Tam Thánh Tây Phương |
Tu
là một quá trình sửa đổi tâm tính để đạt đến một đời sống an vui, lợi
ích. Tuy vậy, có phải ở đâu, và bất cứ khi nào, con người cũng có thể tu tập
được? Mục đích của đạo Phật ra đời là để khuyên người ta hướng thiện, làm
lành, lánh dữ, mục đích tối thượng là để đạt đến giải thoát mọi khổ đau trần
tục.
Thấm
nhuần chân lý và thâm sâu của đạo Phật, cha ông ta tự ngàn xưa đã
đúc kết và truyền đời cho con cháu về một câu tục ngữ vừa mang tính giáo dục,
khuyên răn, vừa mang tính đánh giá, nhận xétvề quá trình tu tập của mỗi con
người. Câu tục ngữ hàm chỉ về mức độ khó của quá trình tu tập, thì xem ra, khó
nhất là “tu tại gia, khó nhì tu chợ và dễ hơn khi tu ở chùa”?
Quả thực, mục đích của quá trình tu như đã nói là để xa rời, từ bỏ những tham đắm trần gian, xả bỏ sự hưởng thụ lẫn ngu dốt, tham lam, sân hận trong lòng để đạt đến giải thoát, yên vui trong tâm tưởng…thì việc thực hiện những điều này nơi tại gia - trong gia đình của mình là khó nhất. Vì ở nhà, luôn tồn tại những thứ làm con người dễ đắm nhiễm. Nhiều người lí luận rằng ; làm con người thì phải biết hưởng thụ (ngũ dục) gồm năm thứ: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, là những thứ làm con người phải bỏ công sức nhiều nhất để có. Nhưng theo giáo lí của Phật thì những cái đó làm mất đi sự tinh tiến, trong sạch để chìm đắm vào nó; kế đến trong gia đình luôn tồn tại những yếu tố cản trở quá trình tu như: lo toan cuộc sống gia đình, quan hệ vợ chồng, con cái luôn thường trực những sự cãi vã, tranh đấu, thậm chí cả sự yêu thương, ân ái cũng là nguồn gốc của khổ đau (luân hồi – sinh tử). Trong gia đình, lúc nào cũng có cớ để tham, sân, si nổi lên. Do vậy, tu hành ở nhà là rất khó, thậm chí là khó nhất.
Không ít người quan niệm rằng: “Tu tại gia” là xây điện thờ cúng, lập bàn thờ, đặt tượng Phật và bát hương trong nhà mình; rồi sớm tối, hoặc ngày Tết, ngày mồng một, ngày rằm thì sắm đồ cúng lễ cho thịnh soạn, thắp hương tụng niệm cầu Trời khấn Phật cho bản thân và gia đình mình được bình an phú quý, tấn tài tấn lộc, thăng quan tiến chức, vạn sự như ý. Nếu chỉ hiểu như vậy thì thật là hạn hẹp, không đúng với giáo lí của Đức Phật. Có nhiều người đã “tu” ; nhưng đáng buồn thay, gia đình họ sống lục đục, kém luân thường đạo lý, ai nấy không chú ý sửa mình theo những điều hay lẽ phải. Hằng ngày, họ thường làm những điều xấu, điều ác với hàng xóm láng giềng, vẫn vơ vét công quỹ, chiếm đoạt đất đai, hoặc hách dịch cửa quyền nơi công sở, hoặc lừa đảo, buôn gian bán lận bóp hầu bóp cổ “đồng bào mình”, hoặc lưu manh, côn đồ, trộm cướp, hoặc lười biếng và sống sa đọa, hoặc nịnh hót, chui luồn để cầu chức, cầu lợi, cầu tài! Như thế thì không thể gọi là “tu”.
Kế đến, tu chợ cũng rất
khó khăn, bởi hai lẽ: thứ nhất, mục đích của con người đến chợ là buôn bán,
trao đổi, lấy tiền làm mục đích tối thượng, nên có khi chỉ vì vài đồng bạc,
hoặc vì chỗ ngồi bán hàng mà sinh ra cãi vã, đánh nhau; thứ đến, chợ
là một môi trường ồn ào, đông đúc, xô bồ, lúc nào cũng có cơ hội để sự bực tức,
sự tham lam nổi lên, không có chỗ cho sự yên lặng, lắng lòng.
Từ chỗ quan niệm về độ
khó trong các môi trường tu hành, câu tục ngữ xem ra còn hàm chỉ sự khinh-
trọng của người xưa về các môi trường tu tập, từ đó đánh giá cao hay thấp những
con người biết vượt lên hoàn cảnh để tu hành.
Đó là quan điểm về thứ lớp phải trải qua trong tiến trình tu tập. Theo cách hiểu này, muốn tu được ở chùa, người ta phải trải qua quá trình tu tập tốt ở tại gia, kế đến tu ở chợ, sau cùng mới ra tu ở chùa. Nếu theo cách hiểu này, môi trường “chùa” lại được đánh giá cao nhất.
“Phúc Hữu Lậu” (Mình làm mình hưởng) : Người làm phúc với ước mong được hưởng phúc ngay trong đời này hoặc về sau, đó là phúc hữu lậu, và còn trong vòng sinh tử luân hồi. Phúc/Phước là chỉ cho sự giàu sang, sống thọ, con cháu đùm đề và thân thể khỏe mạnh của người thế gian. Hàn phi Tử nói : “ sống thọ, giàu sang được gọi là phước mà người đời ai cũng muốn có, ai cũng muốn năm phước vào nhà” ( ngũ phước lâm môn ).
Nếu
mình muốn cầu nhiều phước thì phải tu phước, tu phước thì phải trồng phước,
giống như nông dân làm ruộng, phải nỗ lực trồng trọt thì mới có thu hoạch,
người tu phước cũng vậy, phải đem hạt giống phước đức gieo khắp ruộng phước
(phước điền) thì mình sẽ thu hoạch được quả của phước báo.
Hai là Báo ân phước điền: Đối với cha mẹ, sư trưởng cho đến những người có ơn
đối với ta thì phài hiếu kính, phụng dưỡng, đem các vật chất để cúng dường , giúp
tinh thần an ổn thì mình sẽ được tăng trưởng phước báo đó gọi là báo ân phước
điền. Cung kính Tam Bảo, công đước thù thắng sẽ được phước lớn, đó gọi là công
đức phước điền. đối với hạng người bần cùng của thế gian, thương sót giúp đỡ,
cho họ những vật cần thiết, cứu giúp những lúc hoạn nạn, thì sẽ tích phước rất
nhiều, đó gọi là bần cùng phước điền.
Phúc vô lậu do những việc làm có ích lợi cho người (từ thiện làm các công việc có ích cho xã hội: ủng hộ thiên tai bão lũ, giúp làm nhà giảm nghèo cho các gia đình khó khăn, nạn nhân chất đôc da cam ddioxin, làm cầu , làm đường cho những nơi chưa có, thiện nguyện góp tịnh tài nấu cơm, nấu cháo chăm sóc bênh nhân bị K...), nhưng đồng thời cũng chuyển hóa được con người chính mình nuôi dưỡng tâm từ bi, thí dụ như bố thí cúng dường, phóng sinh, tụng kinh niệm Phật, tu tâm dưỡng tính.
Người làm phúc với tâm từ bi hỷ xả, không cầu mong được hưởng phúc về sau, chỉ cố gắng tu học để tiến dần đến chỗ giác ngộ và giải thoát, đó là phúc vô lậu, vượt khỏi vòng sinh tử luân hồi. Trong lúc thực hiện hành động tạo phúc, không nghĩ rằng mình đang làm phúc, giúp đỡ người khác vì tình thương, do lòng tốt tự nhiên, với tâm bất vụ lợi, vì người quên mình, đó là hành động tạo phúc cao thượng nhất, đem lại "phúc báu" vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Để trở thành một phật tử tu ở
chùa hay Tu tại gia thì trước tiên bản thân phải
“tự nguyện” quy y TAM BẢO để làm người PHẬT TỬ chân chính. Quy y TAM BẢO phải
tự mình đến các chùa để nhà sư Quy cho và khi quy y có bằng “Điệp” cấp cho mỗi
phật tử-Tên và pháp danh (Ngoài nhà chùa ra không ai có thể quy y đươc).
Thế
nào là quy y TAM BẢO. Quy y là chỗ nương tựa nơi người ta tìm đến khi họ buồn
phiền ; hay cần sự yên tỉnh và an ổn. Có nhiều cách nương tựa.
Khi không hạnh phúc, họ nương tựa nơi bạn bè, khi họ lo âu và sợ hãi họ có thể
nương tựa vào niềm tin và những hy vọng hão huyền. Khi họ gần kề với cái chết,
họ có thể nương tựa vào đức tin ở cõi thiên đàng vĩnh cửu. Nhưng Đức Phật lại
dạy rằng không có chỗ nào kể trên là chỗ nương tựa thật sự cả vì thực tế nó không
đem đến sự thoải mái và an toàn. Thành thật mà nói không
có nơi nương tựa nào an toàn, không là nơi nương tựa cao vời, nương
tựa nơi ấy không thể thoát khỏi mọi khổ đau.
Mà phải nương tựa vào Phật-Pháp-Tăng mới là nơi để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Việc đầu tiên là phải tự nguyện quy y TAM BẢO : Quy y Phật là chấp nhận niềm tin rằng con người có thể giác ngộ và hoàn thiện như Đức Phật. Quy y Pháp có nghĩa là hiểu được Bốn Chân Lý Mầu Nhiệm và cuộc sống của mình nương theo Bát Chánh Đạo. Quy y Tăng tức là tìm sự hổ trợ, khuyến tấn, và hướng dẫn những ai đã thực hành Bát Chánh Đạo. Thực hiện được như thế sẽ trở thành một Phật tử và là bước khởi đầu để đến Niết bàn
Trước tiên phải đến một nhà chùa nhờ nhà sư tự nguyện “Quy y” Phật-Pháp-Tăng và giữ “5 giới”; Chọn Pháp môn mà tu; hiện nay có đến hơn 90% dân số nước ta tu theo Pháp môn Tịnh độ tông để mãn báo thân sanh về nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Sau đó thực hiện “Phước huệ song tu”.
“Tu Huệ”: Phát tâm tu tập, nên học giáo lý, mở mang trí tuệ, mới tỏ chánh đạo, mới có chánh kiến, mới đặng chánh tín, tâm được thanh tịnh, tránh được tà đạo, tránh cảnh tu mù, lọt hầm sụp hố, từ bỏ tâm ma, đạt được giác ngộ, thấu rõ chân lý, giải thoát khổ đau, sống trong cảnh giới, niết bàn hiện tại, ngay trong cuộc sống, hằng ngày của mình.
“Tu Phước”: Thực hành công đức,
phóng sinh, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến người
an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người khác, sanh tâm bố
thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho khắp muôn loài, pháp giới
chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng sanh an
lạc, mọi người hạnh phúc. Khi đã tu không kể người già hay trẻ thì hàng ngày
phải nguyện và “Niệm Phật A Di Đà” chia thời mà niệm liên tục.
Hiện nay; nhiều người đã tu nhưng không đạt giải
thoát về nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà có thể Tu “không thành” có thể là
do:
-Chưa giữ được chữ "Tín": Trong rất
nhiều lời giáo huấn của các thầy đều nói: câu hồng danh: “Nam mô ADIDA phật” là
vô thượng pháp môn, có thể giải nghiệp 80 ức kiếp. Muốn về cõi cực lạc thì phải
niệm phật và phải “Tín -Hạnh-Nguyện”. Phải Tin là có nước Cực Lạc. Các khóa lễ
ở chùa thì có thể kết hợp tụng kinh, trì chú, niệm phật vì chúng sanh căn cơ
khác nhau. Nhưng khi thực tu thì mấy ai chỉ niệm mỗi câu hồng danh và phải kiêm
thêm trì chú, tụng kinh thì mới yên tâm. Đã thực tu thì chỉ chọn 1 pháp môn mà
tu thôi.
-Chưa giữ được “chánh niệm”:
Tâm phật, tâm ma đều tồn tại trong mỗi người thường, có mấy ai luôn giữ được
chánh niệm câu hồng danh hay niệm tâm ma là chủ yếu.
- Kinh và chùa là phương tiện để đưa chúng sanh sang
bên kia bờ giác. Vậy mấy ai ngộ được chữ này, hay lại chấp vào tụng kinh, trì
chú cho nhiều, ở chùa thật lâu, không cần thực tu cũng giải thoát. Nếu như vậy
thì chỉ như : "Mò trăng đáy nước mà thôi". Cứ theo lối hành pháp hiện
nay thì phật giáo đạt được một điều là: "giúp con người sống tốt hơn"
mà thôi còn không giải thoát được?
Về giới luật cần giữ:
-Cư sĩ, khi quy y Tam Bảo: 05 giới. ( Mọi người chúng ta)
-Sa Di, khi xuất gia: 10 giới.
-Tỳ Kheo: 250 giới.
-Tỳ kheo ni: 348 giới . . .
Vậy, ta thấy càng tu thì phải giữ giới càng nhiều, đồng nghĩa với độ khó càng
tăng. Đức Phật cũng đã có dạy rằng "lấy giới luật làm Thầy", cho nên
với 1 ông thầy khó thì người tu phải nghiêm túc hơn.
Tu tại gia như chúng ta (Gọi là Phật tử tại gia) phải giữ được 5 giới Cấm (Không sát sinh-Không nói dối-Không trộm cắp-Không tà dâm- Không uống rượu).
Ngoài những cống hiến cho Phật pháp, người Phật tử kính trọng Tu sĩ Phật giáo là ở việc giữ 5 giới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét