầu mua may bán đắc, v.v.. thì
tưởng mình đã tu theo Phật. Có người còn âm thầm thực hành theo những pháp ngoại đạo, không có trong kinh
Phật mà cứ tưởng là Phật pháp! Đây là một sự thực khá phổ biến, làm cho nhiều người hiểu lầm mà đánh giá sai
lệch về Phật giáo!
Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc là pháp môn Tịnh độ, một đại pháp của đức Thế Tôn thuyết
giảng, ứng hợp với thời mạt pháp này để cứu độ tất cả chúng sanh vãng sanh về Tây Phương, thành bậc bất thối
chuyển, một đời viên mãn Phật quả.
Vãng sanh Tây Phương là điều có thực. Hàng năm, hàng tháng, thậm chí hàng ngày ở khắp nơi đều có
người niệm Phật vãng sanh. Họ vãng sanh thực sự chứ không phải là chuyện huyền thoại. Chính tôi đã có cơ
may chứng kiến, dù không nhiều lắm, nhưng cũng không phải là ít, những trường hợp vãng sanh. Có những
người vãng sanh chính tôi tham gia hộ niệm, có những cuộc đã được quay VCD để lại, xa nữa thì nhiều chuyện
vãng sanh đọc được qua truyện ký của các vị Tổ sư, Đại đức, Cao tăng. Nhiều lắm! Những hiện tượng vãng
sanh này được ấn chứng đúng như kinh Phật nói, đã xảy ra ngoài sức tưởng tượng của tôi, và tôi nghĩ rằng, với
lý luận bình thường không cách nào có thể giải thích nổi, không thể nào dùng đến cái gọi là văn minh khoa học
mà biện giải được. Vì sao vậy? Vì đây là Phật pháp, là pháp xuất thế gian. Đã là pháp xuất thế gian thì chỉ có
thể dùng tâm để chứng ngộ, chứ không thể dùng tri kiến hữu lậu thế gian mà giải thích. Kiến thức thế gian chỉ
gói ghém trong phạm vi hiện tượng nghiệm chứng, không đủ khả năng liễu giải phần siêu hình. Nói theo nhà
Phật, tức là không thể đột phá Vô-minh, Phân-biệt, Chấp-trước. Không đột phá nổi Vô-minh, Phân-biệt, Chấptrước thì làm sao ngộ nhập vào Phật pháp! Nếu gượng ép luận giải thì chắc chắn sẽ rơi vào trạng huống 'Y kinh
giảng nghĩa tam thế Phật oan' vậy!.
Hộ niệm có lúc khó, có lúc dễ. Nghĩa là, có người được vãng sanh, có người không được vãng
sanh. Được vãng sanh, gọi là 'DỄ', không được vãng sanh, gọi là 'KHÓ'! Tại sao dễ? Vì biết niệm Phật, muốn
vãng sanh. Tại sao khó? Vì tu lòng vòng để chờ chết rồi nhờ con cháu tới chùa xin cầu siêu, chứ không chịu
niệm Phật, không tha thiết nguyện vãng sanh.
Thư này chúng ta cố gắng bàn đến chuyện hộ niệm khó hay dễ. Sẵn đây tôi sẽ kể thêm chi tiết chuyện
chị Bùi Thị Gái, 45 tuổi, vừa mới vãng sanh ở Bến Vân Đồn Q.7 Sài gòn để làm ví dụ về sự hộ niệm. Thật ra,
đến giờ phút này tôi không biết phải kể câu chuyện nào cho hợp lý đây, vì tôi định kể một chuyện vãng sanh
khác, nhưng chưa kịp kể thì lại có chuyện vãng sanh khác nữa xảy ra. Và cũng thưa thực rằng, trong lúc đang
viết lời thư này, thì hàng ngày tôi phải đi hộ niệm cho một người khác nữa, cũng là bệnh ung thư sắp chết. Kết
quả có được vãng sanh không? Xin chư vị đồng tu chờ câu trả lời ở cuối thư!... Vãng sanh nhiều quá, tôi không
biết lựa chọn chuyện nào trước, chuyện nào sau.
Ví dụ, như khi nhận được thư của quý cô bác đề cập đến việc hộ niệm, thì ở đây chúng tôi vừa nhận được
2 cuộn VCD quay lại hai người, một đàn ông, một đàn bà, vãng sanh trong năm 2004 tại đạo tràng niệm Phật
Đông-Thiên-Mục-Sơn ở Trung Quốc. Hai cuộc vãng sanh này khá lý thú, quay phim được khá chi tiết, nhưng
chưa kịp dịch ra tiếng Việt. Tôi dự định kể lại vài nét đại cương về chuyện đó cho cô bác nghe, nhưng chưa kịp
kể, thì ngày 10/6/2005 ở Brisbane này lại có một người VN, bác Dương Thị Ngà, 84 tuổi vãng sanh. Cuộc vãng
sanh này chính tôi có tham gia hộ niệm. Ngay sau đó tôi phải về VN thăm cha mẹ. Không ngờ, trong chuyến
về quê này lại được cơ duyên khởi sự hộ niệm cho một người ung thư gan sắp chết, đó chính là chị Bùi Thị
Gái. Chuyện chị Bùi Thị Gái vãng sanh đã ghi nên một trang sử khá đặc biệt của Phật giáo ở quê nhà, một ấn
tích quí giá của người Phật tử VN. Chuyện này gần gũi và mới xảy ra, cô bác có thể liên lạc được để tìm hiểu
thêm.
Chuyện này do một cơ duyên ngẫu nhiên. Trong những ngày cuối tháng 8/05, tôi vào Sài gòn để chuẩn
bị hành trang qua lại Úc, thì thầy Thích Giác Châu, vị pháp sư khá quen thuộc với giới Phật giáo VN, nổi tiếng
về tranh pháp và bút pháp cả trong nước lẫn ngoài nước, gọi một số vị Phật tử đến gặp tôi để hỏi việc. Nhờ dịp
này, tôi lại gặp thêm một vị pháp sư nữa, đó là thầy Thích Giác Chỉ, trụ trì chùa Phước Thành Q.7 Sài gòn, là sư
huynh đệ của thầy Giác Châu. Cả hai thầy đều muốn tôi trình bày một ít kinh nghiệm về sự hộ niệm. Quý
Thầy bảo thì tôi phải vâng lời. Sau buổi nói chuyện, có mấy vị Phật tử nêu ý kiến rằng:
- Có một người bệnh sắp chết, chúng tôi sẽ liên lạc với gia đình, nếu họ chấp nhận, anh Diệu Âm có sẵn
lòng đi hộ niệm không?
- Quá tốt! Tôi nói. Đây là dịp quá tốt để thực tập, vừa lý thuyết xong thì có dịp thực hành liền, còn gì
may mắn hơn. Tìm đâu ra một cơ hội trùng hợp hiếm có như vậy!
Sau khi tiếp xúc, gia đình bệnh nhân đã vui vẻ đồng ý. Tối ngày hôm sau, tôi còn nhớ có lẽ là ngày
31/8/05, chúng tôi được chị đạo hữu Diệu Thường, một Phật tử thuần thành với tâm đạo rất tốt, cùng một số
Phật tử khác hướng dẫn đến nhà bệnh nhân. Khi đến, tôi thấy bệnh nhân nằm trên chiếc giường bố nhỏ kê sát
cửa chính ra vào trong một căn nhà hẹp. Bệnh nhân đã ở vào giai đoạn kiệt tận, theo như bác sĩ nói, phải chết
trong vòng một vài tháng mà thôi. Nước da chị vàng hoe, tròng mắt thì vàng như nghệ, thân thể ốm yếu, nằm
luỗi trên giường, hai chân bị phù, bụng sưng chướng lên... Chị bị giải phẫu để đặt một ống cao-su từ trong thân
chạy ra để chuyển một thứ nước màu vàng tiết ra vào một túi nhựa đeo trước bụng... Đây là lần đầu tiên trong
đời tôi tận mắt chứng kiến một người bị ung thư gan sắp chết!... Trong kinh Phật nói: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, thì
đây thật sự là một ấn tượng rõ rệt về Bệnh Khổ đang nằm chờ Tử Khổ vậy!
Thực ra, tôi chỉ tham dự một phần vào cuộc vãng sanh này, chứ không phải trọn vẹn. Tôi chỉ khởi sự
hướng dẫn cách thức hộ niệm, cách khai thị một cách tổng quát cho các vị đồng tu theo đó mà làm, còn riêng tôi
thì chỉ niệm Phật cho chị được có ba đêm. Đêm thứ tư, tức là ngày 4/9/2005, tôi phải bay trở về Úc. Các vị đồng
tu tiếp tục hộ niệm thêm bảy ngày nữa.
Qua Úc xong, tôi thường xuyên điện thoại liên lạc liên tục để theo dõi tình hình hộ niệm. Đúng ra, tôi
nên hoãn lại chuyến bay thêm một thời gian nữa để cùng với mấy vị Phật tử hộ niệm cho chị Gái được viên mãn
mới phải. Chính thầy Giác Chỉ cũng đề nghị với tôi như vậy. Thầy bảo tôi, hãy đổi vé máy bay, rồi tới chùa
Thầy ở thêm vài tuần. Tôi cũng có dự định như vậy. Tuy nhiên, khi thấy mấy vị Phật tử, cùng với đạo hữu Diệu
Thường phát tâm rất mạnh, tất cả đều thành tâm, nhiệt tình, tin tưởng. Thầy trụ trì thì vui vẻ, tận tình hướng dẫn
Phật tử niệm Phật. Còn chị Gái thì đã phát tâm niệm Phật, tha thiết nguyện vãng sanh. Thấy vậy làm cho tôi rất
yên tâm. Tôi nghĩ thầm: thật là tốt lắm rồi... thôi, hãy để cho mọi người tự chứng nghiệm lấy thì hay hơn. Tôi
lên máy bay ra đi với một niềm tin rất lớn...
Và, kết quả thì đúng như mọi người mong muốn. Chị Bùi Thị Gái đã được vãng sanh lúc 10 giờ 50 đêm
10/9/2005.
Sau khi chị vãng sanh, tôi điện thoại về thầy Giác Chỉ. Thầy nói:
- ... Gia đình của bà này trước giờ chưa biết mái chùa là cong hay thẳng, thế mà không ngờ lại có thiện
căn phước đức lớn quá như vậy. Có lẽ 85 triệu người Việt Nam, bà này là người đầu tiên được vãng sanh
chăng?...
Thầy Giác Chỉ đã xác định chị Gái vãng sanh. Tôi điện thoại hỏi mấy người khác, ai cũng sung sướng
khai ra chuyện lạ. Chị Diệu Thường thì rất vui mừng báo cho tôi biết,
- Chị Gái đã vãng sanh rồi, vi diệu quá anh Diệu Âm ơi! Chúng tôi đã báo cho Thầy trụ trì chùa Hoằng
Pháp biết sự việc, thầy trụ trì cũng nói rằng bà đó thực sự được vãng sanh.
Chị Gái đã vãng sanh, một chuyện lạ vừa xảy ra làm cho mọi người đều phấn khởi. Ở phút lâm chung,
chính thầy Giác Chỉ đã khai thị, nhắc chị niệm Phật và cầu vãng sanh. Chị phát nguyện vãng sanh xong thì nhẹ
nhàng ra đi và được đồng tu tiếp tục hộ niệm 15 tiếng đồng hồ. Chị ra đi với sắc mặt an nhiên, nước da vàng
như nghệ từ từ hồng hào trở lại như người bình thường. Người em ruột của tôi cũng có tham gia hộ niệm lúc
lâm chung, nó nói,
- Lạ thật! Lúc chị đó tắt thở thì đôi mắt hơi mở một chút, miệng hô nên môi không ngậm được. Thế mà
khi niệm Phật một chặp thì mắt từ từ nhắm lại, miệng cũng ngậm kín lại, nước da thì từ từ hồng hào tươi ra, chứ
không phải vàng khè như lúc còn sống nữa...
Đến 7 giờ sáng, tức là hộ niệm được 8 tiếng, người chồng thay quần áo thì phát hiện ra thân xác còn
mềm mại, tươi hồng. Mọi người tiếp tục niệm Phật đến 3 giờ chiều, tức là 15 giờ sau khi tắt hơi, nhà quàng tới
làm việc thì thân thể vẫn tiếp tục tươi nhuận và mềm mại như người đang ngủ. Tất cả mọi người rất đỗi ngạc
nhiên và bắt đầu hồ hởi báo tin chuyện lạ...
Chuyện chị Bùi Thị Gái vãng sanh tại hẻm số 277 bến Vân Đồn quận 7 Sài gòn phải chăng là một tiếng
sét làm giật mình những ai chưa tin vào Phật pháp, một tiếng chuông làm thức tỉnh nhiều người còn đang mê
man theo các cách tu vô định hướng. Cuộc vãng sanh của chị là sự đại hỷ cho gia đình, mọi người đều phát tâm
tu hành, còn người trong xóm thì đều bàng hoàng tỉnh ngộ, và cùng phát lòng niệm Phật. Thật là một tin đáng
mừng.
Như vậy hộ niệm không đến nỗi nào khó lắm! Có khó là vì chưa hiểu mà khó, tâm lý khó, lòng tin khó,
hoàn cảnh khó, người thân khó, nghiệp chướng khó, v.v.. Những vấn đề này nếu mổ xẻ tường tận thì giải tỏa
được nhiều khó khăn cho cô bác. Tuy nhiên, thư này dù sao cũng có hạn, chúng ta sẽ cố gắng bàn được tới đâu
hay tới đó, phần còn lại sẽ tính sau!
(*) Một là, chưa hiểu thấu đạo lý. Có lẽ rằng, trước giờ ở VN nhiều người chưa biết đến danh từ vãng
sanh, chưa thấy thế nào là vãng sanh, thành ra rất nhiều người chưa tin được chuyện vãng sanh là thực, hoặc là
hiểu lầm sự vãng sanh! Tình thực mà nói, đối với đại đa số quần chúng, Phật tử khắp nơi, thường chỉ nghe nói
đến cầu an, cầu siêu, cầu tiêu tai giải nạn, cầu phước lộc, cầu trường thọ, cầu mua may bán đắt... chứ ít ai nghe
nhắc đến hộ niệm để vãng sanh. Ngược lại, có người còn sợ và né tránh đến tiếng vãng sanh nữa là khác!
Vì sao vậy? Vì chưa hiểu thấu đạo lý vãng sanh, vì lầm lẫn cho rằng 'Vãng Sanh' là 'Chết'. Nếu vãng
sanh là chết, thì ai lại đi cầu chết! Con người thường chấp vào thân mạng, cứ cho rằng Ta chính là cái thân xác
này, cho nên khi mất cái thân xác thì họ tưởng rằng mất tất cả, không còn gì hết! Chính vì thế, nghe đến tiếng
vãng sanh thì sợ như sợ chết vậy!...
Thật là một ý nghĩ sai lầm, đáng thương hại! Chính vì sự mê lầm này đã làm cho chúng sanh không giải
thoát được, đời đời kiếp kiếp phải chịu trầm luân đọa lạc. Thực tế thì cái thân này chỉ là 'Cái Vật ta dùng' chứ
không phải là 'Ta'. Cái vật ta dùng, thì dùng một thời gian nó phải hư. Hư thì phải liệng, không liệng thì cái túi
da này nó sẽ thối ùm lên, chính ta cũng phải chạy trốn! Nó không phải là Ta, chứ nếu thực sự nó là 'Ta', thì bao
giờ lại có chuyện 'Ta phải bỏ Ta'! Liệng một cái áo cũ để thay vào chiếc áo mới, thì liệng một cái thân hư ta sẽ
đội lên một cái thân mới, thế thôi. Ai hiểu được vậy thì đã giác ngộ. Giác ngộ rồi thì hết khổ, hết sầu, hết lo sợ
chết. Thành ra, nếu thực là người thông minh trí huệ thì không sợ chết, chỉ có một điều đáng phải quan tâm là
khi liệng cái báo thân này phải có cái thân 'chân kim sắc' ánh vàng rực rỡ, tướng hảo quang minh, phước trí vẹn
toàn, chứ đừng nên vô ý mang lông đội sừng mà đành sống trong cảnh nô lệ ngu si vạn kiếp!
Như vậy, lìa bỏ cái báo thân này không phải là mất tất cả. Không những thế, mà ta vẫn còn sống và sẽ đi
vào những cảnh giới khác, có sướng, có khổ, có sáng, có tối...
Vãng sanh và chết là hai cảnh giới hoàn toàn trái ngược nhau, không thể lầm lẫn! Đáng tiếc, nhiều người
vẫn còn mơ hồ giữa hai cảnh giới này! Người đời thiếu quá nhiều thiện căn phước đức nên khó tiếp nhận được
câu Phật hiệu. Không tiếp nhận câu Phật hiệu thì tiếp tục sống theo mê mờ lầm lạc. Lầm lạc cách tu hành, mê
mờ đường giải thoát, do đó mà chúng sanh cứ nhắm mắt dắt nhau đâm đầu vào cảnh tối tăm để chịu khổ nạn
triền miên. Người đời chưa biết Phật pháp nên phải mê lầm thì cũng đành đi. Còn nhiều người đã học Phật lâu
năm, mà vẫn chưa giác ngộ ra đường nào giải thoát, đường nào luân hồi, thì thật là đáng tiếc lắm vậy!
Ngoài ra, còn có một sự hiểu lầm khác nữa, là nhiều người cho rằng chết là dành cho người thế tục hoặc
tại gia, còn vãng sanh chỉ có người tu hành xuất gia mới được. Thành ra cứ thấy một người tu sĩ ra đi thì nói là
'Vãng Sanh', bất cần là thực hay giả, nhiều khi họ còn tặng thêm danh từ 'Viên Tịch' nữa. Những ý tưởng này
thật sự không đúng!
'Chết' thì người nào cũng có thể chết. Người thế tục chết, người tu tại gia chết, người tu xuất gia cũng có
thể bị chết như thường! Trong mấy thư trước chúng ta có thường nhắc qua một lời Phật dạy trong kinh, 'Thời
mạt pháp ức ức người tu hành khó có một người chứng đắc'. Người tu hành mà không được chứng đắc thì cuối
đời phải chết. Chết nghĩa là thần thức đi theo nghiệp báo thọ sanh, xả thân thọ thân trong lục đạo, tiếp tục sanh
tử trong sáu nẻo luân hồi. Như vậy, chết có tha một người nào đâu!
'Vãng Sanh' thì người xuất gia được vãng sanh, người tu tại tại gia cũng được vãng sanh. Đặc biệt, với
pháp niệm Phật thì rất hợp với người tu tại gia. Trong pháp hội kinh Vô Lượng Thọ, phần đại diện cho pháp
môn, các vị thượng thủ tại gia nhiều hơn xuất gia tới ba lần. Trong thực tế chuyện vãng sanh xảy ra khắp nơi
cũng đã chứng minh được rằng người niệm Phật tại gia vãng sanh rất nhiều. Đây là sự thật, xin cô bác đừng nên
lo ngại về điều này. Phật dạy, đời mạt pháp 'Chỉ nương theo pháp niệm Phật mà xuất luân hồi'. Niệm Phật xuất
luân hồi tức là vãng sanh Tịnh độ. Người thế tục chưa biết tu hành, nhưng trước phút lâm chung nếu biết ăn năn
sám hối, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn được vãng sanh. Đây là lời Phật dạy, hoàn toàn có thực, trong
đời tôi đã chính mắt chứng kiến qua.
Vãng sanh là sống mà đi vãng sanh chứ không phải chết. Đây là cảnh giới nói trong kinh Phật, chư Tổ
Sư cũng bàn rất nhiều trong các luận Tịnh độ tông, dùng để chỉ cho những người lìa bỏ thế giới ta-bà, sanh về
cõi Cực-Lạc của Phật A Di Đà, dự vào chín phẩm hoa sen ở Liên Trì hải hội tại cõi Tây Phương, viên chứng
tam bất thối: Vị-Bất-Thối, Hạnh-Bất-Thối, Niệm-Bất-Thôi, khi hoa khai thấy Phật chứng quả 'Vô Sanh Pháp
Nhẫn'. Theo Trí Độ Luận, đây là cảnh giới của thực tướng lý thể Chân Như, an trụ nơi lý vô sanh vô diệt, không
dấy lên hành động của nghiệp, thông suốt các pháp mà không vướng mắc, không thối chuyển, gọi là Bồ-tát BấtThối-Chuyển, kinh Phật Thuyết A Di Đà gọi là A-bệ-bạt-trí bồ tát, kinh Vô Lượng Thọ gọi làø A-duy-việt-trí
bồ tát. Cái năng lực chứng đắc này tương đương với các bậc Bồ tát từ Thất Địa đến Cửu Địa. Trong kinh Nhân
Vương có nói đến Ngũ Nhẫn, thì Vô Sanh Pháp Nhẫn là quả đắc thứ tư, chỉ dưới Tịch Diệt Nhẫn mà thôi. Thực
bất khả tư nghì! Năng lực này là nhờ thần lực của đức A Di Đà Phật gia trì, chứ không phải là tự lực chứng đắc.
Còn 'Viên Tịch' là cảnh giới cao thượng chí tôn chứ không phải đơn giản. 'Viên' là viên mãn chư đức;
'Tịch' là tịch diệt chư ác, một chứng đắc đến quả đức cùng cực để nhập Niết -bàn tịch diệt. Cảnh giới này còn
gọi là 'Tịch Diệt Nhẫn', quả đức cuối cùng trong kinh Nhân Vương, cao hơn Vô Sanh Nhẫn một bực. Đây là quả
chứng đắc từ Pháp Vân Địa đến quả địa Như Lai, nghĩa là ba phẩm cuối cùng: Thập-Địa, Đẳng-Giác, DiệuGiác. Như vậy, Viên Tịch là cảnh giới của Phật, chứ không phải bình thường.
Tuy nhiên, ta cũng thường nghe thấy rằng danh từ này được dùng để chỉ cho sự ra đi của các vị xuất
gia. Đây chỉ là sự tôn kính của hàng đệ tử, chứ còn thực tế thì chỉ có những vị Đại Sư, Cao Tăng đắc đạo mới
có thể Viên Tịch chứ không phải dễ dàng!
Nói chung, Chết, Vãng-Sanh, Viên-Tịch là ba cảnh giới khác nhau, chúng ta không nên sơ ý trong cách
gọi mà dễ làm cho người đời sinh ra mơ hồ lầm lẫn. Để tránh sự lầm lẫn này, khi nói đến chuyện vãng sanh
chúng ta cần phải cẩn thận. Như riêng tôi, đôi khi có người điện thoại tới, hoặc trực tiếp tới gặp, đề nghị tôi viết
những chuyện vãng sanh của người này, người nọ. Nhiều khi họ đưa ra những bằng chứng như xá lợi, thấy này
thấy nọ, v.v... nhưng tôi cũng không dám vội vã viết. Vì tình thực, có nhiều trường hợp khá mơ hồ, rất khó
quyết đoán. Ví dụ như nói về 'xá lợi' chẳng hạn, trước đây có lần tôi thỉnh ý Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, vị
thượng thủ Giáo Hội Khất Sĩ Tăng Già Thế Giới. Ngài nói, '... họ gọi là xá lợi, nhưng nếu xem kỹ, thì nhiều khi
chỉ là số xương chưa kịp cháy hết mà thôi...'. Còn Ngài Tịnh Không nói, nếu thực là xá lợi thì để nó trên cái đe
sắt mà đập, chỉ có móp đe chứ không bể xá lợi. Hơn nữa, Ngài nói tiếp, chết có lưu lại xá lợi cũng không hẳn là
được vãng sanh. Có được xá lợi chỉ cộng thêm vào thoại tướng tốt và chỉ bảo đảm được rằng người chết đó
không bị đọa vào ba đường ác mà thôi.
Như vậy, có xá lợi và được vãng sanh là hai việc hoàn toàn khác nhau. Xin chư vị chớ nên sơ ý mà nhập
chung hai việc thành một. Theo HT Tịnh Không, thì Vãng sanh, chắc chắn nhất là chính người niệm Phật, trước
lúc lâm chung, thấy A Di Đà Phật hoặc Tây Phương Tam Thánh hiện thân tiếp dẫn.
Nếu không được vậy, thì chúng ta cần quan sát kỹ các thoại tướng ứng hợp với kinh Phật và đồng thời
phải có sự tương ứng đầy đủ với Tín-Hạnh-Nguyện. Nên nhớ, vãng sanh Cực Lạc có Tứ Độ, Tam Bối, Cửu
Phẩm. Mỗi phẩm đều có thoại tướng khác nhau. Nhưng dù sao vẫn phải cẩn thận y cứ vào kinh điển.
Phật dạy tín hạnh nguyện vãng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói, hạ phẩm vãng sanh chỉ mộng
thấy Phật mà được vãng sanh. Trường hợp này thường không có thoại tướng hiển hiện. Trong kinh Pháp Hoa
cũng có nói rằng sự cảm ứng đạo giao có 'Hiển', có 'Minh'. Hiển là rõ ràng, Minh là âm thầm. Đó đều do cái
nhân tu hành từ trong quá khứ. Tuy nhiên, thời mạt pháp chúng sanh nghiệp nặng, đức mỏng, thường xa lìa Phật
pháp. Trong đó thiếu lòng tin, không thiết nguyện là chướng ngại chính yếu cho việc vãng sanh vậy.
Tóm lại, Chết là thông thường nhất, dễ thấy nhất và tệ hại nhất! Chết thì phải luân hồi trong lục đạo, nếu
rơi vào tam ác đạo thì gọi là đọa lạc. Những người không biết tu hành thì chắc chắn phải chịu chết, không còn
đường nào tốt hơn! Người tu hành mà không rõ đường đi nẻo về, thực hành những pháp không khế hợp căn cơ,
không y theo kinh điển của Phật mà phụng hành, thì hầu hết cũng đành chịu chung số phận hẩm hiu!
Viên Tịch là hiện đời thành Phật, chứng nhập Niết bàn, là cảnh giới cao tột, chứng đạo nhanh chóng nhất
nhưng chỉ dành cho bậc thượng thượng căn, chư đại Bồ tát thị hiện, chứ không dễ dàng cho bậc trung hạ căn mơ
tưởng.
Vãng sanh thì ngự vào chín phẩm hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi Tây Phương, viên chứng tam bất thối,
một đời thành Phật. Vãng sanh là pháp dễ tu nhất, thích hợp nhất, thù thắng nhất cho chúng sanh trong thời mạt
pháp. Niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ là pháp môn cứu cánh viên mãn, ứng hợp cả ba căn thượng trung hạ,
phổ độ tất cả chúng sanh một đời thành Phật. Phật nói, thời mạt pháp này chúng sanh chỉ nương theo pháp niệm
Phật mới thoát được luân hồi. Một chúng sanh còn đầy nghiệp chướng như chúng ta hãy quyết lòng chọn lấy
pháp niệm Phật để vãng sanh. Đây là con đường hợp căn hợp cơ nhất, tốt nhất và duy nhất khả dĩ có thể giúp ta
thoát vòng sanh tử trong thời mạt pháp này.
Những người đi hộ niệm cần nên hiểu những lý đạo căn bản này, nhất là ý nghĩa của sự vãng sanh, để
khai thị cho bệnh nhân. Khi hộ niệm cho những người chưa biết tu hành, chưa biết niệm Phật, thì điểm đầu tiên
cần phải giải thích cho họ thấy rõ sự khác biệt giữa chết và vãng sanh. Hãy tùy cơ khai thị, giúp họ vững tâm
niệm Phật, tha thiết cầu vãng sanh để được hưởng cảnh an vui cực lạc, chứ không phải chết.
(*) Hai là, vấn đề tâm lý rất cần thiết khi hộ niệm cho người bệnh. Đối với những người chưa tu hành,
hoặc ít tu hành, khi hộ niệm chúng ta cần phải chú ý sử dụng đến thiện xảo phương tiện để hóa giải những
chướng ngại về mặt tâm lý trước, có như vậy thì sự hộ niệm mới khỏi bị bế tắc, giúp người bệnh có được cơ
duyên tin tưởng, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.
Ví dụ như chuyện chị Bùi Thị Gái, trước khi đến hộ niệm cho chị, tôi có hỏi qua mấy vị đồng tu tiến dẫn
và biết được rằng gia đình của chị ít tu hành, ít đi chùa, chưa biết niệm Phật. Khi tới nơi, những lời đầu tiên tôi
nói với chị không phải về Phật pháp, không khuyên chị niệm Phật, mà tôi chỉ hỏi chị đã nằm như vầy bao lâu
rồi? Bị đau lưng lắm phải không? Chị than, '... mỏi mê trong người, đau lưng, nhức vai... quá chịu hết nổi!'. Tôi
nói, 'mỏi mê, đau nhức như vậy, sao không có ai xoa bóp giùm cho chị. Thôi để tôi giúp cho...'. Miệng nói tay
làm, tôi thành thực muốn giúp chị giảm bớt sự khổ đau, được một vài phút thoải mái sau khi đã trải qua những
tháng ngày đau đớn trên giường bệnh. Tôi chưa cần các thứ khác...
Đây không phải là khơi chuyện thường tình thế tục, mà chính là đòn tâm lý đầu tiên. Chuyện này tôi đã
vô tình học được ở người em gái út của tôi. Tôi dạy cho em tôi niệm Phật, còn em tôi thì dạy ngược lại tôi cách
khai thị cho người bệnh mà chính nó không hay. Khi cha tôi bệnh, tôi khuyên cha tôi niệm Phật, ông nghe một
cách khá miễn cưỡng. Mấy đứa em trai của tôi tới khuyên thì cha tôi lại càng không thèm nghe nữa. Ấy thế, mỗi
khi em gái tôi khuyên thì cha tôi vui vẻ niệm Phật, vui vẻ phát nguyện vãng sanh. Thấy vậy tôi mới để ý, cứ
mỗi lần em gái tôi tới chăm sóc cho cha, thì nó lúc nào cũng cười đùa với cha tôi trước. Nó thường gọi cha tôi là
'Thái Thượng Hoàng' và mời Thái Thượng Hoàng nằm nghiêng lại cho hạ thần đấm lưng, xoa bóp. Đấm một
chút rồi nó mới nói, 'thôi mời Thái Thượng Hoàng niệm Phật đi..., cầu về Tây Phương sớm sướng hơn, nằm đây
làm chi cho khổ...!'. Thế là cha tôi vui vẻ niệm Phật.
Khi xem đến các cuộn VCD vãng sanh, tôi thấy cách khai thị của người Hoa cũng thường dùng đến
phương cách này. Họ khuyến khích, hướng dẫn người bệnh bằng những cử chỉ vui vẻ, thoải mái giống như đùa
vui vậy. Nhưng thực ra đây không phải là đùa giỡn, mà chính là họ đang tạo nên bầu không khí vui vẻ để vãng
sanh. Đây là một sự lịch lãm trong phương cách khai thị hữu hiệu, giúp người bệnh nhanh chóng phá tan nỗi
khổ, không còn sầu bi lo sợ nữa, mà vững lòng tin tưởng niệm Phật, và hoan hỉ cầu sanh về Tịnh độ. Trải qua
một số kinh nghiệm rồi, chúng tôi mới thấy được rằng phương cách khai thị này hay lắm.
Tôi đã bắt chước cách của em gái tôi để khai thị cho chị Gái và thực sự là tôi đã thuyết phục được chị rất
nhanh. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ của đêm đầu tiên, mà chị đã làm hết tất cả mấy việc tôi khuyên như:
quyết lòng niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, mạnh dạn phát lồ sám hối tội lỗi, không sợ chết, thích vãng sanh,
buông bỏ vạn duyên, sẵn sàng đi theo Phật bất cứ lúc nào... Thấy chị phát tâm mạnh mẽ ai thấy cũng phải
khen. Các đồng tu cũng cùng vui vẻ thoải mái niệm Phật, nhiều lần vỗ tay khen thưởng người bệnh. Chính chị
Gái cũng vui vẻ và nhiều lần vỗ tay mỉm cười cảm ơn mọi người. Tôi còn nhớ, trong đêm đầu tiên khi tôi
khuyên chị hãy thành tâm sám hối lỗi lầm của mình. Chị đã mạnh dạn khai như vầy:
- Tội lỗi của con nhiều lắm. Có khi con ra ngoài chợ lén ăn cắp đồ đem về. Vì gia đình nghèo quá
không có tiền nên con đành phải làm vậy để về nuôi gia đình. Nam Mô A Di Đà Phật, con xin thành tâm sám
hối.
Tôi chỉ nói tổng quát rằng ai cũng có lỗi lầm, thì chị cũng có. Bây giờ hãy thành tâm sám hối để nhẹ bớt
tội lỗi mà xin được về với Phật. Thế mà, tự chị dám mạnh dạn khai lên những điều sai trái. Chị muốn khai nữa,
nhưng tôi nói, 'Thôi đủ rồi! Thành thật như vậy là quá tốt, khỏi cần khai thêm'. Tâm địa thành thực, thật đáng
khen! Hỏi rằng, liệu trong chúng ta có ai dám can đảm nói lên những điều hạ tiện của mình cho người khác
nghe không?!
Một người quá nghèo, không có tiền nuôi gia đình đành ra chợ lén lấy trộm một vài bó rau về nuôi gia
đình là đáng thương hay đáng tội! Chúng ta thường khinh thị những kẻ bần cùng, hạ lưu, trộm cắp. Nhưng có
biết đâu, coi chừng chính ta lại là thứ đại hạ lưu mà không hay: đố kị, hẹp hòi, trốn thuế, bóc lột, gian xảo...
đang đội trong lớp áo trí thức cao sang! Trong xã hội này, có biết bao nhiêu người lịch sự, giàu có, quyền thế,
họ có thể liệng tiền qua cửa sổ không tiếc, trong khi lại đi xua đuổi những đứa trẻ đánh giày, những bà cụ bán
vé số lang thang ngoài đường phố. Những bữa cơm trưa của hạng bần cùng này là thường chực chờ ở các quán
phở để năn nỉ xin chút nước thừa mứa còn sót trong tô mà húp cho qua cơn đói khát, vậy mà nhiều khi họ không
cho, lại còn xua đuổi! Từ bi ở đâu? Đạo đức ở đâu? Nhân ái ở đâu!
Khai thị rất cần đến thiện xảo phương tiện. Nhất là những người chưa biết tu hành nhiều, muốn họ an
lòng nghe theo mình mà niệm Phật, thì người hộ niệm phải biết tùy cơ ứng biến, tìm cách giải quyết những khó
khăn tại chỗ của bệnh nhân trước đã.
Một kinh nghiệm trợ niệm thứ 2
Tôi xin kể ra đây một ví dụ khác khá hay, cũng trong tháng 8/2005, trước chuyện chị Gái cỡ một tuần, tôi
ra Long Khánh thăm người em gái. Nhà em gái tôi có mở cửa mỗi đêm cho một ít đồng tu trong làng tới niệm
Phật. Có một chị trong nhóm cộng tu tới tâm sự với tôi rất nhiều về hoàn cảnh gia đình chị, và chị muốn nhờ tôi
tới khuyên mẹ chị niệm Phật. Chị nói, mẹ chị nghiệp chướng quá nặng, đã liệt chân nằm trên giường hơn một
năm rưỡi qua, và bây giờ chỉ còn chờ chết. Chị nhiều lần khuyên mẹ niệm Phật, nhưng không thành công.
Không những bà mẹ không chịu niệm, mà mỗi lần chị tới niệm Phật thì bà cụ la làng la xóm vang trời, bà hét
lên chống đối. Nếu chị tiếp tục niệm Phật thì bà tức giận mà cắn chặt hàm răng lại không chịu ăn uống, v.v...
Người em trai cũng chống đối kịch liệt việc chị niệm Phật. Chị nói, 'có lần nó vác cây ra mà ngăn chận tôi...'.
Quả đúng như vậy thì nghiệp chướng của bà cụ đã quá nặng, hết cách cứu rồi! Nghe nói mà tôi đành phải
lắc đầu! Với sức của tôi làm sao cứu nổi đây? Thế nhưng chị đó cứ nài nỉ hoài, sau cùng tôi cũng đành nhận lời
để đến thăm, chứ không dám hứa gì hơn. Tôi hẹn ngày hôm đó đến thăm gia đình nói chuyện với chị, rồi mới
gặp bà cụ. Không ngờ, sự việc xảy ra ngoài sự dự liệu của tôi, chỉ trong khoảng mười mấy phút nói chuyện thì
bà cụ ngoan ngoãn chịu niệm Phật, chịu chắp tay nguyện vãng sanh Cực Lạc. Chị con gái thấy vậy, quá cảm
động mà đứng khóc ròng. Tôi nói, 'mẹ chị nay đã niệm Phật rồi, sao chị không niệm theo mà lại đứng khóc
vậy...'?! Tôi bảo người em gái của tôi và chị cùng với tôi niệm Phật chung với bà cụ.
Sau đó chị dẫn tôi tới thăm người em trai, tôi cũng có khuyên anh đó cố gắng hộ niệm cho mẹ để trả tròn
chữ hiếu. Và, anh ta cũng chấp nhận dễ dàng...
Sự việc diễn tiến quá tốt đẹp mà trước đó vài giờ tôi nghĩ không bao giờ sẽ có. Sở dĩ được vậy chỉ vì tôi
đã dùng cái đòn thiện xảo phương tiện để thuyết phục. Người đời gọi là cái đòn tâm lý 'ma lanh!'.
Đòn gì? Bổn cũ soạn lại. Việc đầu tiên là tôi xoa nhẹ nỗi khổ của bà cụ, chứ không phải khuyên niệm
Phật. Nỗi khổ gì? Đau lưng, nhức mình, tay chân bị ngứa ngáy, khí trời nóng bức, .v.v... Xoa nhẹ bằng cách
nào? Đấm lưng, xoa vai, gãi ngứa cho bà cụ, v.v... giúp cho bà cụ một chút thoải mái, rồi sau đó mới từ từ gợi
chuyện, khuyên nhủ sau.
Khai thị phải biết tùy cơ ứng biến, chứ không hẳn cứ gặp mặt là thao thao diễn thuyết đâu. Chúng ta hãy
thông cảm cho người bệnh, họ đang chịu đựng quá nhiều sự khổ sở, buồn bực, lo âu, tâm trạng bất an... Một
người đang đói thì hãy đút họ muỗng cháo, đang khát thì cho họ một hớp nước là cả một ơn huệ lớn lao. Bệnh
nhân đang bị nóng bức, mà ta tới nói chuyện Thiên Đường, Cực Lạc, thì họ đuổi cổ mình ra cũng là phải
lẽ! Muốn cho bệnh nhân hoan hỉ tiếp nhận lời khuyên, thì người hộ niệm phải tạo không khí thoải mái cho
họ. Phải chú ý điều này thì mới hướng dẫn họ được.
Người hộ niệm nhất định không được làm điều gì trái ý bệnh nhân, không thể ép buộc hoặc cưỡng bức
họ được. Tất cả đều có nhân có duyên có quả, phải tùy theo duyên mà tìm cách chuyển. Ví dụ, ngay cả khi họ
bảo đừng niệm Phật nữa, mình cũng phải ngừng niệm để họ vui lòng trước đã, rồi tìm cách giải tỏa tâm lý khó
khăn sau. Thế gian có câu nói, 'muốn câu được cá thì phải dùng mồi nào cá thích, chứ không thể dùng cái mồi
mình thích'.
Mình muốn người bệnh niệm Phật, chứ chưa chắc người bệnh đã biết niệm Phật là gì. Như vậy, đầu tiên
phải thả cái mồi họ thích ra để câu họ về với mình trước. Câu được rồi thì xoay dễ lắm. Phải tận dụng tâm lý,
chớ nên lỗ mãng mà thất bại.
Cũng xin nói rõ điều này, ngón đòn tâm lý này chỉ là phương tiện thiện xảo dùng để giải tỏa những
trường hợp quá khó khăn lúc đầu mà thôi. 'Vạn sự khởi đầu nan'. Cái khó nhất là lúc khởi đầu làm cho người
bệnh phát lòng tin tưởng. 'Đầu xuôi đuôi lọt', khởi đầu đã êm xuôi rồi thì sau đó sẽ dễ dàng. Sau khi người
bệnh đã phát tâm niệm Phật rồi, thì người hộ niệm phải chuyển hướng khuyên họ buông xả vạn duyên để nhất
tâm niệm Phật cầu về Tây Phương, chứ không được tiếp tục dùng phương pháp này mà tạo ra tình cảm mới, làm
tâm họ quyến luyến vào mình mà đi lạc đường. Trước phút lâm chung mà còn dùng đến những cử chỉ xoa đầu,
vỗ về, ôm ấp, hoặc nói lời thương yêu, âu yếm... thì rất có hại cho người ra đi vì dễ làm lạc tâm của họ.
Nên nhớ, phương tiện khai thị có hai phần: lời nói và cử chỉ, trong đó tư thái, cử chỉ, cung cách của
người hộ niệm rất quan trọng, nó ảnh hưởng lớn hơn lời nói.
Cho nên, muốn cho người bệnh vui vẻ, thì cử chỉ nét mặt của người hộ niệm phải vui vẻ. Muốn người ra
đi vững tâm thì tâm mình phải vững. Muốn người ra đi tin tưởng, cương quyết cầu vãng sanh thì lời nói của
mình phải cương quyết, tin tưởng. Đó là điều quan trọng, chứ không phải cứ bảo vui là họ vui, bảo cương
quyết, tin tưởng... là họ cương quyết, tin tưởng đâu.
Vấn đề khai thị chưa xong, nhưng thư có hạn, xin hẹn thêm kỳ thư nữa. Trong khi đang viết thư này thì
chúng tôi phải hộ niệm cho một chị ở Brisbane bị ung thư đang nằm chờ chết. Kết quả thì chị đó vừa được
vãng sanh vào ngày 21/10/05, hỏa thiêu vào ngày 25/10/05. Chị niệm Phật lặng lẽ ra đi, suốt bốn ngày sắc diện
tươi vui, hồng hào, thân xác mềm mại. Chư Tổ Sư nói, 'Niệm Phật, trăm người tu trăm người vãng sanh, ngàn
người tu ngàn người vãng sanh, gọi là muôn người tu muôn người đắc'. Đã là Tổ, thì có bao giờ nói chơi! Xin
cô bác vững lòng tin tưởng để niệm Phật, đừng nghi ngờ thì được vãng sanh vậy.
A Di Đà Phật,
Diệu Âm kính thư.
(Viết xong tại Brisbane, ngày 1/11/05).
Sáu nẻo luân hồi đều do một niệm làm chủ, nếu một niệm chuyên chú niệm Phật thì thân tuy bại hoại nhưng
tâm thần không tán loạn, liền theo một niệm ấy vãng sanh Tịnh độ.
(Đại sư Diệu Không)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét