|
Ảnh: Tam Thánh Phật |
Tìm
hiểu Pháp môn Tịnh độ
Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và
sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với Tín,
Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Trong kinh Quán
Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng đã chỉ rõ người tu theo Tịnh độ muốn vãng sinh về
thế giới Cực lạc phải biết tu tam phúc hay còn gọi là tam tịnh nghiệp. Có nghĩa
là ngoài việc nhất tâm niệm Phật ngày đêm thì người tu theo Tịnh độ tông cần
phải hiểu giáo lý của đức Phật.
LỜI NÓI ĐẦU
Là phật tử, không ai không biết đến việc tụng kinh
niệm Phật. Việc niệm Phật cùng với việc tụng kinh A Di Đà và một số bộ kinh
thường tụng khác trở thành việc hành trì thường xuyên hàng ngày của đại đa số
phật tử. Trong các pháp môn tu tập, Tịnh Độ là một trong những pháp môn phổ
biến đối với các phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật
Bản, Việt Nam…
Riêng ở nước ta, cùng với sự phát triển của Thiền tông
từ bao thế kỷ nay, Tịnh Độ tông cũng được phát triển đến mức các nhà tu hành
đều thâm sâu cả hai giáo lý và trở thành việc hành trì theo Thiền-Tịnh song tu.
Tuy nhiên, đối với hàng phật tử, nhất là phật tử tại gia, việc tu theo
pháp môn Tịnh Độ, cho đến nay vẫn còn nhiều điều cần phải tìm hiểu sâu, để qua
đó bổ sung cho việc tinh tấn tu hành. Đa số phật tử chỉ thấy rằng muốn vãng
sinh về Tây phương Cực lạc thì chỉ cần niệm Phật nhất tâm là đủ, thậm chí cho
rằng không cần tụng kinh và thực hành các giáo lý tu tập khác.
Cuốn TÌM HIỂU PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ này mong được góp phần
giúp cho chư vị phật tử tìm hiểu sâu hơn về lịch sử phát triển pháp môn Tịnh Độ
cùng những vấn đề cơ bản về giáo lý, cũng như phương pháp tu tập và hành trì
theo pháp môn Tịnh Độ.
Trong tài liệu này có đề cập đến một số vấn đề khác
nhau về nhận thức cũng như về phương pháp tu tập của Tịnh Độ tông qua một số
tài liệu, bài viết với mục đích tham khảo tìm hiểu.
Vì
trình độ có hạn, ngưỡng mong chư tôn thiền đức, các bậc thức giả, Phật tử mười
phương và quý vị độc giả vui lòng đón nhận món quà nhỏ mọn này và lượng tình
chỉ dẫn những điều còn sai sót.
Tác
giả kính ghi
PHẠM
ĐÌNH NHÂN
Pháp
danh Chánh Tuệ Định
TÌM HIỂU
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Tịnh Độ là một trong các tông
phái chính của Phật giáo. Giáo lý của pháp môn Tịnh Độ đã có từ khi Đức Phật
tại thế, sau này trở thành một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với các
phật tử tại nhiều nước Phật giáo Đại thừa. Mãi đến thế kỷ thứ IV, pháp môn Tịnh
Độ mới trở thành một tông phái chính thức tồn tại và phát triển cùng với nhiều
tông phái Phật giáo khác. Và ngày nay, Tịnh Độ tông trở thành một tông phái có
nhiều phật tử tu tập đông đảo nhất không chỉ ở phương Đông mà ngay cả ở các
nước phương Tây.
Trong tài liệu này, xin chỉ bàn đến sự ra đời của pháp môn Tịnh Độ, lịch sử
phát triển của Tịnh Độ, những vấn đề thuộc về giáo lý và sự thực hành tu tập
theo pháp môn Tịnh Độ cùng những ý kiến khác biệt trong nhận thức và tu hành
theo pháp môn Tịnh Độ. Những vấn đề khác có liên quan đến pháp môn Tịnh Độ như
vấn đề hộ niệm và dấu hiệu của vãng sinh không đề cập đến trong tài liệu này.
Phần I.
LỊCH SỬ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
A. Khái niệm về Pháp môn Tịnh Độ:
Mục
đích cứu cánh của đạo Phật là giải thoát. Đức Phật Thích Ca đã từng nói: “Nước
trong bốn biển đều có một vị, đó là vị mặn. Tất cả các pháp môn của ta cũng chỉ
có một vị, đó là vị giải thoát”. Vì vậy trong hầu hết các kinh điển của Đức
Phật thuyết pháp đều nói đến con đường giác ngộ và giải thoát. Mà con đường
giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, phải từ tâm mà ra tức là phải nỗ lực
cá nhân. Dù Phật pháp có đến 84 nghìn pháp môn thì pháp môn nào cũng phải tự
mình tu tập để đi đến giải thoát. Rõ ràng muốn từ bến bờ mê muội bên này sông
sang bên kia bờ giải thoát phải tự mình lên thuyền, tức là phải có công phu tự
thân tâm của chính người tu hành, phải có cả một quá trình tu tập. Pháp môn
Tịnh Độ cũng thế, cũng phải là một quá trình tu tập mang tính tự lực là
chính.
Pháp
môn Tịnh Độ là một trong những pháp môn tu tập phổ biến đối với các Phật tử tại
nhiều nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Nhìn về
lịch sử phát triển Phật giáo, từ thời Phật giáo nguyên thủy, pháp môn Tịnh Độ
chú trọng đến tự lực. Về sau này, vào những thế kỷ đầu của Tây lịch, Phật giáo
Đại thừa phát triển đa dạng hóa lối tu hành nên có những pháp môn chú trọng đến
tha lực, tức nhờ vào Phật lực mà tu hành đạt thành đạo quả, vượt thoát khổ đau.
Đó cũng là lý tưởng của pháp môn Tịnh Độ.Vì vậy, Tịnh độ là một đường lối tu
tập phổ biến, đáp ứng nhu cầu tâm linh về một đời sống vĩnh cửu và hoàn toàn
giải thoát khổ đau của con người để được sống trong cõi Tịnh Độ an vui.
B. Các cõi Tịnh Độ trong Phật giáo:
Thông thường khi nói đến tịnh độ (Quốc độ thanh tịnh)
các phật tử thường nghĩ đến cảnh giới Tây phương Tịnh Độ, nơi có Đức Phật A Di
Đà và chư Thánh chúng. Nhưng theo Phật giáo Đại thừa thì có mười phương tịnh độ
và mười phương chư Phật. Tuy nhiên trong các kinh điển thường đề cập đến bốn
cõi tịnh độ, đó là: Tịnh độ Di Lặc, Tịnh độ Dược Sư , Tịnh độ A Súc Phật và
Tịnh độ A Di Đà.
Tịnh là sạch, là thanh
tịnh. Tịnh độ là nơi thanh tịnh, là cảnh giới an lạc không có phiền não, khổ
đau. Kinh điển thường nói đến Tịnh độ với nhiều tên gọi khác nhau như Thanh
tịnh quốc độ, Thanh tịnh Phật sát, Tịnh quốc, Tịnh thế giới hoặc là Phật quốc.
Đó là trụ xứ của chư Phật và chư Bồ tát tiếp độ và giáo hóa chúng sinh. Tùy
theo công đức và nguyện lực đối với từng căn cơ của chúng sinh mà mỗi vị Phật
có mỗi cõi nước khác nhau. Đó là nơi, là phương tiện giáo hóa của tất cả chư
Phật. Điều đó có nghĩa rằng ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có vô số
thế giới khác. Có nhiều cõi tịnh độ khác nhau, nhưng thường hay nói đến bốn cõi
tịnh độ chính là:
1.Di Lặc Tịnh Độ:
Đó là cõi tịnh độ của Đức
Phật Di Lặc, một vị Phật tương lai của thế giới loài người đang sống, hiện đang
ở cõi trời Đâu Suất . Ngài Đạo sư Vô Trước , người sáng lập ra trường phái Duy
thức học của Phật giáo đã viết những bộ luận nỗi tiếng như Du Già Sư Địa
luận, Đại Thừa Trang Nghiêm luận, Phân Biệt Du Già luận và Kim Cương Bát Nhã
luận. Tất cả những công đức và trí tuệ này mà Ngài viết được là do Ngài tiếp
nhận được sự giáo hóa của Bồ tát Di Lặc. Về sau có nhiều hành giả trong trường
phái Duy Thức học phát nguyện sinh về cõi Đâu Suất Tịnh Độ. Đâu Suất Tịnh Độ
thuộc tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi dục. Nếu tu tất cả các thiện
pháp và tùy nguyện mới sinh vào nội viện của cõi Đâu Suất, nếu không phát
nguyện chỉ sinh vào ngoại viện như là một vị chư Thiên. Do từ đó mà tín ngưỡng
Di Lặc tịnh độ xuất hiện.
2.Dược Sư Tịnh Độ:
Đó là cõi tịnh độ của Đức
Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Khi còn là Bồ tát, Ngài đã phát mười hai lời
nguyện để cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh nào khổ đau, hoạn nạn, bệnh tật biết
niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tai qua nạn khỏi, đời sống an ổn. Do vậy,
các Phật tử thường trì tụng kinh Dược Sư để cầu an, giải khổ là nghĩa đó. Nếu
phát tâm bồ đề và có ý nguyện cầu vãng sinh thì sẽ được Ngài tiếp độ.
3.A Súc Phật Tịnh Độ:
Cõi tịnh độ này được đề cập trong kinh Duy Ma Cật, một
bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Tịnh độ theo nghĩa này là pháp tu
thực tiễn được các tông phái Phật giáo Đại thừa rất chú trọng. Tư tưởng Tịnh độ
này tương ứng với tư tưởng Bát Nhã, đặc biệt là mang tinh thần nhập thế rất
tích cực, đề cao việc hành Bồ tát hạnh và kiến lập Tịnh độ ngay tại tâm. Kinh
Duy Ma Cật nhấn mạnh rằng thanh tịnh hóa thân tâm tức là tịnh độ cõi Phật. Cư
sĩ Duy Ma Cật được xem là hiện thân của hành giả từ Quốc độ Diệu Hỷ đến cõi này
tuyên dương chính pháp, hộ trì cho Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh.
4.Tây Phương Tịnh Độ:
Còn được gọi là Cực lạc thế giới, An dưỡng, Lạc bang
v.v…Kinh điển Đại Thừa thường tán thán cảnh giới thù thắng của Tây phương và
công đức bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà là chính báo, cảnh Tây
phương cực lạc là y báo. Nếu chúng sinh nào chuyên tâm niệm danh hiệu của Ngài,
tu tập thiện pháp và quán tưởng cảnh giới Tây phương thì đến lúc lâm chung sẽ
được vãng sinh về Tây phương Tịnh Độ. Điều đáng chú ý là hành giả tu tịnh độ
tin sâu vào tha lực của đức Phật và chư Bồ Tát. Lối tu này bao gồm cả tự lực và
tha lực. Tự lực là tự mình y theo giáo pháp tu học để có đầy đủ phúc đức mới
được vãng sinh. Trong kinh A Di Đà có dạy rằng không thể lấy chút ít căn lành
và phúc đức mà được sinh về cõi Cực lạc được. Đức Phật khuyên chúng ta phải tự
mình nỗ lực mới tiếp nhận được năng lực của Ngài. Niệm Phật còn có thể phát
sinh công đức, tiêu trừ vọng nghiệp và thành tựu thiền định.
Đó
là nói sơ qua về 4 cõi tịnh độ chính mà trong các kinh điển Đại thừa thường
nhắc đến. Còn trong tài liệu này chủ yếu nói về cõi Tịnh độ Tây phương Cực lạc
của Đức Phật A Di Đà và pháp môn Tịnh Độ theo Đại thừa Phật giáo.
C. Sự ra đời của pháp môn Tịnh Độ:
Nguồn gốc tư tưởng của Tịnh Độ xuất phát từ thời nguyên
thủy, tức ngay từ thời đức Phật còn tại thế. Nhưng hình thành rõ nét thể hiện
trong kinh điển Đại thừa bắt đầu từ trong kinh Hoa Nghiêm rồi sau là kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Nhưng trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, tư tưởng Tịnh Độ
không bộc lộ rạng rỡ nhưng lại ăn sâu vào trong tâm khảm của giới tu tại gia.
Trong khi đó giới xuất gia lại chú trọng đến giải thoát sinh tử, đạt đến Niết
Bàn. Do đó tư tưởng Tịnh Độ vào thời kỳ này bị lu mờ, nên trong kinh điển Tiểu
thừa ít nói đến pháp môn Tịnh Độ.
Trong hệ thống kinh Bát Nhã Đại thừa, ta thấy kinh Hoa
Nghiêm có nói đến Thiện Tài Đồng Tử đi về phương nam tham học thày Tỳ kheo Công
Đức Vân, có nói rõ việc niệm Phật tam muội và thấy Phật. Trong phẩm Nhập pháp
giới của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Bồ tát Quang Minh dùng chính định tam muội
quán sát thấy tất cả chư Phật và quyến thuộc của Ngài ở cõi Phật trang nghiêm
thanh tịnh đạt được hư không đẳng niệm Phật Tam muội môn, thấy thân Như Lai
chiếu khắp pháp giới”. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Dược vương Bồ tát có
nói: “Nếu có người phụ nữ nào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nghe xong phát tâm
tu hành, sau khi mạng chung liền vãng sinh về thế giới của Đức Phật A Di Đà, có
các vị Đại Bồ tát vây quanh nơi đó.”
Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật
A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với
Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Hành giả còn phải
nương nhờ Phật lực để vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn.
Tịnh Độ tông không phải là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng Tịnh Độ Cực lạc và
Đức Phật A Di Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương con
đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định. Do nhờ công phu tinh
tấn niệm Phật mà thành tựu Định đạt đến nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội.
Nhờ thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập thiện và tu tạo các công đức phúc lành
(trong đó có hộ trì Tam bảo, hoằng dương chính pháp, từ thiện, bố thí, phóng
sinh v.v..) mà thành tựu được Giới.
D. Lịch sử phát triển pháp mônTịnh độ.
Khi Phật giáo phát triển sang Trung Quốc, pháp môn
Tịnh Độ đã được các vi đạo sư Trung Quốc ngưỡng mộ đi đến việc thành lập thành
một tông phái riêng. Sau này Tịnh Độ lại được truyền sang Nhật Bản và cũng được
Phật giáo Nhật Bản phát triển mạnh. Còn ở Việt Nam, ngoài yếu tố từ Trung Quốc
truyền sang, còn có những thành tựu trực tiếp từ Ấn Độ truyền sang vào khoảng
những thế kỷ đầu sau Công nguyên. Dưới đây ta điểm qua sự phát triển lịch sử
pháp môn Tịnh Độ ở những nước phát triển Tịnh Độ.
1. Tịnh Độ tông ở Ấn Độ.
Như trên đã nói trong thời kỳ đức Phật còn tại thế và
sau đó vào những thế kỷ trước Tây lịch, trước khi tư tưởng Đại thừa phát
triển,Tịnh Độ tông ở Ấn Độ chưa hình thành pháp môn rõ rệt. Tuy tư tưởng Tịnh
Độ trong thời kỳ này không bộc lộ mạnh mẽ nhưng ăn sâu vào tâm khảm của giới tu
tại gia trong khi các tăng đoàn thuộc giới xuất gia lại quan tâm tu tập để giải
thoát sinh tử, đạt đến Niết bàn. Vì vậy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này ở Ấn
Độ chưa phát triển mạnh mẽ, có thể nói bị lu mờ và cũng chưa hình thành tông
phái rõ rệt. Cũng vì vậy mà trong kinh điển Tiểu thừa ít thấy nói đến pháp môn
Tịnh Độ. Tuy nhiên, vào những thế kỷ đầu sau Tây lịch, khi tư tưởng Đại thừa
phát triển cùng với sự phát triển Phật giáo lên phía bắc thì tư tưởng Tịnh Độ
mới có dịp phát triển lớn mạnh và rộng rãi, nhất là ở Trung Quốc.
Do đó lý thuyết Tịnh Độ được khởi nguồn ở Ấn Độ, là
một đường lối tu tập nhưng không thiết lập tông phái, chỉ khi các kinh điển Đại
thừa Tịnh Độ truyền qua Trung Hoa thì Tịnh Độ mới trở thành tông phái rõ rệt
2. Tịnh Độ tông ở Trung Hoa:
Phật giáo từ Ấn Độ phát triển sang Trung Quốc vào
những năm đầu của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Từ đời Đông Hán (25 –
220 SCN) về sau, đạo Phật càng ngày càng được mở rộng ở Trung Quốc, nhưng đến
đời Lục Triều trở đi mới có vẻ thịnh đạt, rồi đến đời Tùy Đường mới là cực
thịnh. Trong thời gian ấy (từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI), có một vị cao
tăng Ấn Độ là Cưu Ma La Thập (344 - 413) sang Trung Quốc được tôn làm
Quốc sư. Cưu Ma La Thập đã dịch kinh và luận Đại Thừa ra Hán văn như Kinh Kim
Cương, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, Trung Quán luận, Thâp nhị môn luận v.v…Cùng
trong thời kỳ đó có những vị tăng Trung Hoa đi sang Ấn Độ cầu pháp thỉnh kinh
như vào năm Long An thứ ba (399) đời vua An Đế nhà Đông Tấn, có các vị Pháp
Hiển, Tuệ Cảnh và Đạo Chính.
Trong quá trình phát triển, từ đời Đông Tấn (317 –
420) trở đi, các tông phái Phật giáo Đại thừa mới dần dần hình thành ở Trung
Quốc. Ta có thể lược khảo có khoảng 10 tông phái, gồm Tịnh Độ tông, Thiền tông,
Thiên Thai tông hay còn gọi là Pháp Hoa tông (lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng),
Hoa Nghiêm tông (lấy kinh Hoa nghiêm làm cơ bản), Luật tông, Chân Ngôn tông
(tức Mật tông), Tam Luận tông, Câu Xá tông, và Thành Thật tông. Tuy nhiên về
mặt phát triển thì ở Trung Quốc có hai tông phái Tịnh Độ tông và Thiền tông là
phát triển mạnh và phát triển cho đến ngày nay.
Riêng về Tịnh Độ tông, những kinh luận thuộc giáo
nghĩa Tịnh Độ được dịch xuất hiện dần. Năm 250 thời Ngụy, ngài Khang Tăng Ngãi
dịch kinh Vô Lượng Thọ, Cư sĩ Chí Khiếm thời Tôn Quyền dịch bộ Đại A Di Đà
kinh. Đời Diêu Tần (thế kỷ IV), ngài La Thập dịch Phật thuyết A Di Đà kinh, còn
gọi là tiểu kinh A Di Đà, rồi ngài Phật Đà Bạt Đà La (tức Giác Hiền) dịch Tân
Vô Lượng Thọ kinh, Quán Phật tam muội kinh, ngài Trí Nghiêm dịch Tịnh độ tam
muội. Thời Lưu Tống (thế kỷ V), ngài Cương Lương Da Xá dịch Quán Vô Lượng Thọ
kinh, ngài Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI) dịch Vô Lượng Thọ kinh luận. Đặc biệt,
ngài Thế Thân (316 - 396), đã trước tác Vãng sinh Tịnh Độ luận. Do đó đến thời
kỳ này giáo lý về Tịnh Độ tông tương đối hoàn chỉnh ở Trung Quốc.
Về lịch sử phát triển và truyền thừa, ta thấy rằng
cuối đời nhà Tây Tấn (265 – 317), vào khoảng năm Vĩnh Gia (307 - 313) đời vua
Hoài Đế có một vị danh tăng người Thiên Trúc tên là Phật Đồ Trừng, nổi tiếng có
nhiều pháp thuật. Phật Đồ Trừng có rất nhiều môn đồ, trong số đó có Đạo An. Ông
là một vị cao tăng đã đề xuất ý kiến lấy họ Thích làm họ chung cho những người
xuất gia để tưởng nhớ và tôn sùng Đức Thích Ca Mâu Ni. Đạo An có môn đồ là Huệ
Viễn (334 - 416) người Nhạn Môn, Sơn Tây, đến ở chùa Đông Lâm trên núi Lư Phong
cùng với 214 vị kết làm Bạch Liên xã, phát thệ trước tượng A Di Đà Phật, xin
đồng tu tịnh nghiệp. Do đó Tịnh Độ tông bắt đầu hình thành.
Đời sau, môn đồ suy tôn Đại sư Huệ Viễn làm sơ tổ Liên
tông, tức là sơ tổ của Tịnh Độ tông ở Trung Quốc. Tông này thờ Tam Bảo và lấy
sự tụng kinh niệm danh hiệu A Di Đà Phật làm yếu chỉ trong sự tu hành. Tông này
cũng cho rằng bất kỳ người nào tu pháp môn này cũng được, miễn là niệm Phật
nhất tâm bất loạn, với niềm tin mãnh liệt, ý nguyện vững bền và hành trì niệm
Phật tinh tấn thì đều có thể vãng sinh vào cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà ở Tây
phương Cực lạc. Vì có giáo pháp dễ theo và mọi người ai cũng có thể theo được,
nên Tịnh Độ tông ở Trung Quốc ngày một phát triển. Song, các vị Tổ trong Tịnh
Độ tông không thực hiện sự truyền thừa như các tông phái khác là truyền tâm ấn
từ đời trước cho đời sau, mà tùy theo công đức của từng vị mà môn đồ suy tôn
làm Tổ. Cho nên từ thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ XX, Tịnh độ tông mới có 13 vị
tổ, kể từ vị tổ thứ nhất là Đại sư Huệ Viễn, (334-416), tiếp đến vị tổ
thứ 2 là Đại sư Thiện Đạo (513-581), Đại sư Thừa Viễn (712-802),là vị tổ
thứ 3, tiếp đó là các vị Đại sư Pháp Chiếu (747-821), Đại sư Thiếu Khang
(?-805), Đại sư Diên Thọ (904-975), Đại sư Tỉnh Thường (959-1020), Đại sư
Châu Hoằng (1532-1612), Đại sư Trí Húc (1599-1655), Đại sư Hành Sách
(1628-1682), Đại sư Thật Hiền (1686-1734), Đại sư Tế Tỉnh (1741-1810) và vị Tổ
thứ 13 của Tịnh Độ tông Trung Quốc là Đại sư Ấn Quang (1862-1940), hoằng pháp
vào cuối đời Nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc của thế kỷ XX.
3. Tịnh Độ tông ở Nhật Bản:
Tịnh Độ tông Nhật Bản vốn có nguồn gốc từ Tịnh Độ tông
Trung Quốc, được đạo sư Viên Nhân (793-864), người Nhật đem về cùng với các
giáo lý của Thiên Thai tông và Mật tông mà sư đã tiếp thu trong thời gian du
học tại Trung Quốc. Sư là người truyền bá phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu
của Phật A Di Đà. Những vị nổi danh của tông này trong thời gian đầu là Không
Dã Thượng Nhân (903-972), cũng được gọi là Thị Thánh, vị "Thánh ở
chợ", và Nguyên Tín ( 942-1017). Trong thời này, niệm Phật là một thành
phần trong việc tu hành của tất cả các tông phái tại Nhật, đặc biệt là Thiên
Thai tông và Chân Ngôn tông.
Mãi đến thế kỷ XII, đạo sư Pháp Nhiên (1133-1212) mới
chính thức thành lập tông Tịnh Độ ở Nhật Bản. Sư muốn mở một con đường tu tập
mới, "dễ đi" trong thời mạt pháp cho những người sống đau khổ. Sư rất
thành công trong việc thuyết phục quần chúng và rất nhiều người quy tụ lại,
thành lập một trường phái rất mạnh. Pháp Nhiên đã làm một cuộc cách mạng trong
việc truyền bá và phát triển Tịnh Độ tông với trào lưu rộng lớn. Và chính vì sư
tự tôn giáo lý đó là giáo lý cao nhất, nên không thoát khỏi sự tranh chấp dèm
pha. Sư bị đày ra một vùng hoang vắng năm 74 tuổi.
Giáo lí cơ sở của Pháp Nhiên dựa trên các bộ kinh Vô
Lượng Thọ, A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ. Cách tu hành của tông này chỉ là việc
tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật". Việc niệm danh hiệu Phật rất quan
trọng để phát triển lòng tin nơi Phật A Di Đà, nếu không thì hành giả không thể
nào vãng sinh vào cõi của Ngài, đó là mục đích chính của việc tu hành của tông
này. Pháp Nhiên quan niệm rằng, đa số con người không thể đi con đường khó,
hoàn toàn tin vào tự lực trong thời mạt pháp và cơ hội duy nhất của họ là tin
vào sự hỗ trợ của Phật A Di Đà, tin vào tha lực của Phật và Thánh chúng mới
giúp cho con người dễ dàng tu tập và sinh về cảnh giới của Ngài là được an lạc
trong cõi Cực lạc và được giải thoát.
Sau
Pháp Nhiên là các vị Không Dã Thượng Nhân và Lương Nhẫn. Không Dã Thượng Nhân
là người đầu tiên tín ngưỡng đức Phật A Di Đà và truyền bá công khai việc niệm
Phật giữa chợ vì vậy sư được mang biệt hiệu là “Thị Thánh” (Vị Thánh ở chợ).
Còn Lương Nhẫn nguyên là một cao tăng thuộc Thiên Thai tông, nổi danh trong
việc tín ngưỡng và tán tụng Phật A Di Đà trong những bài hát. Ở Nhật Bản, Tịnh
Độ tông cùng với Thiên Thai tông (lấy kinh Pháp Hoa làm nền tảng) và Hoa Nghiêm
tông (lấy kinh Hoa Nghiêm làm nền tảng) ảnh hưởng lẫn nhau đều phát triển quan
điểm “Dung thông niệm Phật” tức là nếu một người nào đó niệm Phật thì công đức
này sẽ đến với tất cả những người khác và ngược lại, ai cũng có phần của mình
trong việc tụng niệm danh hiệu Phật. Cách diễn giải giáo lý này thuyết phục
được nhiều người trong vương triều và được các đệ tử kế thừa. Và vì vậy Tịnh Độ
tông ở Nhật Bản rất phát triển cho cả đến ngày nay.
4. Tịnh Độ tông tại Việt Nam:
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm
ngay từ thời kỳ dựng nước. Phật giáo Việt Nam có thể đã hình thành từ trước
Công nguyên và phát triển mạnh từ khoảng thế kỷ thứ II và thứ III sau Công
nguyên, khi đất nước còn là đất Giao Chỉ phụ thuộc vào các triều đại phong kiến
của Trung Quốc. Sử liệu Phật giáo để lại cho rằng các tăng sĩ Ấn Độ đi truyền
giáo theo đường biển đã vào Giao Châu và ở lại đây hoằng pháp.
Mãi
đến cuối thế kỷ thứ VI, Phật giáo ở Việt Nam mới có tổ chức hệ thống, mở đầu
bởi thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (còn gọi là dòng thiền Nam Phương). Sang thế kỷ
thứ IX, có thêm thiền phái Vô Ngôn Thông (còn gọi là dòng thiền Quan Bich) và
đến thế kỷ thứ XI đời nhà Lý, lại có thêm thiền phái Thảo Đường. Rồi tiếp theo
là thiền phái Yên Tử và Trúc Lâm Yên Tử. Các thiền phái này phát triển và làm
cho Phật giáo Việt Nam hưng thịnh. Bên cạnh đó trào lưu niệm Phật theo tư tưởng
Tịnh Độ vẫn xuất hiện đan xen trong các thiền phái.
Có thể thấy rằng trào lưu Tịnh Độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng
không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách
biệt với các tông phái khác, đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và
phương pháp thực hành như Tịnh Độ tông ở Trung Hoa hay Nhật Bản. Tuy ở
Việt Nam từ trước tới nay Tịnh Độ tông chưa thành một hệ thống pháp môn riêng
biệt, nhưng sau thời nhà Trần, khoảng đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XX, phương
pháp tu hành của Tịnh Độ dưới hình thức đọc tụng kinh A Di Đà và niệm “Nam mô A
Di Đà Phật”. Phương pháp này đã được kết hợp hài hoà với các thiền phái tại
Việt Nam thể hiện qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt
Nam, thì thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh Độ là hết sức sâu đậm. Ta có thể
điểm qua một cách hệ thống một số nét phát triển tư tưởng Tịnh Độ tông ở Việt Nam như sau:
Danh hiệu của Đức Phật A Di
Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện trong tác
phẩm Cựu tạp thí dụ kinh do Khương Tăng Hội (?-280) soạn. Pháp môn niệm Phật
cũng đã được đề cập trong cuốn Lục độ tập kinh cũng do Khương Tăng Hội soạn.
Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào
trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới
thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đã bước đầu được tiếp xúc với tư
tưởng tín ngưỡng Tịnh Độ. Và sau đó, vói sự xuất hiện của bản kinh quan trọng
là kinh Vô lượng thọ do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng người Trung Quốc
chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến Việt Nam
tu học tại nước ta, truyền bá.
Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa đầu thế kỷ thứ
IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh Độ.
Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh Độ
được phổ biến rộng rãi, với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, nhiều đạo
tràng. Đặc biệt vua Lý Thánh Tông (1023-1072), thuộc Thiền phái Thảo Đường, đã
cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc đáo có một không hai trong lịch sử nghệ
thuật điêu khắc của dân tộc, pho tượng này hiện nay vẫn còn ở chùa Phật Tích.
Ngoài ra, còn có tượng Phật A Di Đà do nhà sư Trì Bát (1049-1117) thuộc thế hệ
thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi tạo dựng năm 1099 ở chùa Hoàng Kim, xã
Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai và tượng A Di Đà trong hội đèn Quảng Chiếu trước Đoan
Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh tịnh độ
v.v… chứng tỏ Thiền tông và Tịnh Độ tông kết hợp với nhau. Cùng với tín
ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở
thời kỳ này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương
diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh Độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời
sống văn hóa tâm linh của nhân dân ta.
Thế kỷ XII, theo tác phẩm Thiền uyển Tập Anh, ta thấy
có nhiều thiền sư theo các thiền phái khác nhau nhưng vẫn hành trì theo pháp
môn Tịnh Độ, như Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền
Vô Ngôn Thông, thường thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn Niệm Phật
tam muội v.v… Đến đời Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng
Sĩ, Trần Thái Tông cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh Độ cũng được
đưa vào trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà ta có thể biết
được qua bài thi của Lê Ích Mộc (1459-?) thi đỗ Trạng Nguyên trong khóa
thi năm Nhâm tuất niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông . Dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đà và
thế giới Cực lạc nhưng cũng ở một khía cạnh khác.
Từ thế kỷ thứ XVI trở đi trào lưu Tịnh Độ cũng được
phát triển mạnh mẽ thể hiện qua một vài tác phẩm của các danh tăng nhằm cổ súy
và truyền bá tư tưởng Tịnh Độ như cuốn Bồ đề yếu nghĩa của Ngài Viên Văn
(1590-1644) nói về Tự tính Di Đà. Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708)
phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của Ngài Châu Hoằng và một số tác phẩm mang đặc
điểm tư tưởng Tịnh độ của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) v.v… cho phép ta
thấy pháp môn Niệm Phật A Di Đà, cầu vãng sinh Cực lạc là một khuynh hướng tín
ngưỡng lớn thời bấy giờ. Tuy nhiên quan niệm Tịnh Độ của Phật tử Việt Nam mang những
đặc thù riêng mặc dù có sự ảnh hưởng của Tịnh Độ Trung Quốc.
Những đặc điểm đó thể hiện ở chỗ:
- Danh hiệu đức Phật A Di Đà xuất hiện sớm nhất ở Việt
Nam
qua Cựu tạp thí dụ kinh và Lục độ tập kinh vào giữa thế kỷ thứ III. Mặt khác,
nhà sư Đàm Hoằng (?-455) chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng
sinh Cực lạc đã đến Việt Nam tu học vào đầu thế kỷ thứ V vào năm 422, cách thời
điểm Ngài Huệ Viễn sáng lập Tịnh Độ tông Trung Quốc (năm 422) chỉ khoảng sau 20
năm.
- Tuy tư tưởng Tịnh Độ lễ Phật A Di Đà xuất hiện sớm ở
Việt Nam và trở thành một trong những trào lưu chủ yếu của đời sống tín ngưỡng
của Phật giáo nước ta, nhưng không hình thành một tông phái với chủ trương,
lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc lập, tách biệt với các tông phái khác như
Thiền, Mật hay Luật tông ở Trung Hoa và Nhật Bản. Ở nước ta, Tịnh Độ tông không
đứng biệt lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng khác
cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển.
- Tịnh Độ tông ở Việt Nam phát triển, tồn tại, đan xen và
song song với Thiền tông. Vua Trần Thái Tông (1218-1277), một nhà thiền học đã
để lại nhiều tác phẩm trong đó có Khóa Hư Lục. Trong tác phẩm Phật học này có
hẳn một chương Niệm Phật luận bàn về những lợi ích niệm Phật. Trần Thái Tông
quan niệm tự tính Di Đà và tịnh độ chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con
người này mà không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan
điểm đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291)
và Trần Nhân Tông (1258-1308). Trong bài phú nổi tiếng Cư trần lạc đạo phú của
mình, nói lên chủ trương của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, Trần Nhân Tông đã viết
: "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính
sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc". Như vậy, trên mặt lý luận,
quan niệm Tịnh Độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy là một
trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh Độ ở giai đoạn thời Trần nói riêng và
cũng là một trong những đặc điểm căn bản trên phương diện lý luận của tư tưởng
Tịnh Độ tại Việt Nam nói chung.
Từ thế kỷ XVII, có sự thâm nhập của Tịnh Độ tông Trung
Hoa, cũng được các chư tăng như Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644), Minh Châu
Hương Hải (1628-1708) và Chân Nguyên (1647-1726) v.v…truyền bá rộng rãi, đã mô
tả thế giới Cực lạc và chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng, được vãng sinh
về thế giới Tây phương Tịnh độ. Điều đó phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng của quảng đại quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế
kỷ XX khi đất nước nằm trong tình trạng bị xâm lược, đời sống nhân dân cơ
cực dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều đạo
tràng chuyên thực hành niệm Phật như Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã. Cao trào
này được phản ánh qua tác phẩm Phổ Khuyến Niệm Phật của nhà sư Tánh Thiên
(1784-1847) và nhiều tác phẩm của các danh tăng khác như các vị Toàn Nhật
(1755-1832), Tâm Truyền (1832-1911), Phước Huệ (1875-1863) v.v…
Đầu thế kỷ XX, dưới chế độ bảo hộ của Pháp, các tổ
chức Phật giáo chỉ được mang danh nghĩa là các Hội đoàn, không được coi là Giáo
hội. Vì vậy nhiều tổ chức Phật giáo đầu tiên lần lượt xuất hiện, bắt đầu từ
miền Nam, ra miền Trung rồi miền Bắc. Nhất là từ năm 1920 và trong thập kỷ thứ
3 của thế kỷ XX, phong trào Chấn Hưng Phật giáo nổi lên rầm rộ ở các các miền
Bắc, Trung , Nam. Nhiều hội đoàn về Phật giáo được thành lập và phát triển,
nhiều tờ báo Phật học ra đời ở cả 3 miền. Giữa thế kỷ XX, do nhiều biến cố của
đất nước, Phật giáo nói chung và Tịnh Độ nói riêng cũng phải qua nhiều khó
khăn. Song riêng về pháp môn Tịnh Độ cũng được duy trì, củng cố và phát triển.
Năm 1955, cố Hoà thượng Thích Trí Tịnh đã cho sáng lập hội Cực Lạc Liên Hữu,
một đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ đầu tiên của Việt Nam tại Chùa Vạn Đức, thành
phố Hồ Chí Minh.Trong khoảng thời gian này cả Phật giáo đàng trong và Phật giáo
đàng ngoài đều rất ưa chuộng pháp môn Tịnh Độ. Đặc biệt năm 1968 cố Hoà thượng
Thích Thiền Tâm đã cho thành lập Đạo Tràng Tịnh Độ để chuyên tu ở Đại Ninh (Đức
Trọng, Lâm Đồng) và dịch kinh Niệm Phật Ba La Mật. Tới năm 1970 cố Hoà Thượng
còn cho mở Hương Nghiêm Tịnh Viện, năm 1974 cho mở khoá chuyên tu Tịnh Độ
suốt ba năm. Cho đến ngày nay, pháp môn Tịnh Độ đã được phát triển mạnh mẽ và
tỏa khắp các miền trong đất nước.
Tóm
lại, trào lưu Tịnh Độ ở Việt Nam ta đã có một lịch sử lâu dài, nhưng không tự
thân phát triển thành một tông phái riêng biệt, không có vị trí độc lập và tách
rời với các pháp môn khác mà thường hòa quyện cùng với Thiền tông và Mật tông,
đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh
Độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản.
Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân tộc ta, cũng
như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua sự ra đời, sinh hoạt và
truyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh
thì vẫn trì tụng thần chú (Mật tông) và niệm danh hiệu Phật (Tịnh Độ
tông).
Đến
nay Tịnh Độ tông đã được phát triển khắp đất nước. Rất nhiều đạo tràng niệm
Phật A Di Đà xuất hiện khắp nơi, nhiều khóa tu Phật thất và khóa tu Một ngày
niệm Phật cũng được phát triển làm cho pháp môn Tịnh Độ ngày càng ăn sâu vào
tâm thức các Phật tử, bên cạnh sự phát triển của Thiền tông và Mật tông trong
cả nước.
Phần 2
GIÁO LÝ CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG
A. Xuất xứ về giáo nghĩa căn bản của Tịnh Độ
Tông.
Kinh
Quán Vô Lượng Thọ còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh là một
trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông. Kinh miêu tả thế giới Cực
lạc phương Tây của Phật A Di Đà và dạy 16 cách quán hành trì để sống thanh
tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hành giả thoát khỏi các
nghiệp bất thiện và được tái sinh nơi Tịnh độ Tây phương.
Kinh này nói rõ xuất xứ giáo pháp của Tịnh Độ tông đã
được Đức Phật Thích Ca trình bày trước nguyện vọng của Hoàng hậu Vi Đề Hi trong
ngục tối. Hoàng hậu Vi Đề Hi là mẹ của vua A Xà Thế đã bị con mình bắt bỏ
ngục vì bà đã cố gắng tìm cách cứu chồng là vua Tần Bà Sa La đã bị bỏ ngục
trước đó. A Xà Thế mưu cướp ngôi vua nên đã bắt cha mình là vua Tần Bà Sa La bỏ
ngục. Bà Vi Đề Hi tìm cách giúp chồng bằng cách hằng ngày đến thăm và dấu các
thức ăn đưa vào ngục. Bị phát hiện, bà bi con hạ lệnh cho bỏ ngục. Bà cầu mong
Đức Phật đến cứu giúp vượt qua nỗi khốn khổ này, và xin tái sinh nơi một cõi
yên lành, chỉ có an lạc không có khổ đau. Đức Phật đã xuất hiện và dùng thần
lực cho bà thấy rõ mọi thế giới tịnh độ, nơi chỉ có an lạc không có khổ đau.
Cuối cùng bà chọn cõi thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà. Đức Thế tôn đã dạy
bà phương pháp niệm danh hiệu Phật để được vãng sinh về cõi ấy và dạy
phương pháp thiền định gồm 16 phép quán tưởng. Tuỳ theo nghiệp lực của chúng
sinh, các phép này có thể giúp tái sinh vào một trong chín cấp bậc của đài sen
chín phẩm từ Hạ phẩm hạ sinh đến Thượng phẩm thượng sinh (Cửu phẩm Liên hoa).
Muốn được tái sinh về cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, hành giả phải thực hành
các quy định trong giáo lý Tịnh Độ tông là tu tam tịnh nghiệp. Trong kinh Quán
Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn có nói cho bà Vi Đề Hy rằng: “Nay ta sẽ vì
bà mà nói rộng các pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những
người muốn tu tịnh nghiệp được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc quốc. Này Vi Ðề Hi!
Người muốn sang nước Cực lạc ấy nên tu ba phúc: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, kính
thờ bậc sư trưởng, có tâm nhân từ, chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì Tam quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là
phát tâm Bồ đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và khuyến tấn
người khác tu hành niệm Phật. Ba sự như vậy gọi là tam tịnh nghiệp”. Đó là
nội dung căn bản của giáo nghĩa tu Tịnh độ mà đức Phật giảng giải cho bà Vi Đề
Hy và cũng là giáo nghĩa căn bản của pháp môn Tịnh độ sau này.
B. Nội dung căn bản của giáo lý Tịnh Độ tông.
Giáo
lý của pháp môn Tịnh Độ đều có cơ sở từ kinh luận. Trong hệ thống kinh sách
giáo lý Đại thừa có thể nói có rất nhiều bộ kinh đề cập đến pháp môn niệm Phật
và cảnh giới Tịnh Độ. Chư Phật, chư Bồ Tát và chư vị cao Tăng tuyên dương pháp
môn này đều nói rõ ưu điểm trên hai phương diện tự lực và tha lực.
Tuy nhiên, từ trước đến nay trong hầu hết các sách nói
về Tịnh Độ tông đều nhấn mạnh rằng Tịnh Độ tông lấy 3 bộ kinh và 1 bộ luận làm
nền tảng (tức Tam kinh Nhất luận). Ba bộ kinh đó là kinh A Di Đà miêu
tả thế giới Cực lạc đẹp đẽ trang nghiêm có Đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp,
Kinh Vô Lượng Thọ nói về tiền thân Đức Phật A Di Đà khi còn là Pháp
Tạng Tỳ kheo đã phát 48 lời nguyện để cứu độ chúng sinh, kinh Quán Vô Lượng
Thọ nói rõ phép quán tưởng niệm Phật và bộ luận Vãng sinh Tịnh độ
của ngài Thế Thân giảng giải rõ về ý nghĩa của ba bộ kinh trên. Ngoài ra đôi
khi còn nhắc đến Tịnh Độ tứ kinh, nghĩa là ngoài 3 bộ kinh kể trên, người ta
còn bổ sung kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện và có khi bổ xung thêm cả kinh
Đại Thế Chí Niệm Phật Viên thông là Tịnh Độ ngũ kinh
Có
thể tóm tắt một cách đơn giản tinh thần nội dung giáo lý Tịnh Độ là: Con người
hay nói rộng hơn là chúng sinh sống trên cõi Ta bà đầy ngũ trược ác thế này rất
đau khổ. Hiểu cuộc đời này là khổ não, lẽ sống là vô thường, sinh tử luân hồi
là quy luật, thì phải chọn cho mình một cuộc sống tốt hơn, không đau khổ, để
được sống an lành và hạnh phúc và để được giải thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau
trên trần thế. Muốn thể phải tu nhân tích đức, phải có một pháp môn tu sao cho
mọi chúng sinh với mọi căn cơ có thể hành trì để có thể tái sinh vào một cõi
đầy niềm vui, không còn khổ não, đó là cõi Cực lạc. Vậy pháp môn đó là gì? Đức
Phật thường nói có tới 84.000 pháp môn tu. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của
chúng sinh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả
tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ hay còn gọi là pháp môn niệm Phật. Sở
dĩ pháp môn Niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không đòi hỏi trình độ
và căn cơ người tu cao hay thấp, sang hay hèn, giầu hay nghèo và đặc biệt đó là
một pháp môn dễ tu nhất. Với pháp môn Niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi hay làm
chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu
Tịnh Độ là chuyển hóa khổ đau thành an lạc thực sự và cầu được vãng sinh vào
thế giới Cực lạc. Nhưng mục tiêu của người cầu vãng sinh Cực lạc không phải để
hưởng sự an vui đó mà là để được giải thoát, giác ngộ, thành Phật. Nói cách
khác, cảnh giới Cực lạc chỉ là môi trường hay phương tiện tốt nhất giúp cho mọi
người được vãng sinh không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ, hoặc không
còn thối chuyển trên con đường đạt đến hạnh phúc thật sự. Muốn vãng sinh Cực
Lạc phải có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh, đó là những yếu
tố cần thiết, là tư lương của người hành giả tu theo Tịnh Độ cần phải có trên
con đường tu tập.
1.Tín (Xây dựng niềm tin):
Đây
là điều kiện đầu tiên để cho người tu Tịnh Độ vững bước trên con đường tu hành.
Lòng tin là nền tảng để ước nguyện tu hành hướng về thế giới Cực lạc, niềm tin
là nguồn gốc phát sinh mọi công đức. Hành giả Tịnh Độ phải có niềm tin rằng đức
Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc là có thật, rằng một khi mình tự tin rằng mình
chuyên tâm tin tưởng, hành trì theo giáo lý của đức Phật và kiên trì niệm Phật
quyết chí vãng sinh thì sẽ được vãng sinh. Niềm tin này đối với hành giả tu
Tịnh Độ không bao giờ được thối chuyển. Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng niềm tin
này phải dựa trên nhận thức và lý trí. Tin có thế giới Cực lạc
là dựa trên căn bản tin Pháp, tức là tin vào lời dạy của Phật. Tin những lời
Phật dạy tức là tin vào giáo lý của Đức Phật nói về Vô thường, Khổ (trong
Tứ Diệu Đế), Vô ngã, tin vào luật Nhân quả, Nghiệp báo, Duyên sinh. Vì vậy
người ta thường nói lòng tin là một trong những món tư lương để cho hành giả
bước trên con đường tu theo Tịnh Độ.
2. Nguyện (Ước mong):
Có
lòng tin chưa đủ, người tu Tịnh độ phải phát nguyện, phải có ước nguyện, có
lòng mong muốn được vãng sinh về thế giới Cực lạc và mục tiêu là thành Phật hay
đạt được sự giác ngộ trọn vẹn. Biểu hiện của phát nguyện về Cực lạc phải
được thể hiện trên mọi hành vi, lời nói và tâm ý của hành giả. Ước nguyện đó là
rũ bỏ mọi phiền muộn, chấp trước để được tâm thanh tịnh, an lạc mới mong được
vãng sinh về Tịnh độ, mong có khả năng để cứu độ chúng sinh. Phát nguyện vãng
sinh Cực lạc tức là xác định điểm đến và lý tưởng của mình. Tâm nguyện như vậy
mới tương ứng với tâm nguyện của Tịnh Độ, mới có cảm ứng với Phật và Thánh
chúng ở nơi Cực lạc. Nếu có người niệm Phật A Di Đà mà không phát nguyện vãng
sinh Cực lạc, mặc dù có phúc đức lớn do niệm Phật, người đó sẽ không được vãng
sinh nước Cực lạc. Điều này có thể ví như một người đang làm một công việc mà
không biết mình làm công việc này để làm gì, hay một người đang đi trên con
đường mà không biết mình sẽ đi về đâu.
3. Hạnh (Hành trì):
Hạnh
là sự thực hành phải cho kiên nhẫn và đúng pháp, nghĩa là chuyên niệm danh hiệu
Nam mô A Di Đà Phật không xen tạp và không tán loạn và cần nhất là phải hành
theo đại nguyện của mình. Khi tâm nguyện hướng về Tịnh độ thì mọi hành động,
ngôn ngữ đều được tu tập liên tục, nghĩa là việc hành trì theo phương pháp niệm
Phật, quán tưởng đều phải hợp nhất giữa thân, khẩu và ý, không để cho các yếu
tố khác chi phối, lôi kéo làm tâm bị tán loạn, ảnh hưởng đến trong khi niệm
Phật. Mọi công đức, thiện pháp mà ta có đều hồi hướng về cõiTịnh Độ trang
nghiêm, thanh tịnh. Như vậy, điều quan trọng trong sự thực hành niệm Phật A Di
Đà để được vãng sinh đòi hỏi hành giả phải nhất tâm. Để có được kết quả là nhất
tâm, hay một lòng không tạp loạn, hành giả phải tinh tấn nỗ lực niệm Phật và
xem niệm Phật như là một sự nghiệp chính trong đời sống. Đó gọi là Niệm
Phật nhất tâm bất loạn hay Niệm Phật tam muội. Nói cách khác, tâm
của hành giả phải thường niệm A Di Đà một cách chí thiết và thể hiện tâm niệm
này qua hành động, lời nói bằng cách ăn chay, bố thí, cúng dường Tam bảo, nói
lời ái ngữ, không tà hạnh và sống đời sống có tiết độ.
Như
vậy, theo pháp môn Tịnh Độ, tín, nguyện, hạnh (lòng tin sâu
sắc, ước nguyện thiết tha và trì danh niệm Phât miên mật) là ba điều kiện không
thể thiếu được, còn được gọi là tư lương của hành giả pháp môn Tịnh Độ. Riêng
về niệm Phật cũng cần nói thêm rằng trong Đại Trí Độ luận có nói: “Niệm
Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và tội đời trước. Lại nữa, Niệm Phật
tam muội có phước đức lớn hay độ chúng sinh…”
Tóm
lại giáo lý căn bản của Tịnh Độ tông chủ trương người tu theo Tịnh Độ (kể cả
xuất gia và tại gia) phải nhất tâm niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà
và sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực Lạc nơi Tây phương Tịnh độ, bằng
tự lực của mình với niềm tin sâu sắc, ước nguyện thiết tha và hành trì
miên mật (Tín, Nguyện, Hạnh), đồng thời hành giả phải nương nhờ Phật
lực (tha lực) để được vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái nhất tâm
bất loạn. Về phần Hạnh tức phương pháp hành trì (trong Tín, Nguyện, Hạnh),
không phải chỉ có chuyên trì niệm Phật, quán tưởng mà còn thọ trì Tam quy, Ngũ
giới, hành Thập thiện, tạo công đức lớn, phát Bồ Đề tâm, nguyện thành Phật đạo,
hóa độ chúng sinh. Chính trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng đã có nói
rõ điều này: “Hành giả muốn vãng sinh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện: Một
là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì Tam quy, ngũ giới, không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm,
tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”.
Chính
vì ý nghĩa ấy, cho nên không thể hiểu đơn giản pháp môn Tịnh Độ chỉ là niệm
Phật đạt đến nhất tâm bất loạn mà cần phải hội đủ ba tịnh nghiệp như kinh Vô
Lượng Thọ đã nói ở trên.
C. Các bộ kinh chính của Tịnh Độ Tông.
Giáo
nghĩa của pháp môn Tịnh Độ nằm trong 3 bộ kinh chính gọi là Tịnh Độ tam kinh,
bao gồm kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và kinh Quán Vô
Lượng Thọ. Ngoài ra, sau này các hành giả Tịnh Độ còn cho rằng pháp môn
Tịnh Độ có 5 bộ kinh gọi là Tịnh Độ ngũ kinh. Đó là gồm 3 bộ kinh nói trên và
thêm 2 bộ kinh khác là kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nguyên là một phẩm
trích từ kinh Hoa Nghiêm và kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên
Thông, nguyên là chương Niệm Phật Viên Thông của kinh Đại
Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm. Thực ra 2 bộ kinh đó là một phần của các
bộ kinh lớn khác mà các hành giả Tịnh Độ ghép vào vì có nói đến phát Bồ Đề tâm
là một phần trong ba tịnh nghiệp và có nói đến công đức niệm Phật. Vì vậy cho
nên thường khi nói đến các kinh chính của pháp môn Tịnh Độ, các hành giả đều
chỉ nói đến 3 bộ kinh chính. Sau này còn bổ sung thêm kinh Niệm Phật Ba La
Mật và bộ luận Vãng Sinh Tịnh Độ (do Bồ tát Thế Thân biên
soạn).Thực ra kinh Niệm Phật Ba La Mật mà Đức Phật tuyên dạy tại núi
Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá, cần được xem như là bộ kinh chính của
pháp môn Tịnh độ vì đề cập nhiều nhất về phương pháp niệm Phật
Ba La Mật. Nhưng không hiểu sao từ bao lâu nay, các hành giả về Tịnh Độ tông
không thấy nhắc đến bộ kinh này và trong các đạo tràng tu Tịnh Độ cũng không
mấy Phật tử biết đến bộ kinh này. Có thể do bộ kinh Niệm Phật Ba La Mật
đề cập đến triết lý sâu sắc ở một trình độ cao mà các hành giả Tịnh Độ tông cho
là không phù hợp với pháp môn dễ tu là Tịnh Độ tông.
Phải
nói rằng pháp môn Tịnh Độ đều dựa trên cơ sở từ những kinh và luận này. Đặc
biệt trong giáo lý Đại thừa có nhiều bộ kinh nói đến pháp môn niệm Phật
và cảnh giới Tịnh độ. Chư Phật, chư Bồ tát và chư vị cao tăng tuyên dương pháp
môn này đều nói rõ ưu điểm trên hai phương diện tự lực và
tha lực. Tự lực là do hành giả phải quyết tâm tự mình thực hiện, ngoài
ra hành giả còn nhở ở tha lực tức là còn nhờ vào các đức Phật và Thánh chúng.
Ngoài các bộ kinh chính đã nói ở trên, có thể thống kê các bộ kinh sau đây nói
đến pháp môn Tịnh Độ: đó là các bộ kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh, Đại
Phật A Di Đà kinh, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh, Cổ Âm Thanh Tán Đà La
Ni kinh v.v…
Sau
đây ta điểm qua nội dung của các bộ kinh chính của pháp môn Tịnh Độ:
1. Kinh Vô lượng thọ:
Kinh
Vô lượng thọ còn được gọi kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ. Tên
chính của bộ kinh này là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Đây là một trong các bộ kinh chính của
pháp môn Tịnh Độ. Kinh này được Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích
Chân Thường, Hòa thượng Thích Đức Niệm và một số dịch giả khác dịch sang tiếng
Việt từ bản Hán văn do Pháp sư Khương Tăng Khải và cư sĩ Hạ Liên Cư dịch từ chữ
Phạn sang chữ Hán.
Nội
dung của kinh Vô Lượng Thọ nói về lịch sử của Đức Phật A Di Đà và 48
lời nguyện của Ngài để độ chúng sinh giải thoát. Kinh nói rằng ở vô lượng vô số
kiếp về đời quá khứ lâu xa có đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương
Như Lai. Khi đó có một nhà vua tên là Thế Nhiêu, sau khi nghe đức Phật thuyết
pháp liền ngộ đạo, phát tâm xuất gia trở thành vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng.
Ngài quyết tâm tu hành thành Phật và phát nguyện độ hết chúng sinh trong cõi
Cực lạc của mình. Ngài lập 48 lời nguyện giúp chúng sinh giải thoát.
Những
nguyện quan trọng là nguyện thứ 18: “Khi con thành Phật, chúng sinh trong
mười phương nghe danh hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, tâm
tâm hồi hướng nguyện sinh về cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được
vãng sinh, thề không thành Chính đẳng, chính giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội
ngũ nghịch, phỉ báng chính pháp”. Và nguyện thứ 19: “Khi con thành
Phật, chúng sinh khắp mười phương nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ đề, tu các
công hạnh, hành sáu Ba la mật, kiên cố không lùi, lại đem các căn lành hồi
hướng nguyện sinh về cõi nước con, một lòng nghĩ đến con ngày đêm không dứt,
đến khi mạng chung, con cùng Thánh chúng Bồ Tát liền đến tiếp đón, khoảnh khắc
sinh về cõi con được Bất thối chuyển. Nếu không được như nguyện, thề không
thành Chính giác”. (Kinh Vô lượng thọ - Thích Đức Niệm và Minh
Chánh dịch)
Nội
dung 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà cho ta thấy con đường tu tập Tịnh Độ
dựa vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà và nhất tâm niệm Phật là con đường tu
dễ nhất, mọi căn cơ có thể tu chứng được, đó là lý do tại sao Tịnh Độ tông được
truyền bá rộng rãi nhất.
2.Kinh A Di Đà:
Kinh A Di Đà là một bản kinh chính của pháp
môn Tịnh Độ. Đây là một trong ba bộ kinh quan trọng nhất của Tịnh Độ tông, lưu
hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh này giới thiệu cõi
nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và trình bày phương pháp nhất tâm niệm
danh hiệu A Di Đà và sẽ được A Di Đà tiếp độ về cõi Cực lạc lúc lâm chung. Nguyên
bản tiếng Phạn của kinh này vẫn còn tồn tại và người ta cũng còn tìm thấy những
bản dịch Hán ngữ của hai dịch giả lừng danh là Ngài Cưu Ma La Thập và Pháp sư
Huyền Trang. Kinh này được dịch sang tiếng Việt có nhiều bản, như bản dịch của
Hòa thượng Thích Trí Tịnh, của Thiền sư Nhất Hạnh, của Hòa thượng Thích Tuệ
Nhuận, của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới Vạn Phật Thánh Thành v.v… Kinh A Di
Đà do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng về y báo và chính báo của đức
Phật A Di Đà nơi thế giới Cực lạc ở phương Tây, cách cõi Ta bà này mười vạn ức
cõi Phật nhằm ca tụng cõi Cực lạc. Kinh A Di Đà cũng chỉ rõ pháp môn
niệm Phật để được vãng sinh về cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Do kinh A
Di Đà thuyết minh cảnh tướng trang nghiêm của cõi Tây Phương Cực lạc,
nguyện lực độ sinh của Đức Phật A Di Đà, đặc biệt khuyên tu niệm Phật để được
vãng sinh nên đây là bộ kinh ngắn gọn và hàm chứa giáo lý Tịnh Độ sâu xa mà các
chùa, các tịnh xá đều đọc tụng hàng ngày. Theo lời Phật dạy trong kinh, nguyên
nhân khiến chúng sinh cần nên phát nguyện sinh về Tịnh độ là do nơi đó có chư
Phật, chư Bồ tát và các bậc thượng thiện nhân. Kinh A Di Đà có nói: “Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào mà được nghe nói Đức Phật A Di Đà rồi nhớ kỹ
lấy danh hiệu của Ngài mà niệm trong một ngày, hai, ba, bốn, năm, sáu hoặc bảy
ngày, một lòng tâm không tạp loạn, thì người ấy đến khi lâm chung, Đức Phật A
Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân trước người đó, người đó lúc chết
không điên đảo, liền được vãng sinh về nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”.
Hơn
nữa trong kinh còn nói rõ chúng sinh nào dù còn mang đầy nghiệp chướng phiền
não, nhưng mỗi khi đã quyết chí tu hành được vãng sinh sẽ chứng được địa vị Bất
thối chuyển, từ đó thẳng tiến tu hành đến quả vị Vô thượng Bồ đề.
3. Kinh Quán Vô Lượng Thọ:
Như
trên đã nói, kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng là một trong ba bộ kinh quan
trọng nhất của Tịnh Độ tông. Kinh miêu tả thế giới phương Tây của Phật A Di Đà
và dạy cách hành trì: sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu Phật A
Di Đà, thì hành giả thoát khỏi các nghiệp bất thiện và được vãng sinh nơi Tịnh
độ của đức Phật A Di Đà. Trong kinh này, ngoài việc giới thiệu và giảng giải
cho bà Vi Đề Hy biết về tất cả các cõi tịnh độ, nơi chỉ có an lạc không có khổ
đau. Cuối cùng bà chọn cõi thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Trong
kinh, đức Phật còn dạy cho bà và mọi chúng sinh 16 phép quán tưởng, và tuỳ theo
nghiệp lực của chúng sinh, các phép này có thể giúp vãng sinh vào một trong
chín cấp bậc của Tịnh độ, từ Hạ phẩm Hạ sinh lên đến Thượng phẩm Thượng
sinh.
Mười
sáu phép quán tưởng đó là:
1.
Quán tưởng mặt trời lặn,
2.
Quán tưởng nước,
3.
Quán tưởng đất,
4. Quán tưởng cây báu,
5.
Quán tưởng nước cam lộ,
6. Quán tưởng tổng quát,
7.
Quán tưởng toà sen,
8.
Quán tưởng hình tượng của Tam thánh,
9.
Quán tưởng sắc thân của Phật A Di Đà,
10.
Quán tưởng sắc thân của Quán Thế Âm Bồ tát,
11.
Quán tưởng sắc thân của Đại Thế Chí Bồ tát,
12. Quán tưởng vãng sinh trong hoa sen,
13.
Quán tưởng hình tượng nhỏ của Tam thánh,
14. Quán tưởng ba phẩm ở Thượng sinh,
15.
Quán tưởng ba phẩm ở Trung sinh,
16.
Quán tưởng ba phẩm ở Hạ sinh.
Các
phép quán này giúp hành giả có thể thấy được A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Thế
Âm và Đại Thế Chí ngay trong đời này và đó là dấu hiệu chắc chắn hành giả sẽ
được vãng sinh về thế giới Tịnh độ.
Tất
cả mười sáu pháp quán làm nhân tố vãng sinh Cực Lạc, được Đức Phật trình bày
một cách rõ ràng, đó đều là những pháp quán rất tinh vi và sâu thẳm.
4. Kinh Niệm Phật Ba La Mật:
Ngoài ba bộ kinh và một bộ luận trọng yếu của tông
Tịnh độ do Bồ tát Thế Thân soạn thảo, thì kinh Niệm Phật Ba La Mật là
bộ kinh nói rõ bản ý, chủ đích của tông Tịnh Độ, lý giải một cách rõ ràng, thấu
đáo về mục đích và đường lối tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh. Bản kinh
đó do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán vào đời Diêu Tần
(384-417) và được Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch sang Việt ngữ.
Có thể nói đây là bản kinh mang tính triết lý vô
cùng quan trọng của Tịnh Độ tông, bản kinh này được Đức Phật thuyết giảng trước
đại chúng gồm các vị Đại Bồ tát khắp mười phương, các tỳ kheo, chư thiên vương,
lại có cả Quốc mẫu Vi Đề Hy Hoàng thái hậu, vua A Xà Thế…..tại núi Kỳ Xà Quật,
gần thành Vương Xá. Nhưng đáng tiếc hiện nay tuyệt đại đa số hành giả truyền bá
Tịnh Độ tông hoàn toàn không nói đến kinh Niêm Phật Ba La Mật, và hầu
như các chùa, các đạo tràng A Đi Đà của pháp môn Tịnh Độ đều không tụng bản
kinh này.
Trong phẩm thứ hai Mười
tâm thù thắng của kinh Niệm Phật Ba La Mật (Bản dịch từ Hán sang
Việt của Hòa thượng Thích Thiền Tâm) có nói: “Pháp môn niệm Phật chính là
chuyển biến cái tâm thể của chúng sinh, bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên
với vọng niệm; với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; với huyễn
cảnh, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v.. Mà chỉ đem tâm thể
ấy duyên mãi với danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu người niệm Phật
tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của
đức Phật A Di Đà, thấy mình sinh vào cõi nước Cực lạc, thân mình ngồi trên tòa
sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đỉnh”.
Điều này cũng tương tự như lời Đức Phật dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ
rằng: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng chúng sinh,
cho nên tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi
vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biến Chánh Biến Tri của Phật từ nơi
tâm tưởng mà sinh, vì thế các ngươi phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của Đức
Phật kia”.
Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật
cũng đã dạy: “Chư Phật đã dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy rõ
nghiệp lực chúng sinh lành dữ không đồng đều, thấy thân tướng và cảnh giới của
chúng sinh xấu tốt có sai biệt. Nhưng điểm sinh khởi chẳng rời sát na tâm sinh
diệt. Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát na tâm sinh diệt ấy, thì không có
pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT”. Và đức Phật cũng đã nói: “Muốn
niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sinh, thì người niệm Phật
phải phát khởi mười thứ Tâm Thù Thắng đó là:
1.Tín tâm,
2. Thâm trọng tâm,
3. Hồi hướng phát nguyện tân,
4. Xả ly tâm,
5. An ổn tâm,
6. Đà La Ni tâm,
7. Hộ giới tâm,
8. Ba La Mật tâm,
9. Bình đẳng tâm,
10. Phổ Hiền tâm”.
Vì vậy cần đặt đúng vị trí kinh Niệm Phật Ba
La Mật là một trong những bản kinh chính và quan trọng của pháp môn Tịnh
độ.
5. Luận Vãng Sinh Tịnh Độ:
Luận Vãng Sinh Tịnh Độ là bộ luận quan
trọng trong pháp môn Tịnh Độ được chư cổ đức truyền bá tông Tịnh Độ xếp thành
bộ luận căn bản để hoằng truyền pháp môn Tịnh độ. Bộ luận này do Luận sư Bồ tát
Thế Thân (316-?) người Ấn biên soạn dựa vào ý kinh của bản kinh Vô Lượng
Thọ, nên tên chính của bộ luận là Vô Lượng Thọ Kinh Luận, do đó
bộ luận này thuộc về Tôn Kinh luận tức là dựa vào ý kinh mà lập ra
luận. Bộ luận này gồm hai phần kệ văn và luận văn. Kệ văn là những bài kệ được
quy định chữ và vần điệu. Trọng tâm bộ luận này, cả kệ văn và luận văn đều dạy
những cương lĩnh của môn tu Ngũ niệm, một phương thức tu hành cầu vãng
sinh Tịnh độ. Vì thế, bộ luận này còn được gọi là luận Năm môn thực hành
để được vãng sanh Tịnh Độ.
Năm môn thực hành gọi là Ngũ niệm đó bao
gồm.
- Môn lễ bái : thân nghiệp chuyên lễ bái Phật
A Di Đà.
- Môn tán thán : khẩu nghiệp chuyên chấp trì
Thánh hiệu Phật A Di Đà, tán dương Phật A Di Đà.
- Môn phát nguyện: một lòng nhớ nghĩ, phát
nguyện khi lâm chung được sinh về thế giới Tịnh độ.
- Môn quán sát: chuyên quán sát chánh báo và y
báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc.
- Môn hồi hướng: có bao nhiêu công đức thảy
đều hồi hướng, cầu nguyện cho mình và tất cả chúng sinh sớm được vãng
sinh.
Ngoài ra, còn có hai bộ kinh cũng được xếp vào
Pháp môn Tịnh Đô (gọi là Tịnh Độ Ngũ kinh). Đó là kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện
và kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên thông.
Nhưng thật ra Phổ
Hiền Hạnh Nguyện chỉ là một phẩm trong bộ kinh Hoa Nghiêm.
Phẩm này nói lên 10 đại nguyện của Đại sĩ Phổ
Hiền bao gồm
1. Lễ kính chư Phật,
2. Tán thán Như Lai,
3. Phổ hiến cúng dường,
4. Sám hối nghiệp chướng,
5. Tùy hỷ công đức,
6. Xin chuyển pháp luân,
7. Thị hiện Niết bàn,
8. Thường học theo Phật,
9. Hằng thuận chúng sinh,
10. Hồi hướng công đức.
Mười điều phát nguyện của Bồ tát Phổ Hiền rất quan
trọng đối với người Phật tử nói chung, chứ thực ra không chỉ giành riêng cho
pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ tông. Do vậy, có thể nói Phổ Hiền Hạnh
nguyện không nên xếp vào trong các kinh chính của pháp môn Tịnh Độ.
Kinh Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông
nguyên là một chương trong bộ kinh Đại Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm.
Chương này nói về Ngài Đại Thế Chí đã đắc niệm Phật viên thông như thế nào. Đó
là niệm Phật đạt tới mức vừa viên dung vừa thông đạt, tức niệm Phật đến viên
mãn, đến thành tựu. Ý nghĩa của chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên
Thông là Ngài Đại Thế Chí hiện thân thuyết pháp, dạy hết thảy chúng sinh
về pháp môn niệm Phật đạt đến viên thông.
Đó là 4 phương pháp:
1. Trì danh niệm Phật,
2. Quán tượng niệm Phật,
3. Quán
tưởng niệm Phật
4. Thực tướng niệm Phật.
Vì đó là một chương trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm, nên việc đưa vào là một trong Tịnh Độ Ngũ kinh
xem ra không hợp lý lắm. Vì vậy các hành giả Tịnh Độ tông ít nhắc đến kinh này
là kinh chính của pháp môn Tịnh Độ.
D. Các xu hướng phát triển của
giáo lý Tịnh Độ tông ở Việt Nam.
1.Tịnh Độ tông trước thời
Lý-Trần.
Đây là thời kỳ thuộc thiên niên kỷ thứ Nhất sau
Công nguyên, từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ X, trước sự kiện Khúc Thừa Hạo
giành quyền tự chủ. Như ở trên đã trình bày, pháp môn Tịnh Độ đã vào Việt Nam
cùng với thời kỳ đầu khi Phật giáo từ Ấn Độ và từ Trung Quốc sang Việt Nam. Khi
đó ở Việt Nam đã có những tác phẩm Phật học như cuốn Cựu Tạp Thí Dụ kinh
và Lục độ tập kinh đều do Tăng Hội, người Khương Cư, sinh ra và sống
trên đất Giao Chỉ nước ta, biên tập vào khoảng thế kỷ thứ II và thứ III sau
Công nguyên.
Trong Cựu Tạp Thí Dụ kinh, lần đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo nước ta, danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhắc đến.
Ngoài ra, ta còn thấy trong Lục Độ Tập Kinh, pháp môn Niệm Phật được
đề cập nhằm giúp cho các Phật tử thực hành theo Tịnh Độ. Theo Giáo sư Nguyễn
Lang (tức Thiền sư Nhất Hạnh) viết trong Việt Nam Phật giáo sử luận
(NXB Văn Học-2000) thì Lục Độ Tập Kinh là một tác phẩm rất đặc biệt do
Tăng Hội biên soạn vào đầu thế kỷ thứ III, chắc chắn không phải là một tác phẩm
dịch thuật từ Phạn ngữ mà là một tác phẩm sưu khảo biên tập trong đó có nhiều
đoạn hoàn toàn do Tăng Hội viết. Trong Lục Độ Tập Kinh, cả thảy có 8
quyển nói về sáu độ (nên gọi là Lục Độ Tập Kinh tức là nói về sáu sự
vượt qua bờ) gồm bố thí độ, trì giới độ, nhẫn nhục độ, tinh tấn độ, thiền định
và trí tuệ.
Và như vậy ngay từ những thế kỷ đầu sau Công
nguyên, pháp môn Niệm Phật đã được lưu hành trong quảng đại quần chúng Phật tử
ở Việt Nam. Đó là thời kỳ đất nước ta chìm đắm trong sự lệ thuộc vào phương Bắc
cùng với các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (Năm 43 của thế kỷ thứ I SCN),
của Bà Triệu (Năm 248). Nhưng tín ngưỡng Tịnh Độ với pháp môn Niệm Phật vẫn
được duy trì, tuy không được phát triển mạnh mẽ, không thành tông phái riêng và
cũng không được phong phú về mặt lý luận. Người Phật tử nặng về niệm Phật để
cầu xin vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, chắc chưa thấu hiểu giáo lý sâu
xa của pháp môn Niệm Phật.
Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2 (từ năm 43 đến
541) kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Lý Bí lập nên nhà Tiền Lý (544-602), có
sự lưu truyền kinh Vô Lượng Thọ trong quần chúng Phật tử. Đây là một
bản kinh thuộc Tịnh Độ tông do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng Trung Quốc
chuyên hành trì pháp môn niệm Phật Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh nơi Cực
Lạc, đem vào nước ta vào khoảng giữa thế kỷ thứ V. Do lưu truyền kinh Vô
Lượng Thọ, nên trình độ thâm nhập giáo lý đức Phật cũng như pháp môn Niệm
Phật đã được phát triển rộng rãi hơn.
Sang giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 3, kéo dài từ năm
602 khi kết thúc Hậu Lý Nam Đế đến năm 905 khi Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ,
có một số sự kiện Phật giáo làm cho Phật giáo ở Việt Nam phát triển có đặc thù
riêng.
Các sự kiện đó là:
Sự kiện thứ nhất là vào tháng 3 năm Canh Tý (580)
có nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ từ Trung Hoa qua Việt Nam, trụ lại ở
chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, Long Biên, nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Pháp Vân còn được gọi là Chùa Dâu, tên chữ là Diên
Ứng tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam
mặc dù các dấu tích vật chất không còn, Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi
là Luy Lâu là trung tâm của đất Giao chỉ và cũng là trung tâm Phật giáo thời cổ
đại. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến đây lập nên thiền phái Phật giáo đầu tiên ở nước ta
vào cuối thế kỷ thứ VI là Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thiền phái này
tồn tại đến đầu thế kỷ XIII được 19 thế hệ.
Sự kiện thứ 2 là cuối thế kỷ thứ IX, vào năm 820,
thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam ở lại chùa Kiến Sơ thuộc làng
Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Từ đó một
thiền phái khác được thành lập mang tên là thiền phái Vô Ngôn Thông còn
gọi là thiền phái Quan Bích. Thiền phái này tồn tại được 17 thế hệ đến
cuối thế kỷ thứ XIII thì dần dần được hợp nhất các thiền phái ở Việt Nam khi đó
trở thành thiền phái Trúc Lâm.
Trong quãng thời gian này
(từ thế kỷ thứ I sau Công nguyên đến thế kỷ thứ X), cụ thể là đến năm 905, Khúc
Thừa Dụ lập nên thời kỳ tự chủ, thì Phật giáo phát triển nặng về Thiền tông,
nhưng pháp môn Tịnh Độ cũng được duy trì hòa hợp dung thông với Thiền tông mà
cụ thể là các thiền sư thuộc các thiền phái Tỳ Ni Đà Lưu Chi và thiền phái Vô
Ngôn Thông vẫn thực hành pháp môn niệm Phật, trì tụng kinh A Di Đà
và kinh Vô Lượng Thọ nhưng Tịnh Độ vẫn chưa hình thành pháp môn riêng
biệt.
2. Tịnh Độ tông dưới thời
Lý-Trần:
Từ sau sự kiện Khúc Thừa Du xây dựng chính quyền
tự chủ năm 905, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập, rồi đến thời kỳ Ngô
Quyền xưng vương lập nên nhà Ngô (939-968), sau trận chiến thắng lịch sử trên
sông Bạch Đằng trước quân Nam Hán, đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh xưng đế và đặt tên
nước là Đại Cồ Việt thì nước ta trải qua các triều đại nhà Đinh (968-980), nhà
Tiền Lê (980-1009) và nhà Lý (1009-1225) và nhà Trần (1226-1400).
Trong suốt thời kỳ này, Phật giáo ở Việt Nam phát
triển mà hưng thịnh nhất chủ yếu vào thời nhà Lý và nhà Trần.
Cũng cần điểm qua sự phát triển của Phật giáo nói
chung và của pháp môn Tịnh Độ nói riêng trong thời kỳ chuyển tiếp từ khi khôi
phục quyền tự chủ đến đầu đời nhà Lý, tức là khoảng thời gian Nhà Ngô, Nhà Đinh
và Tiền Lê. Ta biết trong thời kỳ, các vị vua như Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn
rất trân trọng Phật giáo đã coi các vị danh tăng như những cố vấn của triều
đình, giúp Nhà nước lo việc đại sự. Ta có thể kể đến Pháp sư Ngô Chân Lưu tức
Khuông Việt Đại sư (933 – 1011) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm Tăng thống
lãnh đạo Phật giáo cả nước. Năm 971 lại phong chức Khuông Việt Thái sư (Tể
tướng) để giúp đỡ và phát triển đất nước Đại Cồ Việt. Nhà vua và quần thần của
cả hai triều Đinh và Tiền Lê đều rất tôn trọng và cung kính các Đại sư khác như
Pháp Thuận, Vạn Hạnh v.v… Phật giáo trong thời kỳ này đã chiếm được ưu thế
trong xã hội bởi triết lý tích cực là thương cảm chúng sinh. Cho nên thời Đinh
và Tiền Lê chọn Phật giáo là tư tưởng chính trị chính thống là hợp với lòng
người, hợp với thời đại. Phật giáo đã cung cấp cho nhà Đinh và Tiền Lê tư tưởng
trị nước (tư tưởng từ bi, bác ái, khoan dung) và cung cấp học thuyết trị vì
thiên hạ cho bậc quân vương. Do đó Phật giáo trong thời kỳ này phát triển mạnh
mẽ mà ta có thể thấy trong các trụ đá mà triều đình nhà Đinh cho khắc các kinh
Tổng trì Đà La Ni và Kinh Chú Thủ Lăng nghiêm ở Hoa Lư, Ninh Bình.
Sang đến thời kỳ Lý-Trần thì Phật giáo đã phát
triển đến mức cực thịnh và đã trở thành Quốc đạo. Đây là thời kỳ vẻ vang, oanh
liệt của dân tộc và của Phật giáo Việt Nam. Có thể thấy các đặc điểm của
Phật giáo nói chung và của pháp môn Tịnh Độ nói riêng trong thời kỳ này như
sau:
a.Tính nhập thế:
Phật giáo thời kỳ này giữ vai trò là một cột trụ
lớn của hệ tư tưởng và văn hóa Việt Nam. Phật giáo đời Lý-Trần và nhất là vào
thời Trần mang tính nhập thế tích cực “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế
gian pháp”. Đạo không tách rời đời và đời cũng không thiếu vắng đạo, cả
hai đã trở thành một hợp thể linh động, sáng tạo và diệu dụng trong mọi hoàn
cảnh. Đặc điểm và tính nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần thể hiện nhiều trong
các tác phẩm văn học và Phật học. Bài kệ trong đoạn kết của Cư Trần Lạc Đạo
Phú của Phật hoàngTrần Nhân tông thể hiện rất rõ điều đó:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia
trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Dịch:
Sống
đời vui đạo cứ tùy duyên,
Đói
đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Của
báu trong nhà, tìm gì nữa
Thấy cảnh vô tâm, chẳng hỏi thiền.
Tư
tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý-Trần mà nổi bật nhất trong thời Trần có
liên quan đến pháp môn Tịnh Độ đã để lại trong nhiều tác phẩm như Khóa Hư
Lục của Trần Thái Tông trong đó có bài Niệm Phật luận, bài Phổ
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, bài Niệm Tụng Kệ v.v…cũng như các bài
trong tác phẩm Thánh Đăng Lục, Thiền Uyển Tập Anh, Tam Tổ Thực
Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục đều có đề cập đến tư tưởng niệm Phật độ
sinh thuộc về pháp môn Tịnh Độ.
b. Tính dung thông:
Thời kỳ này các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn
Thông đều phát triển mạnh mẽ, lại thêm thiền phái Thảo Đường được thành lập sau
sự kiện vua Lý Thánh Tông đi chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069. Các thiền sư
trong cả ba thiền phái này không những tinh thông cả Thiền tông mà còn hộ trì
pháp môn Tịnh Độ và thâm hiểu sâu cả Mật tông. Đó là đặc điểm các tông phái
Phật giáo thời Lý-Trần: có sự dung thông trong quá trình tu tập và hoằng dương
Phật pháp. Có thể nói sự kiện nhà sư Thường Chiếu ( ?–1203), vị thiền sư họ
Phạm thuộc thế hệ thứ 13 thiền phái Vô Ngôn Thông dời sang chùa Lục Tổ ở
hương Dịch Bảng nay là chùa Cổ Pháp xã Đình Bảng, vốn là một tổ đình lớn của
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ông sang đây mở trường dạy học để giáo hoá Phật
pháp cho ta thấy xu hướng hoà nhập của các thiền phái đạo Phật ở Việt Nam bắt
đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XII và đầu thế kỷ thứ XIII đời nhà Trần. Rồi sự
kiện thiền sư Trì Bát (1049 - 1117), đời thứ 12 thuộc thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu
Chi đã chịu ảnh hưởng của Tịnh Độ tông khi tin vào cõi Tây phương Cực lạc của
đức Phật A Di Đà.
c. Tính thống nhất:
Phật
giáo thời Trần đã có công đem lại cho nền Phật giáo một sự thống nhất cao đô.
Ta biết rằng ở nước ta thời trước đã có thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái
Vô Ngôn Thông và thiền phái Thảo Đường. Bên cạnh đó các pháp môn Tịnh Độ tông
và Mật tông vẫn hoằng truyền Phật pháp. Tuy nhiên chỉ có các thiền phái Tỳ Ni
Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông là phát triển mạnh. Trước khi Vua Trần Nhân tông
lập nên Trúc Lâm Yên Tử, thì từ những năm đầu của thế kỷ thứ XIII đã có thiền
sư Thường Chiếu là người dày công xây dựng sự hoà nhập giữa ba dòng thiền
chính của Phật giáo Việt Nam, khởi đầu cho sự hình thành thống nhất của Phật
giáo Việt Nam đi đến một thiền phái thống nhất Trúc Lâm Yên Tử. Thiền sư Thường
Chiếu là người đã khơi mào cho việc hòa nhập mà vị đệ tử xuất sắc của Ngài là
nhà sư Hiện Quang (?-1221), chính là vị tổ khai sơn ra phái Yên Tử. Mãi đến khi
Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử năm 1229 thì Trần Nhân
Tông được ghi nhận là người truyền thừa đời thứ 6 của phái Yên Tử và là vị tổ
thứ nhất của Phật giáo Trúc Lâm. Từ đó trở đi Trúc Lâm Yên Tử trở thành nổi
tiếng với công lao của 3 vị Tam tổ là Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông, Pháp Loa
và Huyền Quang trở thành Tam tổ sáng lập ra Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm cho đến
ngày nay.
d. Về sự phát triển Tịnh Độ tông thời Lý-Trần.
Từ
giữa thế kỷ thứ XI trở đi, pháp môn Tịnh Độ được phổ biến rộng rãi, với sự hình
thành của nhiều ngôi Tam bảo, và các đạo tràng ở khắp nơi.
Thời Lý-Trần, Tịnh Độ tông đã được đề cao và phát
triển bên cạnh Thiền tông. Ta có thể thấy vào năm 1057, vua Lý Thánh tông đã
cho dựng một tượng A Di Đà bằng đá cao hai mét rưỡi tại núi Lạn Kha, huyện Tiên
Du, Bắc Ninh, hiện vẫn còn ở chùa Phật Tích ngày nay. Sử liệu Phật giáo còn nói
rằng pháp môn niệm Phật đã thâm nhập vào thiền phái Vô Ngôn Thông: Trong sách Thiền
Uyển Tập Anh có nói đến việc Không Lộ (?-1444), vị thiền sư đời thứ 10
dòng Vô Ngôn Thông, đã dựng tượng A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm (thuộc xã Tràng An,
huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Thiền Uyển Tập Anh cũng nói đến
thiền sư Tịnh Lực (1112–1175) thuộc đời thứ 11 dòng Vô Ngôn Thông, một ngày đêm
mười hai thời thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn Niệm Phật tam muội và
đã đắc pháp Niệm Phật tam muội. Sư là một người đã có công phu niệm Phật, đã
từng dạy đệ tử “nếu muốn diệt trừ các ác nghiệp thì phải áp dụng phương
pháp niệm tụng bằng cả tâm lẫn miệng”. Thiền sư Trì Bát (1049-1117) thuộc
thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi “nhân tưởng niệm Phật A Di Đà
ở thế giới Phương Tây Cực Lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng
lớn”, đã tạo dựng tượng A Di Đà năm 1099 ở chùa Hoàng Kim, Quốc
Oai, Hà Nội. Rõ ràng đó là sự kết hợp hòa quyện giữa Thiền tông và pháp môn
Niệm Phật của Tịnh Độ tông trong thời kỳ này, và đó cũng chứng tỏ Tịnh Độ tông
thời Trần cũng phát triển mạnh mẽ.
Cùng
với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A
Di Đà, ở thời này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên
phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh Độ đã thực sự có một vị trí quan trọng
trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân ta.
Qua tín ngưỡng của nhân dân thời bấy giờ, pháp
môn Tịnh Độ đã đi vào quần chúng bằng con đường đề cao giáo pháp từ bi,
cứu khổ, cứu nạn, bằng cách đưa lên hình ảnh thanh tịnh an lạc của cõi
Tịnh Độ Tây phương Cực lạc, nơi mà Đức Phật A Di Đà cùng Thánh chúng sẵn
sàng tiếp đón những người khi sống trên trần thế đã tu hành thập thiện
nghiệp, tin sâu, nguyện thiết và niệm Phật cầu vãng sinh. Tịnh Độ tông
còn đề cao hình ảnh vị Bồ tát đắc đạo nhưng vì thương xót chúng sinh
khổ não nên ở lại trần thế cứu vớt họ. Đó là hình tượng vị Bồ tát
Quán Thế Âm, tiêu biểu cho sức mạnh kỳ diệu, lòng từ bi và tình thương
bao la. Chính mái chùa Một Cột ở Hà Nội, là nơi thờ Đức Quán Thế Âm đã được xây
dựng vào năm 1049, thời vua Lý Thái Tông. Ta cũng thấy tác phẩm Khoá hư
lục do Trần Thái Tông biên soạn nhằm giúp cho các Phật tử đọc tụng
sáu thời trong một ngày đêm để giữ cho sáu căn[9] được thanh tịnh (trong Lục
thời sám hối khoa nghi). Điều đó chứng tỏ Tịnh Độ tông chủ trương
trì kinh, niệm Phật để giữ tâm được lặng lẽ thanh tịnh, để sám hối
tội căn kiếp trước và để rửa sạch tội lỗi hàng ngày mắc phải. Đặc
biệt, trong các tác phẩm của các nhà thiền học thời kỳ này, pháp môn Niệm Phật
đã được đề cập đến như là một phương thức hành thiền được hướng dẫn từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, hợp với từng căn cơ đối tượng tham thiền học
đạo.
3.Tịnh độ tông ở Việt Nam hiện nay.
Sau
thời kỳ Phật giáo cực thịnh dưới các triều Lý Trần thì do ảnh hưởng mạnh của
Nho học, nên Phật giáo Việt Nam
cũng như Tịnh Độ tông trong thời Lê cho đến đầu thế kỷ XX không được phát triển
mạnh. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XVI, nhiều tác phẩm về Tịnh Độ được viết, được
dịch và chú giải nhằm cổ súy và truyền bá cho tư tưởng Tịnh Độ. Có thể kể như
Thiền sư Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) viết tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa,
thuyết minh về Tự tính Di Đà; thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708)
dịch A Di Đà kinh sớ sao của ngài Châu Hoằng; thiền sư Chân
Nguyên (1647-1726) viết nhiều tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh Độ của Trung
Hoa như Phật tâm luận, Tịnh độ yếu nghĩa; thiền sư Tánh Thiên
viết Phổ khuyến niệm Phật…
Vào
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, do triều Nguyễn độc tôn Nho học nên mặc dù các
chùa trong nước rất nhiều, nhưng đều hoạt động riêng rẽ, không có một tổ chức,
hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát triển về Phật học cũng
suy giảm.
Trong suốt giai đoạn thuộc Pháp,
Phật giáo Việt Nam
có nhiều biến cố. Một mặt, thực dân Pháp trong quá trình đô hộ, chủ trương
không cho đạo Phật phát triển, mặt khác đạo Thiên Chúa được Pháp ủng hộ nên rất
phát triển ở Việt Nam. Do đó trào lưu Tịnh Độ nói riêng cũng như Phật giáo nói
chung không những không được phát triển mà còn suy thoái. Sang đầu thế kỷ XX,
vào năm 1920, phong trào Chấn hưng Phật giáo xuất hiện, bắt đầu bằng những bài
viết của các tăng sĩ và cư sĩ đăng trên các báo. Dưới chế độ thuộc địa và bảo
hộ của Pháp, các tổ chức Phật giáo chỉ được mang danh nghĩa là các Hội đoàn,
không được coi là Giáo hội. Vì vậy, các tổ chức Phật giáo đầu tiên lần lượt
xuất hiện như Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học thành lập năm 1930 tại
Sài Gòn và xuất bản tờ tạp chí Từ Bi Âm, Hội An Nam Phật học
được thành lập năm 1932 tại Huế với tạp chí Viên Âm, Hội Phật giáo
Bắc Kỳ được thành lập năm 1935 tại Hà Nội với tạp chí Đuốc Tuệ.
Tiếp theo là xuất hiện thêm một số hội Phật giáo khác ở các tỉnh thành khác mà
chủ yếu là ở miền Nam đồng thời nhiều tạp chí Phật học cũng được xuất bản như Pháp
Âm, Quan Âm, Tam Bảo, Tiếng Chuông Sớm, Duy
Tâm, Tiến Hóa. Một nhà xuất bản đã ra đời, đó là Phật học
Tùng thư do cư sĩ Đoàn Trung Còn thành lập năm 1932. Nhiều
kinh sách đã được xuất bản như sách Phật Giáo Sơ Học, Phật Giáo
Vấn Đáp, Phật Giáo Giáo Khoa Thư, và những kinh bản bằng quốc ngữ như Kim
Cương, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Từ sau Cách mạng
tháng Tám, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Phật giáo
Việt Nam
phát triển không đồng đều. Ở miền Bắc tuy đều có tổ chức Giáo hội Phật giáo ở
các tỉnh, song do tình hình kháng chiến chống Pháp và chống chiến tranh phá
hoại của Mỹ, Phật giáo tuy có phát triển song không được mạnh, nhưng trong
những ngôi chùa cũ, pháp môn Tịnh Đô vẫn được lưu truyền. Trong khi ở miền Nam, Phật giáo
cũng phải trải qua nhiều biến cố, điển hình như sự kiện chính quyền Ngô Đình
Diệm đàn áp phong trào Phật giáo năm 1963. Nhưng sau sự kiện này, Phật
giáo miền Nam
càng phát triển. Nhiều ngôi chùa được xây dựng, nhiều đạo tràng được lập nên,
đặc biệt có rất nhiều đạo tràng chuyên tu pháp môn Tịnh Độ niệm Phật A Di
Đà.
Sau năm 1975, Phật giáo Việt
Nam đã được tổ chức thống nhất lại thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào năm
1981, tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển rộng rãi. Đáng chú ý nhất là phong
trào phát triển pháp môn Tịnh Đô, tụng kinh Tịnh Độ và niệm Phật cầu vãng sinh
được lan tỏa khắp mọi nơi. Nhiều đạo tràng niệm Phật A Di Đà của Tịnh Độ tông
xuất hiện bên cạnh những đạo tràng Dược sư, đạo tràng Pháp Hoa v.v…Điển hình
nhất là từ năm 1984, ngôi chùa Hoằng Pháp ở Hóc Môn,
thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu tổ chức những khóa tu Phật thất (bảy ngày
liền) chuyên công phu niệm Phật A Di Đà theo pháp môn Tịnh Độ với mỗi
khóa tu từ 3.000 đến 5.000 Phật tử ở khắp nơi trong nước về dự. Điển hình này
đã được nhiều chùa trong nước áp dụng vì tu theo pháp môn Tịnh Độ niệm Phật thu
hút được nhiều Phật tử. Nhiều trung tâm, đạo tràng được thành lập theo Tinh Độ
vì đó là một pháp môn tu dễ dàng hơn, nhẹ nhàng hơn so với các pháp môn tu
khác, do đó đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số Phật tử muốn qua tu hành
niệm Phật để cầu được vãng sinh về Tây phương Cực lạc.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây,
do tác động qua lại giữa các pháp môn Tịnh Độ ở Úc Châu, ở Singapore, Malaysia
và Đài Loan với Tịnh Độ tông Việt Nam, các đạo tràng Tịnh Độ, các đạo tràng A
Di Đà ở Việt Nam càng phát triển mạnh. Nhiều Niệm Phật đường được xây dựng,
nhiều Vãng sinh đường được lập nên tạo điều kiện cho các Phật tử mong ước được
huân tu niệm Phật và vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Nhiều kinh sách, nhất
là các sách về niệm Phật và truyền bá phương pháp hành trì niệm Phật của các vị
Tổ Tịnh Độ tông được xuất bản một cách rộng rãi chứng tỏ Tịnh Độ tông không
những trở thành một môn phái được phát triển rộng ở Việt Nam về mặt quy mô mà
về mặt lý luận và phương pháp tu hành cũng được phát triển một cách hệ thống.
Tuy nhiên, ta biết sự truyền thừa của pháp môn Tịnh Độ khác với Thiền tông. Ở
Thiền tông luôn có sự truyền thừa từ đời này sang đời khác liên tục. Còn ở Tịnh
Độ tông Trung Quốc, tùy theo công đức của từng vị Đại sư mà môn đồ suy tôn làm
Tổ. Cho nên ở Trung Quốc kể từ cuối thế kỷ thứ IV đến đầu thế kỷ XX, Tịnh Độ
tông Trung Quốc mới có 13 vị Tổ như đã nói ở phần trên.
Ở
Việt Nam,
tuy pháp môn Tịnh Độ được lưu hành từ nhiều thế kỷ qua, nhưng về mặt tổ chức
của pháp môn chưa hình thành một hệ thống rõ rệt,
nghĩa là chưa có sự truyền thừa từ tổ nọ sang tổ kia như Thiền tông hoặc như
Tịnh Độ tông ở Trung Quốc. Giữa thế kỷ thứ XX, một số vị có công truyền bá và
xây dựng pháp môn Tịnh Độ phát triển cho tới nay là các Đại lão Hòa thượng
Thích Trí Tịnh và Thích Thiền Tâm. Cả hai đại lão hòa thượng đều đã viên tịch.
Gần đây một số đạo tràng niệm Phật A Di Đà theo truyền thống Tịnh Độ tông đã có
những kiến nghị với Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam suy tôn các vị đại lão hòa thượng đó là
những vị tổ của Tịnh Độ tông Việt Nam.
Nhìn
lại, chúng ta có thể thấy tín ngưỡng và pháp môn Niệm Phật A Di Đà cầu vãng
sinh Cực lạc là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, nếu không nói là
chủ yếu, của Phật giáo nước ta hiện tại. Tuy nhiên, quan niệm Tịnh Độ của người
phật tử Việt Nam mang những điểm đặc thù, dẫu có sự ảnh hưởng của Tịnh độ tông
Trung Hoa, nhưng vẫn khác biệt so với Tịnh độ tông của Trung Hoa hay của Nhật
Bản.
Phần 3
CÁC PHƯƠNG PHÁP TU TẬP
CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG
A.Nguyên
tắc và phương châm tu tập:
Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là chuyển
hóa khổ đau thành an lạc thực sự và cầu được vãng sinh vào thế giới Cực lạc.
Nhưng mục tiêu của người cầu vãng sinh Cực lạc không phải để hưởng sự an vui đó
mà là để được giải thoát, giác ngộ, thành Phật. Nói cách khác, cảnh giới Cực
lạc chỉ là môi trường hay phương tiện tốt nhất giúp cho mọi người được vãng
sinh không còn thối chuyển trên con đường giác ngộ, hoặc không còn thối chuyển
trên con đường đạt đến hạnh phúc thật sự.
Nguyên tắc tu tập lấy tự lực là
chính, nhưng không thể không nhờ
ở tha lực của Đức Phật và phương châm tu tập phải được thể hiện qua các tiêu
chí Tín, Nguyện, Hạnh.
Tịnh Độ tông chủ trương niệm
Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự trang nghiêm thanh tịnh của cõi Cực lạc
với tất cả sự nỗ lực cá nhân, bằng tự lực với các tiêu chí căn bản là phải đạt
được Tín, Nguyện, Hạnh. Ngoài ra, hành giả còn được nhờ ở tha lực tương ưng với
bản nguyện của Đức Phật A Di Đà và các Thánh chúng, nương nhờ vào Phật lực để
vãng sinh về thế giới Cực Lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Vì vậy phương
châm tu tập thể hiện qua Tín, Nguyện, Hạnh, không phải chỉ có chuyên trì niệm
Phật ngày đêm, nhất tâm bất loạn.
Việc hành trì như thế, bằng với cả lòng tin, với tâm nguyện thiết tha với sự
hành trì nghiêm mật chưa đủ mà người tu Tịnh Độ còn phải am hiểu và vận dụng
những điều mà Đức Phật dạy trong cuộc sống thường ngày, nghĩa là luôn nuôi
dưỡng lòng từ bi, tu mười điều lành và còn thọ trì Tam quy, Ngũ giới, vun đắp
các công đức phúc lành, và cao hơn thế nữa là phát Bồ Đề tâm, nguyện thành Phật
đạo, hóa độ chúng sinh.
Kinh Quán Vô
Lượng Thọ đã chỉ cho ta thấy rằng:
Hành giả muốn vãng sinh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện, tức là phải tu tịnh tam nghiệp:
Một là Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng thờ sư trưởng, từ tâm bất sát,tu thập thiện nghiệp (Tức: Không sát
sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời cay độc,
không nói lưới hai chiều, không xiểm nịnh, không tham lam, không giận dữ, không
si mê).
Hai là Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng
giới (tức thực hiện đầy đủ các giới), không phạm oai nghi.
Ba là Phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa,
khuyến tấn hành giả (tức khuyên người khác cùng tu).
Như
vậy cần phải hiểu rõ rằng tu theo Tịnh Độ không phải chỉ là chỉ niệm
Phật là đủ. Điều này sẽ được nói rõ trong mục Những vấn đề tồn tại
trong tu tập theo Tịnh Độ tông nói ở phần sau.
B. Sự thực hành các phương pháp tu tập:
Cùng
với việc xây dựng niềm tin và phát nguyện vãng sinh, hành giả Tịnh Độ tông phải
thực hành niệm Phật A Di Đà. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca dạy
rằng: “Nếu có thiện nam tử hay thiện nữ nhân nào muốn sinh về cõi Cực lạc,
thì người ấy phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà với một lòng không tạp loạn, hoặc
một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hoặc bảy ngày. Người
ấy, đến khi lâm chung sẽ thấy được Phật A Di Đà và các vị Thánh chúng hiện ra
trước mắt. Trong giờ phút ấy, tâm của người ấy được an trú trong định, không có
điên đảo và tán loạn; do đó người ấy sẽ được vãng sinh ngay về nước Cực lạc của
Đức Phật A Di Đà”. Như vậy, điều quan trọng trong sự thực hành niệm Phật A
Di Đà để được vãng sinh đòi hỏi hành giả phải nhất tâm bất loạn,
một lòng niệm Phật. Để có được kết quả là nhất tâm, không tạp loạn, hành giả
phải tinh tấn nỗ lực niệm Phật và xem niệm Phật như là một sự nghiệp chính
trong đời sống. Nói cách khác, tâm của hành giả phải thường niệm A Di Đà và thể
hiện tâm niệm này qua hành động và lời nói ngay cả khi đi đứng nằm ngồi với một
lòng nhất tâm bất loạn.
Vậy thế nào là Nhất
tâm bất loạn?
Kinh
A Di Đà nói nếu một ngày hoặc trong bảy ngày liên tục mà chuyên trì
niệm danh hiệu Phật A Di Đà đến mức nhất tâm bất loạn thì lúc lâm
chung có thể vãng sinh về Tây phương Cực lạc. Không phải chỉ ở trong kinh A
Di Đà nói đến nhất tâm bất loạn mà trong kinh Di giáo
cũng có nói đến “Chế ngự tâm tại một nơi thì không có việc gì là không làm
được”. Kinh Hoa Nghiêm quyển 6, phẩm Nhập pháp giới có
nói đến 21 loại niệm Phật tam muội. Nhất tâm bất loạn là thuộc về một
pháp môn của tu định, hay còn gọi là Niệm Phật tam muội hoặc gọi là Bát
châu tam muội hoặc là Nhất hạnh tam muội.
Nhất
tâm bất loạn ngược với tâm tán loạn. Khi miệng vẫn niệm danh hiệu Phật mà trong
tâm có nhiều vọng tưởng, nghĩ đến những việc khác thì đó là niệm Phật tán loạn.
Nhất tâm bất loạn tức là phải chuyên tâm nhất ý. Khi niệm Phật,
phải gắn cái tâm mình vào danh hiệu Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, tai nghe
tiếng niệm Phật, tâm không nghĩ gì khác, đó gọi là nhất tâm. Và như vậy thì khi
lâm chung có thể vãng sinh về cõi Cực lạc Tịnh Độ.
Theo
Đại sư Liên Trì, vị tổ đời thứ 8 Tịnh Độ tông Trung Quốc, thì Nhất
tâm có thể chia thành: Sự nhất tâm và lý nhất tâm. Sự
nhất tâm là tâm không có tạp niệm, tâm và miệng tương ứng với nhau, chỉ có
niệm danh hiệu Phật, tự mình biết rằng mình đang niệm Phật, biết rằng có danh
hiệu Phật đang niệm, đó là nhất tâm niệm Phật, hoặc là toàn thân niệm Phật. Còn
Lý nhất tâm tức là tâm tương ứng với lý, tự thấy được pháp thân của A
Di Đà tức là tự tính Tây phương không tách rời bản thân mình một tấc, đó là
cảnh giới hiện ra trước mắt Tự tính Di Đà duy tâm Tịnh Độ. Sự nhất tâm
thuộc về mức độ thiền định. Lý nhất tâm thuộc về trình độ thiền ngộ.
Đó là kết quả của việc Thiền-Tịnh song tu. Lấy việc niệm Phật của Tịnh Độ tông
để nhập môn thiền định đạt đến tam muội rồi giác ngộ, giải thoát.
Tóm lại phương pháp
thực hành tu tập Tịnh Độ tông để đi đến kết quả được vãng sinh về Tây phương
Cực lạc, có thể chia làm 2 phần
- Một mặt thực hành thường xuyên tu tam
tịnh nghiệp như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói nghĩa là: Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện đạo, thọ trì
tam quy ngũ giới, không phạm oai nghi, phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc
tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả.
- Mặt khác thực hành việc trì danh niệm
Phật đi đứng nằm ngồi đều phải nhất tâm bất loạn, đạt đến niệm Phật tam
muội.
C.Lợi ích của pháp môn Niệm Phật:
Ta
đã biết rằng pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ tông là một pháp môn dễ tu và phù
hợp với mọi người, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không kể sang hay hèn, giầu hay
nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ. Nhưng không phải ai cũng có thể tu đạt đến kết
quả để được vãng sinh về Tây phương Cực lạc, để được thành Phật và thoát cảnh
sinh tử luân hồi.
Thế
giới Cực lạc là phương tiện tối thắng giúp cho hành giả trên con đường tu hành
đi đến giác ngộ không còn thối chuyển. Phương tiện tối thắng đó là: môi trường
tốt đẹp như trong mô tả của kinh A Di Đà, cuộc sống đầy đủ, thân thể
khỏe mạnh, có trí tuệ và được thân cận học hỏi thực tập với các vị Thánh tức là
Phật A Di Đà và các Thánh chúng. Còn thế giới Ta bà là thế giới đầy đau khổ,
đầy nghịch cảnh: kiếp sống ô trược, nhận thức sai lạc, vô minh, chứa đầy phiền
não tham, sân và si, vạn vật vô thường và mạng người ngắn ngủi.
Do
vậy, nếu hành giả biết tu tập sẽ đạt được điều mong muốn là sống trong cảnh an
vui, thanh tịnh, không đau khổ, không phiền não, không còn bị ràng buộc bởi
những tham sân si, luôn luôn an nhiên, tự tại thì bản thân người đó đang sống
trong cõi Tịnh độ. Và, đối với họ, cõi Ta bà mà họ đang sống chính là cõi Tịnh
độ. Ở một mức cao hơn, với người hành giả đã thực hành tu tam tịnh nghiệp, đã
an nhiên tự tại, gạt bỏ hết mọi ràng buộc mà một lòng niệm Phật nhất tâm bất
loạn thì sẽ được Đức Phật A Di Đà cùng Thánh chúng tiếp dẫn sang cõi Cực lạc ở
Tây phương. Vì vậy, so với Thiền tông, hành giả niệm Phật theo Tịnh Độ có được
thắng duyên là môi trường Cực lạc để giúp cho sự tiến tu bất thối, và tâm niệm
của hành giả niệm Phật luôn luôn được an ổn vì có được Phật A Di Đà hộ niệm.
Đây là một trong những lý do chính giải thích tại sao pháp môn Niệm Phật A Di
Đà phù hợp với tất cả mọi trình độ và được phổ biến tại các nước có Phật giáo
Đại thừa như Việt Nam,
Trung Hoa, Nhật Bản v.v...
Chính
vì pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn dễ tu và có nhiều lợi ích lớn trong tám vạn
bốn nghìn pháp môn, nên Đức Phật thường khuyên bảo chúng sinh nên cầu sinh về
Tây phương Cực lạc.
Điều
này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sinh về Tây phương Cực lạc to lớn đến
dường nào. Ta có thể kể đến một số lợi ích lớn khi tu theo pháp môn Tịnh độ: 1.
Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã giảng biết bao nhiêu bộ kinh trong đại
tập kinh điển. Tuy nhiên, riêng bộ kinh Vô Lượng Thọ, có thể đã được
Đức Phật giảng nhiều lần, nên hiện nay có đến 5 bộ kinh Vô Lượng Thọ
khác nhau. Yếu chỉ của kinh Vô Lượng Thọ là khuyên bảo chúng sinh nên
cầu sinh về Tây phương Cực lạc. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của việc sinh
về Tây phương Cực lạc to lớn đến dường nào nên Đức Phật mới giảng đi giảng lại
nhiều lần như thế.
2.
Ta thấy các vị Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền đều là những bậc Đẳng
giác Bồ tát sắp thành Phật. Thế mà cả 2 vị đều phát nguyện sinh về Tây Phương
để sớm thành Phật. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phổ Hiền phát nguyện rằng:
“Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy bao chướng ngại, tận
mắt thấy Phật A Di Đà, tức được vãng sinh nước Cực lạc.” Các vị đại bồ tát
còn phát nguyện về Cực lạc thì thấy lợi ích tu theo pháp môn Tịnh Độ được lợi
ích đến nhường nào.
3.
Tu theo pháp môn Tịnh Độ rất dễ tu, có trường hợp người tu Tịnh Độ không cần
phải đoạn hết nghiệp chướng của mình (tham, sân, si) mà có thể thoát khỏi kiếp
luân hồi, về với cõi Tịnh của Phật A Di Đà là Tây phương Cực lạc. Tu theo các
pháp môn khác người tu bắt buộc phải diệt trừ tận gốc tất cả nghiệp chướng của
mình mới có thể thoát khỏi kiếp sinh tử luân hồi.
4.
Từ các kinh điển và các bộ luận của các vị Bồ tát và các Thánh hiền đều ra sức
khen ngợi, ca tụng và khuyến khích mọi người tu theo pháp môn Tịnh Độ. Ngài Văn
Thù Sư Lợi bồ tát cũng đã dạy: “Trong các pháp môn của Đức Phật không có
môn nào qua được môn Niệm Phật, Niệm Phật là vua của các pháp môn”. Bồ tát
Quán Thế Âm cũng dạy: “Niệm Phật hơn các hạnh khác”. Ngài Mã Minh, vị
tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ đã nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận
rằng: “Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện tối thắng của Đức Như Lai”.
Còn Bồ tát Long Thọ, vị tổ thứ 14 Thiền tông Ấn Độ cũng cho rằng: “Niệm
Phật Tam muội có đầy đủ trí tuệ, có vô lượng phúc đức, đoạn trừ tất cả phiền
não, độ tất cả các chúng sinh, và sinh ra vô lượng Tam muội khác cho đến Thủ
Lăng Nghiêm Tam Muội”.
5.
Điều kiện để một chúng sinh vãng sinh về các thế giới Tịnh độ khác như cõi Tịnh
độ của Bồ tát Di Lặc và Tịnh độ của Phật A Súc là rất cao, vì chỉ trông cậy vào
sức tu tự lực. Trong khi điều kiện vãng sinh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà,
ngoài việc nhất tâm niệm Phật còn được nương nhờ tha lực của Phật A Di Đà. Điều
đó có lợi rất lớn trong việc tu hành.
Do
những điều đó, đủ biết rằng pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông có lợi ích như
thế nào.
Phần 4
CẦN NHẬN THỨC ĐÚNG
VỀ TỊNH ĐỘ TÔNG HIỆN NAY
A.Những dị biệt trong nhận thức và thực hành giáo lý Tịnh Độ tông hiện
nay.
Trong
phần này, xin phép chỉ nêu lên một số ý kiến khác nhau của các hành giả, của Chư tôn thiện đức và của những nhà nghiên cứu Phật học
nói về pháp môn Tịnh độ. Những ý kiến đó đang lưu hành tồn tại trong Phật giáo
ở nước ta.
Những
ý kiến khác nhau về nhận thức và thực hành giáo lý Tịnh độ tông hiện nay có thể
có một số điểm cần nêu lên như sau:
1.Sự khác biệt thứ nhất:
Có
ý kiến cho rằng trào lưu Tịnh độ tông được truyền bá hiện nay ở nước ta do ảnh
hưởng từ Trung Hoa nên có sự khác biệt với giáo lý Tịnh độ tông trong kinh A Di
Đà . Điểm khác biệt căn bản được nêu lên ấy là Tịnh độ tông trong kinh A Di Đà
dựa vào 5 tiêu chí để được vãng sinh Tây phương khác hoàn toàn với 3 yếu tố
tín, hạnh, nguyện mà ý kiến đó cho là do Trung Quốc đặt ra vốn không dựa vào
bài kinh quan trọng nhất là kinh A Đi Đà và đó cũng chính là điểm mà phần lớn
các vị giảng sư Tịnh độ tông không đề cập đến. Quan điểm đó cho rằng: “Trong
kinh A Di Đà có 5 tiêu chí mà theo đó ai thực tập thì hiện tại được an lạc, sau
khi chết đủ tiêu chuẩn để vãng sinh Tây phương mà không cần phải phát nguyện,
không cần ai hộ niệm, tình trạng đó diễn ra như một quy luật tất yếu về phương
diện nhân quả”. Quan điểm đó cho rằng năm tiêu chí trong kinh A Di Đà mà hành
giả tu Tịnh Độ đạt được vãng sinh là phải có căn lành lớn, có công đức lớn, có
nhân duyên lớn, có quán phát âm lớn và có sự chuyên nhất tâm nghĩa là có niệm
Phật nhất tâm bất loạn. Quan điểm đó còn nêu rõ: “Cốt lõi của kinh A Di Đà nằm
ở chỗ không phải nhấn mạnh về sự hiện hữu của thế giới Tây phương mà là 5 điều
kiện này. Bất kỳ ai đạt được 5 điều kiện này, ngay trước pháp hiện tại này, nơi
người đó ở chính là Cực lạc, thì người đó chính là an vui và lúc đó, người hội
tụ 5 điều kiện đó sẽ không còn nguyện vọng sinh về Tây phương để làm gì nữa.
Cốt lõi và chiều sâu triết lý của Tịnh độ tông nằm ở chỗ này. Người đi theo tín
ngưỡng của Tịnh Độ tông thì không quan tâm đến chuyện đó, chỉ quan tâm là sau
khi chết mình được vãng sinh và do đó nhấn mạnh đến cái phương diện tín ngưỡng
của Tịnh Độ vốn không phải do Đức Phật dạy. Đó là sự khác biệt rất căn bản giữa
Tịnh độ tông trong kinh A Di ĐÀ và Tịnh Độ tông do Trung Quốc biên soạn”. Ý
kiến đó cho rằng hành giả muốn có căn lành lớn nghĩa là phải chuyển hóa được
tham ái, sân hận, si mê và chấp thủ. Và nếu như thế thì các Phật tử tại gia
sống đời sống vợ chồng không thể đạt được căn lành lớn vì không thể bỏ được
tham ái, tuy rằng 3 yếu tố sau là sân hận, si mê và chấp thủ có thể đạt được,
vì đời sống của Phật tử tại gia gắn kết với tình nghĩa vợ chồng và hoạt động
tình dục là một trở ngại lớn làm cho Phật tử tại gia không thể nào có thể đạt
được căn lành lớn mà chỉ có thể đạt được căn lành trung bình hoặc nhỏ thôi. Còn
có đạt được căn lành lớn tức là chuyển hóa đươc tận gốc rễ tham ái, sân hận, si
mê, chấp thủ và đây là điều mà chỉ các vị xuất gia mới có thể làm được, tuy
nhiên không phải tất cả các vị xuất gia đều làm được như thế. Do ý nghĩa đó nếu
không có căn lành lớn tức là đối với Phật tử tại gia sống có đời sống gia đình
vợ chồng thì không thể vãng sinh về nơi Cực lạc được.
2. Sự khác biệt thứ hai:
Một
ý kiến nữa cho rằng phàm là Phật tử hay hành giả tu theo bất kỳ pháp môn nào
cũng phải tinh tấn, nỗ lực làm công đức lớn. Nghĩa là phải vận dụng và thực
hiện những điều giáo pháp Đức Phật đã dạy. Không chỉ ăn chay, niệm Phật, đi
chùa lễ Phật là đủ mà phải dấn thân thực hành tam quy ngũ giới, làm mười điều
lành, phát bồ đề tâm v.v… mới có công đức lớn. Cho nên ai nghĩ đơn giản là chỉ
cần niệm Phật, lạy Phật mà không cần đọc tụng kinh điển, thực hành theo giáo lý
của Đức Phật là có công đức lớn là một sai lầm đáng tiếc. Vì vậy không nên
cường điệu hóa những câu như: Niệm Phật một câu, phúc sinh vô lượng, lạy Phật
một lạy, tội diệt hà sa. Cái đó chỉ là khích lệ, hoàn toàn phi nhân quả. Bởi vì
rõ ràng chỉ niệm một câu niệm Phật thì không thể nào có vô lương phúc đức được,
cũng như chỉ cần lạy Phật một lạy thì bao nhiêu tội ác của mình đều được diệt
hết. Nếu thế thì trên đời này ai ai cũng tràn đầy phúc đức và không ai có tội
cả vì chỉ cần niệm Phật một câu, lạy Phật một lạy là dù có bao nhiêu tội cũng
đều được diệt hết. Đó là nội dung của ý kiến khác biệt thứ 2.
3.Sự khác biệt thứ 3:
Đó
là ý kiến khác biệt về 48 lời nguyện. Ý này cho rằng người tu theo Tịnh Độ tông
thường dựa vào 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, nhưng thực ra 48 lời nguyện
đó là lời phát nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng, như trong kinh Vô Lượng Thọ đã
nói. Lúc phát nguyện thì thày Pháp tạng còn là một phàm tăng, nên không thể nói
đó là 48 lời nguyện cùa Đức Phật A Di Đà. Ý kiến này nêu rõ: “Hiện nay 2 trong
số 48 lời phát nguyện đó được phần lớn hành giả Tịnh Độ tông nương vào. Đó là
lời nguyện thứ 18 và lời nguyện thứ 19 của thày Pháp Tạng. Lời nguyện thứ 18
cho rằng: Nếu ai niệm danh hiệu của ta 10 lần mà không vãng sinh về Cực lạc thì
ta không thành Phật. Trên thực tế thày Pháp Tạng đã thành Phật mất rồi, quá lâu
rồi. Nếu lời nguyện đó đúng sự thật thì thày ấy bây giờ phải là bồ tát chứ
không phải là Phật A Di Đà…”
Thực
ra các bản kinh Vô Lượng Thọ do có nhiều dịch giả khác nhau, nên ngôn từ và
hành văn cũng có chỗ khác nhau. Nên hiểu rằng 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp
Tạng là những lời nguyện để thực hành khi đã thành Phật và quá trình phấn đấu
của Ngài Pháp Tạng qua biết bao nhiêu kiếp mới trở thành Phật A Di Đà được. Và
như vậy, 48 lời nguyện đó chính là lời nguyện của đức Phật A Di Đà.
4.Sự khác biệt thứ 4:
Đây
là sự khác biệt mà trong phần nói về các bộ kinh chính của pháp môn Tịnh độ đã
được đề cập đến. Có một thực tế rất rõ ràng là trong cả một thời gian dài hành
trì và phát triển pháp môn Tịnh Độ, các vị Tổ cũng như các pháp sư giảng giải
về giáo lý Tịnh Độ không đề cập đến bộ kinh Niệm Phật Ba La Mật vốn là một bộ
kinh vô cùng quan trọng của Tịnh Độ tông. Vì sao vậy? Bản kinh Niệm Phật Ba La
Mật được Đức Phật tuyên giảng tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá trước tám
vạn vị Đại Bồ tát khắp mười phương, các vị Trưởng lão, các đại Tỳ kheo, các vị
Thiên vương, quỷ thần và quyến thuộc, lại có Quốc mẫu Vi Đề Hy và vua A Xà Thế
cùng hoàng tộc, quần thần đến dự. Như vậy buổi thuyết giảng kinh này xảy sau
thời gian không xa so với buổi thuyết giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ trước mặt bà
Vi Đề Hy khi còn trong ngục tối, do bà bị con là vua A Xà Thế hạ lệnh bắt bỏ
ngục. Kinh Niệm Phật Ba La Mật là một bản kinh xúc tích và mang đậm tính triết
lý sâu sắc và vô cùng quan trọng. Nhưng hiện nay có thể nói là trên 95% hành
giả truyền bá Tịnh Độ tông hoàn toàn không động đến kinh Niệm Phật Ba La Mật.
Có thể do bộ kinh này nói rõ tính chất yếu lĩnh rất cao siêu và cần có của một
người tu theo Tịnh Độ, nên các vị pháp sư và hành giả Tịnh Độ phải bỏ qua với ý
đồ để cho pháp môn Tịnh Độ trở thành một pháp môn dễ tu đối với mọi người.
Trên
đây là một vài ý kiến và nhận thức khác biệt về pháp môn Tịnh Độ. Tất nhiên,
nếu đi sâu nghiên cứu, còn có một số ý kiến khác nữa trong quá trình hành trì
phát triển pháp môn Tịnh Độ. Mà cụ thể là những vấn đề tồn tại thể hiện trong
quá trình tu tập của một số Phật tử.
B. Những vấn đề tồn tại trong tu tập theo Tịnh Độ tông:
Pháp
môn Tịnh Độ là một pháp môn dễ tu đối với mọi tầng lớp người và rất thịnh hành
trong nhiều nước Phật giáo Đại thừa, chính vì vậy mà trong hành giả và các Phật
tử đã nảy sinh rất nhiều nhận thức khác nhau xung quanh việc tu tập theo giáo
lý này.
1.Chỉ chú trọng niệm Phật mà không đọc tụng kinh điển.
Trước
hết trong đa số phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ cho rằng chỉ cần chú trọng đến
niệm câu “Nam Mô A Di Đà Phật” là đủ, nên không chú trọng đến việc học Phật nói
chung, đọc tụng kinh điển và thực hành những điều răn dạy của đức Phật nói
riêng trong cuộc sống hàng ngày. Thậm chí một số người còn cho rằng không nên
đọc tung kinh Phật vì việc đó sẽ làm sao lãng việc niệm Phật, mà chỉ cần nhất
tâm niệm Phật là đủ. Điều đó không đúng. Pháp môn Tịnh độ cũng rất chú trọng
đến việc tụng kinh. Pháp môn Tịnh Độ có một số bộ kinh chính như kinh Vô Lượng
Thọ, kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Niệm Phật Ba La Mật và 2 bộ
kinh bổ sung là Phổ Hiền Hạnh Nguyện và Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông. Trong
kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng đã có nói rõ điều này: “Hành giả muốn vãng sinh
Tịnh Độ phải hội đủ ba điều kiện: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư
trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam quy, ngũ giới,
không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển
Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”. Vậy thì đọc tụng kinh Phật cũng rất cần
thiết bên cạnh việc niệm Phật. Thực ra, các vị pháp sư và các hòa thượng chuyên
giảng giải về Tịnh Độ tông khuyên ta chuyên tâm niệm Phật đều là những vị đã
bao năm thông suốt những bộ kinh điển Đại thừa kể cả Đại Bát Nhã, Kim Cương,
Thủ Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Diệu Pháp Liên Hoa v.v…trong tam tạng kinh luật
luận và từ sự thụ nhận các yếu nghĩa của những bộ kinh luận đó trong suốt cả
quá trình hành trì tu tập, các vị đó mới quy tụ trở về pháp môn Niệm Phật của
Tịnh Độ tông.
2.Chỉ niệm Phật mà không thực hành tu tuệ-phúc:
Một
số không ít các Phật tử và hành giả chú tâm niệm Phật để cầu vãng sinh cho
mình, và chỉ chú trọng sao cho bản thân mình được vãng sinh mà không chú ý gì
đến mọi chúng sinh trong pháp giới, không chú trọng việc thực hành tu tuệ cùng
tu phúc theo giáo nghĩa Đại thừa. Chuyên tâm niệm Phật cầu vãng sinh như vậy dù
có vãng sinh thì cũng chỉ ở phẩm thấp trong chín phẩm Liên hoa. Bởi vì niệm
Phật cầu vãng sinh không thể tách rời việc thực hành đem giáo lý của đức Phật
vào trong cuộc sống. Cuộc sống ở thế giới Ta Bà rất nhiều khổ ải, giáo lý Đại
thừa chỉ rõ không chỉ tu cho mình mà phải Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng
sinh (Trên cầu thành Phật, dưới độ chúng sinh). Nghĩa là hành giả Tịnh Độ niệm
Phật cầu vãng sinh để thành Phật thì phải có tấm lòng từ bi, thương yêu đến mọi
chúng sinh, phải biết phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, làm nhiều việc thiện.
Cũng chính là để bổ khuyết những yếu lĩnh có thể còn thiếu mà trong các kinh
của Tịnh Độ đã được nhắc đến, bộ kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện là bộ kinh dạy người
học Phật phát Bồ đề tâm với tâm lượng rộng mở như Ngài Phổ Hiền Bồ tát.
3.Chỉ chuyên niệm Phật mà không tu hạnh lành:
Cũng
có nhiều Phật tử rất chú trọng đến niệm Phật, lễ Phật thành kính công phu, thực
hiện các thời khóa niệm Phật rất nghiêm mật nhưng trong đời sống hàng ngày thì
không chú trọng gì đến việc thực hành các hạnh lành cùng hành vi và ngôn ngữ,
đôi khi vẫn còn tồn việc làm không tốt, lời nói thô ác v.v... Để được vãng
sinh, trở thành Phật, không chỉ có niệm Phật là đủ, dù có nhất tâm bất loạn. Mà
phải có hạnh lành trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài thời khóa niệm Phật, người
Phật tử luôn luôn thực hành tu thập thiện nghiệp, lời nói cử chỉ hành vi cũng
mang tính thiện và từ bi trí tuệ. Cũng có trường hợp trong khi niệm Phật vẫn
còn những vọng tưởng, chấp trước, tham đắm, sân hận thì việc niệm Phật làm sao
mà nhất tâm bất loạn được. Vì vậy tu theo Tịnh Độ, không thể được xem đơn giản
là chỉ có niệm Phật là đủ, dù cho niệm Phật có đạt được đến nhất tâm bất loạn
thì kết quả cũng chỉ ở một mực thấp mà thôi.
C. Nhận thức đúng về tôn chỉ Tịnh Độ tông của đức Phật
Pháp
môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng đức Phật A Di Đà bằng tự lực với
Tín, Nguyện, Hạnh và với tha lực của đức Phật và Thánh chúng để vãng sinh về
Cực lạc, thoát khỏi kiếp sống sinh tử luân hồi. Đây là nhận thức chung của đa
số Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ. Nhưng nếu chỉ hiểu như thế, chỉ biết nhất
tâm niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì chưa đúng với tôn chỉ Tịnh Độ tông
của Đức Phật. Vậy cần phải hiểu đúng tôn chỉ Tịnh độ tông như thế nào?
Trong
kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng đã chỉ rõ người tu theo Tịnh độ muốn vãng
sinh về thế giới Cực lạc phải biết tu tam phúc hay còn gọi là tam tịnh nghiệp.
Có nghĩa là ngoài việc nhất tâm niệm Phật ngày đêm thì người tu theo Tịnh độ
tông cần phải hiểu giáo lý của đức Phật. Hành giả Tịnh độ phải biết hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiêp, thọ trì tam
quy, ngũ giới, không phạm uy nghi, phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng
Đại thừa, khuyên người cùng tu. Vì vậy, Tịnh Độ tông không phải chỉ có niềm tin
vào tín ngưỡng Cực lạc và Đức Phật A Di Đà. Tịnh Độ tông là tông phái chủ
trương đưa các hành giả đi theo con đường tu tập Giới, Định, Tuệ. Do có công
phu niệm Phật nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội mà thành tựu được Định. Nhờ
có công đức thọ trì Tam quy, Ngũ giới, tu thập thiện nghiệp và các công đức
hoằng dương chính pháp, phát bồ đề tâm v.v…mà thành tựu được Giới. Và cũng nhờ
có công đức đạt được Định mà hành giả mới đi đến có Tuệ.
Cũng
vì tôn chỉ Tịnh Độ tông như thế nên trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức Phật đã
thuyết giảng một cách thấu đáo về tôn chỉ của Tịnh Độ tông là một pháp môn Niệm
Phật cầu vãng sinh như thế nào. Trong Phẩm thứ hai của kinh Niệm Phật Ba La
Mật, Đức Phật đã chỉ rõ: “Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể
của chúng sinh, bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục
trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, với huyễn cảnh, với kiến chấp, với
mong cầu, với thức phân biệt v.v.. Mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh
hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng
lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của đức A Di Đà, thấy mình sinh
vào cõi nước Cực lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói
pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh”.
Kinh
Niệm Phật Ba La Mật cũng chỉ rõ người tu theo Tịnh Độ, tuy đã phát tâm niệm
Phật một cách tinh tấn và công phu, nhưng nếu tái sinh vào cõi Ta bà thì vẫn bị
luân hồi vì định huệ còn non kém, công đức chưa hoàn mãn. Cần phải vãng sinh
thế giới Cực lạc gần kề với Phật và các Thánh chúng, thành tựu vô lượng Ba la
mật, thâm nhập Tam muội Tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương
giáo hóa chúng sinh. Chính vì thế mà Đức Thế tôn đã nói rõ trong kinh Niệm Phật
Ba La Mật rằng: “Nên biết rằng được vãng sinh Cực lạc thì không bao giờ trở lại
địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi là Bất thối chuyển. Từ
đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám pháp bất cộng, ngũ
nhãn, lục thông, vô lượng đà la ni, vô số tam muội, thần thông du hý, biện tài
vô ngại v.v… đầy đủ công đức vô lậu của bậc Đại Bồ tát, cho đến khi đắc quả
Phật. Bởi vậy mà ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng:
Vãng sinh đồng ý nghĩa với thành Phật”.
Chính
vì những lý lẽ đó mà bản kinh Niệm Phật Ba La Mật cần được xếp vào một trong
những bộ kinh chính của pháp môn Tịnh Đô, vì bản kinh đó bao hàm đầy đủ tôn chỉ
của Tịnh Độ tông.
Phần 5
KẾT LUẬN
Pháp môn Tịnh Độ đã xuất hiện từ khi Đức Phật còn tại thế. Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, Tịnh Độ không được
phát triển mạnh. Chỉ sau khi Phật giáo Đại thừa phát triển và nhất là vào những
thế kỷ đầu sau Công nguyên, Tịnh Độ tông mới hình thành một tông phái chính
thức ở Trung Hoa với Huệ Viễn Đại sư làm sơ tổ kể từ thế kỷ thứ IV.
Pháp
môn Tịnh Độ lấy các bộ kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ, Niệm Phật
Ba La Mật và bộ luận Vãng Sinh Tịnh Độ là giáo lý cơ bản. Phương pháp tu tập
của Tịnh Độ tông lấy việc tụng niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” làm việc hành
trì thường xuyên. Tịnh Độ tông chủ trương niệm Phật, quán tưởng đức Phật A Di
Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực Lạc Tịnh độ, bằng tự lực với Tín,
Hạnh, Nguyện. Hành giả còn phải nương nhờ tha lực của đức Phật A Di Đà và Thánh
chúng để vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái niệm Phật nhất tâm bất loạn.
Tịnh Độ tông không phải là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng cõi Tịnh độ Cực lạc
và Đức Phật A Di Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương
con đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định.
Vì
vậy đòi hỏi ở hành giả và chư Phật tử tu hành theo Tịnh Độ tông phải có một
phương pháp tu hành toàn diện: vừa hành trì niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn
để đạt đến Định, vừa phải đọc tụng kinh điển Tịnh Độ và thực hành tam tịnh
nghiệp như Đức Phật đã nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Việc hành trì như thế
mới đạt được vãng sinh về thế giới Cực lạc không còn thối chuyển.
Con
Đường Tu Tắt: Pháp Môn Tịnh Độ
Lời Phi Lộ
Tôi được một đạo hữu mến mộ pháp môn Tịnh Độ
cho xem cuốn Con Đường Tu Tắt và yêu cầu sửa chữa để tái bản, ấn tống.
Tôi đã đọc và xén bỏ những đoạn rườm rà,
trùng phức nhưng cuốn sách vẫn chưa phải đã hoàn bị, nhất là về phương diện
chính tả và ngôn từ. Song, nếu sửa sẽ phải đánh máy lại tất cả. đó là việc vượt
quá sức đảm đương của ngườI ấn tống, mặc dù họ rất muốn thế.
Tuy vậy, bên cạnh các khuyết điểm vừa kể,
cuốn Con Đường Tu Tắt đã nói lên được đôi phần ách yếu của pháp môn Tịnh Độ.
Hơn thế, cái tinh thần chí thành chí thiết được lồng vào trong lời văn chất
phác, mộc mạc của soạn giả và điều đáng kể nhất là niềm tin son sắt vào cảnh
Cực Lạc được thể hiện qua hành động tích cực, vô vị lợi, bằng cách chỉ muốn
truyền rao pháp môn Tịnh Độ khắp nơi nơi của hai Phật tử ấn tống đã khiến tôi
vô cùng cảm động, nên viết mấy dòng này để tỏ tình tùy hỉ, tán dương.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Los
Angeles, mùa
Phật Đản 2531 – 1987
Giám đốc Nhà Xuất Bản Phú Lâu Na
Tiến sĩ Thích Chánh Lạc
Tiểu Tựa
Đức Phật Thích-Ca vì một sự đại nhân duyên mà
ra đời, tức là ngài muốn cho tất cả chúng-sinh thành Phật như ngài. Nhưng vì
căn-cơ trình-độ của chúng-sinh trong buổi đầu tiên học đạo còn non kém nên ngài
quyền-biến tạm lập ra ba thừa; Thinh-Văn, Duyên-Giác, và Bồ-Tát. Đến lúc các vị
Tỳ-kheo kham lãnh đạo vô-thượng bồ-đề, Ngài bèn gom ba thừa qui vào Phật-thừa.
Đối với các pháp-môn tu-trì, hàng nhị thừa
phải trải qua mười kiếp A-tăng-kỳ mới thành Phật. Còn đối với Đại-thừa, ít nhất
cũng phải ba kiếp A-tăng-kỳ. Như vậy vấn đề thành Phật không pháp môn nào tu lẹ
cho bằng pháp môn niệm Phật. Người được vãng sanh không cần phải trải qua nhiều
kiếp A-tăng-kỳ. Tại sao vậy? Bởi vì chúng sanh tại nước Cực-lạc, do nguyện lực
của Đức Phật A-Di-Đà, ai ai cũng có sáu phép thần thông. Chúng-sinh tại đây
dùng phép thần thông đi khắp mười phương Phật để cúng dường, nghe Pháp, thành
ra người nào cũng mau thành Phật. Hơn nữa tại Tây-phương Cực-lạc quốc,
chúng-sinh không cần bận tâm đến vấn đề ăn, mặc, ở. Cái gì cũng do thần thông
của Đức Phật A-Di-Đà hóa hiện. Muốn ăn cái chi, tự nhiên đồ ăn hóa hiện ra
trong chén dĩa bằng thất-bảo. Sau khi ăn, không cần dọn rửa, tự nhiên chén dĩa
biến mất.
Sở dĩ chúng sinh tại Tây phương mau thành
Phật là vì muôn sự muôn vật cần dùng không phải lo nghĩ. Tâm trí rảnh rang, lại
thêm được làm bạn với các vị Đại-Bồ-Tát để tu học, do đó mà quả Phật chóng
thành hơn các thế giới khác.
Theo các pháp môn, người tu hành phải dứt hết
phiền não, nhiễm ô, dứt hết nghiệp quả tộI chướng mới được giải thoát, chứng
quả Niết-bàn. Trái lại, pháp môn niệm Phật còn nghiệp quả mà cũng được vãng
sinh. Trong kinh Phật gọi là ỏđới nghiệp vãng sinhõ. Đới nghiệp vãng sinh nghĩa
là người tu hành còn mang nghiệp quả chưa dứt khoát trọn vẹn mà cũng được vãng
sinh. Chẳng khác nào như hòn đá tự nó lướt qua bể cả không được, nhưng nếu có
thuyền bè chở qua biển, dù bao nhiêu hòn đá cũng vượt bể khơi được như thường.
Cái hay của pháp môn niệm Phật là bất luận
già, trẻ, bé, lớn, kẻ ngu người trí gì cũng đều tu được cả. Bởi pháp môn niệm
Phật rất dễ tu, dễ chứng, dễ thành nên mười người niệm Phật được vãng sinh hết
chín, còn các pháp môn khác mười người tu chỉ chứng được một hai người mà thôi.
Pháp môn niệm Phật sở dĩ mệnh danh là pháp
môn tu tắt vì pháp môn này mau thành công hơn các pháp môn khác. Đời mạt pháp
nếu chúng ta không tu theo pháp môn niệm Phật thì không có pháp môn nào tu cho
kịp hội Long Hoa. Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không mau mau tu theo
pháp môn niệm Phật. Nếu bỏ lỡ dịp này, sợ e thân này sau khi tan rã, chừng đó
có muốn tu hành cũng không còn kịp để mà tu. Sách Phật có nói rằng: nhơn thân
nan đắc, nghĩa là thân này khó được, đã được thân này mà không lo liệu tu hành
cho sớm, có phải là uổng một kiếp sanh ra làm người chăng?
Nguyên Nhân Nào
Phật Giảng Pháp Môn Niệm Phật
Trong kinh Đại Bổn Di Đà có nói : Một ngày
kia, nơi pháp tọa, dung nhan của Đức Thế Tôn hiên ra nhan sắc một cách phi
thường. A-Nan là thị giả của Phật thấy vậy mới thưa rằng:
Bạch Đức Thế Tôn: Đệ tử đã từng theo hầu Phật
lâu năm, đệ tử chưa lần nào thấy dung nhan của Đức Thế Tôn khác lạ như ngày hôm
nay. Chẳng biết nguyên nhân nào sắc mặt của Đức Thế Tôn hiện ra như vậy, xin
Đức Thế Tôn vì chúng đệ tử mà khai thị để hiểu rõ lý do.
Này A-Nan! Hay thay, quí hóa thay lời hỏi của
ngươi. Dù cho có người nào đó đem hết năng lực ra cúng dường tất cả các bậc
Thinh-Văn, Duyên-Giác trong một cõi thiên hạ và bố thí cho hết thảy cõi Trời,
cõi người cùng các loài bò, bay, máy, cựa, trải đến kiếp nọ sang kiếp kia, cũng
không thể nào bì kịp cái công đức cái câu hỏi của ngươi xấp đến trăm ngàn vạn
ức phần. Bởi vì do câu hỏi của ngươi, tất cả chư Thiên và vua chúa trong nhân
gian cho đến những loài bò, bay, máy, cựa cũng nhờ câu hỏi của ngươi mà được độ
cho thoát vòng luân hồi sanh tử khổ ải.
Này A-Nan! Ta có một pháp môn tu tắt, khó mà
nói ra quá, bởi vì pháp môn này đòi hỏi người nghe phải có đức tin một cách quả
quyết mới có thể tu trì được. Trái lại, nếu thiếu đức tin, long còn do dự thì
khó mà thành công đối với pháp môn này.
Trên đây là lý do khởi nguyên Đức Thế Tôn
giảng nói pháp môn niệm Phật. Thực vậy, dù là pháp môn nào đi nữa cũng phải đòi
hỏi hành giả phải có đức tin thật kiên cố mới mong thành công được. Theo lời
Đức Thế Tôn nói với A-Nan, thì pháp môn này có thể độ được loài côn trùng nữa
nhưng vì chúng ta là thai phàm mắt thịt, không thấy được loài côn trùng được độ
bằng cách nào. Riêng đối với loài chim, loài sấu, ai có xem sự tích vãng sanh
đều thấy rõ. Loài sấu khi tu hành, chúng không còn lội đi chỗ này chỗ nọ để săn
thịt mà sống, chúng nó trầm sâu dưới đáy sông, nhiều khi chỗ đó thành cồn thành
bãi mà chúng vẫn kiên trì nằm mãi một chỗ. Còn như loài chim nhờ chủ nhà dạy
cho niệm Phật, chúng nhái theo, đến khi chết chủ đem chôn, một ít lâu chỗ chôn
xác chim mọc lên một đóa hoa sen. Chủ nhà thấy vậy đào lên thấy hoa sen từ
trong mỏ con chim mọc ra. Chủ nhà biết rằng con chim đã được vãng sanh tịnh độ.
Hoa sen là tượng trưng cho pháp môn niệm Phật, người vãng sanh được hóa thân
trong liên hoa, vì vậy Tịnh độ tông cũng gọi là Liên tông. Hoa sen là biểu hiện
của pháp môn niệm Phật vì đó mà chủ nhà quyết đoán rằng: ỏõ Con chim của ông ta
nuôi, được vãng sanh tịnh độ.õõ
Nhiều sự tích vãng sanh rất ly kỳ, xin xem
phía sau sẽ thấy. Nhứt là các sự tích vãng sanh, trong đó có kể sự tích đời nay
để làm bằng cớ, chẳng phải hoàn toàn kể chuyện đời xưa, nên không có gì mà khó
tin.
Sự Tích Đức Phật A-Di-Đà
Kinh Đại Bổn Di-Đà nói: Không biết bao nhiêu
kiếp trước, có ông Phật ban sơ ra đời là Thế Tự Tại Vương Phật đi dạy độ người
hướng Tây nhằm nước Đại Quốc, ông vua Đại Quốc cũng đến nghe giảng, tỉnh ngộ mộ
đạo. Vua giao ngôi cho đông cung cai trị, theo thầy tu hành. Thầy đặt pháp danh
là Pháp Tạng. Khi ấy ông Pháp Tạng bạch với thầy mình nguyện bốn mươi tám điều
độ tận chúng sanh mà đền ơn thầy. Ngài tu hành tấn tới thành bậc Bồ Tát. Trong
thời kỳ tu luyện ngài làm phước, thông hiểu nghe thấy biết hết việc thế gian.
Ngài nhập vô thai theo các loài người, loài vật độ chúng nó tu luyện cho thành
mà rước hồn về Tây phương cho trọn lời thề nguyện cao cả.
Tuy đã thành Phật mà vẫn giữ hạnh Bồ Tát,
chẳng hưởng thanh nhàn, không nài cực khổ. Trải qua mười triệu kiếp, nhập thai
độ đủ các loài người và vật các nước khác, đem hồn về Tây phương nhập vô bông
sen (liên hoa hóa thân như Na Tra) chúng sanh tại nước Cực lạc không đầu thai
nữa và cũng không chết mà cấp dưỡng vì biến hóa y phục phẩm thực mà bảo dưỡng
làm âm nhạc nghe cho vui. Hóa cung đền, đồ cần dùng thượng hang cho người ở
nước mình vừa ý, vui lòng mà tu luyện cho lên chức Phật. Phụ nữ tu hành cũng
cho liên hoa hóa thân trai. Từ đấy đặt tên là nước Cực-lạc nghĩa là rất vui.
Sau rước nhiều hồn người và vật tu thành đem về Cực lạc mà nuôi nên xưng một
hiệu nữa là nước An-dưỡng (nghĩa là nuôi cho an lòng). Đủ lời nguyện-y bốn mươi
tám điều, ngài mới chịu thành Phật ở cõi Cực lạc, cứ lo tiếp dẫn chúng sanh
niệm danh hiệu mà theo phép, thời lâm chung đi tiếp dẫn về Cực lạc cho liên hoa
hóa thân nuôi dạy tu luyện tham thiền cho thành Phật. Vì cớ rước hồn người tu,
nên ngài xưng Tiếp Dẫn Đạo Sư.
Tại sao ngài xưng hiệu A-Di-Đà? Kinh Đại Bổn
và Tiểu Bổn giải: bởi hào quang Phật chiếu khắp mười phương, sống lâu không
biết ngần nào, người trong nước cũng vậy và phước đức lớn nên xưng hiệu
A-Di-Đà. ỏAõ là sống lâu. ỏDiõ là sáng lòa. ỏĐàõ là phước đức. Ngụ ý là Phật
bất tử, hào quang sáng lòa, phước đức đứng trên bực.
Thế Giới Cực Lạc
Kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn Di Đà nói: Đức Phật
Thích Ca nói với ông Xá Lợi Phất rằng: ỏ Từ đây đi qua phương Tây cách mười
muôn ức cõi Phật, có nước Cực lạc, Đức Phật nước ấy hiệu là A-Di-Đà đương giảng
dạy cho chư Bồ Tát, Duyên Giác và Thinh Văn tu theo tịnh độ.
Tại nước Cực lạc, những nhà cửa đều dùng bảy
món báu làm ra, tốt hơn chỗ ở của Thiên Đế cõi trời gấp trăm lần. Dân nơi đây
muốn một món chi thì có món ấy hiện tới. Suốt ngày nghe âm nhạc vang rền khắp
đó đây. Duy khác một điều, ai gắng công tu nhiều thì được lâu đài cao lớn, ai
tu ít thì nhà cửa không được cao lớn nhưng không thiếu tiện nghi.
Khắp nơi nơi có ao suối và có một hai món báu
nơi ấy. Vàng thì nhiều như cát, còn bạc thì ở dưới đáy nước lấp lánh trông rất
đẹp. Ao thủy tinh thì quanh ao là cát báu, dưới đáy ao có lưu ly phản chiếu.
Nước trong ao thì quí báu vô cùng; uống vào được hưởng tám điều quí (bát công
đức) 1.- Trong sạch. 2.- Mát. 3.- Ngon ngọt. 4.- Thơm nhẹ. 5.- Thông trơn cổ.
6.- Khỏe. 7.- Hết khát khỏi đói. 8.- Giúp cho lục căn được thanh khiết. Nước
này tánh chất cao quí chẳng khác chi nước Cam
lộ vậy.
Lại có hàng trăm thứ kỳ hoa dị thảo, mỗi
nhành có muôn ngàn hoa lá đủ sắc thắm tươi xen nhau trổ tỏa mùi hương thơm làm
cho lòng người lâng lâng khỏe khoắn.
Đường đi dựa mé sông, hồ ao đều có cây Chiên
đàn thơm ngát. Bông và trái kiết tường thơm ngào ngạt. Trong hồ ao có bông sen
năm sắc khoe màu. Lại có cây có bảy thứ báu, mỗi cây đều có một hay hai món
báu. Cây nào toàn một món báu thời rễ gốc, nhành lá, bông và trái đều một màu.
Cây nào hai món báu hiệp lại thì có hai sắc bông trái. Những cây ấy mọc ngay
hàng và giao cành cùng nhau, bông trái cùng đối diện nhau. Khắp cùng cả nước
đều một cảnh ấy xem đẹp vô ngần.
Dưới đất nơi nào cũng có vàng, ngày đêm giờ
nào cũng có bông Thiên mạn, bông Đà la rơi xuống như mưa, mùi thơm không thể tả
mỗi lần mưa hoa, ngập đầy cả mặt đất, chân đi êm như nệm gấm. Tuần tự trước sau
hoa ấy héo dần rồi biến mất, mặt đất trở lại sạch sẽ. Ngày đêm có sáu lần cảnh
tượng ấy. Người trong nước sáng ra lượm hai thứ bông đó (Thiên mạn và Đà la)
đem cho dân nghèo đói ở các nước khác ăn thay cơm vì mùi thơm ngon và có hiệu
lực làm cho hết đói. Sau khi đi thí hoa rồi, về nước Cực lạc độ cơm giờ ngọ.
Tới giờ ăn cơm ai cũng dùng chén bát thường
bằng đồ thất bảo. Muốn ăn món chi đều hiện đủ cả. Sau khi dùng xong chén bát tự
nhiên biến mất khỏi rửa. Tới bữa khác muốn dùng món chi cũng có y như hôm
trước.
Cảnh sắc của nước Cực lạc thực là thoát tục.
Nơi đây mỗi khi có gió thì bảy vòng cây rào ngoài (cây báu lưới báu) đều khua
nhau nghe như muôn ngàn tiếng nhạc hòa lẫn rất êm tai. Vì thế mà khởi sanh tánh
thiện thường vui hay nghĩ đến niệm Phật, ham nghe pháp.
Ở Cực lạc có riêng ao báu lớn để tắm. Ai
xuống tắm muốn nước sâu, cạn, nóng, lạnh độ nào tùy theo ý muốn. Tắm xong trên
mình tỏa ra hương thơm, nghe tiếng nhạc trỗi du dương, xem hoa khoe màu trước
gió. Nếu ai không muốn nghe, tiếng nhạc tự nhiên không vào tai.
Tóm lại, ai muốn điều gì cũng được toại
nguyện cả.
Nước Cực lạc có nhiều thứ chim sắc khác nhau;
Hạc trắng, chim công, Anh võ, Xá lợI, Ca lăng, Tăng già, Cọng mang. Bảy thứ ấy
thứ ấy nhiều vô kể. Ngày đêm kêu hót tiếng giống như ngâm kệ, giảng kinh. Tiếng
thanh lảnh lót, ai nghe cũng nhớ mà niệm Phật. Các chim ấy do Phật A Di Đà dùng
thần thông hóa hiện để nhắc nhở người nước ấy tinh tấn, phát tâm tu niệm chớ
không phải là chim thật.
Trong nước mọi người đều hiền lành. Sống đời
đời, kiếp kiếp ở xa bao nhiêu cũng thấy, nói chuyện đều nghe. Mỗi người đều
không đau ốm bệnh hoạn. Có sắc diện xinh đẹp, không xấu như hồi còn xác phàm.
Người thì khỏe mạnh thông thái, cả nước không ai ngu dốt. Trong lòng thường
tưởng việc đạo đức, nói ra những điều chánh lý nên dễ yêu thương nhau, không ai
ganh ghét, đều biết tiền căn muôn kiếp, lại biết việc quá khứ, hiện tại và vị
lai ở thế gian. Trong lòng người nào tính chuyện chi ta đều biết trước. lại
biết kẻ bị đọa chừng nào đầu thai làm người. Người chừng nào đắc quả vị Phật.
Sở dĩ biết trước được như vậy là vì người nước Cực lạc đều có lục thông
Niệm Di Đà Không Xao Lãng,
Chắc Chắn Được Vãng Sanh
Kinh Tiểu Bổn có nói: ỏõ Nếu có trai lành gái
tín nào nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà tin tưởng mà niệm danh hiệu Ngài từ một
nhẫn đến bảy ngày đêm, lòng không xao lãng (tức là không lo tính việc khác) thì
Đức Phật A Di Đà sẽ hiển ứng chứng minh. Lúc lâm chung vẫn niệm danh hiệu ngài
không mê muội, chắc chắn Phật cùng Thánh chúng đến tiếp độ về Cực lạc chẳng sai
(về nước ấy được liên hoa hóa thân không còn sanh tử nữa).
Chúng tôi xin dẫn chứng câu chuyện sau đây:
Chàng Oánh-Khoa, một người chỉ biết đến rượu thịt, không kể đến đạo đức, Phật
pháp là gì. Vậy mà sau khi xem truyện vãng sanh chỉ có một lần liền ngộ, bỏ cả
rượu thịt, phát tâm niệm Phật. Chàng niệm rất chí thành. Vỏn vẹn được bảy ngày
đêm, tự nhiên thấy Phật hiện ra trước mặt nói rằng: ỏõ Ngươi còn sống mười năm
nữa phải tinh cần niệm Phật, ta sẽ đến tiếp độ ngươiõõ. Nghe xong chàng nói:
ỏõCõi ta bà là cõi ác trược, dễ mất chánh niệm, con xin nguyện sớm sanh tịnh độ
giúp việc Thánh chúng.õõ Phật bảo: ỏõNgươi chí thành, ba ngày nữa ta sẽ đến độ
ngươi.õõQuả thật ba ngày sau chàng được vãng sanh.
Đức Thế Tôn Dặn Dò Các Môn Đồ Sau Cùng
Kinh Tiểu Bổn Di Đà nói: ỏõĐức Phật Thích Ca
nói với ông Xá Lợi Phất rằng: ỏõNếu có ai đã phát nguyện rồi, hoặc mới phát
nguyện ngày nay, hay sẽ lập nguyện (tu Tịnh độ), khi lâm chung đều được vãng
sanh Cực lạc. Nếu có ai tu hành tấn tới, về Cực lạc sẽ thành ba phẩm Phật nhỏ:
Tôn chứng, Thinh văn và Thượng thiện Nhơn. Này Xá Lợi Phất! Các ngươi hãy tin
lời ta mà tu Tịnh độ rất dễ thành Phật. Các chư Phật khác cũng đều nói như ta
vậy. Người tu tịnh độ, bất cứ tại gia hay xuất gia gì cũng đều được về nước Cực
lạc cả.
Người ở trong cõi trần như bị vây trong
thành, mau kiếm ngõ ra mới thoát khỏi, hầu về tới quê nhà. Người tu theo Tịnh
độ cũng vậy, cầu cho được giải thoát khỏi bể khổ luân hồi.
Chính vì lòng từ bi thương xót chúng sanh nên
Phật mới chỉ dạy pháp tu Tịnh độ là con đường tắt duy nhứt mau đến chỗ giải
thoát, ngỏ hầu tiến đến quả vị Phật.
Sơ Lược Các Sự Tích Vãng Sanh
Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền
lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ
chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe
tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những
điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.
Nay tôi xin kể lại sơ lược một vài sự tích
vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường
suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết
niệm Phật cũng đặng vãng sanh nữa.
1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi
già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói:
ỏõÔng tu muộn quá e không kịp vãng sanhõõ. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một
tới mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên
ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây
mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta.
Nói xong bái rồi hết thở.
2.- Đời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với
một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa
chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan
tài ỏõNgộp lắmõõ nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc
trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước
Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe,
ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con
kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Đức Phật Di Đà về đây báo tin và
khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của
cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa
hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật
chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát
biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe
thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi
hương nấy. Được dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới
khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có
Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ
chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như
mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán,
đi dạo trên khắp thế gian.
Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây
mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho
xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không
dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa
tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu
sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.
Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu
theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ
trước. Đến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ
mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi
ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có
phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.
3.- Đời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng
hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ
đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng:
ỏõChúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu
Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.õõ Người
có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu
tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước mộc thờ lạy. Đến lâm chung,
Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.
4.- Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường
Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15
giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi
ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một
cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.
5.- Đời Đường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả
nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở
đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư
hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người
ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi
trên bông sen lớn.
6.- Đời Minh Liên, Hoa thái Công là người
nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Đến lúc mãn phần liệm vô
quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm
giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.
7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông
Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay
kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị
thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi,
cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên
Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như
mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi
hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm
Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.
8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi
thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ
không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng
nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.
Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ
Ngọ, ông nói vớI cháu tên Điện Phương rằng: ỏõÔng tu Tịnh độ đã thành công,
Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết
đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.õõ Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi
trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông
niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.
9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn.
Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện
Phương nói với ông: ỏõTuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc
vãng sanh hơn tham thiềnõõ. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời
gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương
hay rằng: ỏõHồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn
vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn
khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm
Phật đến hết thở.õõ
10.- Đời Đường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất
siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung
hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.
Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: ỏõ Ta
bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?õõ Có một trò nhỏ xin
theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha
mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: ỏõTự ý con theo thầy về Tây
phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.õõ Đồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy
niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi
được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch
theo.
11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều
là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông
bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu
làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ
cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường.
Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương
tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà
thỉnh tượng Đức Phật Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh
Di Đà. đến năm Đinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân
rằng: ỏõTôi muốn về Tây phươngõõ. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô
đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Đề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15
roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ỏõMùng 1 tháng 11 tôi
sẽ về Tây phương.õõ Đến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong
thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo
Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu.
Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm
một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng
các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay,
tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.
12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ
Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh
độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Đến năm Khương Hy
thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu
và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông
nói với con dâu rằng: ỏõMai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phươngõõ. Rạng ngày gội
tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm
Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.
13.- Đời Đường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh
Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm
cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: ỏõ thiếp thấy Phật
mach bảo tháng sau sẽ vãng sanhõõ, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc
vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.
14.- Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường,
ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng
chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không
ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mach bảo rằng: ỏõ Ta đã về Tây phương Cực
lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanhõõ. Đến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà
chết ngồi.
15.- Đời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận
Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo.
Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướng và Bảo
Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.
16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty
Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ,
tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm
Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho
con cháu hay. Đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm
Phật đến mãn phần.
Những Kẻ Dữ Cũng Được Vãng Sanh
17.- Đời Đường, Trương thiện Hòa làm hang bò,
trâu. Lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng.
Ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: ỏõKinh Thập Lục Quán có
nói: ỏõLâm chung thấy quỷ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanhõõ.
Trương thiện Hòa nói: ỏõMa quỉ tới nhiều lắm, đợi lấy lư hương chắc không
kịpõõ. Tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây
rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn: ỏõPhật đến rước ta rồiõõ, nói rồi
ông tắt thở chết ngồi.
18.- Đời Đường, Trương chung Quỳ hay làm thịt
gà và bán. Ngày kia bịnh nặng thấy người mặc áo đỏ lùa bầy gà đến mổ thịt và mổ
cặp mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền rước sãi đến tụng kinh
Di Đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương
chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.
Chung Quỳ và Thiện Hòa đang bị oan hồn theo
đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật, Đức A Di Đà cảm động cho các oan hồn trâu bò
kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha. Xem hai sự tích này, các ông
già bà cả có lỡ sát sanh trâu bò gà vịt rồi thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị
còn trẻ sợ không tin. Nhớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có quả vị.
Hai người làm hàng thuở nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan
hồn địa ngục trước mắt kinh hãi. May có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối
chết. Giây phút địa ngục hóa ra bông sen. Bởi Đức Phật Di Đà có nguyện: ỏõ Ai
lâm chung, niệm Phật mười câu ngài sẽ rước về Tây phươngõõ. Huống chi quí vị
gặp kinh này hãy mau ăn năn, lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày, lo chi Phật không
rước.
29.- Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn,
nhậu rượu. sau khi ăn năn nghĩ rằng mình đã làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung
đọa địa ngục làm sao. Ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà
nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy lạy
một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết, Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm,
bỏ cơm, ngủ gục chiêm bao thấy Phật bảo rằng: ỏõSố ngươi còn sống mười năm nữa
phải ráng mà tuõõ. Vía ông lạy Phật bạch rằng: ỏõCõi thế gian độc ác con tu sao
nổi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ Tátõõ. Phật
nói ỏõNgươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phật ba ngày nữa ta sẽ qua rước
hồnõõ. Huýnh Kha nhịn ăn luôn, niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy các sãi tụng
kinh Di Đà đưa mình. Một lát nói lớn rằng: ỏõPhật với các Bồ Tát đã đến rước
taõõ. Nói rồi quỳ lạy xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.
20.- Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm
chùa Báo Ân, không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với bạn tu là Đạo Ninh rằng: ỏõ
Nay ta loạn tâm, thuốc chi trị được?õõ Đạo Ninh nói: ỏõCứ niệm Phật mãiõõ.
Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá, Đạo Ninh bảo hãy
tưởng tượng Đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi thấy hai
vị Bồ Tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.
Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng
trăm phần người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác, Phật không rước ắt
sa địa ngục. Xin quý vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, Thủ tọa và bổn đạo, ráng
trường chay niệm Phật, tinh tấn tụng kinh Di Đà ít năm hoặc ít tháng cho tới
lâm chung, lo chi Đức Phật A Di Đà không rước về Tây phương, ngồi chín phẩm sen
vàng. (Niệm 30 vạn biến vãng sanh, chắc chắn thấy Phật).
Nhứt là những vị trường chay, những vị tu lâu
năm thường niệm Phật tụng kinh nhựt khóa thì công quả càng lớn lo chi không
được về Cực lạc, liên hoa hóa thân, ngồi trên chín phẩm tòa sen.
Sự Tích Vãng Sanh Ở Nước Việt Nam
21.- Ông Trần Phong Sắc tại chợ Vũng Gù (bây
giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích,
Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ Nho tại trường tỉnh Long An.
Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50
tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch
quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày
về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ (xem Tây Quy
Trực Chỉ).
22.- Vào khoảng năm 1958, một cô giáo ở chợ
Lớn 19 tuổi, quy y với vị Hòa Thượng Thích Khánh Anh (về sau Hòa thượng được
làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt). Cô giáo được đặt pháp danh là
Diệu Tâm, cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14
và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối. Đến năm 21 tuổi bị bệnh cô nhờ rước thầy
của cô đến tụng niệm. Đến giờ lâm chung, cô bảo đỡ ngồi dậy vì Quan Âm Bồ Tát
đến rước. Lúc ấy hào quang sáng rực trên nóc nhà. Lối xóm tưởng nhà cô giáo
cháy, chạy tới chữa lửa.
23.- Ông chủ Thìn làm nghề trồng rẫy ở An Hội
quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Năm 1927 ông bắt đầu tu theo pháp môn Tịnh độ. Đến
năm 1930, ông biết trước ngày giờ quy Tây nên làm saün một cái bia ghi ngày
tháng như vầy: ỏõNgày 14 rạng mặt rằm tháng 2 năm 1930õõ Đồng thời ông ra nghĩa
địa chôn saün một cái lu, đến ngày lâm chung, ông tụng kinh niệm Phật trước bàn
Phật rồi đến nghĩa địa xuống lu ngồi niệm Phật lớn vài tiếng rồi tắt thở.
24.- Năm 1890, có một ông thầy thuốc ở tỉnh
Gia Định. Ông thường hay làm phước, nhứt là thí thuốc. đi đâu ông cũng mang một
cái túi dùng để lượm miểng chai, và một cái chày để đóng những cây lồi lên mặt
đất làm cản trở lối đi. Năm sau cùng, ông tu theo pháp môn Tịnh độ. Ông biết
ngày giờ chết trước ba tháng. Ba ngày trước khi chết, ông ngồi xếp bằng và niệm
Phật trước bàn Phật. Mỗi ngày chỉ ăn vài chén cháo trắng. Đến 12 giờ ngày cuối
cùng, ông tắt thở.
Loài Vật Biết Nói Tiếng Người Đặng Vãng Sanh
25.- Đời Đường niên hiệu Trinh Ngươn, tại
quận Hà Đông có nàng Bùi Thị nuôi một con két lớn ( Tàu kêu Anh Võ). Bởi biết
nói tiếng như sao sáo, bắt chước niệm Phật. Thường quá giờ Ngọ thời chẳng ăn.
Rốt lại niệm Phật mười hơi mới chết. Chủ đốt thử coi, được mười mấy hột Xá Lợi
sáng ngời như hột châu chói mắt. Sãi Huệ Quang thấy vậy xây tháp nhỏ, đựng
những hột Xá Lợi vào hộp nhỏ để trong tháp gọi là tháp Anh Võ. Có dựng bia khắc
chữ thuật sự tích nó.
26.- Đời Đường, núi Huỳnh Nham, chùa Chánh
Đẳng, ông họ Quan có nuôi một con sao sáo, niệm Phật không ngừng. Ngày kia con
sáo chết đứng trong lồng. Chủ đào lổ chôn nó. Không bao lâu mọc lên một nhánh
bông sen đỏ sậm. Moi thử coi, gốc nhánh sen trong miệng nó (chắc là cái lưỡi
hóa sen).
27.- Huyện Đàm Châu, có người nuôi một con
cưỡng, nó thường niệm Phật. Khi nó chết, chủ lấy một hộp mỏng đựng mà chôn. Sau
cũng mọc lên một nhánh bông sen hường. Moi thử gốc sen, chính cái lưỡi nó
(thiệt thổ liên hoa).
Liên Trì đại sư nói: ỏõNgười ta bây giờ hay
dạy con keo (Anh ca) với sáo niệm Phật chơi. Nó cũng niệm ít tiếng như nhái chớ
không niệm thường nên chẳng thấy con nào vãng sanh nữa! Ôi! Ví như người tin mà
niệm hết lòng, còn kẻ niệm cầm chừng lấy có nên cũng thời niệm Phật có người
chẳng đặng vãng sanh so với keo, sáo, cưỡng kia cũng thế.
TÍN-NGUYỆN-HẠNH
Pháp môn Tịnh độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm
tông như cái đảnh có ba chân, thiếu một tất không đứng vững.
1. TÍN là căn bản
của người tu. Nếu còn nghi thì hoa không nở.
Thứ nhứt: Phải
tin chắc chắn rằng, vì lòng từ bi, Đức Phât Thích Ca dạy cho chúng ta những lời
trong kinh đều chân thật. Lo cho mình không tu niệm, lo chi Phật Di Đà, Thích
Ca nói gạt. Rất đỗi phàm tục những người ngay thẳng còn không nói dối đặt
chuyện gạt ai, huống chi luật Phật cấm vọng ngữ, lẽ nào ngài gạt đời làm chi.
Thứ hai: Phải
tin chắn chắn rằng: Ngoài thế giới chúng ta vẫn sống đây, chắc chắn có thế giới
Cực lạc, có nhiều điều vui do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ.
Thứ ba: Phải tin
chắc chắn rằng; ta là phàm phu nhiều nghiệp chướng, không thể chỉ nương cậy vào
sức mình để thoát sanh tử ngay trong một kiếp này, phải nhờ Phật giúp.
Thứ tư: phải tin
chắc chắn rằng: Đức Phật A Di Đà có lời thệ nguyện rộng lớn, nếu chúng sanh nào
niệm danh hiệu Ngài, cầu nguyện về nước Ngài, khi chết chắc chắn sẽ được Ngài
tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
b)�-NGUYỆN nghĩa là thệ nguyện. Tu
tịnh độ mà không dám nhứt tâm thệ nguyện cầu vãng sanh Tây phương Cực lạc thì
khó mà thành công. Nếu thệ nguyện một lòng một dạ không dời đổi chí nguyện vãng
sanh của mình mới bền vững.
Lòng thệ nguyện
phải cho bền chặt. Dù ai nói pháp nào hay, dù ai nói sẽ cho mình thành đạo tại
thế, hoặc chứng Niết Bàn hiện tiền, mình cũng không tin, không bỏ chí nguyện
vãng sanh của mình. Người có thệ nguyện là người có lập trường vững chắc, là
người kiên tâm Bồ Đề, là người dám thệ rằng dù nghèo giàu sang hèn, bệnh hoạn,
tật nguyền chi chi cũng không thay đổi chí hướng theo Phật Di Đà về nước Cực
lạc.
Sức thệ nguyện
càng lớn càng thâm thì đạo tâm mới kiên cố.
Nguyện lìa cõi
trần này sanh về Cực lạc như tù nhân mong ra khỏi ngục, như người đi xa nhớ quê
hương. Nếu chưa được vãng sanh Tịnh độ, dù cho kiếp sau làm vua ở cõi trời cũng
không thích vì còn phải luân hồi, chỉ muốn lâm chung được Phật rước về Tây
Phương mà thôi. được như thế thì nguyện của ta mới cảm đến Phật và thệ nguyện
của Phật mới có thể nhiếp thọ ta. Đức A Di Đà tuy thệ nguyện độ sanh nhưng nếu
chúng sanh không cần ngài tiếp dẫn, ngài cũng không biết làm sao. Muốn sanh Tây
phương phải tin sâu, nguyện thiết. Thiếu hai điều này, dù có niệm Phật đến đâu
cũng không thể cảm ứng với Phật; chỉ được phước báu ở cõi người hoặc cõi ngườI
và gieo nhân giải thoát về sau mà thôi. Nếu tín nguyện đãy đủ thì muôn ngườI
vãng sanh không sót một. Ngài Vĩnh Minh bảo ỏõMuôn tu muôn người vềõõ, là chỉ
cho ai có tín nguyện đầy đủ. Ngài Ngẫu Ích Đại Sư nói: ỏõĐược sanh cùng chăng
toàn do tín nguyện có hay không, phẩm sen cao thấp đều bởI do trì danh sâu hay
cạn.õõ Đây là một luận án sắt dù ngàn Phật ra đời cũng không thay đổi.
Bình sanh không
tín nguyện, lúc lâm chung khó được nhờ sức Phật tiếp dẫn. Cổ Đức bảo: ỏõTâm
nghiệp rất nhiều, ngả về một mối nặng như người mắc nợ, chủ nợ mạnh kéo điõõ.
Lúc lâm chung nghiệp lành dữ đều hiện, nếu không tín nguyện, nghiệp lực lôi
cuốn mất sự tự chủ. Nếu chỉ nương cậy sức mình, dù nghiệp còn mảy tơ cũng không
thoát khỏi sanh tử. niệm Phật đến nhứt tâm mà không tín nguyện, trong vô số
người may mới có một vài người được vãng sanh. Dùng lòng tín nguyện chơn thiết
thì không luận nghiệp nặng hay nhẹ, đều được nhờ từ lực vãng sanh. Ví dụ một
hột cát nhỏ để vào nước liền chìm, trái lại tảng đá dù nặng ngàn cân được chở
trên thuyền to cũng có thể đem đi nơi khác. Kinh Hoa Nghiêm nói: ỏõNgười ấy khi
gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn đều bại hoại, tất cả các
thân thuộc đều xa vời, tất cả các uy thế đều tan rã, chỉ còn nguyện nương là
hằng còn theo dõi hướng dẫn trước mắt, trong một khoảnh khắc liền được vãng
sanh thế giới Cực lạcõõ.
Sự tích sau đây
cho ta thấy tầm quan trọng của sự phát nguyện. Bà Thái Sương vợ một Hoa Kiều ở
Qui Nhơn, tu tịnh độ và phát nguyện rằng: ỏõNguyện vãng sanh Cực lạc nhằm ngày
vía Đức Phật A Di Đà (tức là 17 tháng 11 Âm lịch). Bà mất năm 80 tuổi. đầu tháng11,
bà nhờ thầy Bạch Sa tụng một bộ kinh Thủy Sám và một bộ kinh Pháp Hoa để kịp
đến ngày 17 bà về chầu Phật. Đến ngày 17 bà con và đạo hữu hay tin ấy đến nhà
bà để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Buổi sáng hôm ấy bà vẫn mạnh khỏe như thường. Đúng
10 giờ, bà bảo người nhà đem cơm lên cúng Phật rồi ăn. Ăn xong bà súc miệng rửa
mặt và thay quần áo. Đúng 12 giờ trưa bà chào tất cả mọi người rồi ngồi xếp
bằng, hai tay chắp trước ngực mà hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của mọi
người. Năm ấy ở Quy Nhơn, thiên hạ bàn tán xôn xao về cái chết của bà.
Xem đó đủ biết
sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần thiết cho người tu pháp
môn Tịnh độ. Người tu phép này, hàng ngày hôm sớm phát nguyện vãng sanh về Cực
lạc, không quên mỗi tháng có một giờ trong một ngày, đọc bài phát nguyện trước
đây lạy đúng hướng có Phật Di Đà cùng chư Phật mườI phương chứng minh.
c)�-HẠNH là ta phải chí thành khẩn
thiết niệm câu NAM MÔ A DI ĐA PHẬT mỗi thời khắc đừng để tạm quên. Ngoài thời
khóa tụng, bất cứ lúc nào đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm, nhất là nằm chưa ngủ,
niệm thầm hoài cho tới ngủ quên. Thức giấc cũng niệm chuyền như vậy, lâu ngày
thời thấy sự linh nghiệm của Phật Di Đà. Bất cần ngày chay hay ngày mặn, ở
trần, nằm nghiêng, nên niệm thầm, tiêu rồi bước ra cũng niệm luôn.
Muốn sắm chuỗi
lần cũng tốt, niệm không cũng tốt. Bậc hạ phải có chuỗi lần mà buộc lòng, lâu
ngày quen niệm tự nhiên như kinh không chữ, miệng niệm tai ghi nhớ rõ ràng lần
lần vọng niệm tiêu dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng nổi trào quá mạnh, nên dùng
phép thập niệm ký số như sau: Niệm Phật phải ghi nhớ rõ ràng từ một đến mười
câu không dư không thiếu, rồi trở lại một, cứ thế mãi trong vòng mười câu thôi
không được hai chục hoặc hơn. Cách này không nên dùng chuỗi, dùng tâm ghi nhớ.
Nếu niệm một hơi từ một đến mười thấy khó thì phân làm hai (từ 1 đến 5 rồi từ 6
đến 10) hoặc làm ba ( từ một đến ba, từ bốn đến sáu rồi từ bảy đến mười). Lựa
cách nào hợp với mình, không nên thay đổi. (Phép này của ông Ấn Quang Pháp Sư
dạy, và áp dụng có kết quả.)
Niệm Phật quí
tại tâm, nhưng cũng không nên bỏ sự đọc tụng ra tiếng và lạy trước bàn Phật vì
thân, miệng, ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù tâm có ghi nhớ, song nếu thân không lễ
kính, miệng chẳng trì tụng thì cũng khó được lợi ích. Người đời khi khiêng đồ
vật nặng còn phải nhờ tiếng giúp sức. Với hạng phàm phu, tâm hay bị xao lãng,
nếu không nhờ sức thân lễ, miệng tụng, khó được nhứt tâm. Kinh Đại Tập nói:
ỏõNiệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏõõ.
Phật Di Đà dạy
niệm cho khỏi vọng ra ý ác, tu luyện tâm thanh tịnh, lâu ngày phát ra ý thiện,
theo công quá cách thời công hạnh mới nhiều. Chớ lầm Phật Di Đà cần cầu mị mà
buộc tôn sùng Ngài đâu. Phật rước những người không tà niệm ý ác mà thôi.
Thờ tượng Phật
Di Đà trong lòng tin tưởng như thật chơn dung đó, đừng tưởng hình giả, tuy hình
vẽ mà lòng mình tưởng như có ngài hiện xuống nhập vô đó, thời thiên nhãn Ngài
chiếu xuống cũng thấy. Như thiệt lòng thành và cung kính thời cảm động (như
động mối dây thép này, thời đầu kia động) vì tâm mình thường niệm đã hiệp với
tâm Phật rồi. Nếu thuộc chú vãng sanh, gặp ai sát sanh, thời niệm Di Đà mười
câu với mười câu dài (NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC.. .PHẬT) rồi niệm ba biến vãng
sanh mà cứu độ nó. Gặp con chi mới chết, đương chết cũng niệm vậy. Nói chi tới
lúc đưa đạo hữu lâm chung, thời niệm hoài cho đến chung cuộc.
Trong khi niệm
Phật, bất cứ làm công đức gì nhỏ hay lớn, như bố thí một đồng hay cứu mạng một
con kiến, hoặc xỏ dùm một lổ kim. Sau khi làm xong, tưởng tượng Phật Di Đà
trước mặt đọc thầm “Tôi làm công đức này nguyện sanh về thế giới Cực lạc của
ngài”.
Tại Sao Tu Theo Tịnh Độ
Gọi Là Tu Tắt
Đức Phật Thích
Ca đặt ra 84.000 pháp môn tu mà độ chúng sanh tùy theo căn cơ. Nếu chỉ do sức
mình tu hành không nhờ nguyện lực của Phật như những người tham thiền hay luyện
đơn hoặc tụng kinh niệm Phật mà không cầu vãng sanh về Cực lạc, chỉ mong đàn áp
vọng tưởng quí vị khởi sự tu ít nhứt vài kiếp mới đắc được quả Tu Đà Hoàn. Ủắc
được quả này cũng còn phải luân hồi, nhưng có thể thôi chớ không chắc nhớ lại
kiếp tu trước của mình. Tiếp tục tu nữa, ít nhứt vài kiếp mới đắc quả A La Hán
mới hoàn toàn giải thoát khỏi phải luân hồi rơi vào cuộc đời sanh, lão, bệnh,
tử này. Nếu muốn luân hồi độ chúng sanh, thì tùy ý mình. đức Phật Thích Ca khi
xuống thế quên kiếp trước mình còn phải có người nhắc.
Nếu do tự lực
(chỉ do sức mình) kiếp này tu, kiếp sau có chắc mình nhớ lại để mà tu nữa hay
bị say đắm cảnh trần này: tửu sắc, tài khí bủa giăng mà quên rồi bị đọa khó
được thân người. được làm người, ai nói pháp cho nghe, có nghe cũng khó tin.
Sự tích sau đây
chứng minh: Hoàng Đế Khương Hy bên Tàu, sanh ra có mười chữ nơi vai ỏõ Việt Nam
Quang Minh Tự, Sa Môn Tỳ Kheo Tăngõõ. Đến khi có một vị lễ bộ thượng thơ người
Việt Nam là Nguyễn Cương đi sứ hai lần sang Tàu, vua hỏi ra mới biết rằng có
một vị Tỳ Kheo là Nguyễn Hoàng trụ trì tại chùa Quang Minh, ở tại làng Hậu Bổn
huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương nước Việt Nam. Trước khi chết bảo đệ tử ghi mười
chữ son trên vai rồi làm lễ trà tỳ. Vị Hoàng Đế này có tiếp tục tu nữa không?
Nếu tu tịnh độ
nhờ sức nguyện Phật Di Đà giúp, mình mới bắt đầu tu chỉ trong ít tháng, nhiều
năm càng tốt. Lâm chung Phật rước về Tây phương làm dân Phật tu thêm nữa. biết
mình không chết nữa tu lần lên cho có quả vị gọi là ngôi bất thối. Không sớm
thì muộn cũng đến quả Phật. Nhờ hoàn cảnh mình làm bạn với người lành, khỏi lo
ăn lo mặc. Chim rừng thuyết pháp nên dễ tu tiến. Nếu tự lực có khi hằng trăm
kiếp chưa giải thoát nổi. Ngài Ấn Quang Pháp Sư nói ỏõHai đời không bị đọa rất
hiếm cóõõ. Nếu bị đọa không biết chừng nào thoát khỏi nẻo luân hồi.
Phép Tu Tịnh Độ
Sớm mai hoặc đầu
hôm mỗi ngày, thắp đèn hương trên bàn Phật, rót 5 chén nước lạnh tụng trước bàn
Phật nhựt khóa sau đây, đứng ngồi quì tùy theo mình mạnh yếu, gấp thời bái xá.
Còn như đi lỡ đường hoặc ở nhà không thờ Phật Di Đà, day mặt về hướng Tây niệm
thầm mà xá cũng đặng. Lòng thành dù không phải ngày chay cũng lạy tụng.
NHỰT KHÓA
Đệ tử (thiện
nam, tín nữ) Họ tên
Pháp danh (không có thì thôi) tu tịnh độ cầu vãng sanh Cực lạc (xá cặm hương
bái)
Nam Mô Ta Bà Thế Giới Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (đọc 3 lần 3 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Chư Phật (1 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Tôn Pháp (1 lạy)
Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
Nam Mô Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới Tam Thập Lục Vạn ức, Nhứt Thập Nhứt Vạn, Cửu Thiên Ngũ
Bá, Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại Từ Đại Bi, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật (lạy 10
lạy, gấp niệm 3 lần 3 lạy)
Nam Mô Quan Thế
Âm Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần 3 lạy)
Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ (Xá nguyện độ hết chúng sanh)
Phiền Não Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn (Xá nguyện trừ hết phiền não)
Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học (Xá nguyện học vô lượng pháp môn)
Phật Đạo Vô Lượng Thệ Nguyện Thành (Xá thề nguyện tu tới thành Phật)
Nam Mô A Di Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ, Đa Điệc Dạ Tha, A
Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa, Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa, Tì Ca Lan Đế, A Di Rị Đa
Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị, Dà Dà Na, Chỉ Đa Ca Lệ Ta Bà Ha.
(Tối niệm 108
lần càng quí, Nếu chỉ niệm 59 chữ cũng
« vãng sanh Tây phương Cực Lạc » ; từ câu « Nam Mô A
Di Đà..tới câu Ta Bà Ha ». Thần chú
vãng sanh, lúc rỗi thì niệm nhiều, bận gấp
niệm ít, để tối niệm nhiều mà đếm.
NHẬT KHÓA THẬP NIỆM
(Ai gấp việc buổi sáng niệm như sau đây)
Đệ tử
(thiện-nam, tín-nữ) họ tên pháp danh tu Tịnh-Độ thập-niệm pháp môn cầu
vãng-sanh Cực-lạc.
Nam mô Ta bà Thế Giới Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lạy)
Nam Mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới, Tam Thập Lục Vạn ức, Nhứt Thập Nhứt Vạn Cửu
Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại-Từ Đại-Bi Tiếp Dẫn Dạo-Sư A Di-Đà Phật (1
lần 1 lạy�-10 lần 10 lạy)
Nam Mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ-Tát (1 lạy)
Niệm : Nam Mô A-Di-Đà Phật : 10 lần/ Hoặc được mấy câu cũng được (Gọi là « THập
niệm »). Sau đó đọc câu hồi hướng công
đức :
Hồi hướng Công đức hàng ngày trước khi
đi ngủ hoặc sau khi làm được việc công đức gì
Nguyện đem công
đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh-độ.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh nước Cực-lạc.
Kẻ gấp việc hay
kẻ dốt dùng phép Thập niệm nầy; hoặc mỗi sớm mai, thắp hương niệm 5 hiệu Phật
mà lạy :
Nam Mô (A Di-Đà
Phật (1 lần 1 lạy)
Nam Mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát (1 lạy)
Nam Mô Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ-Tát (1 lạy)
; rồi niệm mười lần câu A Di Đà Phật, lạy rồi đi công việc cũng đủ. Tối cũng
làm như vậy. (Cố gắng niệm đủ 30 vạn biến thời có Đức Phật Di-Đà ứng
điềm bảo-hộ).
Phật muốn độ tận
chúng sanh nên dạy tu Tịnh độ dễ quá. Tuổi còn nhỏ hoặc kẻ ăn chay trường chưa
nổi thời ăn hai ngày, lần sáu đến mười ngày, trong một tháng mà tập lần lên
trường trai. Ngày nào ăn chay niệm Phật hoặc niệm vãng sanh được đếm. Ngày ăn
mặn cũng niệm mà xả. Tuy ngày ăn mặn nhưng ăn tam tịnh nhục: khô mắm thịt chợ.
Dầu tôm cá sống cũng không cho sát sanh trong nhà. Gà vịt cũng vậy, vật chi khỏi
giết trong nhà thời khỏi sát sanh. Còn thịt chó, trâu hay bò cày cũng phải cữ
tuyệt vì hai thú đó có công lớn với đời. Nếu ăn, Phật không rước. Nếu mua đồ
chợ làm sẵn mắc hơn, vì ham rẻ mà chịu tội thời coi tiền bạc trọng hơn phần
hồn, lâm chung Phật không rước, uổng công tu. Dù của nhiều thác khó đem theo.
Luật cữ sát sanh nghiêm cấm như vậy, vì loài tứ sanh và con chi biết bò, bay,
máy, cựa cũng có chủng tử Phật. Phật cũng độ lên tu cho thành Phật, không cho
giết nó, ăn nó mà bổ mình; mạnh hiếp kẻ yếu. Vì lòng từ bi thương xót như vậy
nên Ngài buộc trường trai.
Nếu biết thấu
hai chữ tánh mạng, thời trường trai dễ như chơi. Chỉ đẹp miệng xác phàm vài
năm, lúc lâm chung Phật không rước uổng biết dường nào.
Ở thành thị dễ
cữ sát sanh. Muốn ăn thịt cá ra chợ mua khỏi phải giết con chi trong nhà. Trái
lại ở thôn quê khó cữ sát sanh vì phần đông nuôi gà vịt hay bắt cá tôm tép cho
đỡ tốn tiền nhưng dễ phóng sanh (bằng cách lấy đất sét bao trứng cá đừng cho
dính múi, bỏ xuống ao hồ; hay cứu kiến khi nạn lụt ngập). Nếu sát sanh, những
oan hồn tụ tập trong nhà chờ báo oán.
Nhứt là cơn có
bịnh phải ăn chay trường. Nếu ăn chay không nổi nên nhịn đói chớ đừng ăn mặn.
Cần niệm Di Đà cho lắm. Nếu số phần tới, thời lúc ngặt mình đừng nhớ việc chi
hết; bảo người nhà đỡ ngồi dậy, day mặt về phía mặt trời lặn, niệm vài chục câu
ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ cho lớn rồi niệm thầm. Nếu tới số thấy Phật Di Đà qua
rước chẳng sai. Nếu chưa tới số, thiệt mạnh chắc chắn, ăn trường trai không
đặng, cứ trở lại lục hoặc thập trai như xưa. Tới bệnh lại cũng ăn trường như
vậy. Nội nhà lập nguyện giữ phép mà tu. Nếu ai có bịnh, cũng biết dự phòng ăn
trường cho đến mãn phần, thời Di Đà rước hẳn.
Nhứt là dặn
người nhà, lúc ngặt mình, người bịnh niệm Phật, nội nhà niệm tiếp, cấm khộng
cho kêu khóc. Nếu kêu khóc, thời Phật Di Đà trở về không rước, rất uổng công
tu. Có việc chi cần thì trối trước, đừng để lúc đó làm rộn cho người bịnh, loạn
tâm xao lãng sự niệm Phật, khó vãng sanh. Cách này là độ tận chúng sanh, không
bỏ sót ai hết. Tu Tịnh độ như vậy, muôn người lâm chung vãng sanh đủ muôn
người, không phải khó như tham thiền hay luyện đơn (tu tiên).
Chớ người tu
tịnh độ trường trai 24 tháng, niệm Di Đà đủ 30 vạn câu, người giỏi nữa niệm
thêm 30 biến vãng sanh, thời có Phật ở trên đầu phò hộ. Quả vị cao, tòa sen
lớn, giữ theo công-quá-cách chừa dữ làm lành. Mỗi tháng nhớ ngày giờ sám hối
cầu nguyện. Mỗi ban mai tụng nhựt khóa hoặc thập niệm lúc không rảnh. Thời lâm
chung biết ngày giờ Phật sẽ rước mình. Nếu ai làm phước bố thí nhiều, thời
không bịnh hoạn, ngồi chắp tay day mặt về hướng Tây mà xuất hồn. Ai có công
khuyên độ nhiều người về Cực lạc trước, khi Phật rước hồn, nghe tiếng nhạc hoặc
có mùi thơm lạ. Nếu phước lớn, thấy hào quang chiếu sáng. Như vậy làm cho đời
thấy nhãn tiền tin chắc tu theo.
Chừng vãng sanh
về Tây phương, học đủ lục thông (6 phép thần thông) làm Phật La Hán, xin phép
Phật đi độ ông bà và cha mẹ về Cực lạc để báo ân như Phật La Hán Mục Kiền Liên
đi cứu bà mẹ là Thanh Đề vậy.
Nếu ai may còn
ông bà cha mẹ, thời lạy mà giảng tu tịnh độ. Mình ráng nuôi cơm chay cho cha mẹ
tu thành trước quí hơn. Mình nguyện niệm phụ, tu phụ cho chắc thành. Nếu ông bà
cha mẹ yếu sức vì già cả, đến lâm chung Phật rước ông bà cha mẹ nhãn tiền có
điềm linh hiển. ông bà cha mẹ ngồi tòa sen trước mà đợi mình, thời khỏi lo tuần
tự tụng kinh siêu độ mà tốn nhiều tiền. Nên để số tiền ấy ấn tống kinh hay bố
thí cho kẻ nghèo và hồi hướng công đức ấy vãng sanh Cực lạc.
Nếu rủi cha mẹ
đã mãn phần trước, mình muốn báo hiếu cho mau thời chọn ngày sám hối lập nguyện
niệm Phật thế cho cha 30 vạn câu, cho mẹ 30 vạn câu và nguyện phóng sanh bao
nhiêu mạng, thí kinh bao nhiêu, bố thí mấy chục đồng, phải làm tất số mà cầu
vong hồn cha mẹ tên họ chi, siêu thăng về Cực lạc. Niệm đến khi nào Phật ứng
mộng mới thôi. Nếu giàu có muốn tụng kinh niệm Phật cầu cho cha mẹ mình cũng
phải niệm thế, ít nhiều mới cảm động; chớ ỷ có tiền mướn tụng niệm thôi thì
vong hồn chỉ đầu thai hưởng phước chớ không siêu thăng đặng. Còn sự nguyện thí
kinh, phóng sanh, bố thí tùy theo giàu nghèo mà nguyện. Trong kinh Hồi dương
lời vua Nhứt Điện Tần Quảng Vương phán rằng: ỏNhà nghèo bố thí một đồng sánh
bằng nhà giàu bố thí ngàn đồng.õ Tùy theo sức mà làm, đừng sợ bố thí ít không
siêu, phải vay cho mắc nợ tới chết trả không nổi phạm khoảng du đạo Phật không
rước. Nếu có nhiều tiền nên bố thí nhiều.
Nếu ông bà cha
mẹ tuổi đã quá cao hay bệnh già quá yếu, năng lực của thân và tâm đều kém yếu,
mình lạy mà giảng tu tịnh độ và dung phương pháp trợ lực sau đây:
Tất cả con cháu
trong nhà nhất là chính mình nên thay phiên nhau ở bên ông bà cao tiếng niệm
Phật, mỗi phiên độ nửa giờ. Mỗi ngày cứ luân phiên nhau như thế, đừng để cho
tiếng niệm hở dứt. Ông hay bà có thể niệm theo càng tốt, bằng không chỉ khuyên
người nhiếp tâm nghe kỹ, cũng như niệm thì cũng được thường không rời Phật.
Những người trợ niệm chẳng mấy gì phí sức mà lại gieo được nhân lành giải thoát
về sau. Nếu có tiền, mua một máy ghi âm thu bài giảng về thế giới Cực lạc
trước đây, 48 điều nguyện của Phật Di Đà hoặc bài giảng nghĩa kinh Di Đà trong
cuốn Lão Nhơn Đắc Độ và tiếng niệm Phật cho rõ ràng để phát hằng ngày liên tục
cho ông bà nghe thì cũng có thể vãng sanh về Cực lạc. Nên nhớ lúc ông hay bà
ngặt, mình cứ niệm NAM MÔ A DI ĐA À PHẬT mà thôi. Phương pháp trên đây cũng có
thể áp dụng cho ngườI bệnh yếu gần chết.
NÊN NIỆM THÁNH HIỆU QUAN
THẾ ÂM BỔ TÁT
Bồ Tát Quan Thế
Âm có nhân duyên rất lớn với chúng sanh cõi Ta Bà này. Tuy thường hầu cận Đức
Phật A Di Đà nhưng vì thệ nguyện rộng sâu và lòng từ bi, Ngài hiện thân khắp
nơi tìm tiếng cứu khổ. Chúng sanh nào gặp những tai nạn lâm nguy như: đao binh,
nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú giữ rắn
độc, ác quỉ, yêu mị, kẻ tiểu nhơn ám hại, bệnh khổ, v.v…nếu chí thành khẩn
thiết niệm danh hiệu ngài thì nhứt định sẽ được sức từ bi ủng hộ của Ngài tránh
tai qua nạn khỏi.
Trong Phẩm Phổ Môn
nói: Chúng sanh nào nhiều dâm dục, giận hờn, ngu si, nếu thường niệm cung kính
Ngài sẽ được xa lìa các nghiệp ấy. Phải dùng hết tâm lực đừng nghi ngờ thì cầu
việc gì cũng được.
Người tu tịnh độ
ngoài việc hôm sớm lễ Phật A Di Đà nên niệm thêm Bạch Y Thần Chú và lễ niệm Đại
Sĩ sẽ được gia bị trong âm thầm, có thể đổi họa làm phước, gặp rủi ro hóa may
mà chính mình không biết.
Người đàn bà khi
sắp sanh thường bị đau khổ, có khi vài ngày sanh không được hoặc chết vì sản
nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và nhiều bịnh nguy hiểm,
đứa con sinh ra thì bị các chứng kinh phong v.v.. cho nên người đàn bà lúc sanh
nên chí thành khẩn niệm NAM MÔ QUAN THẾ ÂM BỔ TÁT. Khi niệm cần phải to tiếng,
không nên niệm thầm vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Đang
dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bịnh. Nếu chí
thành khẩn thiết mà niệm quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa
con sẽ khỏi bị kinh phong hoặc bị các chứng bịnh nguy hiểm khác. Dù gặp trường
hợp khó sanh có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng
phải đồng to tiếng niệm Quan Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác đều phải vì
sản phụ niệm giúp. Như thế trong giây phút sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Có
nhiều bà lão niệm Phật, xem sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con mình sanh
không dám qua săn sóc huống chi là bảo niệm Quan Âm; Bồ Tát không sự khổ nào
chẳng cứu vớt, không tai nạn nào chẳng giúp đỡ xót thương, đâu có lý đối với
hạng sản phụ mà bỏ sót. Lúc sanh sản tuy lõa lồ không sạch nhưng đó là việc dĩ
nhiên. Trong cảnh ngộ không thể tỏ bày sự cung kính, chỉ chí thành nơi tâm. Nếu
ở trường hợp làm được mà không làm thì thật là có tội. Lúc sanh sản khó, nên niệm
Ngài, chẳng những không tội lỗi mà khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn
lành. Người đàn bà khó sanh, khi có thai nên chí thành niệm danh hiệu ngài, cầu
nguyện hằng ngày cũng được như ý muốn.
Vào khoảng năm
1929, có một viên trung úy hải quân người Pháp tên Robert Taie. Ông này có vợ
người Việt Nam. Một hôm ông đi tàu biển gặp một trận bão tố không hy vọng thoát
chết, ông sực nhớ lại bà mẹ vợ và vợ ông đạo Phật thường khuyên ông niệm danh
hiệu Đức Quan Thế Âm lúc nguy biến. Trong lúc thập tử nhứt sanh, ông ngồi xếp
bằng nhắm mắt lại, niệm danh hiệu ngài. Sau đó nửa giờ, ông mở mắt ra, thấy
chiếc tàu trôi giạt, khuất sau một hòn đảo nhỏ. Thuyền trưởng và mọi người trên
tàu hết sức vui mừng, cho là phép mầu nhiệm và thấy cử chỉ ông trung úy lấy làm
ngạc nhiên. Ông bèn thuật lại cho mọi người nghe và đề nghị với viên thuyền
trưởng lập một chùa để nhớ ơn Ngài cứu độ. Chùa này dựng trước thành Ô Ma pháo
thủ gọi là chùa Quan Thế Âm hiện nay vẫn còn.
Bài Vấn Đáp Cho Khỏi Nghi
Hỏi: Có kẻ tu
lâu, gần lâm chung ngã mặn thôi tu, kế chết Phật rước chăng?
Đáp: Kẻ ấy như
người đến bến đò, chờ lâu ngã lòng đi chơi, đò qua sông không hay, làm sao Phật
rước đặng? Nhưng vị này lúc bịnh ráng nguyện lại, trường trai theo phép, niệm
Phật gia bội ít ngày Phật rước mau lắm. cũng như người đến bến đò đã lâu, bỏ đi
chơi nay kịp chuyến đò. Quí vị ngã mặn đã lâu, vì nghi ngại tu không kịp để
thác như để hụt đò. Uổng quá! Tiếc thay!
Hỏi: những vị
nào hồi tâm muộn quá, đôi ngày kế thác có đặng vãng sanh không?
Đáp: Quí vị lúc
gần lâm chung, có thiện căn mới được. Song phải phát nguyện, xuất của bố thí
tức thời, hoặc dặn con bố thí thế cho mình. Nghèo
thời dặn con trường trai trong ba năm tang. Niệm Phật tụng kinh Di Đà cho mình.
Đại nguyện như vậy, lòng phải chí thành niệm Phật nửa ngày hoặc ít giờ, Phật
cũng rước về làm dân tu thêm cho khỏi phải luân hồi.
Hỏi: Ai ăn người nấy no, con tu thế cho cha
mẹ đặng sao?
Đáp: Sao không, vì máu thịt cha mẹ chia ra
tuy thác như sống, trối tu như vậy thời thành, song e con cháu không chịu tu
thời vong hồn tu thêm tại Tây phương, lâu ngày cũng có quả vị. Quí vị lúc lâm
chung có Phật rước thời đặng thành.
Hỏi: Người phàm nhiều kiếp đến nay, làm tội
dữ vô số, gần chết niệm Phật mười câu sao mà đặng vãng sanh dễ như vậy?
Đáp: Người ấy đời nay không tu sớm mà kiếp
trước có công tu nhơn tích đức mộ đạo Phật, nay lỡ mê trần nên không tỉnh ngộ.
Nếu kiếp trước không tu thời nay chết như thế thường, đâu có may gặp người biết
phép Tịnh độ chỉ điểm lúc lâm chung, niệm Phật hết lòng cho Phật rước. Người
không có thiện căn dầu hết lòng chỉ điểm cũng không tin mà niệm Phật có đâu ăn
năn đắc ngộ mà sám hối tội lỗi xưa, bỏ hết các việc vọng tưởng ỏquyết một đường
qua Cực lạc, không mơ ngõ khácõ lòng chí thiết không xao lãng như vậy, niệm
Phật một câu bằng ngàn câu: mười câu bằng muôn câu, lẽ nào Đức Phật Di Đà không
cảm động qua rước. Kinh Thập Lục Quán nói: ỏ Lòng thanh tịnh chí quyết, niệm 10
hơi cũng đủ tiêu tội 80 ức dư kiếp trướcõ. Nếu quả lòng thành như vậy, nhờ có
công tu kiếp trước, Đức Phật Di Đà qua rước chẳng sai.
Hỏi: Nếu còn tội mà ăn năn tu niệm chí thành,
cũng đặng vãng sanh về Tây Phương tu thêm mới thành Phật. Vậy thời vội tu sớm
làm chi, để hưởng mùi đời cho phỉ tình, đợi gần chết ăn không đặng sẽ trường
trai, tu niệm Tịnh độ ít ngày mà theo Phật như mấy người ác vãng sanh đó, tội
gì mà tu sớm thiệt thòi lắm.
Đáp: Phật quí tại tâm, những ác nhơn vãng
sanh là thuở nay không biết phép Tịnh độ mà tu, nay gần lâm chung có người chỉ
điểm nên hồi tâm niệm Phật, ấy là làm ác bấy lâu mà vô tâm, nay sám hối hồi tâm
Phật mới rước, chớ tiềm tâm làm ác, tính điếm đàng xảo quyệt, Trời Phật thua
trí người sao? Trời Phật chuộng những người chân thật. Kẻ dữ được vãng sanh vì
có căn tu kiếp trước nên Phật thương tình mà xui người chỉ điểm lúc lâm chung.
Muôn người mới có một. Có mười hạng người khi lâm chung niệm Phật không đủ mười
câu; Một là lúc lâm chung không gặp người biết tu tịnh độ mà chỉ điểm. Hai là
oan báo theo mình cản trở không cho niệm Phật. Ba là bịnh á khẩu hoặc tắt
tiếng. Bốn là mê sảng không biết gì. Năm là bị chết chìm chết thiêu. Sáu là bị
hùm tha sấu bắt, rắn cắn trào đờm. Tám là trúng thực nhiễm gió bất tỉnh nhơn
sự. Chín là tử trận. Mười là té cây đụng xe gẫy chân. Mười sự chết đó dễ gì
tỉnh táo mà niệm mười câu cho minh bạch lòng không loạn tâm, hoặc niệmPhật mà
còn tưởng vợ chồng con cái, nhớ của chôn lo trối trăn hậu sự dễ bị xao lãng, có
đâu lòng biết ăn năn giữ thanh tịnh niệm cho đủ số. Hoặc lòng còn nuối kẻ nọ,
trông có thuật hoàn sanh, chồng khóc vợ kể, con cháu theo kêu cho rầy tai, loạn
tâm lãng trí, trong lòng bối rối như tơ, khó sửa lòng thanh tịnh mà niệm đủ 10
câu cho Phật rước. Chớ đợi đến già mới niệm Phật
Thiếu
chi mồ trẻ đã qua đời
Khuyên
niệm Phật than mình chưa rảnh
Đợi
bắt hồn rắp việc cũng theo!
Nhứt là thờI buổi giặc giã chiến tranh, người
ta bị bom đạn chết một cách bất ngờ. Đâu có ai chắc mình sống đến ngày mai. Ai
biết trước số mấy mươi mà thác, đừng tin thầy coi số coi tướng nói bốc bướng mà
lầm. Thừa lúc chưa già chưa bịnh, chọn ngày sám hối lập nguyện tu lần cho có
căn. Bác thợ rèn vừa đập sắt vừa niệm Phật. Vừa làm công việc hàng ngày để nuôi
vợ con vừa tu, hoàn cảnh nào cũng tu được cả. Chớ bảo có thời giờ mới tu được,
hay là còn trẻ, dại gì tu để hưởng mùi đời cho phỉ tình rồi sẽ hay. Tử thần
đến, công việc gì gấp cũng phải buông, trẻ cũng không tha.
Nếu xảo quyệt tính cho lắm, e bị sự rủi, đầu
thai kiếp khác không chắc làm người hay mang lông đội sừng. Dẫu may làm người,
e không ai nói pháp cho mà nghe, không dễ gì gặp người khuyên tu tịnh độ theo
con đường tắt; Dẫu có người khuyên chưa chắc tin. Mất thân người muôn kiếp khó
tu mới là khổ. Cũng bởi tính già hóa non.
Hỏi: Người phàm dễ bị bó buộc phạm nhiều tội
lỗi, các điều phiền não chưa dứt, một mảy phước đức chưa tu. Còn như Tây Phương
Cực Lạc trên ba cõi thiên tiên quí hơn cõi thiển đường bực Thiên Đế bá hội. Lẽ
nào mới niệm Phật mà đặng về Cực Lạc?
Đáp: nhờ Phật Di Đà rước, không phải nhờ sức
mình tham thiền mà qua nổi Cực Lạc ở luôn. Thí dụ: Con kiến lẩn thẩn cả đời đi
không bao xa, còn sợ bị cóc liếm giữa đường, nếu đeo vào áo một người đi du
lịch bằng máy bay, trong vài giờ đến xứ khác như không. Còn tu Tịnh Độ, Phật Di
Đà tiếp dẫn cũng như vậy. Nếu người tu hành cứ ỷ tham thiền hay luyện đơn, tại
cõi trần thời đầu thai hoài tu không biết mấy kiếp mà cũng không giải thoát
khỏi sanh lão bịnh tử có đâu thành Phật. Kiếp này tu kiếp sau chắc gì mình tu
nữa không, hay hưởng phước giàu sang phú quí quên tu. Về Cực Lạc khỏi phải luân
hồi, lo gì không thành Phật La Hán. Như con mọt trong cây gần gốc, nếu bò lên
đục từ mắt đục lần cho tới ngọn thời lâu biết chừng nào. Ấy là thí dụ cách tham
thiền hay luyện đơn khổ mà lâu vô cùng, e không thành nữa. Như con mọt chưa ra
khỏi ngọn tre mà chết. Còn tu tịnh độ thiệt tắt dễ nên ví như con mọt ấy, đục
dựa ống tre không bao lâu đã ra khỏi. Nên tu tịnh độ gọi là hoành xuất tam
giới, đi ngay rất mau, lo chi phàm tục không đặng vãng sanh Cực Lạc.
Hỏi: Trong chín phẩm tòa sen, bực thấp từ thứ
bảy cho đến thứ chín, để dành cho kẻ mới tu ít phước. Nhứt là tòa sen thứ chín,
nhiều kẻ ác mới tu, may phước đặng vãng sanh như tích Trương Thiện Hòa, sãi
Huýnh Kha, tôi e kẻ ấy về đó còn thói tà dữ, chi cho khỏi con sâu làm rầu nồi
canh chăng?
Đáp: Lo không đặng vãng sanh, lo chi về đó mà
còn làm dữ là vì có năm cớ: một là có Phật gìn giữ, hai là muốn chi có nấy
không lòng tham, ba là chim linh giảng kinh trên cây báu cũng đủ hồi tâm ăn năn
mà sửa lòng, bốn là ở gần Bồ Tát, bạn lành không ai rầy rà gây oán thù, năm là
sống hoài tu mãi trở nên lòng Phật; gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, xung
quanh mọi người tu thời mình cũng tu theo. Nên về Cực Lạc kiếp này cũng đặng
thành Phật không thối chí nữa.
Hỏi: Kinh nói tại thế gian, có kẻ lòng thành
phát nguyện tịnh độ, thời trong ao thất bửu cõi Cực Lạc có mọc một cây sen trổ
ra một bông. Lúc lâm chung, Phật rước hồn người tu ngồi bay về Cực Lạc cho Liên
Hoa hóa thân ngồi tòa sen ấy. Nếu lúc sống tu tấn tới, bụi sen mau ra bông, búp
sen mau lớn bằng bánh xe, có nêu tên họ người tu bên ngoài. Tới số Phật Di Đà
ứng điềm, định ngày tiếp dẫn. Còn ai thối chí ngã lòng, bê trễ việc tu thời sen
ấy héo dần. Tới thôi tu thời sen ấy rụng. Sau tu lại, sen này chồi lên bông
khác, nếu bỏ đạo đến chết thời bụi sen cũng chết khô. Chẳng hay lời ấy có đáng
tin chăng?
Đáp: Việc ấy dễ hiểu. như cái kiếng lớn, vật
nào chiếu vào thời cũng thấy bóng y như vậy. Cõi Cực Lạc của Phật Di Đà rất
linh, thế gian có người tu tịnh độ, cõi Tịnh độ mọc sen thêm; sen ấy tùy theo
người tu siêng năng hay bê trễ mà tươi héo gọIi là giống sen Bồ Đề, mà cũng có
Đức Phật Di Đà chủ trương trong đó, là lý chắc tự nhiên, lẽ nào Đức Phật Thích
Ca đặt chuyện huyễn hoặc mà nghi ngại? ỏ Người tu sen Phật lên, người thành sen
Phật trổõ ấy là nhơn quả tự nhiên.
Hỏi: Tại sao niệm Phật Di Đà cầu vãng sanh về
nước Cực Lạc. Thiếu chi các vị Phật khác mà buộc niệm Di Đà mãi?
Đáp: Một là bao nhiêu công đức của Chư Phật
mười phương, Đức Phật A Di Đà đều có đủ, nên niệm Phật A Di Đà cũng như niệm đủ
các vị Phật mười phương. Hơn nữa mỗi tháng Phật Di Đà hội chư Phật tại hướng
nào mình có lạy sám hối phát nguyện, chư Phật mười Phương chứng minh đâu có
thiếu sót vị nào đâu.
Hai là không cầu quyết một chỗ, khó nhứt tâm
dễ bị xao lãng.
Ba là các cõi Phật khác không như cõi Cực
Lạc, dẫu vị đó thành Phật thời hưởng tiêu diêu một nơi, chứ chư dân trong nước
đều khổ não.
Bốn là Phật A Di Đà Phát 48 nguyện, quyết
tiếp dẫn chúng sanh niệm Ngài, dầu phạm tội ngũ nghịch biết ăn năn hối cải ngài
cũng độ hết. Nên ai ở cõi này, có niệm Phật thời phần đông niệm Di Đà nhiều
hơn.
Đức Phật Thích Ca dạy nhiều phép tu luyện rất
khó, trừ phép tịnh độ rất dễ vì biết trước đời sau chúng sanh phước mỏng,
nghiệp chướng nặng nề, đạo Phật đã mỏn, các kinh lạc hết mà Kinh Di Đà còn soi
dấu cả trăm năm. Bởi dễ nên ít ai tin nên mỗi lần Ngài giảng kinh Di Đà, Ngài
có mời chư Phật Như Lai mười Phương đến chứng minh cho đủ tin chắc.
Hỏi: Nước Cực Lạc cách xa cõi trần mười muôn
ức thế giới xa xôi dường ấy lẽ nào người phàm đi tới?
Đáp: Xác phàm đi xa như vậy không đặng, chớ
phần hồn có khó gì! Vì lòng thành niệm Phật, Phật rước hồn đi không phải xác.
Thí dụ: chiêm bao đi tới nước khác ngàn muôn dặm, nghe ai kêu thời tỉnh thức
dậy liền. Có phải chiêm bao thấy đi gần thời tỉnh mau, đi xa thời tỉnh chậm
sao?
Hỏi: Kinh nói ỏ ai ăn chay niệm đủ 30 vạn
biến vãng sanh, thời Phật Di Đà hằng chiếu giám trên đầu, bảo hộ tai qua nạn
khỏi, để làm ăn mà tu, đợi lâm chung cho biết ngày rước hồn về Cực Lạc. Người
tu Tịnh Độ ai thấy khoảng đó mà không ham vì niệm thêm 30 vạn có khó chi. Di Đà
có một ông chiếu giám sao cho xiết, hơn nữa cả mười phương thế giới có biết bao
nhiêu người vãng sanh cùng một lúc làm sao rước cho kịp?
Đáp: Rất đỗi mặt trời mặt trăng là nhỏ còn
chiếu khắp trên đầu thiên hạ, huống chi là hào quang Phật. Còn thần thông Đức
Phật A Di Đà ba mươi sáu triệu một trăm mười chín ngàn năm trăm ông
(36.119.500). hơn nữa Phật còn biết bao nhiêu đệ tử thành Phật đều đắc lục
thông. Lo mình không tu, lo chi Phật rước không kịp.
Hỏi: Nay muốn vãng sanh Cực Lạc Tây Phương
phải làm công hạnh chi? Phát tâm làm sao? Vả lại kẻ ở thế có vợ chồng con cái,
chưa dứt đường dâm dục, kế lâm chung niệm Phật, Phật có rước không?
Đáp: Phật cũng rước hết. Muốn vãng sanh cứ
niệm Di Đà. Cư sĩ ở nhà có vợ chồng sanh đẻ không có tội chi miễn giữ giới kỳ
cho nghiêm thời khỏi tội. Nếu khuyên vợ chồng con cháu tu theo sau cũng vãng
sanh về Cực Lạc sum họp một nhà. Mình còn khuyên người khác tu lẽ nào để con
cháu luân hồi đọa lạc sao. Lòng phát tâm có ba cách: một là nhàm cõi trần, hai
là mộ Cực Lạc, ba là phát tâm Bồ Đề.
Cõi trần như chông gai, vì sự ăn mặc mà cực
khổ cả đời. Vì chữ danh lợi mà bôn chôn mạt kiếp. Có người khổ nhiều có người
khổ ít. Nghèo thời lo ăn lo mặc. Giàu thời lo giữ của giữ tiền sợ ăn cướp, song
ai ai cũng không khỏi bốn điều là sanh, lão, bệnh, tử.
1. Sanh Khổ: Còn trong bụng mẹ không đặng
thong thả, ở nơi không sạch, ăn
uống huyết nhơ. Chịu gần ba trăm ngày, gần
bằng 20 năm khổ não. Đến lúc sanh ra ép gần móp mình, nhứt sanh nhứt tử giếtmẹ
trong một khắc. Sanh rồi bị huyết dơ tống theo, lại tiểu tiện dầm dề không biết
hổ thẹn. Dầu sang giàu thánh hiền cũng vậy. Lớn lên muốn không đặng cũng khổ,
ly biệt cũng khổ, oán thù giận cũng khổ. Hưởng sự vui sướng có một, bị việc tru
phiền hơn tám chín. Làm quan ngay thẳng gặp đứa gian cũng oán ghét. Ít có ngày
nào vui trọn. Gặp sự bất bình trái ý luôn luôn. Nằm đêm xét kỹ lại, nhờ có thê
thiếp con cái làm cho khuây khỏa vài mươi năm rồi cũng già.
2. Lão Khổ: Cảnh già khổ lắm. Chân mỏi gối
chùn, mắt mờ tai điếc, răng rụng nhai đau,tinh thần hao tổn, ăn không ngon, ngủ
không được, bịnh hoạn luôn. Trở trời trong mình đã đau nhức khó chịu. Giàu có
khó mua được sức khỏe như lúc còn xuân, ngày tháng thấm thoát như cá cạn nước
lần lần.
3. Bịnh Khổ: Ai cũng trải qua thời kỳ bệnh
hoạn thời biết bịnh như thế nào. Nằm nhà thương hay vào thăm ai nằm nhà thương
thời thấy rõ khỏi nhắc lại.
4. Chết Khổ: TớI lúc chết, giựt mình, mắt trợn tròng, tay chân co quắp dễ sợ.
không biết chết rồi đi về đâu. Trừ ra ngườI tu Tịnh độ mừng mình được bỏ xác
phàm hôi thúi này.
-Mộ Cực Lạc như vầy: Cực Lạc hơn Thiên Đàng
thập bội khỏi luân hồi. Lòng ao ước trông mãn phần về Cực Lạc thảnh thơi.
-Phát tâm Bồ Đề: Bồ Đề tâm là lòng làm lợi
ích cho người. Khi phát tâm này như đồ máy được gắn điện có năng lực mạnh mẽ.
Những công đức bình thường không thể sánh kịp. Nhứt là long từ bi thương xót
chúng sanh luân hồi khổ sở, hết lòng nguyện độ và khuyên mọi người tu như mình.
Có người hỏi thiên như lão nhơn ỏVĩnh Minh
Thọ Thiện Sư là thầy đứng đầu Trung Quốc, ai cũng nhường là bậc thầy về việc
tham thiền mà sao còn tu Tịnh Độ, thường hay đọc bài kệ giảng dạy đệ tử và bổn
đạo như sau:
Bài Kệ Nôm
Tham thiền không Tịnh Độ, một chục chín người khổ
Tịnh Độ chẳng tham thiền, tu muôn thành đủ số.
Cứ theo bài kệ chẳng là chê ép phép tu tham thiền mà bào chuốt tôn trọng, khen
ngợi cách tu Tịnh Độ thái quá chăng?
Lão Nhơn đáp: Không phải Vĩnh Minh Đại Sư
khen phép tu Tịnh Độ thái quá. Thiệt phép Tịnh Độ rất rộng lớn, cách tu rất
tiện dễ, sao gọi là phép rộng lớn? Bởi hết thảy phép tu đều rút tóm rút vào đủ,
trừ bực thượng là Phật, bậc trung là Bồ Tát, bậc hạ là Thinh Văn, Duyên Giác,
bậc dưới chót là kẻ dốt hoặc phạm tội ngũ nghịch, thập ác, nếu chịu ăn năn chừa
dữ tu theo Tịnh Độ, không cần lâu mau, không đợi trường trai 24 tháng, cơn lâm
chung niệm Phật không xao lãng; Phật cũng rước về Cực Lạc. Còn tiện dễ là:
không có học chi khó, làm chi mệt, kẻ sáng dạ niệm thêm 30 vạn biến vãng sanh,
kẻ tối dạ không thuộc vãng sanh cứ niệm ỏNam Mô A Di Đà Phậtõ cho đủ 30 vạn câu
thì đủ. Sau dư tu thêm lâm chung niệm Phật 10 câu, Phật Di Đà cũng rước. Về Cực
Lạc lien hoa hóa thân, tu thêm cho tớI thành Phật. Hỏi thử có phép tu nào dễ mà
mau thành Phật như vậy chăng? Nếu ai không trí huệ như Vĩnh Minh Thiền Sư thời
cũng không lo tu thêm Tịnh Độ và khuyên người tu Tịnh Độ như mình.
Hỏi: Hòa thượng Đại đức đã thông hiểu tham
thiền kiến tánh thành Phật cũng đủ, phải tu thêm Tịnh Độ làm chi?
Đáp: Quí vị thông thái muốn tu thêm Tịnh Độ
như Vĩnh Minh Thiền Sư thời nôn và nóng theo Tịnh Độ, sức muôn con trâu kéo
cũng không thèm trở lại hốt vàng rồi sẽ tu thêm Tịnh Độ. Nếu thông phép tham
thiền mà chắc sẽ thành Phật, thời các vị Đại Bồ Tát trước khi tham thiền đã sáu
bực nhiều kiếp mà chưa thành còn phải tu thêm Tịnh Độ mới thành Bồ Tát.
Kinh Tam Muội nói ỏVăn Thù Bồ Tát thuật
chuyện cũ của mình; gọi mình nhờ niệm Phật mới thành chánh quảõ. Phật Thế Tôn
làm dấu trên đầu nói rằng : Ngươi nhờ niệm Phật mà đặng vãng sanh Cực Lạc, chớ
có nói tham thiền giỏi đâu. ỏKinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền Bồ Tát lấy mười điều
nguyện lớn mà dạy Thiện Tài Đồng Tử cũng tu Tịnh Độ, cho Phật rước vãng sanh là
quí hơn hết. Kinh Lăng Già nói ỏPhật Thế Tôn thọ ký cho Long Thọ Bồ Tát mới
vãng sanh Cực Lạc. Ngũ Thông Bồ Tát người nước Thiên Trúc tu luyện tham thiền,
xuất hồn qua Cực Lạc ra mắt Phật Di Đà bạch rằng: Tôi là chúng sinh cõi Ta bà
nguyện vãng sanh Tịnh Độ, nay xin Phật hiện hình rước có nghi tiếtõ. Ấy cũng
phải tu thêm Tịnh Độ mà Phật rước nào chỉ lấy sức tham thiền đặng lên cảnh Phật
mà ở luôn sao? Thử hỏi được bao nhiêu vị tham thiền xuất hồn đến cảnh giớì Cực
Lạc?
Phật Độ Những Người Có Căn Duyên
Giả tỉ như mình bị bịnh tả mấy ngày rồi, vợ
rước một ông thầy quen ở gần đến coi mạch doán rằng: bịnh bị tiện bế, bón đã
vài ngày không đi đại, phải xổ cho mau kẻo chết. Mình lấy làm lạ bảo vợ rước
một ông thầy quen khác chẩn mach cũng nói như vậy. Lần lần rước tới 5 thầy đều
đoán quyết bịnh bón phải xổ mới sống. Mình khai thiệt: tả hết ruột; mấy thầy
thuốc cãi rằng: không phải tả, mạch bón rõ ràng. Vợ dốt nói mình đau nói mê,
sao bằng 5 thầy coi mach nói hiệp nhau là chắc. Lật đật đem tiền đi lấy thuốc
xổ. Ở nhà thời may có lương y lạ du phương ghé xin nước. Mình hỏi ra mới biết
thầy thuốc, cậy chẩn mach thử. Lương y coi mach nói: bịnh kiết tả cả ngày rồi,
tì vị liệt gần ngay ruột, phải uống thuốc chỉ tả mà cầm cho mau kẻo khốn, liền
biên toa cho mình rồi kiếu đi. Thế khi cũng chẳng tin toa ấy nên không uống. Vì
ông thầy lạ mới đến nói một cách khác hơn mấy ông thầy mình tin cậy lâu nay đã
khắng vào tim rồi, đợi vợ đem thuốc xổ về sắc mà uống đó chăng?
Vô duyên như vậy Phật độ cũng không đặng.
Phật độ những người có duyên có phước biết nghe mà tỉnh hồi mới đắc ngộ tu mau
thành Phật. Kinh Phật dạy tới 84.000 cách tu khác nhau mà rút một phép tu Tịnh
Độ là tu tắt. Dễ mà mau thành, quí báu như mình rồng có một hột châu, non con
có ngọc thượng hạng, như thái tử quí hơn quần thần. Vì dạy nhiều nên kinh chất
cả đống như núi; ai vô duyên xấu phước thời khiến làm biếng mà không xem; kẻ ít
phước không duyên phần xem cả trăm cuốn thấy dạy tham thiền khó lắm, tụng niệm
nhiều quá cũng đã thèm, nhắm mắt không tu nổi, có ráng xem trọn bộ cho thất
công mấy chục năm cũng vô ích. Vì vậy mà bỏ qua, coi chưa gặp cuốn Tịnh Độ mà
học rủi biết chừng nào? Còn kẻ thiện căn có phước duyên phần, mới xem một hai
cuốn may gặp Tịnh Độ pháp môn tin và mừng, vì tu dễ mà mau thành Phật rõ ràng,
thiệt là tu tắt không tới hai năm mà đặng ngồi tòa sen thành Phật. Dầu trăm sợi
dây cột kéo lại bảo hốt mấy muôn cân vàng mà cất rồi tu Tịnh Độ cũng không
thèm. Vì tu tại gia làm cư sĩ dễ lắm. Ai có duyên phần thiện căn phước đức
không tu kẻo trễ ngày giờ uổng lắm, vì tử thần đến, làm việc gì cũng phải
ngưng, trẻ cũng không tha.
Con Tằm Ở Ồ Kén
Con tằm kéo tơ làm kén, vấn tả vấn hữu, bao
dưới bao trên, kéo hết tơ chỉ trong ruột ra, quyết làm nên ổ mà ở trong cho an
phận; nào hay kéo hết ruột cực hết sức lộn ra nhộng, trói mình cho chặt đặng
chúng ươm trong nước sôi mà lấy tơ. Ý nó tưởng ráng sức giữ mình, nào hay người
ta vì sự ráng sức của nó mà hại nó. Mấy muôn muôn triệu triệu tằm khờ lộn
nhộng, con nào mà khỏi trụng nước sôi, làm cho người đặng lấy tơ và ăn gỏi
nhộng thảm biết chừng nào. Vậy mà con cháu nối dòng cũng noi theo nghề đó, buộc
mình cho lợi chúng mới là thảm thay!
Người ráng lo cho nên sự nghiệp của tiền có
khác chi đâu. Rang hết sức bình sanh quyết để sự nghiệp cho vợ con giữ đời nên
mới gây oán thù nhiều chỗ. Gầy vừa xong cơ nghiệp thời đà lộn nhộng bỏ mình
rồi. Coi lại muôn muôn ngàn ngàn người có ai khỏi trả nợ đời, khỏi bị báo oán
mà con cháu cũng noi theo kiểu ấy luôn luôn, thiệt cũng lạ lắm! Trong Kinh Tứ
Thập Nhị Chương nói: người vì vợ chồng con cái buộc trói quá hơn xiềng tỏa
trong đề lao, nhưng mà tội tù cầm cọng còn ân xá, vợ chồng con cái trói buộc
chẳng buông tha.
Cái Đăng Có Đặt Lờ
Người bắt cá ví đăng (nò) ngoài vàm rạch
khôngcho cá nhảy ra. Trong lại thả cỏ rong rêu nổi đầy như cặm chà, cho cá ngỡ
có chỗ núp. Ngoài miệng đăng lại đặt cái lờ dưới nước. Trong miệng lờ có cái
hom; chun vô thời ra xuôi ngược không đặng mắc kẹt. Bầy cá đua nhau chun vô lờ
tưởng là chỗ kín đáo như ở hang, giống tôm vô cái rộng.
Sông Mê cũng có nò đặt lờ như vậy. Lúc lành
mạnh vô sự thời ở yên, vợ hiền con thảo cũng như lúc chưa chun vô cái lờ. Mảng
vui này không lo tu Tịnh Độ, càng ngày chun vô riết lờ Ái Hà. Nhằm lúc vua Minh
Vương đương giở lờ lên, dù vợ thương con mến cũng không biết làm sao mà kéo ra
cho đặng; Chẳng bao lâu vợ con cũng chun vô cái lờ Minh Vương nữa. Muốn cho
khỏi vô lờ Minh Vương thời lôi lên cho khỏi Ái Hà là Sông Mê, mau mau niệm Di
Đà tu theo phép Tịnh Độ thời sau đặng vãng sanh Cực Lạc cả nhà.
Bốn Hạng Ngựa
Ngựa có bốn hạng; hạng thứ nhứt thấy bóng roi
thì chạy không đợi đánh vô mình. Hạng nhì đánh một roi thời chạy luôn luôn
không đợi đánh nữa. Hạng ba đánh ít không chạy, đánh nhiều mới chịu chạy. Hạng
chót đánh bao nhiêu cũng không chịu chạy, đợi dùi đâm vô thịt chảy máu mới chịu
chạy.
Con người cũng có nhiều hạng: Trí tuệ hạng
nhứt mau tỉnh ngộ. Nghe có người ở xa trăm dặm mãn phần thời giựt mình lo rằng
ỏngười ở xa trăm dặm thác rồi mình cũng loài người sao cho khỏi thác. Mau tu
Tịnh Độ cho kịp 24 tháng mới chắc vãng sanh ngồi liên đài. Cũng như ngựa ký thấy
bóng roi thời chạy trước. thứ nhì nghe bà con thác thời giựt mình lo tu. Thứ ba
thấy người trong xóm thác thời giựt mình đắc ngộ. Hạng chót đợi người trong nhà
thác hoặc mình già bịnh mới giựt mình tỉnh ngộ mà tu Tịnh Độ ngày đêm. Cũng như
ngựa bị dùi đâm thấy máu mới chạy. Nếu già bịnh còn chưa tỉnh ngộ mà tu thời
hết bực rồi; khác nào con ngựa bị dùi đâm mấy vết máu chảy dầm dề cũng không
chịu chạy; chủ phải làm hàng mà bán như heo lấy tiền mua con ngựa khác mà dùng.
Con người tới già bịnh mà chưa bươn bả tu Tịnh Độ hết lòng cho Phật rước thời
còn đợi cho cặp quỉ vô thường tiếp dẫn.
Chồn Cáo Ăn Vụng
Chồn cáo cộc tối lén vô bếp ăn vụng no quá
ngủ mê. Rạng đông chủ tớ xuống nhà bếp. Chồn tỉnh giấc mở mắt thấy đông người
sợ ví bắt nên không dám chạy, giả chết đợi chúng xách mà ném sẽ dông êm. Đứa
đầy tớ nói chồn ăn vụng phát ách mà chết để tôi xách bỏ đi kẻo thúi. Thằng con
lớn chủ nhà nói để tôi chặt đuôi phơi làm chổi rồi chú sẽ xách đi. Nói rồi lấy
mác chặt đuôi, chồn cắn răng không dám động đậy. Thằng em nó nói chú khoan xách
đợi tôi cắt hai cái tai nó để chơi; chồn nằm nghĩ thầm rằng ỏráng ráng chịu đau
cho thằng yêu nhỏ cắt hai tai không tới nổi chếtõ. Thằng nhỏ lấy dao lại cắt
hai tai rồi bà chủ nhà nghe rõ bước xuống cản rằng khoan xách đã, bởi cái áo da
dê của ông rách khó kiếm da mà vá, may lắm mới gặp da chồn cáo cộc lớn thiệt
quí, để lột da phơi mướn thuộc mà vá áo dương cầu. Chồn nghe hoảng hồn nghĩ
rằng ỏnếu lột da thời trước phải chặt đầu cứa cổ chết đi còn gì, thà vùng chạy
cầu may, chẳng hơn giả chết nằm lì cho chúng giết.õ Nghĩ vậy vùng dậy nhảy nai
chạy đại mà khỏi, vì ai cũng không ngờ nó giả chết mà đề phòng, ơ hờ nó chạy
khan nhảy đi, theo rượt bắt không kịp. May thay cho chồn cáo cộc.
Con người ở cõi thế gian như chồn vô nhà bếp.
Ai cho khỏi thác một lần. Trừ ra tu Tịnh Độ mới đặng vãng sanh cũng như giựt
mình chạy liều mạng mà thoát khỏi. Hết lúc xuân xanh mạnh khỏe ví như chồn bị
chặt đuôi, mới già như chồn bị cắt thêm tai. Già quá bịnh nặng như chồn bị hăm
lột da mà chưa chịu nhảy nai cho khỏi chết như người già bịnh mà chưa chịu phát
nguyện tu Tịnh Độ mau mau; ngày đêm tụng niệm cho kịp lâm chung mà vãng sanh
mới khỏi quỉ vô thường tiếp dẫn. Cứ lôi thôi đợi chết sẽ ra mắt Minh Vương mà
thử kinh nói địa ngục thiệt có hay không cho biết; kẻo vội tin tu theo Tịnh Độ
mà uổng công. Thời khác nào chồn nằm lì, coi thiệt quả lột da vá áo hay là nói
nộ; như vậy cũng đáng khen hồ ly đa nghi quá quắt, can đảm lạ thường.
Đổ Thừa Tại Lỗi Vua U Minh
Lão kia mãn số hồn xuống âm ty, Minh Vương xử
án định tội. Hồn lão tâu rằng: Phải hay sớm thiệt có địa ngục chắc chắn như
vầy, thời tôi đã tin kinh Phật, tu Tịnh Độ vãng sanh, khỏi nhọc công đại vương
xử đoán. Phải chi đại vương mở lòng quảng đại nhắn tin cho tôi biết trước mà
tôi không lo sớm đến nay hành tội mới ưng. Té ra chẳng dạy mà giết, ức biết
ngần nào. Xin châm chế tội lỗi lần thứ nhứtõ. Minh Vương phán rằng: trẫm thông
tin nhiều lần lắm; tóc ngươi muốn trổ hoa râm là tin thứ nhất. Răng ngươi lung
lay là tin thứ nhì. Sức ngươi suy yếu là tin thứ ba. Mắt ngươi lờ quá là tin
thứ tư. Lỗ tai ngươi muốn điếc là tin thứ năm. Bịnh nhiều là tin thứ sáu. Sao
trách trẫm chưa cho biết trước? Có hồn đứa trai nghe rồi quì lạy khóc mà tâu
rằng ỏông già ấy đặng tin sáu lần mà không lo trước đã ưng. Còn tôi chưa đặng
tin nào xin đại vương xét mà thứ tộiõ. Minh Vương phán rằng: tên nọ một tuổi
với ngươi bị thời khí mà chết ấy là một tin. Tên trẻ kia một cỡ với ngươi năm
nọ bị thắt họng là hai tin. Tên trẻ khác bị chết trôi là ba tin. Tên trẻ ở gần
bị rắn cắn chết là bốn tin. Bạn hữu ngươi chết yểu là năm tin. Thấy một cỡ với
ngươi chết yểu giựt mình mà lo tu đều là hay tin trước, đợi trẫm kêu tên mà nói
với ngươi sao? Dầu ngươi sức mạnh vỡ núi trùm đời, tài cao nâng trời vạch đất,
cũng không khỏi ra mắt trẫm sau lúc lâm chung tắt hơi. Trừ ra tu Tịnh Độ có Đức
Phật Di Đà rước hồn mới khỏi quyền trẫm xử. Sau thành Phật dạo đến đây, trẫm
phải cung kính tiếp nghinh theo lễ khách.
Bươm Bướm Ngã Vô Đèn
Bươm bướm nhào vô đèn mà chết không phải vì
đèn mà chết, chết tại chỗ thấy của nó; gọi là sáng trưng vui vẻ. Nó thấy chắc
rõ ràng không lầm, người tu thương mà đuổi đi vì biết chỗ thấy của nó còn sái;
song nó chẳng biết ơn lại còn giận rằng: ỏ Tức vì thấy chỗ sáng muốn đáp vô mà
chơi cho vui, bị họ cà nanh ngăn trở.õ Nên rình hở mà nhào vô cho đặng. Bởi
chắc ý chỗ thấy của nó là phải không lầm nên hăm hở đua nhau vô chết cả lũ.
Người vì tiếng dâm sắc đẹp, rượu ngọt khói
thơm, sự lợi bài bạc mau làm giàu, cậy mình học giỏi, chỗ thấy không lầm, hưởng
khoái lạc một đời cho chí tử thì hết chuyện. Không tin còn hồn ma, sợ luân hồi
quả báo. Dầu ai giảng chánh lý thế nào cũng chê mãi không tin. Đều tại chỗ thấy
trước của mình là chắc ý hơn hết nên sấn tới cho đến chết mới thôi; gọi là
hưởng phong lưu một đời đã thích chí. Con người ăn học còn thế này, trách chi
bươm bướm đáp đèn là vật mọn. nếu thấy gương ấy biết ăn năn đắc ngộ mới mau
thành.
Ruồi Bay Vào Cửa Song
Có loài ruồi kia khờ quá, saün trớn bay lọt
vô cửa song. Cứ ngó tới bay riết vào vách tường, tìm lỗ mà ra không đặng. Ráng
sức bay qua tả, bay lại hữu cả ngày mệt quá mà không đường ra. Tức mình kêu la
lào xào cả lũ. Tại ngó tới không chịu ngó lui, coi trước mặt còn rộng chắc chỗ
thấy nó không lầm, ráng sức mà bay hoài phải ra khỏi vì ỷ tài ỷ tận, tấn tới
không chịu thối lui mới gọi là ruồi khờ. Chớ chi biết nhắm trước xem sau, biết
mình thấy lầm mà bay vào nhầm chỗ hẹp hòi tù túng. Nay ăn năn ngó lại, quay lùi
ra khỏi chỗ lầm trước, thời trời cao đất rộng mênh mông. Cõi trần như nhà vách
kín bịt bung, đóng kín cửa mở song cho sang, dễ gạt bầy ruồi lằn khờ ngỡ rộng
mà bay vào tù túng biết bao nhiêu. Nếu chui ra bay về hướng Tây, thiệt là mau
mà rộng thinh, khoái lạc hết tù túng nữa.
Bốn Phép Trị Ngựa
Trong lúc Phật Thích Ca đang thuyết pháp gặp
người Mã Sư tập ngựa rất thiện nghệ. Phật hỏi: ỏngươi dùng mấy phép mà tập ngựa
đặng hay nên danh như vậyõ. Mã Sư đáp rằng ỏcó bốn phép: thứ nhứt ơn, thứ nhì
oai, thứ ba trước oai sau ơn, thứ tư trước ơn sau oaiõ. Phật hỏi: ỏNếu dùng bốn
phép ấy mà tập con ngựa nào không đặng thời phải làm sao?õ Mã sư nói: ỏKhông
đặng thời làm hàng bán thịt lấy tiền mua con khác, vì để cũng vô dụng. Còn Phật
dạy chúng sanh mấy phép?õ Phật nói: ỏcũng dùng bốn phép như ngươi: thứ nhứt ân
là giảng dạy tu hành, về cõi Cực Lạc. Thứ nhì oai, nói người làm dữ sẽ sa tam
đồ; nước lửa, gươm, đao và bị luân hồi lục đạo. Thứ ba ân trước oai sau; giảng
việc tu Tịnh Độ vãng sanh Cực Lạc, rồi giảng lành dữ độ luân hồi khổ sở. Thứ tư
trước oai sau ân; trước giảng sự làm dữ bị hành tội cho mà nghe, sau giảng phép
tu Tịnh Độ để vãng sanh Cực Lạc cho mà độ.õ Mã sư nói: ỏBạch Phật nếu bốn phép
ấy chúng sanh nghe mà không chịu tu, Đức Phật mới độ cách nào? Phật nói: ỏTa
cũng giết đi!õ Mã sư thất sắc hỏi rằng: ỏNhư Lai hiền lành thương mọi chúng
sanh, sao lại giết người? Phật Thích Ca nói: ỏDạy đủ bốn phép mà không nghe là
người không duyên phần, có giảng hoài độ cũng không nổi, nói dai vô ích nên
không nói nữa. Không nói nữa thời để cho quỉ vô thường bắt hồn hành tội, thời
cũng như giết.
Thánh Phàm Hai Thể Khác Nhau
Phật Tiên Thần Thánh đều có ăn, song ăn thời
biết mùi ngon ngọt thơm tho, ăn rồi đồ quí tiêu hóa ra hơi thơm tan hết, không
tiêu tiểu nhơ uế như cõi phàm. Giáp cữ mới ăn nữa, như các vị ở cõi thiên đường
ăn nhiều món ngon như Thiên tu đà.
Ba cõi trên thế gian chia ra như sau đây: Một
là dục giới thiên, hai là sắc giới thiên, ba là vô sắc giới thiên.
Dục Giới Thiên: tại đây chúng sanh hữu tình,
còn dâm dục. Cõi này có cả thảy sáu cảnh giới gọi là Lục Dục Thiên.
Sắc Giới Thiên: không còn dâm dục, ăn uống.
Song còn màu sắc, thân hình nên gọi là sắc giới. Tại cõi này có hai mươi từng.
Từ Phạm thiên đến Đại Tự thiên.
Vô Sắc Giới Thiên: tại cõi này chư Thiên
không có thân thể và hình sắc nên gọi là vô sắc. chỉ còn cái tâm thức ở trong
thiền định mà thôi.
Về hạng thần (A
Tu La Đao) có hai hạng. Hạng ác thần hưởng huyết nhục, hạng kiết thần hưởng
chay lạt.
Nhưng dù hạng
nào đi nữa, hưởng hết phước đức thì phải luân hồi. (Như ông cả Trước ở Trảng
Bàng Tây Ninh lúc còn linh hiển, bắt bối vác lái chèo đứng hoài nơi cửa miếu
chờ chủ lấy lại mới đi đặng. Vùng đó thấy linh hiển nên cữ tên kêu bằng đi
ỏtrácõ. Sau hưởng mấy chục năm; mãn phước đã luân hồi nên hết linh nữa). A Tu
La ác đạo là ăn mặn nhờ ngay thẳng mà thành hung thần hưởng huyết thực, mau
luân hồi. Nếu ăn chay thành kiết thần gọi A Tu La thiên đạo thời lâu đọa làm
thần ít trăm năm, không tu thêm về Cực Lạc cũng phải bị luân hồi xuống thế mà
hưởng giàu sang. Trừ ra thiên đạo tiên chậm luân hồi hơn, hưởng phước mấy ngàn
năm. Nếu tu theo Phật về Tây Phương thời khỏi luân hồi. Dù giàu sang cho mấy
cũng phải luân hồi mang xác phàm. Muốn đặng liên hoa hóa thân mà sống đời thời
phải tu theo phép Tịnh Độ.
Chín Hạng Đều Đặng Vãng
Sanh Cực Lạc
Chín loại chúng
sinh là: 1. Thai sanh (sanh bằng thai
nghén), 2. Noãn sanh (do sanh trong trứng), 3. Thấp sanh (do sự ẩm ướt sanh
ra), 4. Hóa sanh (do loài này hóa ra loài kia như sâu hóa bướm), 5. Loại hữu
sắc (loại có màu sắc như trời sắc giới), 6. Loại vô sắc (loại không có màu sắc
như trời vô sắc giới), 7. Loại hữu tưởng (như cõi trời vô sắc, tuy không có
thân hình mà có tư tưởng), 8. Loại vô tưởng (như cõi trời Tịnh Phạn vì mãi ở
trong cảnh giới thiền định nên không có tư tưởng), 9. Loại phi hữu tưởng (như
cõi thứ tư trong vô sắc giới thiên, chẳng phải có tư tưởng, chẳng phải không tư
tưởng). Tất cả chín loại chúng sanh trên đây, ai niệm Phật cũng được vãng sanh
cả.
Tầm thường là loài người (nhơn đạo) có vui
cũng có khổ. Khổ hơn hết là ngạ quỉ (ma đói) súc sanh, địa ngục. Trên loài
người các cõi trời là vui hơn hết. Song thiên thần dù hưởng thọ đến đâu hết
phước rồi cũng sa lần cho tới luân hồi. Sao bằng Cực Lạc khỏi phải luân hồi nên
ông Châu Sĩ An (tác giả Tây Qui Trực Chỉ) thường dưng hương Miếu Văn Xương Đế
Quân với Đông Nhạc Đại Đế lạy vái rằng: ỏXin Đế quân qui y theo Phật mà về làm
Bồ Tát cõi Tây Phươngõ. Có khi dưng hương chùa Ngọc Hoàng lạy rồi cũng vái như
vậy.
Chúng ta may gặp cửa Tịnh Độ mà không bước
vào cho đặng vãng sanh Cực Lạc thiệt uổng và rủi vô cùng. Vì tu Tịnh Độ không
khó chi, ai làm cũng đặng, vừa làm vừa tu không bỏ công ăn việc làm hàng ngày,
nhọc công hai năm thời đủ. Còn sống tu thêm cho quả vị lớn, tới lâm chung Phật
cho biết ngày vãng sanh. Nếu không kịp hai năm, Phật cũng rước về Tây Phương
làm dân tu thêm cho có quả vị. Khó nhọc là tham thiền luyện đơn hết hơi mà không
thoát khỏi nẻo luân hồi. Nhiều vị thức trọn gần hai năm không ngủ để tham
thiền, kết quả chẳng đi đến đâu. Nếu quí vị ấy tu Tịnh Độ ít nhứt tòa sen bực
trung. Nhiều vị trường trai đã saün tu thêm Tịnh Độ rất lẹ thập bội. Trong ít
tháng cũng đủ, sao không chịu tu thêm cho đủ Tam giáo, chắc đặng vãng sanh, bỏ
trống liên đài, uổng quá, tiếc thay!
Niệm Phật Không Uổng Công
Việc chi ở đời làm không kết quả thờ uổng
công chớ tu Tịnh Độ dù sai chạy cũng không mất công chút nào. Xưa có lão tiều
gặp cọp sợ quá leo lên cây niệm Phật mà khỏi chết. Sau chết đầu thai kiếp khác
tỉnh ngộ đi tu mà thành. Niệm Phật một hồi còn đặng thiện căn như vậy huống chi
tu Tịnh Độ mãn đời. Dầu kiếp này mới tu không mấy ngày còn làm nhiều tộ lỗi,
trong lòng xao lãng không đặng vãng sanh, kiếp sau có lúc tỉnh ngộ tu cũng
thành có uổng công đâu. Chẳng phải như ở đời đi buôn không lời lại lỗ vốn, làm
ruộng mất mùa mang nghèo, học không đậu uổng công.
Lý Nhân Quả Thông Cả Ba Đời.
Gặp Việc Buồn Cũng Ráng Niệm.
Tâm Mình Có Thể Cải Tạo Hoàn Cảnh.
Nhiều người mới làm lành chút ít, tụng kinh
niệm Phật đã mong được hưởng phước lớn. khi gặp cảnh khổ; bịnh hoạn, nghèo nàn,
tai nạn v.v.. liền cho rằng làm lành mắc họa rồi từ đó ngã lòng chê bai Phật
pháp. Những kẻ ấy không hiểu ỏlý nhân quả thông cả ba đờiõ và tâm mình có thể
cải tạo hoàn cảnh. Xưa nay ai đạo đức hơn Đức Khổng Tử mà còn phải bị vây nơi
đất Khuông; ngài tuyệt lương nhịn đói bảy ngày mà vẫn đờn ca như thường. Kế đó
vua Sở đem binh giải vây mới khỏi. Còn vua Văn Vương bị vua Trụ cầm ngục thành
Dũ Lý bảy năm mới tha. Sau con Võ Vương đặng làm thiên tử. Huống chi người
thường sao khỏi thời vận. Xem tích ông Khương Tử Nha thời đủ hiểu. Cứ làm lành
tu niệm mãi, tự nhiên tai qua nạn khỏi, dữ hóa lành.
Nhân quả thông cả ba đời là thế nào? Như đời
này làm lành hoặc dữ, đời này hưởng phước hay mang họa đó là hiện báo. Đời này
làm lành hoặc dữ, đời sau hưởng phước hay mang họa là sanh báo. Đời này làm
lành hoặc dữ, đời thứ ba, thứ tư, thứ mười, trăm ngàn muôn đời sau mới hưởng
phước hay mắc họa gọi là hậu báo. Hậu báo thì sớm muộn không định, đã gây nhân
tất có quả đó là lẽ tự nhiên.
Tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh là thế nào?
Ví như mình có người kiếp trước gây nghiệp ác nặng, kiếp này chịu nhiều điều
khổ dữ, ngườI ấy biết tội lỗi do kiếp trước làm, ăn năn sám hối, đổi dữ làm
lành, tụng kinh niệm Phật tự tu và khuyên người tu cầu sanh về Cực Lạc. Do sự
hối cải ấy, nghiệp trước kia liền tiêu bớt, đổi thành quả khổ nhẹ trong đời này
như: bị khinh rẻ, hoặc đau bịnh, nghèo nàn cùng gặp những điều không vừa ý.
Chịu đựng những khinh báo như thế xong người ấy có thể thoát đường sanh tử.
Kinh Kim Cang có nói: ỏNếu có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê,
người đó đời trước gây tội, nghiệp đáng đọa vào ác đạo. Do đời này bị sự khinh
chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả vô thượng bồ đềõ.
Người đời khi gặp tai nạn, nếu không oán trời
tất cũng trách người, ít ai nghĩ đến sự trả nghiệp mà sanh lòng ăn năn chừa
cải. Phải biết trồng cây dưa được dưa, trồng đậu được đậu là lẽ tự nhiên. Làm dữ
mà vẫn hưởng phước là đời trước vun bồi cội phước đã dày, nếu không làm dữ thời
phước còn lớn hơn. Làm lành mà hay bị tai nạn là đời trước trồng gốc tội đã
sâu. Nếu không làm lành tụng kinh niệm Phật, họa càng lớn hơn nữa. Ví như người
phạm tội nặng chưa kịp hành hình lại lập được công nhỏ, vì chưa có thể hoàn
toàn ân xá nặng thành nhẹ. Nếu lập công mãi đến khi công to không những trừ hết
tội trước lại được giải thoát nữa.
Lập Cách Độ Tận Chúng Sanh
Cách này trừ ra người không tin, không tu
theo Tịnh Độ thời thôi, nếu tin mà tu, bất cần gái trai già trẻ biết niệm Phật
Di Đà, câm thời niệm thầm, dầu tu mấy triệu, chết cũng đặng vãng sanh Cực Lạc,
không sót một người nào luân hồi đọa lạc.
Nhà nào có duyên phần, có phước, miễn một
người đọc đặng cuốn kinh này, giảng cho cả nhà nghe chung chắc ai cũng muốn khi
chết Phật Di Đà rước hồn về Tây Phương liên hoa hóa thân cho hết khổ. Ráng ăn
trường trai, nếu không nổi tập lần lục trai, thập trai. Tệ quá thì ăn chay ngày
mồng một và ngày rằm. Tuy không cấm việc vợ chồng cưới gả, song phải giữ giới
kỳ cho nghiêm. Rảnh noi theo luật ỏcông quá cáchõ làm lành sửa mình, làm đặng
chút nào đỡ chút nấy. Nhứt là nội nhà tuy còn ăn mặn, mà cữ tà dâm sát sanh cho
nghiêm. Không nên uống rượu loạn tánh. Dùng khô mắm, thịt chợ, cá tôm chết
saün, không giết con chi tại nhà bếp mình. Cữ huyết thịt trâu bò cày và thịt
chó. Không cần đến chùa hay tìm thầy. Hãy coi ngày giờ chư Phật hội tại hướng
nào, thời đặt bàn hương án nội nhà lập nguyện. Nhớ mỗi tháng y như vậy. Thỉnh
tượng Di Đà thờ, mỗi ngày tụng nhật khóa, dốt niệm sáu chữ ỏNam Mô A Di Đà
Phậtõ cũng đủ.
Ngày sám hối đặt bàn hương án nội nhà lập
nguyện:
Tôi. . . họ. . tên. . ở làng. . .hạt. . phát
tâm nguyện kể từ ngày nay, cải ác tùng thiện, ăn năn chừa lỗi. Giữ theo qui
luật công quá cách, đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhứt là cữ sát sanh, uống
rượu, tà dâm, gian giảo, nói dối và nguyện ăn chay (trường) (thập) (lục) (sóc
vọng). Mà mỗi ngày niệm Di Đà tới đủ 30 muôn câu, đặng nhờ ơn Phật chứng minh
ứng mộng, đem họ tên vào liên hoa. Sau lâm chung Phật cho biết ngày rước hồn về
Cực Lạc, hóa thân theo Phật cho khỏi luân hồi lục đạo. Lạy bốn lạy, niệm Phật
đếm đủ 108 câu, gọi một trăm. Đem tượng Phật thờ tại bàn nào thọ trì tự ý. Từ
ấy sắp sau, đi đứng nằm ngồi đều niệm thầm. Ngày đêm đếm cộng đủ 30 muôn, sẽ
thấy điềm Di Đà cho biết. (Trừ ra nằm hoặc ở trần thì niệm thầm mà xả không
được ghi số). Đến cơn bịnh đừng sợ tốn, sắm đồ chay cho người bịnh ăn trường,
niệm Phật ngày đêm cho tới lâm chung thời thấy Phật rước. Mấy ngày cũng đủ, nhiều
tháng quí hơn. Hai năm thời thấy điềm cho biết trước ngày Phật rước hồn, có tòa
sen.
Nếu chưa tới phần, mạnh lại như xưa, giữ
trường chay không nổi ăn lại theo lệ cũ cũng không tội gì, đừng nghe họ hăm mà
sợ sái, khi khác đau cũng vậy. Đừng ơ hờ, lơ lỏng uổng công. Nhớ đến cơn ngặt
mình (gần tắt hơi) niệm ra tiếng mười câu, Di Đà hiện xuống rước liền. Người
nhà nên niệm Phật giúp hoặc niệm vãng sanh, đừng nên khóc cho người bịnh động
lòng, loạn tâm xao lãng sự tưởng niệm Di Đà. Không phải kêu khóc mà khỏi chết
trong lúc mãn phần số.
Cách này độ vớt hết, từ con nít biết nói,
biết niệm sắp lên, nó chưa biết nguyện, cơn lập nguyện để sau rốt. Người lớn
bảo nó nói theo. Còn ai biết chữ thời đọc bài lập nguyện trước đây.
Tôi cứ theo phép Tịnh Độ trong kinh Đại Tạng
lập ra mà độ giúp vớI Phật ỏđộ tận chúng sanhõ. Nếu bày huyễn hoặc, gạt đời cho
mất công vô ích, tôi thề bị hủy hết công tôi trường chay 46 năm, thác bị cầm
hồn tại địa ngục, 30 muôn năm mới được đầu thai làm ong kiến. Tôi ước nhiều vị
khuyên độ tận tâm như tôi
“Bỏ Đường Tắt Tây Phương Chín Cõi Chúng Sanh Khó Thể Được Tròn Nên Quả
Giác
Rời Cửa Mầu Tịnh Độ Mười Phương Chư
Phật Không Vẹn Toàn Độ Khắp Hàng Mê”
(Bài Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và
Lão-Nhơn Đắc-Ngộ Đôi Liễn Ấn-Quang Pháp-Sư -Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện-Tâm)
Không
Phát Tâm Bồ Đề Không Vãng Sanh
Niệm Phật mà không phát lòng Bồ Đề, thì không
tương ứng với bổn nguyện của Đức A Di Đà Phật, tất khó được vãng sanh, thành
tựu sở nguyện. Lòng Bồ Đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả Phật,
dưới nguyện độ chúng sanh “thượng cầu hạ hoá”, tế khổ quần mê.
Tuy phát lòng Bồ Đề mà không chuyên trì niệm
Phật, không thành nhất phiến, thì không được vãng sanh. Nên các liên hữu cần
phải lấy sự phát lòng Bồ Đề làm chánh nhân, niệm danh hiệu Phật làm trợ duyên,
rồi sau mới cầu sanh Tịnh Độ. Người tu tịnh nghiệp (tu pháp niệm Phật) cần phải
hiểu biết điều nầy thật sâu rộng, cần thiết phải vừa tu niệm vừa nghiên cứu
nghiêm tầm giáo lý pháp môn tu càng thêm hiệu quả.
Trong đời mạt pháp, người phát tâm tu niệm
Phật, vẫn có nghiệp trần dấy động, ma sự nhiễu dương, nguyên do bởi ba nguyên
nhân : không rõ giáo lý, ít học kinh điển, nhất là pháp môn tu; không nhất tâm
tìm cầu, phát tâm tu cho lấy lệ, để được ca tụng tán thán là Đại Sư Tịnh Độ,
chỉ nghiên cứu xem chừng năm ba câu pháp, vội cho là người tu của pháp môn niệm
Phật, do ngã mạn, nên không gặp thầy lành bạn sáng; thiếu tự tin, xem lại những
hành động không tốt của mình, hay thích nói lỗi người, khoe khoang điều tốt của
mình, hay chê Tông phái nầy khen Tông phái nọ, rốt cuộc mình không tu được ở
đâu, ai nói hay cũng được, nói quấy cũng xong; họ có tu hành gì đâu mà nói hay
nói quấy, biết gì mà nhận định, cuộc đời tu của họ không lúc nào tự soi xét lại
chính mình, xem mình đã làm được gì, tu được gì, làm được gì cho Thầy Tổ, cho
pháp môn, cho Phật pháp?
Với ba điều trên, sự tự xét chỗ sai lầm của
chính mình là điều mà người liên hữu Tịnh Độ rất cần thiết trong lúc thực tập,
hành pháp. Đại để muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không phải dùng
chút phước lành, chút công đức lơ là là được; muốn thoát sự khổ sống chếtn luân
hồi trong muôn vạn kiếp, không phải dùng tâm dần dà, hẹn hò, hứ khả, rồi lo
rong chơi du hý, không lo tự cảnh tỉnh, trở về với cuộc sống hiện thực để có cơ
hội tìm cầu giải thoát, vãng sanh Tây phương theo sở nguyện ban đầu! Họ đâu rõ
chiếc bóng vô thường cô liu lặng lẽ, mới sớm mai thấy đó, rồi hoàng hôn phủ mất
đó, đâu nên không siêng năng lo dự phòng giữ tịnh tâm gìn chánh niệm trước ư?
Còn e sức chí nguyện không thắng nổi sức tình
ái trong tam giới buộc ràng. Lúc bấy giờ tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục
trần, như những kẻ niệm Phật, tu nhơn hạnh kém, lơ là biếng trể, nữa tin nữa
nghi ngờ pháp Phật, thì ta cũng đành không biết làm sao vậy.
Đại Sư có bài kệ khuyến tấn :
Nam Mô A Di Đà,
Người nào không biết niệm?
Tuy niệm, chẳng tương ưng
Mẹ con khó hội kiến
Khi đi đứng ngồi nằm
Đem tâm nầy thúc liễm
Mỗi niệm nối tiếp nhau
Niệm lâu thành nhứt phiến
Như thế, niệm Di Đà
Di Đà tự nhiên hiện
Quyết định sanh Tây phương
Trọn đời không thối chuyển
Niệm Phật cần phải có niềm tin sâu nguyện
thiết, như Đại Sư Tĩnh Am từng khuyến tấn : đi đứng nằm ngồi luôn gìn chánh
niệm, hoặc kiết thất thực tập thúc liễm thân tâm, hoặc kinh hành vào đại định,
lực Phật gia trì thành nhứt phiến, như kim cang bền chắc, một đời không thối
chuyển, niềm tin yêu pháp môn, lục độ vạn hạnh ảnh hiện, lợi ích khắp mười
phương, chúng sanh nương nhờ oai đức, làm bạn thánh hiền, dự hội hải chúng liên
trì nơi thế giới Tây phương mầu nhiệm.(Tĩnh Am Đại Sư khai thị)
Làm
Thế Nào Để Phát Bồ Đề Tâm?
Sách An Lạc viết: Nếu muốn phát tâm làm Phật
thì tâm ấy rộng lớn trùm khắp pháp giới. Tâm ấy rốt ráo, ngang với hư không.
Tâm ấy lâu xa đến cùng tận đời vị lai. Tâm ấy trọn khắp, lìa nhị thừa chướng.
Nếu phát được tâm ấy thì khuynh đảo được sanh tử vô thỉ và trầm luân trong các
cõi. Ðem tất cả công đức hồi hướng Bồ Ðề thì đều có thể đạt tới Phật quả, chẳng
bị diệt mất”.
Ai ai cũng có thể phát tâm Bồ Đề, vì tính Bồ
Đề vốn có sẵn trong tâm của tất cả chúng sanh. Không nên cho rằng căn cơ của
mình cạn cợt, không có tư cách thành Phật, hay Phật đạo cao xa vời vợi chẳng
thể thành tựu.
Mê thì Bồ Đề là vọng tưởng,
Ngộ thì vọng tưởng là Bồ Đề.
Hãy thâm tín pháp môn Tịnh Độ, chân thành
nương tựa vào 48 đại nguyện của Phật A Di Đà, tin rằng bổn lai diện mục của
mình vốn là Phật. Tin rằng dầu chúng ta là một chúng sanh hạ căn hạ liệt, đầy
dẫy tội nghiệp, nhưng Phật A Di Đà đã có bi nguyện rộng sâu để tiếp độ ta. Với
niềm tin chân thành sâu sắc này gọi là “Chí thành tâm và Thâm tâm”. Dùng thâm
tâm này để làm điều gì? Mong cầu thành Phật. Vì mục đích muốn đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới của chúng ta là để làm Phật cứu độ chúng sanh, đó là ý nghĩa
của “hồi hướng phát nguyện tâm”.
Ngẫu Ích Đại Sư nói: “Tin sâu – Nguyện thiết
– Cầu sanh tịnh độ” là nói đến ba thứ tâm này trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, và
nó cũng đích thật là Bồ-đề tâm. Do đó phát Bồ-đề tâm cũng là phát 3 tâm này, từ
nơi tâm địa của chính mình. Khi đã phát thệ rồi thì phải kiên cố duy trì. Tâm
ví như gốc rễ, hành vi ví như cành lá – nếu muốn chặt bỏ một cây độc thì phải
chặt tận gốc rễ, chứ tu trên hình thức chẳng khác chi tỉa lá, chặt cành, tu cho
đến bao giờ mới thành tựu?
Vì vậy nếu chỉ tu nơi hành vi không cũng
chẳng thể được rốt ráo; vì chưa buông xả được tiền tài, danh lợi, tình chấp gia
đình, tham sân si mạn nghi và ngay cả thân mạng của mình; những thứ này đích
thực là gốc rễ của phiền não, cần được chặt đứt bằng Bồ Đề tâm.
Khi tâm Bồ-đề vừa phát khởi, thì phiền não
liền ngừng dứt. Đây là uy lực trọng yếu của Bồ-đề tâm, nó là chánh nhân để vãng
sanh Cực lạc, và cũng là chánh nhân để thành Phật.
Tóm lại người phát được Bồ-đề tâm là người có
khả năng buông bỏ hết tất cả thân tâm thế giới, một lòng “Tin sâu – Nguyện
thiết – Cầu sanh tịnh độ”, không có xen tạp, kiên cố không thoái chuyển. Nếu
cần phải bỏ cái thân mạng này, họ cũng sẵn sàng không chút hối tiếc. Vì sao? Vì
họ có trí tuệ chân thật, biết rõ tất cả pháp tánh trong vũ trụ đều là “thành
trụ hoại diệt”, họ đã tiếp nhận được “Bồ-tát giải thoát pháp môn ”, gọi là
huyễn trụ.
Vì được Bồ-tát giải thoát pháp môn này nên
thấy:
1. Tất cả thế giới đều là huyễn trụ, do nhơn
duyên mà sanh khởi.
2. Tất cả chúng sanh đều là huyễn trụ do
nghiệp phiền não mà sanh khởi.
3. Tất cả thế gian đều là huyễn trụ, do vô
minh, hữu, ái xoay vần làm duyên sanh khởi.
4. Tất cả pháp đều là huyễn trụ, do những
huyễn duyên ngã kiến, vân vân, sanh khởi.
5. Tất cả tam thế (tam thiên đại thiên thế
giới, quá hiện vị lai) đều là huyễn trụ, do những điên đảo trí ngã kiến vân vân
sanh khởi.
6. Tất cả chúng sanh sanh diệt, sanh lão bịnh
tử ưu bi khổ não đều là huyễn trụ, do hư vọng phân biệt sanh khởi.
7. Tất cả quốc độ đều huyễn trụ, do tưởng
đảo, tâm đảo, kiến đảo và vô minh hiện khởi.
8. Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật đều là
huyễn trụ, do trí đoạn phân biệt mà thành.
9. Tất cả Bồ-tát đều là huyễn trụ, do những
hạnh nguyện hay tự điều phục và giáo hóa chúng sanh mà thành.
10. Tất cả Phật Bồ-tát chúng hội biến hóa
điều phục, những công hạnh đều là huyễn trụ, do nguyện trí huyễn mà thành.
Nhận biết rõ về chân tướng sự thật của vũ trụ
nhân sanh mà Kinh Kim Cang đã nói, “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng,” thì
tâm không còn dính mắc, sẽ buông xuống được vạn duyên, và thành tựu chánh định
“Quán pháp như hóa, tam muội thường tịch”.
Buông xả được một phần, thì nhìn thấu được một
phần, cứ dần thế mà tăng trưởng Bồ-đề tâm của mình. Khi buông xả được rốt ráo
rồi, thì sẽ có được mọi sự tự tại trong mọi hoàn cảnh của không gian và thời
gian, sẽ là một Quán Tự Tại thực hành thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật trong tất cả
các thời.
Trên lý là vậy, nhưng trên sự muốn phát được
Bồ-đề tâm chẳng phải là chuyện dễ làm. Đòi hỏi cần có nhân duyên, mà nhân duyên
của chúng ta thì không đồng như nhau, do đó mỗi người đều nên tùy thuận vào
nhân duyên của riêng mình mà phát Bồ-đề tâm. Mặc dù duyên có khác nhau, nhưng
Bồ-đề tâm đã phát thì kết quả đều giống như nhau.
Mười nhân duyên để phát Bồ-đề tâm
Thập nhất Tổ Thật Hiền, tức Tỉnh Am Đại Sư, người đời nhà Thanh, khai thị 10
nhân duyên có thể giúp cho chúng ta phát được Bồ-đề tâm:
1. Niệm (nghĩ nhớ) ân đức Phật,
2. Niệm ân đức cha mẹ,
3. Niệm ân đức sư trưởng,
4. Niệm ân đức thí chủ,
5. Niệm ân đức chúng sanh,
6. Niệm sanh tử khổ đau,
7. Tôn trọng tánh linh của mình,
8. Sám hối nghiệp chướng,
9. Cầu sanh tịnh độ,
10. Khiến cho chánh pháp của Phật cửu trụ thế
gian.
Mười nhân duyên trên đích thực là Tịnh Nghiệp
Tam Phước, mà Thế Tôn nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng Thọ.
Vậy tu Tịnh Nghiệp Tam Phước (hay 10 điều trên) là cách kết tạo nhân duyên để
phát khởi và duy trì Bồ-đề tâm, là chánh nhân của việc vãng sanh Cực Lạc, và
cũng là chánh nhân để thành Phật.
1- Niệm ân đức Phật:
Phật là bậc đáng được tôn kính, Ngài đã tự mình tu tập để giác ngộ viên mãn và
có thể hướng dẫn người khác tu tập để cũng được giác ngộ như mình. Từ vô thỉ
kiếp cho đến nay, nhẫn khó trong từng mỗi sát na mà không hề nhàm chán, hay
ngừng nghỉ phát lòng bi mẫn bao la đối với tất cả chúng sanh. Phật luôn dùng
tâm từ-bi-hỷ-xả, tâm đại bi-thanh tịnh-bình đẳng mà khuyên bảo chúng sanh lánh
xa những điều tội lỗi, khuyến khích làm những điều lành. Phật là bậc thông suốt
tất cả các pháp của thế gian chúng sanh, thế gian các cõi, và thế gian pháp
hành, vì Trí Tuệ của đức Phật đã viên mãn cùng tột. Phật đem giáo lý cao thượng
đã chứng ngộ được mong tế độ chúng sanh, đem lại sự lợi ích và sự giải thoát
đến cho chư thiên, phạm thiên và loài người vượt qua sanh, lão, bịnh, tử, sầu
não, thương tiếc, đau đớn, tham ái, sân hận, ngã mạn, tri kiến, tà kiến, hay
các nghiệp bất thiện khác… để được giải thoát, dứt nẻo Tam giới gian nan, không
còn luân hồi trong sáu nẻo.
Nên ân đức của Phật rất sâu nặng, nếu đem so
sánh với ân đức của cha mẹ trong một đời thì vượt xa rất nhiều.
Vậy làm sao để có thể báo ân Phật? Chúng ta
phải phát tâm Bồ-đề hộ trì hoằng truyền chánh pháp, làm cho Phật pháp tồn tại
dài lâu ở thế gian, khiến cho hết thảy chúng sanh gặp được Phật pháp, thọ trì
đọc tụng, y giáo phụng hành, vì người diễn nói kinh Phật. Phát lòng
Tín-Nguyện-Hạnh, niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để thành Phật mà tiếp nối sự nghiệp
của Như Lai.
2- Niệm ân đức cha mẹ:
Công ơn của cha mẹ đối với chúng ta cao vời vợi như núi Thái Sơn, lòng bi mẫn
lại dạt dào như nước chảy nơi đầu nguồn. Kinh Vu Lan nói, dầu cho có người vai
phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, đi vòng núi Tu Di trăm ngàn lần cũng không đủ
để trả hiếu cho cha mẹ. Nên mới thấy ân trọng này không dễ dàng báo đáp.
Vậy làm sao để có thể đền ơn báo hiếu cho cha
mẹ? Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện và kinh Vu Lan Báo Hiếu dạy, phụng dưỡng cha mẹ
chỉ là tiểu hiếu, khuyên lơn và giúp đỡ cha mẹ mình đoạn ác, tu thiện để không
bị đọa lạc vào ba đường ác đạo mới là đại hiếu. Nếu giúp cho cha mẹ niệm Phật
vãng sanh Cực Lạc, một đời này thành Phật là vô thượng đại hiếu, chẳng có hiếu
nào có thể sánh bằng.
Hòa Thượng Tịnh Không nói, vừa khi chúng ta phát Bồ-đề tâm nhất hướng chuyên
niệm A Di Đà, đem công đức này hồi hướng để cầu siêu cho ông bà cha mẹ và quyến
thuộc, thì họ liền sẽ được độ thoát.
Như Ngài Quang Mục, tiền thân của Bồ-tát Địa
Tạng Vương, khi vừa phát Bồ-đề tâm niệm Phật, thì mẹ của Ngài cùng vô số chúng
hữu tình nơi địa ngục ấy liền đồng được siêu thoát. Vì sao? Vì tâm của Ngài
chẳng phải là vọng tâm giống như chúng ta, tâm của Ngài là chân tâm thanh tịnh,
nên khi vừa phát khởi Bồ Đề tâm niệm Phật, thì sức mạnh từ bi ấy lập tức lan
tỏa chiếu soi mà không hề bị ngăn ngại, và chính nhờ sức mạnh từ bi này đã cảm
hóa được tâm chúng hữu tình nơi địa ngục, giúp họ hốt nhiên tỉnh ngộ mà tự siêu
thoát.
3- Niệm ân đức sư trưởng:
Cha mẹ sinh dưỡng sắc thân ta, sư trưởng
trưởng dưỡng trí huệ ta. Nên nếu không có sư trưởng thế gian thì ta không hiểu
biết về lễ nghĩa, vậy khác chi loài cầm thú? Nếu không có sư trưởng xuất thế
gian thì ta không hiểu biết về Phật pháp, trí huệ không thể khai mở vì giáo
pháp rộng rãi mênh mông, vậy khác chi phàm tục?
Cho nên công ơn của sư trưởng (thầy) không
thua gì ân đức của cha mẹ. Chỗ khác biệt nơi ân đức của Phật là phi thời xứ,
còn ân đức của sư trưởng hoặc của cha mẹ chỉ trong có một đời này. Nên với
những lời khuyên bảo dạy dỗ của sư trưởng (thế gian hay xuất thế gian) đều giúp
ta trưởng dưỡng trí huệ, nên những ân nghĩa này cần phải báo đáp.
4- Niệm ân đức thí chủ:
Người Phật tử thường muốn nương tựa vào phước
điền của người xuất gia, họ đã không quản ngại nhọc nhằn dùng công sức mình làm
việc, dành dụm một số tiền để cúng dường thực phẩm, cung cấp thuốc men, áo vải
v.v… hòng hộ trì người xuất gia có thể sống an ổn về mặt vật chất mà lo tu
hành.
Nên nếu người xuất gia không siêng năng tu
hành, không phát lòng từ bi hoằng pháp lợi sanh; tức không chịu rốt ráo thực
hành 2 việc: trang nghiêm Bồ Đề tự thân (Trang Nghiêm, Thanh Tịnh, Bình Đẳng),
và trang nghiêm Phúc Trí tự thân, để làm lợi ích cho hết thảy hữu tình thì tất
sẽ có lỗi với tứ chúng. Vì người Phật tử cúng dường vào nơi không có chánh pháp
này, phước đức của họ cũng không thể hiển lộ sớm được.
Và người Phật tử nhận pháp cúng dường từ
người xuất gia hay cư sĩ tại gia, cũng phải nhớ nghĩ ân đức của những thí chủ
này.
5- Niệm ân đức chúng sanh:
Nếu tính kể luân hồi thay đổi từ vô lượng
kiếp đến nay, thì ta và chúng sanh (kể cả những loài bò bay máy cựa…) đây kia –
tuy nay đã thay hình đổi dạng, nhưng trong quá khứ có thể họ đã từng là cha mẹ,
là thân bằng quyến thuộc với ta; tức đây kia từng có ân nghĩa với ta. Nay trong
vô số lượng quyến thuộc này có thể đang bị thống khổ quằn quại trong tam ác
đạo, ngày đêm đang giơ tay mong đợi và kỳ vọng cầu ta cứu độ giúp cho. Vậy ta
có thể làm ngơ, chẳng tận lòng phát Bồ Đề tâm, chẳng cầu thành Phật đạo để tận
sức mà đáp đền lại những ân nghĩa xưa được chăng?
Và tất cả những việc lớn nhẫn đến vật nhỏ
như: hạt gạo, tấm áo… mà chúng ta đang thọ dụng ở đời này, không có gì mà không
nương nhờ nơi sự làm việc khổ nhọc của tâm trí cho đến sức lực của biết bao
chúng sanh, do đó chúng ta cũng cần phải biết đền báo những ân này.
6- Niệm sanh tử khổ đau:
Người xưa dạy rằng: “Chỉ sắc thân này, ai tin
thân là gốc khổ? Tham đắm dục lạc ở đời, không biết niềm vui ấy là nhân của
khổ!” Cổ đức xưa lại nói: “Lúc sanh đau, lúc già đau, lúc bịnh đau, lúc chết
đau, hoạn nạn cùng khổ đau đớn, lửa dâm dục đốt, lửa sân giận đốt, lửa tham
trộm cắp đốt, lửa tà ngụy đốt, lửa ngu si đốt, đấy là ngũ thống, ngũ thiêu.”
Ðược thân người ít như chút đất nơi móng tay, mất thân người nhiều như đất nơi
đại địa.
Cho dầu có được thân người, vẫn nên thường
quán sát suy tư về Bát Khổ của kiếp người, cho đến nỗi khổ vô tận vô biên trong
sáu cõi.
Riêng về nỗi thống khổ trong tam đồ, Phật
nói: “sanh tử không ngơi, ác đạo không dứt tuyệt… vào ba đường ác, chịu vô
lượng khổ, xoay vần lũy kiếp, không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát, đau
đớn không thể nói hết. Nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn
thiêu đốt thân người…” Thật đáng kinh sợ!
Vậy hãy luôn nhớ cái khổ nạn sanh tử này mà
cần phải phát tâm Bồ Đề, và luôn quán “xét xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh
tử như oan gia,” thì tâm cầu giải thoát và ý nguyện về Tây Phương mới tha
thiết, bền chặt.
7- Tôn trọng tánh linh:
Phật nói: Tâm, Chúng sanh và Phật là một. Có
nghĩa tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều tương đồng như tam thế chư Phật,
khi Trí Huệ khai mở thì đều có thể thành Phật. Cho nên giác tánh linh vốn sẵn
có của chúng ta rất là quý báu, cần phải được tôn trọng. Chúng ta chỉ vì bất
giác mà lầm mê nên nhận huyễn làm chân, nay để khôi phục tánh linh vốn có sẵn
của mình bằng cách phát tâm Bồ Đề, dùng vô lượng thiện pháp để đối trị vô biên
phiền não, “nhất tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, chí tâm
làm lành, không làm điều ác, thân tự độ thoát, đặng được phước đức, đạt sự
trường thọ đắc đạo Bồ Đề,” cho mau chóng viên mãn thành tựu Phật tánh của mình.
8- Sám hối nghiệp chướng:
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
nói: “Từ trong vô thủy kiếp từ quá khứ đến nay, ta vì do tham sân si, phát khởi
ở thân, miệng, ý nên tạo ác nghiệp nhiều vô số kể. Nếu những ác nghiệp ấy mà có
hình tướng thì tận cùng hư không trong vũ trụ cũng không thể nào chứa hết.”
Hòa Thượng Tịnh Không dạy: “Hãy phát lòng sám hối, vì sám hối là cam lồ, sám
hối có thể rửa sạch ô uế quá khứ của tâm linh để trong quá trình đó sẽ đạt được
tịnh hóa và tái sanh không ngừng nghỉ.
Một người không sám hối, tính linh sẽ không
thể tiến triển và tiến hóa, vì không sám hối nên tính linh tiếp tục bị ô nhiễm,
trái tim tiếp tục vọng tưởng chấp trước. Không sám hối thì không nhìn nhận và
tiêu trừ sai lầm quá khứ, vọng tưởng sai lầm mới sẽ tiếp tục tạo ra. Khi một
người không tái phạm lỗi lầm lần thứ hai, chúng ta đã sám hối quá khứ.
Chúng ta không những phải sám hối tội nghiệp
đã biết, càng phải sám hối cho những tội nghiệp không biết, luôn luôn sám hối.
Cổ đức nói: “Tội từ tâm khởi dùng tâm sám, nếu tâm diệt thời tội cũng không.
Tâm vọng tội diệt cả hai đều không, đó chính là chân thật sám hối”. Một người
biết sám hối là người được phước, lại càng được cứu. Sám hối chính là ánh hào
quang của tâm linh, là vốn liếng lương thực trên con đường vãng sanh Tây Phương.”
Vì vậy người có tâm sám hối, thề không tái
phạm nữa, đó là chân sám hối!
Niệm Phật là pháp môn sám hối tốt nhất, vì
một tiếng niệm Phật tương ưng sẽ diệt được tám mươi ức kiếp trọng tội sanh tử.
9- Cầu sanh Tịnh Độ:
Đại sư Ngẫu Ích nói: “Chư Phật vì thương xót
chúng sanh mê mờ nên theo căn cơ mà giáo hóa, tuy nẻo về không hai nhưng phương
tiện có nhiều môn. Song trong tất cả các phương tiện, nếu tìm pháp môn rất vắn
tắt, rất viên đốn thì chẳng gì bằng niệm Phật để cầu sanh Tịnh Độ”.
Ðại sư Tỉnh Am nói: “Nói phước nhiều, không bằng trì danh hiệu Phật; nói thiện
nhiều, không bằng phát quảng đại tâm. Trì Thánh hiệu, phước hơn bố thí trăm
năm; phát đại tâm, phước hơn tu hành muôn kiếp.”
Cõi Tịnh độ của Phật A Di Ðà là cõi không có
các khổ, chỉ có các sự vui, siêu thắng vượt trỗi hơn các quốc độ Phật khác. Nếu
không cầu sinh Tịnh độ, thì trong biển khổ Ta bà sẽ phải chịu thống khổ muôn
đời kiếp, nên nếu đã thật tâm niệm Phật thì hãy nên phát nguyện cầu sanh Tịnh
độ.
10- Khiến cho chánh pháp của Phật cửu
trụ thế gian:
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn dặn
rằng: “Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai, thập lực vô úy, vô ngại, vô trước,
pháp thậm thâm sâu, pháp Ba La Mật của hàng Bồ Tát, chẳng thể dễ gặp. [nên
chúng ta phải] Chuyên cần tu hành, tùy thuận giáo pháp của Ta.
Phải hiếu với Phật, thường nhớ ân sư. Khiến cho pháp này bất diệt, lưu truyền
dài lâu. Kiên cố giữ gìn, không được hủy hoại vong thất. Không được khởi vọng,
tăng giảm kinh pháp.
Thường niệm chẳng dứt, chóng đắc đạo quả.
Pháp của Ta như thế, nói như thế. Nên hành theo hạnh Như Lai đã hành. Vun bồi
phước thiện, cầu sanh về cõi Tịnh Độ.”
Vì chánh pháp của Phật là pháp vô thượng, nên
kinh điển cần phải triển chuyển không ngừng để pháp này bất diệt. Muốn vậy tu
sĩ xuất gia cũng như Phật tử tại gia cần phải trang nghiêm tự thân để viên mãn
tâm Bồ Đề, tức phải trang nghiêm hai hạnh phước trí, hành theo những hạnh Như
Lai đã hành. Từ đó phát Tâm Đại Bi trang nghiêm tất cả các công hạnh, làm lợi
ích cho hết thảy chúng sanh.
Năm xưa trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt, ngài
A Nan có thỉnh giáo Phật rằng, khi Phật còn trụ thế chúng con tôn Phật làm
thầy, vậy sau khi Phật nhập diệt, chúng con biết lấy ai làm thầy đây? – Phật
trả lời: “Lấy Giới làm thầy, lấy Khổ làm thầy”.
– Lấy Giới làm thầy: “Giới” luật là thọ mạng
của Phật pháp, giữ được giới pháp mới khiến cho Chánh pháp được trụ thế dài
lâu. Cho nên tu sĩ xuất gia cũng như Phật tử tại gia, phải biết giữ giới pháp.
Giữ được ‘giới’ pháp và có tinh thần giữ giới pháp, thì tâm mới được ‘định’ vì
tâm có chủ thể, không bị duyên trần bên ngoài dao động, và khi tâm định liền
khai mở trí ‘huệ’. Do đó Giới Định Huệ cũng là tổng cương lãnh mà Phật luôn phổ
cập để giáo hóa tất cả chúng sanh.
– Lấy Khổ làm thầy: Không thể chịu khổ, thì
chẳng thể trì giới được. Vì không thể chịu khổ thì không thể thiểu dục chi túc,
phiền não dục vọng không thể buông xuống thì tâm chẳng thể khinh an.
Phật cả đời thị hiện đều lấy sự khổ hạnh làm
giới; dầu cho quốc vương, đại thần, trưởng giả muốn cúng dường nhiều phẩm vật,
Ngài vẫn trì giữ ba y một bát, đêm ngủ không quá 3 lần dưới một cội gốc cây.
Trong kinh Đại Bát Nhân Giác, Phật nói: “Muốn nhiều là khổ. Sinh tử cực nhọc là
vì ham muốn. Nếu ít ham muốn, cũng không bôn ba, thì thân và tâm tự tại tất
cả.” Cầu không được đã là khổ, cầu được rồi thì ham muốn sẽ tăng, nhân sinh tử
cũng gia tăng theo, khi vô thường đến nỗi khổ càng bị thúc bách hơn. Người càng
thiểu dục tri túc, thì định huệ càng phát triển. Ðịnh huệ càng phát triển thì
ái dục mong cầu càng ít, tâm Bồ Đề sẽ phát khởi. Như vậy, nương vào sự khổ hạnh
chúng ta mới có thể tự hành hóa tha, để đạt đến chỗ thành tựu cứu cánh, vãng
sanh Tịnh Độ.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật cũng dạy: chúng ta
phải nên tự tịnh tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải đoan chánh, thân
tâm tịnh khiết cùng thiện tương ưng. Đừng theo thị dục, không phạm điều ác.
Ngôn sắc hòa diệu, thân hạnh nên chuyên, hành vi cử chỉ an định từ tốn. Tâm tâm
phát nguyện cầu thành Phật, trì danh niệm Phật nguyện sanh Cực Lạc, thành đạo
quả xong thì trở lại Ta bà cứu độ chúng sanh.
Phật pháp mà suy nhược thì ma pháp thịnh
hành, nên gọi là “ma cường pháp nhược.” Nên muốn cho chánh pháp của Phật cửu
trụ nơi thế gian để ‘thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ,’ thì Phật tử
chúng ta phải hành trì Thập Thiện Nghiệp, hàng xuất gia phải chấp hành Sa Di
Luật Nghi.
Trong Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo
Kinh, đức Phật nói, “đối với hết thảy pháp, phát sanh thắng nhẫn, không tâm
chấp trước”.
Tức tự mình phải khiêm hư, phải biết khen
ngợi người khác, phải tôn trọng pháp môn chẳng tương đồng, đối xử hòa mục, thì
Phật pháp sẽ hưng vượng! Cổ đức nói, nếu muốn cho Phật pháp hưng thịnh thì chỉ
có Tăng khen ngợi Tăng, là vậy. Đôi bên phải khen ngợi lẫn nhau, đối xử khiêm
hư với nhau, Phật pháp sẽ hưng vượng. Đừng cảm thấy mình đáng nên kiêu ngạo, coi
thường pháp môn của người khác – chẳng hề biết tối hậu là tự mình hóa độ mình.
Đồng thời cũng cần đào tạo thế hệ trẻ học
Phật, tu hạnh Phật, y giáo phụng hành để chứng ngộ giải hành tương ứng, phát
tâm thọ trì đọc tụng kinh điển, vì người diễn nói kinh Phật, để làm cho giáo
pháp của Phật luôn hưng thịnh, và thường trụ nơi thế gian như các vị Tổ Sư đại
đức thời xưa đã làm. Được vậy thì Phật pháp mới hy vọng phục hưng như các thời
Tượng pháp và Chánh pháp.
Kết luận:
Chúng ta hãy thật vì mười ân đức cần báo đền
trên, và hãy thật vì sanh tử mà nỗ lực tu hành cầu cho được sự thành tựu vãng
sanh. Bằng cách nào đây? Ngay bây giờ hãy chân thành “Phát Bồ Đề tâm, trì danh
niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ”.(Biên soạn: Diệu Âm Trí Thành)
(Chánh Tuệ Định Phạm
Đình Nhân-)
NIÊM PHẬT LÀM GÌ?
1. Niệm Phật là sám hối nghiệp chướng, chúng
ta biết [chính mình] tội nghiệp rất nặng. Nay kể như đã hiểu tội nghiệp là gì?
Là khởi tâm động niệm, tà tri tà kiến, tham, sân,
si, mạn, đó là nghiệp chướng. “Nghiệp” là tạo tác, là động tác. “Chướng” là
chướng ngại bản tánh (bản tánh thanh tịnh, sáng suốt), chướng ngại tâm thanh
tịnh (tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác), khiến cho công phu niệm Phật của chúng
ta chẳng thể thành phiến (điều phục phiền phiền não), chẳng đạt được nhất tâm
bất loạn (định, huệ), Chướng chính là ngăn chướng điều ấy! Có thể thật thà niệm
Phật, hễ ý niệm vừa dấy lên, bèn dùng một câu Phật hiệu (A Di Đà Phật) để thay
thế. Niệm Phật hiệu rất siêng năng, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài
nghi, xác thực là phương pháp tiêu nghiệp chướng thù thắng nhất. Kinh luận có
dạy chúng ta: Nghiệp chướng cực nặng, tất cả hết thảy phương pháp đều chẳng
tiêu thì phương pháp niệm Phật có thể tiêu.
2. Một người phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ (Cực Lạc), phải hiểu là duyên phận thành Phật trong một đời này của người ấy
đã chín muồi, “đời này quý vị sẽ làm Phật (vãng sanh để tu thành Phật)”. Oán
gia trái chủ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ và trong đời này thấy quý vị sắp
thành Phật, nếu quý vị đã đi rồi, họ sẽ chẳng có cách nào báo thù, có nợ mạng
cũng chẳng đòi được, nợ tiền cũng chẳng đòi lại được, có thể nào họ cam tâm
vâng chịu ư? Họ sẽ dùng đủ mọi phương pháp để ngăn trở, quấy nhiễu, mong lôi
quý vị trở lại!
Do vậy, chúng ta niệm Phật, tuy đạo tràng này
chẳng to, nhưng chuyên tu Tịnh Tông (Pháp Môn Niệm Phật), chuyên cầu Tịnh Độ.
Mỗi Chủ Nhật cuối tháng, chúng ta làm Phật sự Tam Thời Hệ Niệm một lần để siêu
độ hết thảy chúng sanh, nhằm vào mục đích nào? Đem công đức ta đã tu học thảy
đều hồi hướng oán thân trái chủ, hy vọng chúng ta niệm Phật, họ sẽ không đến
khuấy rối, đừng đến nhiễu loạn, trong tương lai, chúng ta vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, nhất định sẽ độ họ trước.
3. Cổ đại đức nói: Bí quyết niệm Phật chẳng
có gì khác, mà là đổi chỗ sống thành chỗ chín, đổi chỗ chín thành chỗ sống, bèn
thành công. Chỗ chín nhất (quen thuộc nhất) của chúng sanh là gì? Vọng tưởng
(vọng niệm), suy nghĩ lung tung. Quý vị thấy [chúng ta] suốt ngày từ sáng đến
tối suy nghĩ rối bời. Chỗ sống ít nhất là gì? Một câu Phật hiệu (A Di Đà Phật)!
Niệm niệm luôn quên bẵng, rất lạt lẽo, hờ hững! Làm như thế nào để Phật hiệu
chín muồi như vọng tưởng, suốt ngày từ sáng đến tối chẳng quên khuấy, biến vọng
tưởng thành xa lạ như Phật hiệu, thường quên bẵng, sẽ thành công. Đổi chỗ sống
thành chỗ chín là được rồi, chẳng có ai không vãng sanh. Do đó, dạy quý vị niệm
Phật mỗi ngày, hằng ngày nghe Phật hiệu chẳng gián đoạn, hằng ngày nhìn hình
tượng Phật (Phật A Di Đà) đừng lìa bỏ, không gì chẳng nhằm đổi chỗ sống thành
chỗ chín, đạo lý là như vậy đó!
Quý vị biết đạo lý này, liền biết hết thảy
chẳng có chướng ngại. Hình tượng Phật chẳng thể thờ ở nơi nào đó ư? Chẳng thờ,
ta sẽ quên bẵng, chẳng đổi sống thành chín được! Vì thế, trừ phòng vệ sinh đừng
nên thờ hình tượng Phật ra, nơi nào cũng đều có thể thờ hình tượng Phật! Nhưng
nói thật ra, âm thanh của câu A Di Đà Phật, ngay ở trong nhà vệ sinh cũng nghe
rõ ràng, rành mạch. Hiện thời có máy niệm Phật rất hay, càng làm càng tiến bộ,
công đức rất lớn.
Pháp
môn Tịnh độ và 48 cách niệm Phật
Ðã đem tâm này niệm Phật,
phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ, tức hàng ngày chỉ nên làm
mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi thì xả, đừng để day dích, sẽ
chướng ngại tâm niệm của chúng ta.
1.-
NIỆM PHẬT NÊN GIỮ Ý CĂN
Ðã
đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ,
tức hàng ngày chỉ nên làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi thì xả,
đừng để day dích, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta. Vả lại, sở dĩ tâm niệm
của chúng ta cứ còn dây dưa mãi với những tạp thiện, tạp ác là vì ý địa chưa
thuần; nếu ta niệm Phật đến lúc tâm địa sáng tỏ, thời ý địa tự nhiên chuyên
ròng nơi quán sát, không duyên tạp sự. Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm
thành Thánh, là phương tiện giải thoát thứ nhứt của thế gian và xuất thế gian
vậy.
2.
NIỆM PHẬT NÊN GÌN KHẨU NGHIỆP
Ðã
dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc SÁT, ÐẠO, DÂM, VỌNG không nên
buông lời nói càng, nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: người niệm Phật
không nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp
tâm mình và gột tẩy ngay những lời bất thiện ấy.
3.-
NIỆM PHẬT PHẢI CHỈNH THÂN NGHIỆP
Ðã
đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như trong mọi cử chỉ: đi, đứng,
ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh thì tâm mới được thanh tịnh. Người niệm
Phật nên tự nghiệm điều này, thật không bao giờ dối.
4.-
NIỆM PHẬT LẦN CHUỖI
Niệm
Phật một tiếng, tay lần một hột. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn
chữ rất dễ thành khối . Trong bốn chữ A Di Ðà Phật, hoặc lần chuổi tại chữ A,
hoặc lần tại chữ Ðà, hoạch định cho có phép tắc, không được lầm lẫn, đây là
pháp mượn chuổi để nhiếp tâm vậy.
5.-
NIỆM LỚN TIẾNG
Nếu
lúc thần trí hôn trầm , hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn tỉnh tinh
thần, to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự nhiên đổi thành
cảnh giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm, nên ngoại duyên dễ vào, tiếng làm
cho tâm động, tạp tướng nổi dậy, nên phải to tướng niệm Phật để giữ gìn nhĩ
căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bấy giờ tâm chỉ nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng
liên tục, đầy đủ, tất cả những gì phải quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.
6.-
NIỆM NHỎ
Nếu
lúc tinh thần tán thất, hoặc khi nhiều việc nhọc nhằn hay phải nhiều điều bức
bách, thì không cần phải niệm to, chỉ nên thấu liễm thần minh nhỏ tiếng niệm
kỹ. Ðến khi hơi thở điều hòa, tinh thần hứng khởi, an định tâm hồn mới nên niệm
to tiếng.
7.-
NIỆM THẦM
Nếu
tâm khí không được điều hòa, hoặc người hay chỗ có ngại, niệm to, niệm nhỏ đều
thấy không tiện, thì chỉ nên động môi, dùng pháp niệm thầm (Kim Cang trì),
không bắt buộc nhiều ít, nhưng cấn nhứt: mỗi chữ, mỗi câu phải từ tự tâm lưu
xuất.
8.-
MẶC NIỆM
Lại
hoặc niệm to, niệm nhỏ đều không hợp, tay lần chuổi lại hiềm phiền phức, niệm
thầm vẫn thấy còn có dấu vết, thì xưa có phương tiện chí xảo là không cần động
mồm, không phát ra tiếng, chỉ bắt tâm niệm duyên chuyên một cảnh, âm thầm dùng
lưỡi gõ vào răng trước (răng cửa) hay tâm tưởng cũng được, tùy ý, chỉ phải làm
sao cho tiếng thật rõ ràng, nhưng tiếng không phải phát ra từ cửa miệng mà phải
phát ra từ tự tánh. Tánh nghe lại phải dung thông nội tâm, nội tâm lại phải in nơi
đầu lưỡi, đầu lưỡi kéo lấy niệm căn, tự tánh nghe nghe tự tánh, ba thứ dung
hội, niệm niệm viên thông, lâu sau sẽ được thành tựu pháp quán: Duy tâm thức.
9.-
ÐIỀU HÒA HƠI THỞ
Hoặc
lúc khí tịnh, tâm bình , thì trước nên tưởng thân mình đang ở trong vòng hào
quang tròn, thầm quán trên đầu chót mũi, tưởng hơi thở ra vào, mỗi một hơi thở
thầm niệm một câu A Di Ðà Phật. Phương tiện điều hòa hơi thở, không hưởn không
gấp, tâm niệm và hơi thở nương nhau, theo nhau ra, vào; đi, đứng, ngồi nằm đều
nên làm như thế, đừng để gián đoạn. Thường phải tự “mật trì,” nhiếp tâm đã lâu,
cả hơi thở lẫn câu niệm, cả hai đều không còn phân biệt, tức thâm tâm này cũng
đồng với hư không. Trì đến thuần thục, tâm nhãn khai thông, tam muội thoạt
nhiên hiện tiền, chính là “Duy tâm tịnh độ” đó.
10.-
TÙY PHẬN
Hoặc
lúc hôn trầm nhiều, thời nên kinh hành niệm Phật, hay khi tạp loạn nhiều thì
nên ngồi ngay thẳng, yên lặng mà niệm. Giả sử đi hay ngồi đều không hợp, thời
hoặc quỳ, hoặc đứng, cho đến tạm nằm, cũng đều cho phương tiện rộng rãi, có thể
niệm Phật được cả. Cốt yếu: bốn chữ hồng danh đừng để một niệm lãng quên, đó là
yếu thuật hàng phục tâm ma vậy.
11.-
CHỖ NÀO CŨNG NIỆM PHẬT ÐƯỢC
Không
luận chỗ sạch hay chăng, hoặc chỗ vắng vẻ hay chỗ chộn rộn, chỗ vừa dạ hoặc nơi
thất ý, chỉ “Hồi quang phản chiếu” và suy nghĩ: những cảnh thế này ta đã gặp
hơn trăm ngàn muôn ức lần, từ nhiều kiếp đến giờ; chỉ có việc “niệm Phật vãng
sanh” là ta chưa có thể thực hành trọn vẹn được, nên vẫn còn bị trong vòng lẩn
quẩn luân hồi. Giờ đây ta cũng chẳng quản niệm được cùng chăng, chỉ thề giữ
chặt “tâm niệm Phật’ này, dầu chết cũng không để dứt “niệm đầu” . Tại sao? Bởi
niệm đầu mà để một phút gián đoạn , thời tất cả thiện, ác, vô ký bao nhiêu tạp
niệm lại sanh. Vì lẽ đó, nên dù lúc đi đại, tiểu tiện hay sản phụ lúc lâm bồn,
chỉ chăm chú việc niệm Phật, càng khổ càng niệm, càng đau càng niệm nhiều hơn,
như con thơ gọi mẹ, không sợ mẹ hiềm giận, nếu sợ mẹ giận mà không gọi nữa, ắt
đứa trẻ sẽ bị sa chân vào hầm phẩn nhơ nhớp, vì những sự dại dột do nó gây nên.
Như thế chỉ có chết mất đi mà không làm sao được gặp mẹ.
12.
NIỆM PHẬT CÓ ÐỊNH THỜI HAY KHÔNG
Trong
pháp thứ mười một, không có định thời, nếu vậy sẽ ít người làm được. Bài này
phương tiện nói có định thời là: sớm, tối hai thời, hoạch định thường khóa, từ nay
đến suốt đời, không thêm, không bớt, ngoài ra trong suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, có thể niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm được nhiều
câu, thì nên niệm nhiều câu, bất luận niệm lớn hay nhỏ. Cổ nhơn có bảo: Ít nói
một câu tạp Nhiều niệm một câu Phật Ðẹp đẽ biết bao nhiêu!
13.-
CÓ ÐỐI TRƯỚC TƯỢNG HAY KHÔNG TRONG KHI NIỆM PHẬT?
Lúc
đối trước tượng Phật, phải cho tượng này là thật Phật, không cần câu chấp một
phương hướng nào, chẳng luận một thân nào trong ba thân của Phật , chỉ tự nghĩ:
Ta chỉ nhứt tâm, tâm chỉ nhứt Phật, mắt nhìn tượng Phật, tâm niệm danh Phật,
thật hết sức thành kính, mà hết sức thành kính tất được linh cảm. Lúc không có
tượng Phật, nên ngồi ngay ngắn xoay mặt về phương Tây, lúc khởi tâm động niệm,
nên niệm tưởng hào quang của đức Phật A Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, mỗi niệm,
mỗi câu, tự chẳng để rơi vào khoảng không, hắc nghiệp cũng có thể tiêu diệt.
14.-
NIỆM PHẬT TRONG LÚC BẬN RỘN
Nếu
niệm được một câu, thì nên niệm một câu, có thể niệm 10 câu, thì nên niệm 10
câu; chỉ làm sao trong 100 điều bận rộn có được trong khoảnh khắc một chút rảnh
rang liền buông bỏ thân tâm sáng suốt tụng trì.
Ngài
Bạch Lạc Thiên có bài thi rằng:
Ði
niệm A Di Ðà
Ngồi niệm A Di Ðà
Ví dù bận rộn như tên
A Di Ðà Phật niệm lên thường thường.
Người xưa dụng tâm như thế, thật không thể chê được!
15.-
LÚC NHÀN RỖI NÊN NIỆM PHẬT
Trong
đời có nhiều kẻ quá ư khốn khổ, muốn chút rảnh cũng không sao có được, nên
không thể tu hành. Nay ta được rảnh rang, lại nghe biết được pháp niệm Phật
này, cần phải gắng gổ, tương tục thúc liễm thân tâm, chuyên trì Phật niệm; như
thế mới không uổng phí tấc bóng quang âm. Nếu để tâm niệm buông trôi, không làm
được việc gì, luống tiêu bao ngày tháng, cô phụ bốn ân, một mai vô thường thoạt
đến, sẽ lấy gì để chống cự đây?
16.-
NGƯỜI SANG GIÀU PHẢI NÊN NIỆM PHẬT
Phước
đức của đời này đều từ việc tu hành kiếp trước. Những gì tôn quí vinh huê, quá
nữa là các bực cao tăng chuyển thế. Nhưng tuy có vinh huê mà không được trường
cửu, nếu lại tạo điều nghiệp chướng ắt khó thoát khỏi biển trầm luân. Vậy nên
các ngài phải tự suy nghĩ: những gì ta có thể mang theo được khi nhắm mắt? Ấy
là công đức niệm Phật. Cũng như thuyền đi nhờ nước. Thế nên, hoặc lập thất niệm
Phật, hoặc mời chư tăng hướng dẫn mình niệm Phật, in khắc kinh sách Tịnh độ,
hoặc đặt tượng Phật A Di Ðà để chiêm ngưỡng mà niệm, việc làm tuy ít, nhưng
phải dụng công cho nhiều, lại phải chí quyết vãng sanh, đó là con đường tu hành
của tất cả mọi người, chẳng luận giàu, nghèo, sang, hèn. Làm vị sứ giả của ngôi
Pháp vương còn gì tôn quý hơn!
17.-
KẺ NGHÈO HÈN CŨNG NÊN NIỆM PHẬT
Than
ôi! Có kẻ đã đem thân làm nô lệ, bị người khác sai sử, vất vả, khổ sở, mà không
cầu mong thoát khỏi, thì về sau càng khổ hơn.
Nên biết bốn chữ Hồng danh chẳng luận sang, hèn, giàu, nghèo, trẻ, già, trai,
gái, chỉ cần mỗi ngày vào lúc sáng sớm chí tâm xây mặt về phương Tây, niệm 10
câu danh hiệu Phật, không xen, không dứt, để cầu sanh Cực Lạc, thì hiện đời sẽ
được hưởng nhiều lợi ích, khi thác tự được vãng sanh. Ðức Phật A Di Ðà thiệt là
chiếc thuyền cứu mạng cho mọi người trong biển khổ vậy.
18.-
TỊNH TẾ NIỆM PHẬT
Ðã
là người có trí huệ thì đừng để bị mê hoặc, cần phải hết sức tịnh tế niệm Phật
để cho trí huệ được thêm kiên cố.
Phải biết, người trí niệm Phật thì thiên hạ sẽ có rất nhiều người niệm
Phật.Người trí niệm Phật thời những kẻ tu hành theo ngoại đạo sẽ dễ trở về
chánh đạo. Tại sao? Vì tiếng tăm của người trí có thể mở lòng dạ họ, vì có tác
dụng trí của người trí cứu rổi họ.
19.-
LÃO THẬT NIỆM PHẬT
Ðã
không cầu danh lợi, cũng không khoe tài năng, chắc thật tu hành thật là rất khó
có người làm được. Tổ sư dạy: Về phương diện tham thiền, bởi tìm một người si
độn cũng không có. Nay người niệm Phật chính lo mình không được si độn mà thôi.
Hai chữ Lão Thật là một đại lộ thẳng tắp đưa người sang Tây phương vậy. Tại
sao? Vì hai chữ Lão Thật là ngoài bốn chữ A Di Ðà Phật không thêm một mảy may
vọng tưởng nào.
20.-
ÐƯỢC ÐIỀU VUI MỪNG, NHỚ NIỆM PHẬT
Hoặc
nhơn nơi người mà vui, hoặc nhơn nơi việc mà mừng, mối manh tuy nhỏ nhít, nhưng
đều là những cảnh vui vẻ của kiếp người. Song phải biết cái vui đó nó hư huyễn
không thật, không thể còn lâu, vậy nên nương nơi giây phút tươi vui đó, xoay
tâm niệm Phật, thời ắt được nhờ ánh hào quang của Phật, trong thuận cảnh ấy bỏ
dứt đi ít nhiều ác niệm, những điều tốt đẹp liên miên, như ý tu hành, mãi đến
lúc mạnh chung sẽ được vãng sanh Cực Lạc, há chẳng vui mừng lắm sao!
21.-
HỨA NGUYỆN NIỆM PHẬT
Trì
danh niệm Phật nguyên để cầu vãng sanh nhưng oai phong của chư Phật không thể
nghĩ bàn hễ niệm danh hiệu của các Ngài thì sở nguyện đều tùy tâm. Vì lẽ đó,
trong kinh dạy: niệm Phật có 10 điều lợi ích (xin xem phần sau). Những việc cầu
cúng quỉ thần, tạp tu sự sám, khấn hứa nhiều ác nguyện, tin xằng những việc bói
toán xâm quẻ, không bằng dùng phương pháp niệm Phật để cầu nguyện.
Có
kẻ hỏi: Vả như niệm Phật mà
không ứng nghiệm thì sao?
Ðáp: Ông chưa niệm Phật mà đã lo không ứng nghiệm,
chính cái nhơn không ứng nghiệm đó đem đến cái kết quả không ứng nghiệm vậy.
Nhơn thế nào thì quả thế nấy, há không đáng sợ lắm sao?
22.-
NIỆM PHẬT ÐỂ CẦU CỞI MỞ
Phàm
tất cả nghịch cảnh quanh ta, đều do trái duyên nên có hiện (ta phải cố cam nhận
chịu) không nên lại khởi ác niệm, để phải dẫn khởi oan trái đến mãi về sau
không dứt. Ta phải nên tùy thuận nhận lãnh, có thể tránh được thời tránh, dứt
được thời dứt, chỉ tùy nhân duyên mà đừng quên niệm Phật. Phật có vô lượng trí
huệ, phước đức quang minh, Ngài sẽ gia hộ cho ta: dù gặp nghịch duyên, trái
cảnh, cũng chuyển thành thuận cảnh, thuận duyên ngay.
23.-
HỔ THẸN TỰ GẮNG NIỆM PHẬT
Phàm
đời này hay kiếp trước, ác quả đã thành tựu, thì khổ báo ắt đến, mà một phần
khổ ở đời này tức là một phần ác trong kiếp trước, không thể đổ thừa cho vận
mạng bất tề, mà chỉ nên tự hổ phận mình chẳng sớm lo tu. Mỗi một khi tưởng
Phật, tưởng như lông trong thân đều dựng đứng, năm vóc như rã rời, buồn thương,
cảm mến, đau xót, không muốn sống. Như vậy thời mỗi câu, mỗi chữ từ trong gan,
tủy mà ra mới là chơn cảnh niệm Phật.
Ngày
nay kẻ tăng, người tục niệm Phật, hoặc miệng niệm mà tâm tán, hoặc chỉ nhiếp
tâm lúc niệm, dứt niệm thì tâm mê. Lại có người đang lúc niệm Phật xen nói
chuyện tạp. Thế thì dù niệm suốt đời cũng không linh cảm. Mọi người thấy vậy,
cho rằng: niệm Phật vãng sanh là những lời láo khoét. Lỗi ấy há do Phật sao?
24.-
KHẨN THIẾT NIỆM PHẬT
Phàm
người ở trong tất cả hoàn cảnh khổ đáng thương, mà ta không thương, tất trái
với nhơn tính, nhưng ở trong tất hoàn cảnh đáng thương, ta chỉ thương suông thì
làm sao hợp được với tánh Phật? Ðã thương thì phải tìm phương thoát khổ, phải
tìm cách cho mọi người rốt ráo thoát khổ. Phải biết rằng: Phật sở dĩ được tôn
xưng là Ðấng Ðại Bi, vì Ngài hay cứu khổ cho chúng sinh. Ta do lòng từ bi niệm
Phật là cốt cầu lòng từ bi của Phật ban cho, cứu vớt khổ não cho chúng ta, thì
cái niệm đó phải khẩn thiết đến bực nào?
25.-
CÚNG DƯỜNG NIỆM PHẬT
Phàm
gặp giai tiết (tiết đoan ngũ, tiết trung thu v.v...) hoặc ngày vía Phật, Bồ Tát
thì nên hương đăng hoa quả tùy phận cúng dường, nhưng đó chỉ là tài cúng, chưa
phải pháp cúng. Pháp cúng thuộc về tâm, quý hơn tất cả tài cúng. Gần đây, vì tà
giáo thạnh hành, bày đặt các pháp cúng kiến, la liệt quả phẩm, tam sanh, heo,
dê, gà, vịt có ích gì cho sự tu hành? Thậm chí, còn bày bố trận đồ, chiêu hồn
dẫn quỉ, tà mị, dị đoan, càng làm cho hao tài tổn mạng, dối dá bậy bạ, phỉnh
gạt người đời. Chỉ pháp môn niệm Phật thì vạn bịnh tiêu trừ không tốn không
hao, lại ít người chịu biết đến. Kính mong những trang thức giả đừng để bị lầm.
26.-
NIỆM PHẬT ÐỂ BÁO ÂN CHA MẸ
Ân
của cha mẹ là cái ân to lớn nhứt phải làm sao báo đáp? Cung phụng tất cả những
thức uống ăn, lập công danh để hiễn đạt phụ mẫu, chỉ là phép báo đáp của thế
gian; mặc dầu không phải là bất thiện, song xét cho tột thì đây chưa phải trọn
vẹn (vì dù sao cũng vẫn còn trong vòng khổ lụy của kiếp người). Chỉ có cách là
ta niệm Phật và khuyên cha mẹ niệm Phật, đem công đức ấy hồi hướng Tây phương,
đó là gieo một hột giống kim cương, về sau ta và cha mẹ cùng tự được giải
thoát. Huống chi một câu niệm Phật lại có thể tiêu được vô biên tội chướng.
Những ai muốn báo thâm ân cha mẹ, không thể không biết pháp này.
27.-
BỐ THÍ BẰNG CÁCH NIỆM PHẬT
Phàm
thấy người khổ não, trước phải giúp cho họ an thân (cho cơm, cho áo) rồi sau
mới an ủi khuyên họ niệm Phật. Bởi vì cứu cái khổ trong nhứt thời, bố thí là
gấp, mà cứu cái khổ nhiều kiếp, phương pháp niệm Phật lại gấp hơn. Hoặc thấy
người hay vật bị nạn, sức mình không cứu rỗi được phải gấp niệm Phật cầu an cho
hồn thức ấy. Hoặc đêm thanh tụng niệm cầu nguyện cho mọi loài thoát khỏi tai
ương. Gặp lúc đao binh, tật dịch, năm canh trì niệm Phật danh, cầu cho chúng
sanh được tiêu trừ mọi oan khổ. Nên quán tưởng: Một câu A Di Ðà Phật của ta
đây, trên tột trời Hửu đảnh dưới suốt đáy phong luân mọi loài chúng sanh một
thời đều được lợi ích. Cách bố thí đó thật không thể nghĩ bàn vậy.
28.-
TỰ TÂM NIỆM, TỰ TÂM NGHE
Tâm
tưởng, rồi mới động đến lưỡi, lưỡi khua động thành tiếng lại trở vào tự tâm, là
pháp: Tâm niệm tâm nghe vậy. Mà hễ tâm niệm tâm nghe thời mắt không thể thấy
bậy, mũi không thể ngửi bậy, thân không thể động bậy, vị chủ nhơn ông (tự tâm)
đã bị bốn chữ A Di Ðà Phật bắt cóc mất rồi.
29.-
NIỆM PHẬT TRONG TIẾNG NIỆM
Tiếng
niệm Phật đã thuần thục rồi, thời trong sáu trần chỉ còn một thinh trần. Tất cả
sáu căn hoàn toàn gởi nơi nhĩ căn (lổ tai). Thân cũng không còn cảm biết tới
lui, lưỡi cũng không còn biết khua động, ý cũng không còn cảm biết phân biệt,
mũi cũng không còn cảm biết hít thở, mắt cũng không còn cảm thấy mở nhắm. Hai
thứ viên thông của hai ngài Quán Âm và Thế Chí cũng tức là một, không chi là
chẳng viên và chẳng chi là không thông cả. Vì căn tức là trần, trần tức là căn,
căn và trần tức là thức. Mười tám giới đều dung hợp thành một giới. Trước chưa
được thuần, lâu sau sẽ dần dần thâm nhập. Phàm trong khi niệm Phật, phải lựa
một chỗ vắng, yên, sạch sẽ, khoảng 4,5 thước vuông, đi nhiễu một vòng theo phía
tay mặt, rồi sau từ từ cất tiếng niệm Phật, tiếng cao lên dần dần, niệm như vậy
độ 3 vòng trở lên sẽ tự cảm thấy tâm, tiếng to bay vòng quanh khắp thái hư, bao
bọc cả 10 phương, trùm đầy toàn pháp giới. Ðó là cách an trụ thân tâm, thế giới
vào trong tiếng niệm Phật, và đó là đem thân, tâm của mình an trụ trong tiếng
niệm Phật mà niệm Phật. Ðây là cảnh thù thắng để tiêu diệt tâm địa phiền não
nhơ trược, hành giải cần phải gắng tập cho kỳ được. (Bài này chỉ vẽ rõ ràng,
không cần phụ giải)
30.-
NIỆM PHẬT TRONG ÁNH SÁNG CỦA TỰ TÂM
Phàm
tiếng là tiếng của tự tâm, thì ánh sáng cũng là ánh sáng của tự tâm. Hễ tiếng
của tự tâm quanh lộn ở chỗ nào thì ánh sáng của tự tâm phóng ra ở chỗ ấy; nếu
ta an trụ trong tiếng của tự tâm mà niệm Phật, tức là an trụ trong ánh sáng của
tự tâm mà niệm Phật vậy. Ðây cũng là cảnh thù thắng diệt được lòng tham phiền
não nhơ bẩn, hành giả nên gắng siêng tu tập.
31.-
NIỆM PHẬT TRONG THỂ CỦA TỰ TÂM
Tiếng
nói của tự tâm vòng quây và ánh sáng tự tâm chiếu phát, tự nhiên tâm thể phơi
bày. Một chơn tâm này như tấm gương tròn lớn (Ðại viên cảnh) rỗng thông sáng
suốt, không gì ngăn ngại, mười phương, ba đời, ta, Phật, và chúng sanh, vòng
khổ của đời trược, đài sen nơi cảnh tịnh đều là bóng trong gương cả. Cho nên
niệm Phật trong tiếng tức trong ánh sáng, trong ánh sáng tức trong gương không
phải một, khác. Ðây cũng là cảnh thù thắng tột cùng, diệt hẳn được tâm nhơ, cần
phải gia công hết lòng tu tập.
32.-
KHÔNG DỨT
Buổi
sáng niệm, buổi tối cũng niệm; vô sự niệm, hữu sự cũng niệm; chỗ sạch niệm, chỗ
nhơ vẫn niệm, không một niệm nào mà không phải là niệm Phật. Giả sử hàng ngày
có sự thù tiếp bạn bè, đãi đằng khách khứa, có lúc gián đoạn, nhưng chỉ gián
đoạn thinh niệm, chớ không thể gián đoạn được tâm niệm. Niệm Phật mà công phu
đến thế, thì dễ thành Tam muội lắm.
33.-
KHÔNG TẠP
Không
xen tạp niệm tức là Chỉ, Chỉ là nhơn của Ðịnh, dừng được tạp niệm, thì chánh
niệm (định) tự nhiên phát hiện. Tạp niệm có 3: Thiện, ác, và vô ký, trừ hết ba
thứ mới là không tạp. Tâm cần vắng lặng, vắng lặng thời các niệm thiện, ác
không sanh. Tâm cần sáng suốt, sáng suốt thời vô ký niệm không có. Ngoài Phật
không có niệm nên tường vắng lặng, trong niệm có Phật nên thường sáng suốt rõ
ràng.
34.-
KHÔNG DỪNG
không
dừng tức là Quán, Quán là nhơn của Huệ. Câu (niệm Phật) trước đã qua, câu sau
chưa đến, câu hiện tại cũng không dừng. Cứ thế mà quán sát, rõ ràng nhưng không
thể được (không câu chấp), không thể được nhưng lại rõ ràng. Ðuổi như vậy mãi
sẽ thấu đạt lẽ vạn pháp duy tâm, tức Phật tức tâm, tức tâm tức Phật.
35.-
TỨC THIỀN TỨC PHẬT
Hoặc
khởi từ một câu thoại đầu gọi là tham thiền, hoặc ngồi mà dứt niệm gọi là tọa
thiền. Tham hay tọa đều là Thiền cả, Thiền hay Phật đều là tâm cả. Thiền tức là
Thiền của Phật. Phật tức là Phật của Thiền. Pháp môn niệm Phật đâu có gì ngại với
pháp tham thiền, tọa thiền? Vả lại, người tham thiền có thể dùng bốn chữ A Di
Ðà Phật làm một câu thoại đầu, niệm đến, niệm lui, niệm xuôi, niệm ngược, trở
lại, xây qua không rời đương niệm, mặc dù không nói tham thiền, mà thiền ở
trong đó rồi. Người tọa thiền cần phải đến giai đoạn một niệm tương ưng, hoát
nhiên như vinh vào hỗ hư không, mới là Ðắc thủ . Niệm Phật đến lúc nhứt tâm bất
loạn, không phải là tương ưng là gì?
Niệm
đến lúc tâm không, không phải vĩnh viễn tương ưng sao? Trong lúc niệm Phật, không
hôn trầm, không tán loạn, chỉ, quán, định, huệ mỗi niệm viên thành; nếu muốn
tìm thiền, thiền ở đâu nữa?
36.-
TỨC GIỚI TỨC PHẬT
Trì
giới luật của Phật để trị thân, trì danh hiệu của Phật để trị tâm. Trì lâu thì
thân thuần, niệm lâu được tâm không. Tánh của niệm hay tánh của giới không hai;
luôn luôn trì giới thì tội lỗi không hiện, luôn luôn niệm Phật, thời lúc lâm
chung đánh tan được quỷ môn quan, vượt khỏi ba cõi. Nếu giữ giới đã có công
phu, liền đem công đức này hồi hướng Tây phương, chắc được về trung phẩm. Còn
như chưa có thể giữ trọn cả hai, thời nên phải siêng niệm Phật, như cứu lửa
cháy đầu.
37.-
TỨC GIÁO TỨC PHẬT
Một
Ðại tạng kinh đều từ tâm khởi, tâm nếu không Phật thì giáo lý cũng luống mà
thôi. Nhưng có tâm ai mà không Phật? Chỉ vì tự mình không niệm vậy. Người có
học giáo lý, ắt có coi kinh Lăng Nghiêm, mà cói coi kinh Lăng Nghiêm ắt có kẻ
chê đức Thế Chí mà trọng đức Quán Âm, một chút chấp trước đó cũng đủ kết thành
nguồn gốc sanh tử, dù học hay, thấy xa, hiểu rộng, chẳng qua chỉ giúp cho cái
mầm khổ thêm tuổi mà thôi, không giúp ích được gì trong việc thoát ly sanh tử.
Xin hãy mau bỏ đi, bỏ tất cả, để tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương, gần
gũi đức Di Ðà. Còn nếu không buông bỏ được thì hãy đem công đức học kinh, giảng
thuyết này hồi hướng Tây phương, phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, cũng được
kết quả không luống. Thoảng hoặc hoằng dương được pháp môn Tịnh Ðộ, nói cho
người ta hiểu công đức niệm Phật, thời nháy mắt, động niệm đều là trang nghiêm
Tịnh Ðộ, thế thì được vãng sanh thượng phẩm đâu còn nghi gì?
38.-
KHÔNG TRÌ MÀ TRÌ
Khi
vừa làm xong một việc gì, hay lúc nói dứt một lời nào, còn chưa kịp đá động đến
câu niệm Phật, nhưng bốn chữ Hồng danh của Phật đã nổi hiện lên ngay. Ðây là
trạng thái dễ thành tam muội (chánh định).
39.-
TRÌ MÀ KHÔNG TRÌ
Trì
danh niệm Phật không mỏi chán, khoan khoái lại càng khoan khoái hơn. Trong lúc
niệm Phật, trì niệm bốn chữ thật rõ ràng, niệm đầu không lay động, bốn chữ bỗng
nhiên tạm dừng. Cũng không phải có cái niệm tức bốn chữ, cũng không có cái niệm
ngoài bốn chữ, như thế có thể tạm gọi là được thắng cảnh, chớ chưa phải thật
tâm không. Nhưng siêng năng niệm Phật, cảnh này thường hiện, thời dần dần được
tâm không. Nếu nhơn một niệm tâm không liền bị hôn trầm thì gọi là không có
Huệ. Phải biết rằng: tâm càng không thời niệm càng linh, tâm càng không thời
niệm càng tịnh, đem cái ta trong tâm Phật mà niệm Phật ở trong tâm ta, không và
bất không (có) đâu còn xứ sở? Ví như mặt trời, mặt trăng rực rỡ nơi bửu cung,
vòng quanh núi Tu Di, châu lưu chiếu thiên hạ. Ôi! Còn gì bằng Diệu giác được
viên minh!
40.-
CÔ THÂN NIỆM PHẬT
Tỳ
kheo tu hành không cần bạn lữ. Cảnh niệm Phật càng cô tịch càng hay! Cao thấp
tùy hợp, hưởn gấp tùy phần, cốt mong cầu được thành một khối (nhứt tâm). Chính
lúc bấy giờ nên biết: thân côi nhưng tâm không côi, vì tâm của chư Phật và đức
Di Ðà chưa từng tạm rời ta. Móng lòng là Phật biết, khởi niệm thì Phật hay, lo
gì cô tịch? Nếu Pháp môn Tịnh độ còn điều gì chưa thiệt hiểu rõ, nên tìm kinh
sách Tịnh độ mà coi. Như kinh A Di Ðà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Thiên Thai Trí
Giả Ðại Sư Thập Nghi Luận, Thiên Như Hòa Thượng Tịnh Ðộ Hoặc Vấn, Ðại Hựu Thiền
Sư Tịnh Ðộ Chỉ Quy, Long Thơ Tịnh Ðộ Văn, Tịnh Ðộ Thần Chung, Tây Phương Công
Cứ, Tây Phương Xác Chỉ, Di Ðà Sớ Sao v.v... Ðây chỉ dẫn một ít điều rõ ràng dễ
hiểu, ngoài ra, còn nhiều thứ hay ho hơn, không kể xiết. Nên tìm học hỏi nơi
các bậc cao minh thông hiểu Tịnh độ.
41.-
KẾT KỲ NIỆM PHẬT
Kết
kỳ là kết thất (7 ngày làm một kỳ), nếu kết kỳ một mình, thì nên sắm bốn thứ để
ăn: cơm khô, trái cây, gừng sống, dầu mè; tám thứ để dùng: lư hương, đèn dầu,
bồ đoàn (đồ để ngồi thiền), ghế dựa, áo bông (đồ ấm), khăn hay mũ, thùng vệ
sinh, giấy vệ sinh (giấy sút). Ngoài 12 thứ đó, không để một thứ gì cả. Có thể
trong suốt một tuần, không cho ai lai vãng, để rảnh rang niệm Phật.
Nếu
có 5,6 người đồng phát tâm kết kỳ niệm Phật, thời cần phải thỉnh một vị hộ
thất, lập qui điều cho nghiêm chỉnh dán ở trước cửa. Tất cả mọi cử động, uống
ăn, hương hoa đăng quả, đều do vị hộ thất cung cấp đầy đủ, thời những người đồng
thất cũng có thể suốt trong bảy ngày chí tâm niệm Phật. Nếu còn hạn cuộc trong
tình chấp buộc ràng, chưa biết những điều lợi hại của việc tu hành, thì đừng
nên sớm khinh suất mà làm việc này.
42.-
TỤ HỘI NIỆM PHẬT
4,5
người hẹn nhau hội họp tu pháp niệm Phật. Trước hết phải đặt điều ước, trật tự,
sau mới bắt đầu niệm. Lúc đầu niệm thì một tiếng mỏ một tiếng niệm, một người
xướng bao nhiêu người niệm theo, đều đều không nên so le, lộn xộn mà làm loạn
động tâm người đồng niệm. (Pháp này không kết thất như pháp trên, mà tùy phương
tiện tu tập thế thôi, bao nhiêu người cũng được, bao nhiêu ngày cũng không hạn
cuộc.)
43.-
NIỆM PHẬT ÐỂ THÀNH TỰU CHO NGƯỜI
Hoặc
ở yên một chỗ niệm Phật mà cầu nguyện cho người, hoặc đồng với người khác kết
kỳ niệm Phật. Hoặc đem pháp môn niệm Phật chỉ dạy cho người biết, hoặc cho
người mượn sách Tịnh Ðộ mà xem, hoặc phá những mối nghi lầm của người khác
trong pháp môn này, hoặc khuyên người bền chí niệm Phật, những việc ấy đều tốt
và đều có công đức cả. Nhưng nếu người trong lúc lâm chung mà có mình đến hộ
niệm, khiến cho người bịnh luôn luôn nhớ câu niệm Phật, vừa nhớ vừa niệm, làm
cho người ấy sau khi tắt hơi rồi được vãng sanh về cõi Tây phương, đó là thành
tựu pháp thân huệ mạng cho người, công đức này còn thù thắng hơn. (Pháp này
không có gì là khó hiểu cả.)
44.-
KHI CÓ TAI NẠN NÊN NIỆM PHẬT
Phàm
lúc xảy ra tai nạn, mà nhớ phát tâm niệm Phật, tất có kỳ ứng (ứng nghiệm lạ
thường). Tuy rằng một nước bị can qua hay một làng bị dịch lệ, mà niệm Phật để
cầu, thì một người niệm một người an, trăm người niệm trăm người an. Không phải
Phật có lòng riêng, lúc nào cũng trong ánh sáng bình đẳng, vô tâm mà ứng hiện.
Vì sao? Vì động niệm thành tiếng tự mình rõ biết hào quang sáng của đức Phật A
Di Ðà trụ trên đỉnh đầu ta, thời tự nhiên mỗi niệm đầy đủ, mỗi niệm bền chắc,
mỗi niệm dài lâu, thời hào quang của Phật chiếu đến gia hộ các vị thiện thần độ
trì, tự mình có thể lìa khỏi nạn tai, xin đừng chuyển niệm.
45.-
NIỆM PHẬT TRONG LÚC CHIÊM BAO
Nguyện
lực bền chắc, công phu tinh nhuần, ban ngày giữ niệm khăn khăn, ban đêm vẫn giữ
niệm khư khư, thời trong giấc chiêm bao tự mình có thể niệm Phật, đó là triệu
chứng sắp vãng sanh, vậy phải giữ điều hòa và phải cố gắng lên mãi, đừng lui
đừng loạn.
46.-
NIỆM PHẬT TRONG LÚC BỊNH
Bịnh
là cơ sắp chết, chết là mối quan hệ của các thánh, phàm, tịnh, uế. Trong lúc
bịnh (bịnh nặng) phải khởi tưởng niệm là sẽ chết (để không sợ chết). Phải siêng
niệm Phật, quyết định chờ chết, ắt có hào quang của Phật đến tiếp dẫn, làm toại
chí nguyện vãng sanh của ta. Nếu trong lúc bịnh, dừng không niệm Phật thì tất
cả sự ái luyến sợ sệt, phiền não hiện lên rần rần, các thứ tạp niệm nhứt tề nổi
dậy. Thế thì con đường sanh tử lấy gì cứu vớt? Ngày xưa có một vị Tăng bịnh
nặng, rên thành tiếng “Ôi cha.” bỗng tự biết người tu lúc nghĩ nhớ đến đạo mà
lại rên như thế là sai, liền khởi niệm A Di Ðà Phật. Nhưng cơn đau không chịu
dứt, nên một tiếng rên “ôi cha” là một tiếng niệm Phật tiếp theo, ngày đêm
không dứt. Khi bịnh lành, thầy bảo mọi người: “Trong lúc bịnh tôi rên thành
tiếng “ôi cha” và chen một tiếng niệm A Di Ðà Phật, hôm nay bịnh lành, tiếng A
Di Ðà Phật hiện còn mà tiếng rên “ôi cha” chẳng biết biến đâu.” Hy hữu thay!
Ðây là trường hợp tinh tấn trong lúc bịnh vậy.
47.-
PHÚT LÂM CHUNG NÊN NIỆM PHẬT
Phút
lâm chung nên cố gắng ghi nhớ 4 chữ A Di Ðà Phật đừng để sót quên. Nếu niệm lớn
được thời niệm, còn không niệm lớn được thì niệm nhỏ. Trường hợp lớn nhỏ đều
không niệm được (vì quá mệt) thì nên ghi khắc thầm tưởng 4 chữ trong thâm tâm,
đừng cho quên sót. Những người hầu hạ chung quanh phải thường nhắc nhở khuyến
khích người bịnh nhớ Phật, niệm Phật. Phải biết rằng: trong nhiều đời, nhiều
kiếp, vì ta bị loạn niệm trong lúc này (gần chết) mà phải luân hồi mãi trong
vòng ba cõi. Tại sao? Vì sanh tử, luân hồi đều do nhứt niệm làm chủ. Nếu nhứt
niệm chuyên chú niệm Phật, thì thân tuy chết nhưng tâm thần không tán loạn,
liền theo nhứt niệm ấy vãng sanh Tịnh độ. Vậy nên hãy nhứt tâm ghi nhớ bốn chữ
A Di Ðà Phật đừng quên!
48.-
PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI NIỆM PHẬT
Than
ôi! Trong đời có thiếu gì kẻ không biết niệm Phật, có người cho niệm Phật là dị
đoan nên không chịu niệm, người xuất gia cho niệm Phật là việc tất nhiên của
mình phải làm, chớ không biết tại sao phải niệm, kẻ cuồng huệ biết có Phật,
nhưng lại không khứng niệm, kẻ ngu si không biết Phật nên không niệm. Ðây là
đem so sánh, còn có những ngu phu, ngu phụ, nghe nói lý nhơn quả cũng biết niệm
Phật, nhưng lại mong cầu được phước báo đời sau, vẫn không thoát khỏi hột giống
luân hồi.
Tìm kẻ thật vì đường sanh tử mà niệm Phật trong trăm người họa chăng chỉ có một
hai! Nên biết rằng, người đã niệm Phật, tức xứng hợp với lòng từ của Phật, phát
thệ nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh. Tất cả tội cấu oan khiên thảy đều sám
hối. Tất cả những công đức dù nhỏ dù lớn đều đem hồi hướng Tây phương, như thế
mới là CHÁNH NHƠN NIỆM PHẬT.
(Thuật giả: Giang Ðô Trịnh Vi Am
Dịch giả: Sa môn Thích Tịnh Lạc)
HỎI –
ĐÁP VỀ TU TỊNH ĐỘ
Câu 1: Tu theo Tịnh Độ là người tu chuyên niệm Nam Mô A Di Đà
Phật/A Di Đà Phật . Chúng tôi tìm trong các kinh, sách, có 3 loại niệm và 8 cách như sau:
Loại 1 là khẩu
niệm (tức niệm ra tiếng):
Khẩu niệm, có 3 cách:
Cách 1: Nhất niệm vạn niên (một niệm muôn năm).
Cách 2: Vô trụ niệm (không cho tiếng Phật A Di Đà, dính với
nhau).
Cách 3: Chuyển luân niệm (cho tiếng niệm chạy vòng vòng).
Loại 2 là Ý thức niệm (niệm thầm bằng thức biết của tâm vật lý, không cho ra
tiếng).
Ý thức niệm, có 3 cách:
Cách 1: Tùy niệm (duyên theo tiếng niệm).
Cách 2: Trường niệm (tiếng niệm kéo thật dài).
Cách 3: Đoạn niệm (niệm từng tiếng một, tiếng nào ra tiếng
nấy, hay niệm cách khoản).
Loại 3 là tâm niệm
(niệm bằng tâm).
Tâm niệm, có 2 cách:
Cách 1: Vọng tâm niệm, cho tâm vọng tưởng niệm, để mong thấy
các hình ảnh bên ngoài, đặc biệt mong thấy Đức Phật A Di Đà hoặc các vị Bồ tát.
Cách 2: Chân tâm niệm; cái chân tâm này giảng sư phải hiểu
như sau:
1- Khi còn ở trong Phật tánh, được gọi là “Ý
trong Tánh Phật”, gọi gọn là “Phật tánh”.
2- Khi Phật tánh vào trong tam giới, nó bị
cuốn hút của nhân quả trong vật lý âm dương. Vào loài người, nó bị bao phủ bởi
tánh của loài người.
Trong tứ đại của một con người có 2 thứ như
sau:
1- Thân xác của tứ đại gọi là “Sắc thân”.
2- Trong Sắc thân ấy có cái gọi là “Tinh
thần”.
Trong Tinh thần này nó lại có 2 thứ:
1- Thứ tưởng tượng gọi là “Vọng tâm”.
2- Tự nhiên thanh tịnh gọi là “Chân tâm”.
Cái chân tâm này, Đức Phật gọi là cái “Như
Như chân thật”.
Người tu pháp môn “Tịnh Độ tông” này phải tu
như sau thì mới đúng với lời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy:
– Các ông niệm là nhớ, mà phải nhớ cái “Như
Như chân thật” thì mới đúng; còn các ông nhớ Đức Phật A Di Đà là sai!
Vì sao sai?
– Vì Đức Phật A Di Đà là cái ảo bóng của vật
lý. Nên Như Lai có dạy trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật như sau:
– Khi các ông niệm Phật, mà nhận thấy rõ ràng
ở trong tự nhiên thanh tịnh: trong sáng, mát diệu, trùm khắp, đó là “Chân Như”
của các ông đó, sống với cái Chân Như ấy là phải.
– Còn các ông niệm mà thấy hình bóng bất cứ
Đức Phật nào đều là giả dối. Vì vậy, Như Lai dạy các ông: “Gặp Phật này không
theo”.
Phần này các vị Tổ dạy rõ ràng: “Gặp Phật
giết Phật”.
Cái Như Như chân thật này, Đức Phật gọi là
Phật tánh, Phật tri kiến, chân Tâm, Tánh giác, Bản lai diện mục, hay Viên giác
tánh, v.v… Chính là “Đạo Nhân vô tu vô chứng” mà trong kinh Tứ Thập Nhị Chương,
Đức Phật đã dạy.
Trên đây là 8 cách tu niệm Phật mà các thầy
dạy gọi là tu Tịnh Độ. Trong 8 cách niệm, chỉ có cách thứ 8 là vào được Bể tánh
Thanh thịnh Phật tánh của chính mình, tức vào được Niết bàn (vô sanh); còn 7
cách trước đều bị vào các cõi hữu sanh hết. Trong 33 vị Tổ Thiền tông, Tổ 29 là
Huệ Khả, Ngài cũng “Niệm Phật” là niệm cách thứ 8 này vậy.
Câu 2: Sự thật, tu theo Thiền tông hết sức dễ, chỉ gì quá dễ
nên mọi người không để ý. Chúng ta chỉ cần không theo 2 bên là đủ, cũng như các
Thiền sư bảo: “Chớ vọng tưởng”, là chúng ta “phủi sạch” sự cuốn hút của vật lý
âm dương, nên không kết thành nhân duyên, âm dương không kết đdính, thì làm gì
có nhân duyên, không có nhân duyên thì làm gì có kết quả?
Các thứ trên không có, sóng nghiệp, luân hồi
làm sao kéo chúng ta đi được?
Câu 3: Cõi tịnh là nơi thanh tịnh trong tâm của chúng ta. Bởi
vậy, trong kinh A Di Đà có câu:
– Tịnh Độ trung.
– Cửu phẫm liên hoa vi phụ mẫu.
– Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh.
Tịnh độ trung là cái thanh tịnh ở nơi tâm của
chúng ta:
* Hướng Đông là soi sáng, khởi đầu, tượng
trưng cho Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, cũng gọi là vua thầy
thuốc.
* Hướng Tây là nghĩ ngơi, tượng trưng cho Đức
Phật A Di Đà.
* Vì có Đông, có Tây, nên có ở Giữa, ở Giữa
nên gọi là Tịnh độ Trung.
Tịnh độ Trung nó ở đâu?
Nó ở ngay trong lòng của chúng ta. Đức Phật A
Di Đà bảo chúng ta phải sống với cái thanh tịnh của chính chúng ta, nếu chúng
ta sống được với cái thanh tịnh nơi chúng ta rồi, thì sự sống của chúng ta đồng
với cái thanh tịnh, bên Thiền tông Đức Phật Thích Ca dạy là Như lai Thanh tịnh
thiền.
(Trích những câu hỏi Thiền tông
– quyển 2 – Tác giả Nguyễn Nhân)
Nghi Thức Niệm Phật hàng ngày
của gia
đình phật tử tại gia: Ngô Lê Lợi (pháp danh: Phúc Lạc) và Hoàng Thị Hoa (pháp
danh: Diệu Tuyên)
*Trước khi đảnh lễ niệm phật : Lễ Lạy
Phật (từ 3 lần đến 108 lần )
1.ĐẢNH LỄ
*Chí tâm đảnh lễ: Nam
mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp
Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. ( 1 lạy )
*Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 1 lạy )
*Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A
Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lạy )
2. TÁN PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng
Tướng tốt quang minh tự trang
nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.
Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
3. NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật ( Tùy niệm càng nhiều
càng tốt : 10-15’-20’... ngày 2- thời sáng -Tối) .Thôi niệm A Di Đà Phật ; niệm
5 hiệu Phật : Dưới
Nam-mô A Di Đà Phật (5
lần)
Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm
Bồ Tát ( 5 lần )
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ Tát ( 5 lần )
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát ( 5 lần )
Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát ( 5 lần )
Sau đó Đọc bài “Thần Chú
Vãng Sanh Tịnh Độ ”
Nam Mô A Di Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ,
Đa Điệc Dạ Tha, A Di Rị Đô Bà Tì, A Di Rị Đa, Tất Đam Bà Tì, A Di Rị Đa, Tì Ca
Lan Đế, A Di Rị Đa Tì Ca Lan Đa, Dà Di Nị, Dà Dà Na, Chỉ Đa Ca Lệ Ta Bà Ha.
(ít
nhật 1 lần ...đến 108 Lần bài này)
4. SÁM HỐI
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp
Đều do vô thủy tham sân si
Bởi thân khẩu ý phát sinh ra
Hết thảy con nay nguyện sám
hối . ( 3 lần )
5. PHÁT NGUYỆN
Nguyện sanh Tịnh Độ ở Tây
Phương
Chín phẩm hoa sen là Cha Mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh
Bố Tát bất thối là bạn lữ.
6. TAM TỰ QUY Y
Tự quy y Phật. Nguyện cho chúng sanh hiểu sâu đạo cả, phát tâm vô
thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp. Nguyện cho chúng sanh
thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng. Nguyện cho chúng sanh
dắt dìu đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
7. HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát lòng bồ đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh cõi Cực Lạc.
HỒI HƯỚNG
CÔNG ĐỨC MỖI NGÀY
Đệ tử con nguyện đem Công tu hành và những thiện nghiệp, phước đức con làm
được trong ngày hôm nay :
1/Công đức niệm Phật hôm nay con xin
Hồi hướng cho hai mẹ hiện tiền của con là (Mẹ đẻ): TRẦN THỊ ĐỒI (pháp
danh DIỆU ĐẠT) và (mẹ vợ) Nguyễn Thị Lém (Pháp danh TÂM HỒI) được tăng sức khỏe
vui vẻ tuổi già, mãn báo thân được sinh về Tây phương Cực Lạc . Hồi hướng cho
cửu huyền thất tổ Họ NGÔ họ HOÀNG ;
cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp sinh ra chúng con ngày hôm nay tại nghĩa
trang (Gia đình-dòng họ 2 bên nội ngoại) Vườn Tè (Xóm 2 Thôn Thanh Nộn xã Thanh
Sơn huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam) ; và nghĩa trang thôn Thanh Lương I (xã Phù Lưu huyện Lộc Hà tỉnh Hà Tĩnh) ;
nghĩa trang Con Khoa (phường Ỷ La thành phố Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang) và
nghĩa trang Thôn Én Bơ xã Khánh Yên Hạ huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai ;
2/ Hồi hướng cho tất cả vợ con, anh
chị em, thân bằng quyến thuộc còn đang
hiện tiền, nghiệp chướng được tiêu trừ ; mọi người đều phát khởi
Tín-Hạnh-Nguyện tinh tấn chuyên niệm Hồng danh A Di Đà Phật cầu sanh Tinh độ,
và đều được thành tựu.
và Khắp nội ngoại Tiên linh :
-Nguyện Chư Linh đẳng giải oan khiên
-Tội chướng tiêu trừ tăng phúc duyên
-Bát nạt Tam đồ mau giải thoát
-Cùng sinh Tịnh độ được an
nhiên
NAM MÔ SINH
TỊNH ĐỘ BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
3/Lại vì Phật tử con Hồi
hướng cho quan Thần linh đất này và Ông Bà hậu tiền chủ và Tất cả những người
khuất mặt quanh đây và những oan gia trái chủ đều được đồng chiêm lợi lạc.
-Nguyện từ vô thủy kiếp đến
nay, tất cả kẻ oán người thân. Tổ bẩy đời, Tổ lâu đời, Rồi đời nay hoặc nhiều
đời, các vị Thày và Chư Tăng, cha mẹ rộng đến 10 phương cõi pháp hết thảy chúng
sinh , các bậc Thiện Tri thức; Kẻ ác tám nạn ba đường khổ, cho đến cỏ cây ,côn
trùng, loài chứng, thai sinh, noãn sinh, thấp sinh,hóa sinh hoặc vô tình giết
tất cả vạn loài.
-Nguyện giải hết thảy mọi oan khiên, tiêu hết thảy mọi tội nghiệp, cùng
chứng đạo bồ đề, cùng sinh về Cực Lạc.
*Nguyện:
“Nguyện Đem công đức này
Hồi hướng về khắp cả
Đệ tử và Chúng sinh
Đều trọn thành Phật Đạo”
*Chúng sinh vô biên Thề
nguyện độ
Phiền não vô tận Thề nguyện
đoạn
Pháp môn vô thượng Thề nguyện
học
Phật đạo vô thượng Thề nguyện
thành.
(Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần)