|
Nghĩa trang chi họ Ngô Văn ở Thanh sơn -Kim Bảng-Hà Nam (năm 2016) |
Phần thứ
Nhất: Những ai được làm “Thầy” ; “Cô đồng”
Căn
số và hầu đồng
1. Thế nào
căn số:
Căn vốn có nghĩa đen là gốc rễ
(rễ cây),nó còn có nghĩa bóng để chỉ căn do (nguyên nhân) của sự vật hiện
tượng.
Số là số mệnh, số phận của con
người (Thể hiện trong lá số của Tử vi có 8 thiên can và địa chi: Giờ sinh-ngày-tháng
–năm sinh thường gọi là Bát Tự ).
Quả là kết quả có được theo
Luật Nhân quả. Các nghiên cứu chỉ ra rằng số mệnh con người do con người tạo ra
trong kiếp sống (con người có nhiều kiếp), do thiên cơ định sẵn và cho các linh hồn đi đầu thai và sinh ra
làm con người , đầu thai ở đâu là do
trời định. Đạo Phật không có quan niệm số mà chỉ có quan niệm về “luật nhân quả”
:gieo nhân nào gặt quả đó, không có chuyện số phận do một thế lực siêu nhiên
nào tạo ra.Thông thường người Việt Nam vẫn tin cả số mệnh và luật nhân quả.Vậy
căn số có thể hiểu là số phận con người không phải ngẫu nhiên mà đã được định
trước bị chi phối bởi quy luật nhân quả ( người ta còn gọi là căn quả). Luật
nhân quả xét tới cả tiền kiếp và hậu kiếp. Khi xem xét tam kiếp (ba sinh): tiền
kiếp-hiện kiếp- hậu kiếp (kiếp trước , kiếp này và kiếp sau gọi chung “Ba sinh”) Phật giáo giải thích được chuyện
có người ăn ở lương thiện mà vẫn nghèo khổ, xui xẻo ,kẻ phá bĩnh làm việc ác mà
vẫn sung sướng chưa bị quả báo là do họ vẫn còn nghiệp báo từ kiếp trước và quả
báo chưa hiện ra trước mắt nhưng chắc chắn sẽ hiện ra
2. Căn đồng số lính, căn tứ phủ.
Căn đồng số lính có thể hiểu
là số phận của một người đã được định
sẵn là phải ra “hầu thánh” để làm lính (làm người phục vụ),làm đồng bốn phủ.Dĩ
nhiên điều đó cũng tuân theo quy luật nhân quả:gieo nhân nào thì gặp quả đấy,dĩ
nhiên cũng như gieo hạt giống thì đến lúc hạt nẩy mầm thành cây cây ra hoa kết
quả thì cũng còn phụ thuộc vào hoàn cảnh vào tay người chăm sóc,Hạt giống
được chọn để gieo tuy không phải giống tốt nhưng ngày nay chăm sóc tốt cây vẫn có thể ra trái ngon và
ngược lại. Nếu có căn đồng số lính cũng
có thể có trường hợp một người kiếp
trước báng bổ thần thánh, phá hoại đền chùa ,không tin vào nhân quả, không
thành tâm biết ơn các vị thần thánh..hay chế giễu những người đi lễ thành tâm
nơi cửa Phật, của thánh, cũng có thể họ thấy nam giới đi lễ họ chê cười thì
kiếp này có thể họ lại phải đèn hương phụng sự, và phải “ra” bắc ghế hầu thánh. Điều gì cũng có thể sảy ra
.Cũng có thể tiền kiếp tuy ta nhất tâm phụng sự cửa thánh nhưng chưa trọn vẹn
thì kiếp này ta lại tiếp tục phụng sự.Và còn muôn ngàn căn do khác mà ta không
thể biết trước được. Là con người tuy
đã là hạt giống
không tốt nhưng nếu kiếp này ta sống tốt
chăm sóc tốt cho cây “Người” của chúng ta thì nó cũng có thể ra hoa thơm quả
ngọt.
3. Mở phủ: Mở là mở
đầu, phủ là nói về “tín ngưỡng thờ tam tứ phủ”. Tín ngưỡng thờ tam tứ phủ đặc
trưng bởi nghi thức hầu đồng. Mở phủ chính là nghi lễ mở đầu để cho một người
trở thành một đồng tử (con đồng hay một thanh đồng- một cô đồng- Có thể là nam
cũng có thể là nữ-“đồng” nam hay nữ).Thưc tế vẫn có những người mở phủ mà không
hầu và không mở phủ nhưng vẫn hầu. Nhiều người làm lễ trình đồng tiễn căn, tức
là trình lên tứ phủ để xin thần thánh xem xét về căn đồng của mình và xin tiễn
căn ( thải đồng) hay nói nôm na là trả nợ tứ phủ rồi và xin trở lại là người
bình thường không có đồng bóng gì nữa. (Kết luận: căn mở phủ, căn đồng cũng có
nghĩa như nhau)
4. Vị thánh cai đầu đồng và
cầm bản mệnh .
Người ta cho rằng mỗi người có
một vị thần cai quản số mệnh của mình ( vị thần cầm bản mệnh). Mỗi tín ngưỡng,
tôn giáo..lại có những vị thần khác nhau. Có thể vị thần cầm bản mệnh lại là
chư Phật và Bồ Tát, hay các vị thần trong đạo giáo Trung Hoa như Ngọc Hoàng, Nam
tào tinh quân.....Cũng nhiều sách viết về vị thần cầm bản mệnh nhưng lại nói
danh hiệu về các loài hoa như: Quế Hoa
công chúa, Mai Hoa công chúa...Trong tín ngưỡng thờ Mẫu tam tứ phủ các vị thần
cầm bản mệnh hiển nhiên là các vị thần thuộc hệ thống tam tứ phủ.Các vị đó gồm
quan lớn, chầu bà, thánh hoàng, thánh cô, thánh cậu...Các vị thánh Mẫu được coi
là thần chủ của tín ngưỡng này và với hình tượng uy nghi các ngài được quan
niệm là không cai bản mệnh của ai cả ( mặc dù thực tế vẫn có số ít các thầy bói
phán căn mệnh của một người là căn Thánh Mẫu , hay có người tự nhận là căn Mẫu
được Mẫu báo mộng này nọ...).Các vị thần cầm bản mệnh là cai quản căn số của
một người. Các vị “chấm” đầu đồng cũng có vai trò tương tự nhưng là cai quản về
căn đồng số lính của một đồng tử. “Chấm” đồng cũng giống như chấm lính bắt
lính. Hình dung một người được các quan lại thời xưa chấm lính ( biên tên vào
sổ đi lính) rồi sau đó đến thời hạn các quan lại bắt lính.Về đồng bóng các cụ
xưa có câu:
“Chấm đồng từ thủa mười ba
Đến năm mười bảy phải ra trình đồng”
Các con số có tính chất
thí dụ không mang tính cố định, người ta có thể hát khác đi như:
“Chấm đồng từ thủa lên ba
đến năm muời tám phải ra trình đồng”
Nhiều người quan niệm về mối liên hệ giữa vị thánh căn mệnh của mình và số phận
bản thân mình.Những quan niệm đó đa phần là truyền miệng và cũng không thuyết
phục. Thí dụ như “ghế Cô Bơ” thì tình duyên trắc trở, “căn Ông Bảy” thì mê cờ
bạc, căn “Chầu Bé” thì tính đành hanh, “căn Ông Mười” thì đỗ đạt làm quan to...
Nếu xét về “luật nhân quả” thì quan niệm trên không đúng. Nhưng thưc tế rất
nhiều người sau khi đi xem bói nghe nói mình “căn Ông Bảy” thì bắt đầu tập hút
thuốc, “căn Cô Chín” thì muốn học Tử vi để sau này “bói”, “căn Chầu lục” thì
tập ăn trầu... Mọi người đều muốn chững tỏ mình là căn vị thánh đó. Nhiều người
nói là họ đua đòi là kệch cỡm. Nhưng xét cho cùng con nào cũng muốn giống mẹ
giống cha. Nếu một người “mộ” một vị thánh nào đó thì cũng rất có thể vị thánh
đó là vị thần cầm bản mệnh của họ, bởi lẽ đó cũng là “nhân duyên”.Mọi người rất
muốn biết vị thánh căn mệnh của mình.Có người được mơ thấy thần thánh, đi xem
bói, được người ngồi đồng phán bảo, xem trong sách, hay tự cảm nhận...Để tìm vị
thánh bản mệnh nên tìm hiểu hai chữ “tâm
linh” có “tâm” thì ắt có “linh”.
5. Chữ đồng: Trong tín
ngưỡng thờ Mẫu: thì nghi lễ chính
là: hầu đồng ( hầu bóng, hầu thánh, lên đồng...)
Là một
nghi lễ quan trọng và mang tính đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ. Từ “đồng”
thường có nhiều cách giải thích về chữ “đồng”
( trong đồng bóng) và hầu hết đều cho rằng đồng là người được “bóng thánh”
(hoặc linh hồn) ốp vào . Giải thích chữ “đồng” ở đây giống chữ “đồng” trong từ
chỉ đứa trẻ con là vì khi hầu đồng thì người ngồi đồng giống như chiếc ghế để
thánh ngồi ( từ cốt có nghĩa là xác, có thể quan niệm khi hầu thánh người ngồi
đồng chỉ là xác để chư thánh điều khiển ). Khi đó người ngồi đồng không còn là
chính mình nữa mà mang “hình bóng” của thần thánh (không quan niệm hồn thần
thánh nhập vào và chỉ quan niệm bóng thánh (hình ảnh mà thôi). Người ngồi đồng giống như đứa trẻ
con thơ ngây trong sáng , quên đi cái tôi của mình mà hóa nhập vào hình bóng
thần thánh.
6. Các nghi lễ :Tôn nhang
bản mệnh -Trình đồng tiễn căn- Trình đồng mở phủ ( còn có trình đồng
rồi khất một khỏang thời gian rồi mới ra hầu)
Việc tôn nhang bản mệnh có thể làm với tất cả mọi
người, những ai muốn tôn thờ vị thần bản mệnh để vị đó che chở có thể làm nghi
lễ này. Cuốn sách “Lục Thập Hoa Giáp” (Giải thích quyển sách này không có tác
giả mà thường là gia truyền và là cẩm nang của các “thầy cúng; thầy bói và của
“cô đồng” có ghi vị thần bản mệnh theo 60 Hoa Giáp. Ứng với mỗi người tra năm
sinh thì sẽ ra và không phân biệt hay ghi chú về việc có căn đồng hay không.
Hơn nữa chữ đồng đâu liên quan khi một người tôn nhang bản mệnh. Thông thường
khi làm lễ mở phủ người ta cũng làm lễ tôn nhang bản mệnh cho “tân đồng”,
thường có một bát nhang để tân đồng mang về hương khói hoặc có thể gửi ở đền ,
điện.Nhưng cũng có người mở phủ mà không làm lễ tôn nhang- Họ cho rằng mở phủ
là đã tôn thờ huơng khói tất cả chư vị tiên thánh rồi. Về căn đồng nhiều người
giải thích là nợ tứ phủ và phải ra trình đồng để giả nợ. Nôm na là nợ đồng thì
phải trình đồng. Có người trình đồng mở phủ và có người trình đồng tiễn căn.
Trình đồng tiễn căn: áp dụng
với những người có đồng nhưng không có điều kiện để mở phủ ( vì sau lễ mở phủ
người ta còn phải hầu đồng tiếp) hoặc không muốn mở phủ, hay quan niệm về nhẹ
căn nhẹ số nên có thể không cần phải hầu còn người nặng căn nặng số thì bắt
buộc phải ra.
Trình đồng mở phủ: xong thì người đó được gọi là “tân đồng” sau
ba năm thì được coi là một “thanh đồng” thật sự thường thì trong ba năm đầu
người ta có thể thay thầy đổi chủ, và khi đủ ba năm kể từ ngày mở phủ thì có
thể coi là yên ổn và không nên mở phủ lại nữa. Các cụ có câu “ba năm thử lính
chín năm thử đồng” có lẽ vì vậy mà sau mười hai năm ( một giáp đồng) thì người
có khả năng hay gọi là “có căn số làm quan thầy” có thể làm một buổi lễ nhận
sắc ấn để làm thầy thiên hạ.
Nghi lễ trình đồng mở phủ và
trình đồng tiễn căn tương đối phức tạp.
7.
Các vị Thánh CẦM BẢN MỆNH
THEO LỤC THẬP HOA GIÁP (theo năm sinh)
7.1Giáp Tý : Hiệu : Vân Trung Từ bi --- Danh : Lợi Minh Công Chúa .
2 - Ất Sửu : Hiệu : Tỉnh Tường Hoàng Nữ --- Danh : Dung Hoa Công Chúa 3 - Bính Dần : Hiệu : Võ Đai Trôi Thủy ---
Danh : Liên Hoa Công Chúa .
4 - Đinh Mão : Hiệu : Nữ Hoàng Tử Uyển --- Danh : Quế Hoa Công Chúa .
5 - Mậu Thìn : Hiệu : Văn Đán Long Nữ --- Danh : Liểu Hoa Công Chúa .
6 - Kỷ Tỵ : Hiệu : Cường Thọ Côn Lôn --- Danh : Diêu Huyền Công Chúa .
7 - Canh Ngọ : Hiệu : Thành Khí Thiên Đô --- Danh : Bạch Hoa Công Chúa 8 - Tân
Mùi : Hiệu : Ích Hậu Kim Hoa --- Danh : Ngọc Nữ Công Chúa . 9 - Nhâm Thân :
Hiệu : Tinh Đào Khánh Thổ --- Danh : Tử Công Công Chúa .
10 - Quý Dậu : Hiệu : Tử Vi Tinh Đẩu --- Danh : Thái Hoa Công Chúa .
11 - Giáp Tuất : Hiệu : Thánh Nhật Trọng Nê --- Danh ; Tôn Bá Công
Chúa 12 - Ất Hợi : Hiệu : Thánh Tiền Hoàn Luận --- Danh : Liểu Hoa Công Chúa 13
- Bính Tý : Hiệu : Tinh Lọng Cọng Minh --- Danh : Diệu Thanh Công Chúa .
14 - Đinh Sửu : hiệu : Vũ huyền Bạch Long --- Danh : Diệu Liên Công
Chúa 15 - Mậu Dần : Hiệu : Thái Cực Liểu dương --- Danh : Hoàng Hoa Công Chúa .
16 - Kỷ Mão : Hiệu : Lợi Minh Từ Quang --- Danh : Diệu Minh Công Chúa 17
- Canh Thìn : Hiệu : Tiên thánh Thái tinh --- Danh : Long Nữ công Chúa 18 - Tân
Tỵ : Hiệu : Diệu Châu Cửu trùng --- Danh : Tiên Nữ Công Chúa . 19 - Nhâm Ngọ :
Hiệu : Băng Sa Bổn Thạch --- Danh : Quý Nữ Công Chúa . 20 - Quý Mùi : Hiệu :
Minh Diệu Tuyên Xuân --- Danh ; Huyền Nữ công Chúa .
21 - Giáp Thân : Hiệu : Bạch Ba Vạn Phước --- Danh : Huyền anh Công
Chúa
22 - Ất Dậu : Hiệu : Nguyên Trai Minh Nguyệt --- Danh ; Hằng Nga công
Chúa .
23 - Bính Tuất : Hiệu : Viên Quan Tử Uyển --- Danh : Liên Ba Công Chúa
. 24 - Đinh Hợi : Hiệu : Ngọc Quế Bạch Long --- Danh : Mai Ba Công Chúa. 25 -
Mậu Tý : Hiệu : Dương Liểu minh Thọ --- Danh : Phước Sanh Công Chúa .
26 - Kỷ Sữu : Hiệu : Vân Trung Quỳnh Hoa --- Danh : Ngọc Nữ công Chúa
. 27 - Canh Dần : Hiệu : Viên thái Hòa Châu --- Danh : Lãnh giang công Chúa 28
- Tân Mão : Hiệu : Vạn Hoa Lãnh Lộc --- Danh : Tá Minh công Chúa . 29 - Nhâm
Thìn : Hiệu : Thiên Phương Tỳ Đơn --- Danh : Vương Mẫu Công Chúa .
30 - Quý Tỵ : Hiệu : Cửu Trùng Mai Ba --- Danh : Trai Minh Công Chúa .
31 - Giáp Ngọ : Hiệu : Vạn Hiệu Thiên Dung --- Danh : Lạc Đẩu Công Chúa 32 - Ất
Mùi : Hiệu : Minh Thánh Thành Chúc --- Danh : Chức Nữ Công Chúa .
33 - Bính Thân : Hiệu : Dung Nhan Biện Lộc --- Danh : Liên Ba công
Chúa . 34 - Đinh Dậu : Hiệu : Ngọc Quế Bạch Ba --- Danh : Trường Xuân Công Chúa
.
35 - Mậu Tuất : Hiệu : Ngọc Minh Hồng Phương --- Danh : Nương Ba công
Chúa .
36 - Kỷ Hợi : Hiệu : Bạch Vân
Nhan minh --- Danh : Đào Hoa Công Chúa . 37 - Canh Tý : Hiệu : Ngọc Đức Diên
Thọ --- Danh : Quang hoa công Chúa . 38 - Tân Sửu : Hiệu : Tứ thánh Thông minh
--- Danh : Trường sanh công chúa
39 - Nhâm Dần : Hiệu : Vạn Ứng Bạch Ba --- Danh : Long tuyền công Chúa
40 - Quý Mão : Hiệu : Trung thế Xuân Dung --- Danh : Hồng hoa công Chúa 41 -
Giáp Thìn : Hiệu : Dung Cát Trung Thiên --- Danh : Vân Tiêu Công Chúa .
42 - Ất Tỵ : Hiệu : Phú Đức Bửu
Hoa --- Danh : Đồng Dương công chúa . 43 - Bính Ngọ : Hiệu :Ngọc Thụy Quang
Minh --- Danh : Trường Sanh công chúa .
44 - Đinh Mùi : Hiệu : Cơ Huy Diêu Trì --- Danh : Huyền Nữ Công Chúa .
45 - Mậu Thân : Hiệu : Minh dung huyền Nữ --- Danh : Vạn xuân Công Chúa .
46 - Kỷ Dậu : Hiệu : Ngọc Tường Từ Bi --- Danh : Hảo Lâm Công Chúa .
47 - Canh Tuất : Hiệu : Tiên Lạc Bảo An --- Danh : Ngọc Chơn Công Chúa . 48 -
Tân Hợi : Hiệu : Tiên Đô Hán Hoàng --- Danh : Tử Ba Công Chúa .
49 - Nhâm Tý : Hiệu : Khánh Minh Ngọc Quý --- Danh : Đức Thắng Công
Chúa .
50 - Quý Sửu : Hiệu : Phó Lợi
Đại Quan --- Danh : Vân Ba Công Chúa .
51 - Giáp Dần : Hiệu : Ngọc Bảo Thái Dương --- Danh : Quyền Tinh công
Chúa .
52 - Ất Mão : Hiệu : Đức Ngọc Diêu Đài --- Danh : Lãng Giang công Chúa
. 53 - Bính Thìn : Hiệu : Ngọc Chơn công chúa --- Danh : Nữ Thái Ba công Chúa .
54 - Đinh Tỵ : Hiệu : Liên Ba Đại Vân --- Danh : Nhọc Nữ công Chúa .
55 - Mậu Ngọ : Hiệu : Ngọc Nữ xuân dung --- Danh : Vân Trung công Chúa
56 - Kỷ Mùi : Hiệu : Khánh Linh ngọc nữ --- Danh : Bạch Ba công Chúa .
57 - Canh thân : Hiệu : Chơn Minh Thái Huyền --- Danh : Hằng Nga công Chúa .
58 - Tân Dậu : Hiệu : Bạch Vân Quỳnh Hoa --- Danh : Chức nữ công chúa
. 59 - Nhâm Tuất : Hiệu : Hồng Phương Nương Ba --- Danh : Liểu Hoa công chúa .
60 - Quý Hợi : Hiệu : Xuân Dung Liên Ba --- Danh : Thiên Thọ Công Chúa
.
8.CÁC VỊ THÁNH CẦM BẢN MỆNH THEO THẬP NHỊ GIÁP (theo chi năm
sinh)
8.1. Tý niên: Nam thủ mệnh:
Mai Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Hồng Hoa Công Chúa
8.2. Sửu niên: Nam thủ mệnh:
Hồng Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa
3. Dần niên: Nam thủ mệnh:
Anh Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Hoàng Hoa Công Chúa
4. Mão niên: Nam thủ mệnh:
Quế Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa
5. Thìn niên: Nam thủ mệnh:
Lộc Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Lộc Hoa Công Chúa
6. Tỵ niên: Nam thủ mệnh:
Hồng Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Bạch Hoa Công Chúa
7. Ngọ niên: Nam thủ mệnh:
Anh Hoa Công Chúa - Hiệu : Thành Khí Thiên Đô --- Danh : Bạch Hoa Công
Chúa
8. Mùi niên: Nam thủ mệnh:
Hồng Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Bạch Hoa Công Chúa
9. Thân niên: Nam thủ mệnh:
Hằng Nga Công Chúa - Nữ thủ mệnh Sơn Nga Công Chúa
10. Dậu
niên: Nam
thủ mệnh: Thượng Thiên Công Chúa - Nữ thủ mệnh Thủy Tiên Công Chúa
11. Tuất
niên: Nam
thủ mệnh: Tố Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Thanh Hoa Công Chúa
12. Hợi
niên: Nam
thủ mệnh: Bảo Hoa Công Chúa - Nữ thủ mệnh Châu Hoa Công Chúa
9.
THẬP NHỊ THẦN TƯỚNG DƯỢC XOA HỘ MỆNH THEO THẬP NHỊ GIÁP
- Cung Tỳ La là hóa thân
của Di Lặc Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Hợi.
- Phạt Chiết La là hóa
thân của Đại Thế Chí, là thần hộ mạng tuổi Tuất.
- Mê Súy La là hóa thân
của Phật Di Đà, là thần hộ mạng tuổi Dậu.
- An Để La là hóa thân
của Quán Thế Âm, là thần hộ mạng tuổi Thân.
- Át Nể La là hóa thân
của Ma Lợi Chi, là thần hộ mạng tuổi Mùi.
- San Để La là hóa thân
của Hư Không Tạng, là thần hộ mạng tuổi Ngọ
- Nhân Đạt La là hóa
thân của Địa Tạng Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Tỵ.
- Ba Di La là hóa thân
của Văn Thù Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Thìn.
- Ma Hổ La là hóa thân
của Phật Dược Sư, là thần hộ mạng tuổi Mão.
- Chân Đạt La là hóa
thân của Phổ Hiền Bồ tát, là thần hộ mạng tuổi Dần.
- Chiêu Đổ La là hóa
thân của Kim Cang Thủ, là thần hộ mạng tuổi Sửu.
- Tỳ Yết La là hóa thân
của Phật Thích Ca, là thần hộ mạng tuổi Tý.
Căn số được làm Thầy
1. Giải quyết vấn đề rất nhiều người quan tâm. Tại sao phải soi Căn là gì?.
Soi
Căn để làm gì ?
Khai
Căn là gì?
Làm
thế nào để biết được Mình có Căn?
Có
nhiều người hỏi. Sao khi đến cô đồng hay “Thầy” bói nói là soi
có Căn ....? Nhiều người muốn
biết căn mình là ai?
*Nói rõ thêm Căn là gì?
Căn (根) là từ Hán
Việt, có nghĩa là gốc rễ, nguồn gốc. VD: căn bản, căn nguyên, căn cơ, căn cứ
v.v… Căn cũng là cách nói tắt của Căn Số (Destiny) có ý nghĩa như số phận. Mỗi
con người khi mất đi theo dân gian có một
“Linh Hồn” có đặc điểm khác nhau, có nhiệm vụ khác nhau, khi “Linh Hồn”
đó tái sinh và hiện thân trong một “Đời Người” nào đó sẽ thể hiện những đặc điểm đó, thực thi nhiệm
vụ đó. Ví dụ: “Linh Hồn nghệ sĩ” sẽ giàu cảm xúc, giàu tưởng tượng, và sẽ trở
thành văn nghệ sĩ, ca sĩ, họa sĩ, diễn viên, làm công việc văn hóa nghệ thuật
v.v…
“Linh
Hồn quân sự” sẽ dũng cảm, quyết chiến quyết thắng, và sẽ là những sĩ quan,
chiến sĩ, phục vụ quân đội v.v…
“Linh
Hồn tâm linh” có trực giác nhạy cảm, lòng nhân hậu, từ tâm, có khả năng đặc
biệt, và sẽ trở thành linh mục, nhà sư, nhà thực hành tâm linh v.v…
“Linh
Hồn gian ác” sẽ luôn mang hận thù, tàn phá, bất lương, và sẽ trở thành bố già
mafia, xã hội đen, đạo chích v.v…
"Những
người được “Thần Thánh” chọn phục vụ cho “Thần Thánh” phải là những người có
thiên căn, có khả năng đặc biệt, có khả năng thu nhận được thông tin từ thần
thánh dưới dạng thiên nhãn, thiên nhĩ, huệ nhãn v.v... Số lượng thần thánh
không nhiều, số lượng đền đài, miếu mạo không nhiều, do đó số người được chọn
không nhiều và không phổ biến rộng rãi trong nhân dân." Vậy tóm lại
không phải ai cũng có căn đúng
không?.
* Soi căn là gì? Và soi
căn để làm gì?
Nói cho dễ hiểu
- Soi căn là cách thức tìm ra “tiền kiếp” của người đó (Kiếp trước)?
- Soi Căn nhằm mục đích biết mình có”Linh Căn” không? hay chỉ là “Vong dựa”(Là
vong nhập vào và sai khiến con người có thể làm việc tốt ngược lại làm những
việc xấu...)!
- Soi Căn sẽ chỉ ra người độ mạng của bạn là ai, sẽ giúp bạn thờ phụng
những vị này...?
*Khai
Căn là gì Khai Căn là tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện đúng với số phận
của mình.
Một người
có số mệnh làm nhà sư, nếu được minh sư dẫn dắt, được vào đúng môi trường tu
luyện, và có duyên khai ngộ Phật Pháp, như vậy là đúng Căn Số của mình.
Một
người có Căn Số làm Thầy tâm linh, có trực giác rất tốt, nhưng vì không tin,
hoặc không biết, nên chọn làm những nghề kinh doanh khác như buôn bán, mở cửa
hàng v.v… Buổi đầu có thể làm ăn tốt, nhưng càng về sau càng thu hẹp, mất khách
hàng, bản thân đau yếu liên miên, tài sản vốn liếng gom góp mấy năm trời phải
mang ra hết chữa bệnh, hoặc tự nhiên bị tiêu tán như mất trộm, đánh rơi, đổ bể
v.v…
Một số “Hiện tượng” nói trên gọi là Hành Căn, bệnh
đó gọi là Bệnh Căn, có nghĩa là bị ngăn cản, hành hạ phải từ bỏ công việc hiện
tại không đúng với “quy định”. Từ đó sẽ được dẫn dắt tìm đến công việc đúng với
Căn Số của mình. Như vậy gọi là được Khai Căn.
* Làm
thế nào để biết được Mình có Căn. Trả lời câu hỏi này hãy tham khảo ví dụ giải thích sau: " Theo
tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ,những người có “Căn đồng ; Số lính” là những nggười
căn cao số nặng , người sinh dương thế nhưng số hệ thiên cung,mệnh càn bóng
quế,con cái của cửa Tứ phủ công đồng.Và những người căn cao số nặng như thế sẽ được các ngài “ bắt lính làm đồng” không sớm thì muộn,tùy
theo căn số của từng người. Những người
có căn cao số nặng ấy,vì không biết đến
cửa “ngài” thế là bị hành cho đủ các kiểu: nào là ốm đau bệnh tật nhưng đi chữa
lại ko biết là mình bị bệnh gì cả,nào là bị hành cho dở dại dở điên,nào là công
danh sự nghiệp lận đận,nhân duyên khó thành...Nhưng nếu mình biết đến cửa đình;
cửa thần; tam tứ phủ,cúi đầu đội lệnh, vâng lời thì mọi việc sẽ khác hẳn,bệnh hết,mạnh
khỏe,bình an,công thành danh toại.
Biết ra thời nhẹ như tên
Nhược bằng không biết như thuyền bỏ neo
Hành cho trăm chứng hiểm nghèo
Khi uống thuốc vào lại đổ mồ hôi
Biết Chúa ra lập đàn lễ bái
Tiến hình nhân thế mạng trần gian
Kêu ngay Tiên Chúa ngự đồng
Ngự đền ngự phủ chúa bà truyền tha.
Muốn biết mình là căn số của ai đúng không? Nặng
hay nhẹ,có nhất thiết là phải ra trình đồng mở phủ không? Cái đó thì có nhiều
cách để biết lắm."
Cách nhận biết mình có “căn số”: “Các ngài” báo
mộng"; hoặc do “các ngài” về ốp
đồng vào bạn mà sang tai đánh tiếng"; "hoặc khi ngồi hầu những người
“lên đồng” mà bạn thích xem về giá đó"hoặc có thể là do xem bói mà biết
được"
Nếu xem bói
cũng phải hết sức lưu ý nhé, không phải ai nói gì mình cũng tin hết,
vì có nhiều thầy; thầy này thầy kia mà,
bởi vì bây giờ cũng lắm thầy hành nghề
vì tiền hơn là làm vì tâm để cứu thế độ dân đâu
* Còn
về phần hóa Căn cao số nặng và không mở phủ: Nếu mà bạn không nặng căn lắm, bạn có thể “đội bát nhang” .
Người ta gọi đó là làm lễ tôn nhang bản mệnh(ông thủ đầu đồng,chầu bà quyền
cai bản mệnh).Muốn làm lễ bốc bát nhang bản mệnh,trước hết bạn nên chọn 1 Thanh
đồng đạo quan thật sự có tâm,có đức,lễ bái đầu đuôi hẳn hoi,tử tế, thông thạo
việc thánh. Mình bốc bát nhang ở bản đền bản điện nào là trở thành một con
nhang đệ tử của nơi đó mà. Khi đã “Đội bát nhang” ở đền hay điện nào đó thì vào
các ngày lễ tiệc mình phải đi lễ đầy đủ ở đó thì mới tốt? Cho nên nếu có “căn
cao số nặng mà không mở phủ” thì bạn hãy chọn lựa một cửa đền hay điện cũng như “thanh đồng” nào cho kĩ lưỡng
vào, bởi không phải thanh đồng nào cũng
làm đúng phép cửa thánh cả; mà chủ yếu là thu tiền cao.Sau khi “đội bát
nhang” xong thì mình sẽ phải trình dầu
(trước là trình dầu,sau là trình lính,cho cửa cha biết mặt,cửa mẹ biết tên); Đó
là vào các ngày lễ tiết,tiệc cha,tiệc mẹ,mình sẽ đến nơi đó,trước là lễ bái
Phật thánh,sau là để trình dầu,thì người mình mới thanh thản,nhẹ đồng nhẹ bóng
được.
Trường hợp: Người
“nặng căn nặng số” quá mà chưa có điều kiện để ra trình đồng mở
phủ,”bắc ghế cha ngồi, bắc ngôi mẹ ngự” được thì bạn có thể lập đàn để xin tiễn
căn khất đồng. Có nhiều người ngay từ khi
17 tuổi nhưng vì căn cao số nặng
chưa ra đồng được nên cũng làm đại lễ tiễn căn khất đồng, đầu hàng tam
tứ phủ. Những người này khi tuổi còn trẻ
“ xin khất” để đi xây dựng đất nước ; phát triển công danh sự nghiệp,sau
này công thành danh toại mới xin lo liếu
việc thánh và khi đó sẽ “ra trình đồng mở phủ” để lo việc “Thánh”. Cuộc đời
phía trước còn dài nếu phải ra “trình đồng mở phủ” thì còn nhiều cái phải lo
lắm, chưa lo được việc “Thánh”. (Còn nếu cha mẹ vẫn bắt ra bắc ghế hầu thánh
thì đành phải ra đồng thôi,chứ không chống lại được đâu.Nhưng quan trọng là bạn
phải nhất tâm tin tưởng phật thánh thì mới thành công được vạn sự).Vì những
ai căn cao số nặng, lại là “con cái phật
thánh” nên “các ngài” vẫn bắt ra hầu “Thánh”. Những người có “Căn đồng ;số
lính” nếu có ra “trình đồng mở phủ” thì
phải làm những việc thiện còn nếu có giúp người đời thì có thể “làm ơn
mắc oán, làm phúc phải tội” , thuờng phải thiệt mình, làm công việc thường gặp
khó khăn (kể cả công việc lễ bái nữa) dù biết là như vậy nhưng vẫn cứ phải làm,
làm như thế là để trả nghiệp đấy. Những người mang “căn đồng số lính” thực sự
chẳng có ai sướng cả, bởi là bóng hình của nhà Thánh, thì rõ là một bản sao của
cảnh đời nghiệt ngã, buồn khổ, oan nghiệt, của những ngôi vị được trăm họ suy
tôn về bản chất Thánh thiện. mà theo đạo bốn phủ thì đứng đầu là thánh mẫu Liễu
Hạnh. Còn nếu về nhà Trần thì lại khổ cảnh chinh chiến của binh sỹ, cảnh hy
sinh bản thân cho mọi người được an lành.
Nói chung , nếu những người là đồng
thật, bóng thật của nhà Thánh, thì chẳng mấy ai thoát khỏi cảnh vất vả khốn khổ
khi chưa hoàn thành sứ mệnh mà định mạng an bài. Họ vốn là bóng hình trùng lập
đồng dạng, đồng bản chất căn cơ của các vị Thánh nhân có thực, được “trăm họ
nhân gian” suy tôn những tấm gương đạo đức trong cảnh đời đau thương nghiệt
ngã.Và khi thanh đồng đạo Thánh làm tròn sứ mệnh phát dương được chính đạo, thì
lúc đó cũng là lúc danh thơm của Thánh nhân đến với thanh đồng.
Còn những ai có nhiều tiền của hầu Thánh để cầu may một
cách trang trọng thì phải chấp nhận đem của cải của mình ban phát cho mọi người
qua những “vấn hầu đồng” một cách Thánh thiện, mới mong có được sự phù độ của
Thánh đạo. Còn những thứ buôn thần bán Thánh thất đức gạt lừa mọi người bằng
cái uy của đạo Thánh để làm tiền hay vì một mục đích nào đó bất thiện thì sẽ
khốn khổ đến cả đời con cháu, chứ chẳng có kết cục tốt đẹp gì.
Người có căn số cơ duyên với nhà Thánh
được Thánh đạo cắt cử phải “hầu bóng Thánh” gọi là “Lên vấn đồng” để cứu người
giúp đời, thường bản chất cá tính đồng bóng thất thường, mạnh mẽ, rất rõ nhận biết.
Còn những dạng người khổ ải vì nghiệp chướng của gia tiên bằng những sự khốn
khổ, đen đủi, hoạ này, bệnh kia do gia tiên tiền tổ quả phạt đầy đoạ, do những
cảnh mất mồ mất mả, tuyệt tự phát sinh thì có hầu Thánh cũng chẳng Thánh nào
can dự vào việc nhà của họ được. Trừ khi
vong nhà làm những việc trái với luật trời, sai với phép đất, trái ngược với
đạo đức con người, thì lại phải sử lý theo một cách khác, chứ không phải bằng
hình thức hầu bóng Thánh để giải được nghiệp nhà.
Ngày
nay; tình hình loạn đồng loạn bóng do sự
bùng nổ tín ngưỡng suy tôn “Thánh đạo” của đất Việt Nam một cách không quy
chuẩn đã biến những ngôi đền thờ Thánh thành một hệ vũ trường dơ bẩn, mất đi sự
tôn nghiêm uy linh của đạo Thánh vốn là nền văn hoá tâm linh chính thống của đất
Việt ta, gây ra nhiễu loạn âm phần, phát sinh quỷ quái ngay ở chính nội
đạo. Trước đây chỉ có những con người
thực sự có “căn duyên số mệnh” được thế giới quyền lực trong tâm linh cắt cử
mới ra hầu Thánh, với trọng trách của những thanh đồng làm việc giáo hoá truyền
đạo, phát dương tư tưởng Thánh thiện, cứu người giúp đời bằng phép mầu của
Thánh đạo. Còn hiện nay những vị thanh đồng thực sự là bóng hình của các vị
Thánh chẳng thấy đâu, mà chỉ thấy những cảnh nhảy múa hát ca tung tiền vỗ gối
chiếm dụ gạt lừa lòng người đi vào u mê ngộ tín không có thực Thánh thiện.
Đa phần; Những người bắc ghế hầu Thánh
hiện nay hầu hết chỉ quan niệm việc cung thỉnh “Thánh ngự đồng” để phù độ cho người hầu bóng được tươi vui
mát mẻ làm ăn thuận buồm xuôi gió có tài có lộc tìm kiếm
được nhiều tiền của vật chất mà thôi? Không có được mấy ai thấu hiểu
được trọng trách của các thanh đồng đạo Thánh về việc phát huy chính đạo, cải
hoá và quy chuẩn đạo đức con người hướng về thánh thiện theo đúng tiêu chí của
Thánh đạo. Có những con người đã bắc ghế hầu Thánh đến mấy chục năm cũng chưa
hiểu về giá trị thực sự của Thánh đạo đối với chính bản thân họ và với xã hội
họ đang sống. Đó là bởi vì họ được các vị thầy chỉ biết dậy họ cách múa may
kiểu gì cho đẹp cho oai, chứ chẳng truyền thụ được kiến thức và tư tưởng cao cả
của Thánh đạo. Hầu hết ai ai cũng chỉ coi ông Thánh, bà Thánh là “bảo kê” cho
họ, mỗi khi họ gặp nạn, hay cần sự giúp đỡ bảo hộ về sức mạnh tâm linh để thoả
mãn ham muốn đời người. Những tấm gương Thánh thiện của các vị Thánh hiện giờ
hầu hết chẳng thấy mấy ai có quan điểm noi theo, làm theo lẽ sống và tư tưởng
Thánh thiện của các bậc Thánh.
Những người đồng thầy, hay pháp sư hiện
giờ luôn coi việc tế lễ hầu Thánh là một cái nghề để kiếm tiền, kiếm chỗ đứng,
chiếm lĩnh niềm tin của con người, nhất là những người càng thiếu hiểu biết dễ
bị họ dụ dỗ đi vào cảnh con nhang đệ tử cung phụng cúng thầy, để thầy bà sống
cho thoả mái tạo oai với đời. Cứ theo truyền thống như vậy, đã mấy chục năm nay
kể từ khi những thế hệ thanh đồng của Thánh đạo có trình độ và đạo đức Thánh
thiện cứu người giúp đời để tạo phúc. Họ tạ thế quy tiên không truyền thụ lại
được giáo pháp tâm linh cho con cháu hay đệ tử vì thời thế xã hội không cho
phép, đã khiến đạo Thánh đất Việt Nam rơi vào tình trạng loạn đồng loạn bóng
như hiện tại.
Những cảnh những người đi lễ thời nay
chỉ biết cúng tiền, cúng đồ ăn thức uống bằng cái tâm thành kính. Còn sự hiểu
biết của họ về những ngôi vị họ cúng đáng kính ra sao, uy linh thế nào, tác
dụng và hiệu quả của việc cúng cầu thành bại đến đâu thì không mấy ai biết.
Thầy bà mang trọng trách giắt đường chỉ lối cho trăm họ thì đại đa số cũng mù
tịt về phép Thánh tố linh. Cảnh vẽ vời tốn kém tiền mất tật mang cho những con
bệnh đang hoạn nạn về tư tưởng và cuộc sống, vốn đang đầy giẫy những sự oan
nghiệt đau khổ của đường đời không làm mấy người đồng thầy hay pháp sư Thánh
đạo thấy day dứt lương tâm khi báo hại con bệnh mà mình đang cứu chữa. Mà hầu
hết toàn là những cảnh bịp lừa buôn thần bán Thánh. Những “thanh đồng” đã nhiều
năm mất tiền ngu trong cảnh bị gạt lừa nay lại tiếp nối con đường lừa gạt những
người dân đang gặp khó khăn lúc này. Ông đồng bà cốt thời nay hầu hết chẳng mấy
ai biết mình căn gì số gì mà phải ra hầu
Thánh. Tất cả chỉ biết tin vào người thầy của mình hướng dẫn “Phải ra trình
đồng mở phủ”. Thầy nói làm sao thì nghe làm vậy. Trong khi phép Thánh có những
phương pháp thực sự thuyết phục lòng người một cách triệt để, về vấn đề dò tìm
căn số bằng tâm linh Thánh đạo. Người làm thầy, làm “đồng trưởng” dìu giắt con
nhang đệ tử của mình chỉ cần thỉnh cầu tới các vị Thánh, là các vị thánh sẽ
dáng về báo ứng thẳng vào những con người đang cần tìm biết mình căn nào, số
gì, ngay tức khắc. Nhưng đáng buồn về sự thật thời nay, các vị đồng thầy làm
được việc dò tìm căn số bằng phép Thánh chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Còn
hầu hết hiện giờ toàn là những cảnh đồng ma phán xét. Bản chất Thánh thiện của
đồng thầy thì ít, mà bản chất ma quái lưu manh gạt lừa thì nhiều. Đó là nói
ngay đến những vị đồng thầy đang có những khả năng xem bói cho người bằng giác
quan còn được gọi là được “ăn lộc Thánh”, chứ chưa nói gì đến những đồng thầy
kiểu chẳng có được một chút gì về phép Thánh linh thiêng. Những pháp sư kiểu
biết được vài chữ nho và nghi lễ cổ truyền thì làm trò làm troè, cúng theo bài,
và sử dụng đồng đài âm dương để khẳng định mình làm được việc Thánh để nhận thù
lao, chứ chẳng thấy những pháp sư hiện nay có được phép Thánh thực sự linh
thiêng, báo ứng tức thì để cứu người giúp đời, bắt tà chữa bệnh như những thầy
pháp thời xưa.
Biết được điều đó,lo liệu được việc “Thánh” cho
đến đầu đến cuối thì bạn sẽ thành công vạn sự,trời phật thương thì bạn không
phải lo nghĩ.Chứ không phải ra “trình đồng mở phủ” là để kiếm tiền , thu nặng
tiền của dân cho giàu có; nếu càng thu nhiều thì không trả được “nghiệp” mà lại
tăng “nợ” kiếp sau lại phải trả “khổ vẫn hoàn khổ”? Đối với những người có tâm
và được “Thánh” chọn “Ra trình đồng mở phủ”;
Nếu làm tốt việc đời thì:
“Giơ tay
vái 4 phương trời
Cao xanh không nỡ phụ người có tâm"
Tìm hiểu về Lễ mở Phủ
Lễ
mở phủ còn được gọi là “Lễ ra đồng”
sau khi làm lễ thì người có đồng mới chính thức là ‘một con đồng tứ phủ’.
Trong 3 năm tính từ
ngày mở phủ người đó được gọi gọi là “tân đồng”. sau ba năm tân đồng làm lễ tạ
đàn bốn phủ và được coi là đồng thuộc . Những ngưòi có căn số làm thầy sẽ được
phong quan ( thanh đồng đạo quan) và họ có thể đi mở phủ cho ngưòi khác. Những
ai có khả năng xem bói , bói bằng linh cảm thì thường khi mở phủ có đàn chúa
bói và cách thức mở phủ có hơi khác bình thường một chútt ; người ta gọi những con đồng này là đồng
bói.... “Tân đồng” khi làm lễ mở phủ phải chuẩn bị rất nhiều
thứ trong đó rất quan trọng là phải có “1 khăn phủ diện 1 áo công đồng khăn tấu
hương”.... Khăn áo cũng rất nhiều tùy vào điều kiện họ phải sắm mỗi giá 1 bộ
khăn áo Đây là nguyên tắc chung còn nhiều khi người ta chỉ cần 5 bộ áo dài 5
màu gồm đỏ, xanh, trắng, vàng và xanh lam (hay mượn khăn áo của người khác).
Nhưng đặc biệt là khăn áo công đồng (do tiên thánh sang khăn sẻ áo cho ) không
được mượn và cũng không được cho ai mượn khăn áo đó.
Tiếp đến: Đại Lễ trình đồng.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu thì “lên đồng”
bắc ghế hầu thánh là nghi lễ phổ biến và quan trong .Lễ mở phủ là buổi lễ ra
đồng của 1người có “căn đồng số lính”.Để tiến hành lễ mở phủ đệ tử phải mời về
1 đồng thầy ( người sẽ mở phủ và dạy phép nhà thánh cho tân đồng); và pháp sư
cung văn , tứ trụ hầu dâng cây quỳnh cây quế ( những người thay khăn thay áo
lên hương cho thanh đồng)
Lễ mở phủ về cơ bản
cũng giống như 1 lễ hầu đồng bình thường ; trong lễ mở phủ có các nghi lễ
sau:
- Lễ phát tấu thỉnh
ngũ phưong (lễ mặn)
-
Thỉnh phật tụng ‘kinh Dược sư’
-
Khoa trình đồng tứ phủ( có lễ tam sinh thường là lợn, gà, ngan hoặc lợn gà, cá
(cá rán hoặc cá nướng))
-
Khao sơn trang
-
Khao thiên quan
-
Khao hạ ban ( ngũ dinh)
-
Cúng chúng sinh
-
Có nơi còn có khoa cúng Trần triều
Sau đó đồng thầy mới vào hầu thánh và làm lễ
mở phủ cho đồng mới
Trong
tín ngưỡng Tứ phủ có nhiều khoa cúng khác nhau như khoa cúng Phật, khoa cúng
Mẫu, khoa cúng Tứ phủ trình đồng (dành cho người bắt đầu xin gia nhập tín
ngưỡng Tứ phủ để đi hầu bóng), khoa Tam phủ đối kháng (cúng để xin cắt tình
duyên cho người người trần khỏi cõi người âm), khoa Tam phủ thục mệnh di cúng hoán
số (cúng Nam tào Bắc đẩu để xin đổi số, phê cho số trường sinh), Cúng Thục án
Diêm Vương, cúng trăm phù cửu đỉnh, là những đàn cúng cho người mười phần chết
tám v.v.. Người ta thường cúng khoa cúng Phật (nếu đền thờ vọng Phật), khoa
cúng Mẫu, hoặc cúng chung cả hai khoa cúng trên gộp thành khoa cúng Phật-Mẫu.
Nội dung khoa cúng có thể chia làm ba phần. Phần đầu để khai quang đàn tràng,
dâng hương Phần giữa với mục đích để thỉnh chư Phật, chư Thánh theo thứ tự từ
cao xuống thấp. Phần cuối mời chư Phật, chư Thánh an tọa, thụ hưởng và cuối
cùng các vị thần trở lại nơi mình ngự trị.
Trong lễ trình
đồng,đồng mới có thể mời pháp sư làm lễ trung cúng và tiểu cúng hoặc có thể làm
lễ đaị cúng. Trong lễ đại cúng có múa Sái tịnh với ý nghĩa làm sạch sẽ đàn tràng
là một hiện tượng văn hóa khá độc đáo trong khoa cúng Phật-Mẫu. Pháp chủ mặc áo
cà sa năm điều, đội mũ thất Phật. Một tuần Sái tịnh gồm múa khai hoa, kết ấn,
múa vòng thuận nghịch, thư chữ trong chén ngọc chản, cầm cành dương liễu vảy
sái chữ tâm.Trong khoa cúng, ngoài am hiểu khoa giáo, các thầy cúng cũng phải
sử dụng các nhạc cụ thích hợp chư chuông, trống, bạt ,thanh la.... Mỗi thầy
cúng đảm nhiệm ít nhất một nhạc cụ. Vị trí ngồi trong dây của họ bị chi phối
bởi sự sắp xếp theo quy định của các nhạc cụ. Thông thường, pháp chủ sẽ đảm
nhiệm một mõ, một chuông. Người đầu dây tả đảm nhiệm trống canh, người thứ hai
chơi trống cái, người thứ ba gõ thanh la. Người đầu dây hữu chơi tiêu cảnh,
người thứ hai xóc đôi nạo và người thứ ba gõ bạt
LỄ PHÁT TẤU thỉnh năm vị sứ giả đồ lễ 1000
vàng ngũ phương( 5 màu)
5 ngụa bé +5 xiêm y +mũ +hài
Lễ mặn Mâm phát tấu gồm
5 trứng năm mầu
5 vở+bút ( ngày xưa dùng bút lông có thêm
thỏi mực tàu còn bây jừ dùng bút bi cho tiện)
5 gương +5 lược
5 khăn bông+5 khăn mùi xoa
5 quạt 5 màu
5dao+5 kéo+thuốc lào
5 nứoc hoa + 5 bật lửa
Thỉnh phật tụng kinh dựoc sư
Trong lễ mở phủ quan thầy
hầu 6 giá quan trọng nhất để mở phủ là 5 giá quan và giá chầu đệ nhị. Ngoài ra
còn hay thấy hầu giá đức ông Trần triều và chúa nguyệt hồ . Trong ngũ vị tôn
quan thường là 4 vị quan từ quan đệ Nhất tới quan Đệ tứ mỗi quan mở 1 phủ tưong
ứng và quan tuần tán đàn có nơi quan đệ nhất chỉ chứng đàn quan đệ nhị mở 2
phủ; quan tam mở 2 phủ lại cũng có nơi quan đệ tam và quan đệ tứ mỗi vị mở 2
phủ. Thường mỗi phủ có 1 mâm lễ và 1 chén nước tựơng trưng cho mỗi phủ khi mở
phủ các quan về chứng lễ và dùng gáo để đập ché và tưới nước tắm cho đồng
mới (đây là tượng trưng thôi; còn bây giờ thì
dùng nước hoa phun lên đồng mới).
Mâm bốn phủ có các lễ vật giống mâm phát tấu
với số lượng đồ lễ là trai 7 gái 9
Ngoài ra còn có cầu giấy 4 mầu và khăn 4 phủ( 4 mầu)
Gạo muối cau tiền
Mâm sơn trang đồ lễ gồm 13 ( hoặc 15 phần)
Gồm 1 đĩa nếp cẩm. 1 quả dừa tôm cá mực cua
cành măng tưoi ....
Mâm sơn trang dâng cô bé thuong gồm chanh ớt
gừng dứa ,,,
Mâm sơn trang dùng để chứng đàn gồm 13 quả
trứng xanh và đồ lễ gần giống mâm phát tấu
*Trên ban công đồng thường đượcc bày như sau:
Mũ Ngọc Hoàng, mũ quan Nam Tòa Bắc Đẩu mũ bình thiên
Mũ các quan 5 bài vị 5 màu bốn phủ (đỏ xanh vàng trắng tím) 1 bài vị bản mệnh
mầu hồng
Bày bốn mâm bốn phủ cùng với 4000 vàng bốn phủ tưong ứng và 4 chén nướcc 4 phủ
đựợc bịt kín bằng giấy trang kim hoặc giấy 4 màu tưong ứng với bốn phủ
4 gáo nước ( hoạc 2 gáo nếu chỉ có 2 quan về mở phủ)
Long chu phựong mã
Đại mã dâng các quan
1 ngựa đỏ thiên phủ
1ngụa xanh nhạc phủ
1 thuyền rồng trắng,tam đầu cửu vĩ
1 voi vàng địa phủ
1 ngụa tím dâng quan tuần
Trên ngựa có tráp áo
5000 vàng năm mầu dâng các quan
Rắn nghê và 5 hình nhân 4 hình nhân bốn phủ 1 hình nhân hồng bản mệnh
dâng sơn trang
4 toà sơn trang 4 màu (xanh,đỏ,trắng,vàng), mỗi toà gồm 1 hình chúa bà ngồi
trên bệ,2 hình chầu cầm quạt chầu vào,12 hình cô, 1 thuyền nhỏ,1 bè nhỏ,1 thoi
nhỏ,1 núi giùm,1000 vàng đại,1000 vàng cô 12,1bộ hải sảo
Thường chỉ dâng tòa sơn trang màu xanh
Dâng 3 tòa chúa bói cũng giống tòa sơn trang nhưng thường nhỏ hơn 1 tý
Dâng ông hoàng
3 ngựa 3 màu trắng,tím, vàng, nhỏ hơn ngựa dâng các quan lớn 1 chút
Tráp áo và 3000 vàng 3 màu trắng, tím, vàng
Dâng 5000 vàng để dâng 5 cô: Cô Đôi; Cô
Bơ; Cô Sáu; Cô Chín; Cô Bé
Dâng cậu 2 ngựa nhỏ hơn ngựa dâng Ông Hoàng màu trắng và xanh; cùng vàng hoa
dâng Cậu Bơ và Cậu Bé.
Có nơi dâng cả mã Trần triều gồm ngựa tráp áo đỏ + vàng thiếc.
KHOA CÚNG TRẦN TRIỀU
* Hương Phụng hiến : Cúng dâng Trần triều thánh anh linh, đệ tử kiến tương
hương phụng hiến, cung kỳ uy đức giáng hương duyên,
Khẩn thiết lễ thành thỉnh nguyện.
Nguyện thùy phúc lộc vĩnh thiên niên
Nam mô hương vân cát Bồ tát ma ha tát ( 3 biến )
* Thiết dĩ hương hoa đấu thể, đăng chúc giao huy, lụ bài biện, chi phật nghiêm,
khủng vãng lai chi uế trược. Tư bằng pháp thủy tiêu sái đàn tràng, giao hữu
tịnh uế chân ngôn cẩn dương trì tụng .
- Bích thủy uyển chung hàm tố nguyệt
Lục đương chi tán tận trân châu
- Kim tương nhất trích sái đàn tràng
Cấu uế tinh đàn tất thanh tịnh.
* Án bắc đế tra thiên thần la na địa tra sa hạ ( 3 biến )
Nam mô Thanh lương địa Bồ tát ma ha tát ( 3 biến )
* Thiết dĩ chân hương tài nhiệt, cảm thông thanh đức dĩ giao văn, tín lễ cung
trần, ngưỡng hà thân quang nhi động giám,dĩ kim phần hương hiền thành nghinh
thỉnh. Trần triều hiển thánh nhất thiết uy linh, tất chượng chân hương , động
thùy chiếu giám !
Cẩn tấu! Việt nam
quốc,.....Tỉnh......huyện.....xã........Thôn( Địa chỉ )
Mông ân đệ tử : ............................(
tên ) phao sinh nhân thế, cửu thác thánh môn hân chiêm lợi vật chi nhân, quảng
tế quán sinh chi trạch, ngưỡng tài bồi trung hậu, chúc hương hoa kiền cúng chi
sích lễ vu phàm dân, tài nhi tiến bạt. Giáo hưữ nhiên hương cẩn dương trì tụng:
- Dục đạt thánh vương thân lễ thỉnh
Tiên bằng ngũ phận bảo hương yên
Nguyện văn tẩu nghệ vi phu trần
Phổ vị phàm tinh lai giáng phó.
* Nam mô Tam mẫu đá một đà Lẫm án phạ nhật, địa tra sa hạ (
3 biến )
Thiêt dĩ hạnh phùng cốc đán,quảng thuyết hương duyên,cung kỳ thánh đức dĩ lai
lâm.ngưỡng vọng tôn nhan cj dám cách,kiền thân tố khẩn,, thệ đại đức, dĩ vô tư,
cẩn bạchđan thành hai hồng chi hữu chuẩn,phàm tâm bất cách tuệ nhân giao trì,
giáo hữu phụng thỉnh chân ngôn trì tụng :
+ Dĩ thử lnh thanh thân triệu thỉnh
Nguyện kỳ hiển thánh tất giao văn
Ngưỡng bằng bí ngữ lục gia trì
Kim nhật kim thời lai giáng phó
Nam mô bộ bộ đế lị già lị đá lị đát đa nga đá
gia !( 3 lần )
Thượng lai phụng thỉnh chân ngôn tuyên dương
dĩ kính đệ tử kiên tương kiền thành nghinh thỉnh .
Nhất tâm phụng thỉnh di la hóa cảnh đản giáng
sinh ư cực lạc tịnh bang tống ngự huyền đo thủy củng ư ngọc kinh sơn thượng thi
nhân bá đức gượng đế hiển sinh, lợi vật an nhân hoàng thiên tư mệnh .
Cung duy linh thiên chí tôn Ngọc hoàng thượng
đế, Thái thượng tam nguyên tam phẩm tam quan, Đại đế Nam cực Bắc đẩu,Trường
dinh tử vi đại đế,tam thánh đế quân, Tứ phủ vạn linh, nhất thiết liệt vị uy
linh thánh chúng.
Duy nguyện khúc thủy thiên nhân vạn lý chiếu
lâm giáng phó đàn tràng chứng minh công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh,Thiên trường tôn phái
vương thất khoán thân an ấp thân phong thoái thủ phan vương chi lễ, sứ giả vi
thiện biệt chuyển đông bình chi phong, thời, Giáp tý đầu sơ vận phùng ngữ bách
dạ ứng thanh tiên nhất mông, thiên đàn thánh nhân,sát thất linh nguyên xuất
nhập tôn ngô chi thao lược, khôi cương phọc tà hiện ngoạn cách lý chi đông danh
duy vân phù bẩm chi đặc thù. hậu giác nguyên chi hữu tự, báo bản bách thế bất
vong Dực đức danh nhân thiên thu bất nhị. Cung duy trần triều khải thánh hiển
hoàng khâm minh đại vương tị tiền .
Sơ lược về: “Đạo mẫu” và tín ngưỡng
thờ Tam phủ -Tứ phủ
Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian
có từ lâu đời và đặc biệt là rất thuần Việt , nói đến “Đạo Mẫu” người ta có thể
liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn là
Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu , tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu , người ta không chỉ thờ
riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh (Mà người ta
thường gọi làTam Phủ Công Đồng Tứ Phủ Vạn Linh) với một trật tự chặt chẽ mà
trật tự này được thể hiện trong các giá hầu đồng người ta thỉnh các vị Thánh
Mẫu , Chúa Bà , Quan Lớn , Chầu Bà , Quan Hoàng , Tiên Cô, Thánh Cậu theo trật
tự nhất định. Giới thiệu sơ qua hệ thống các vị thánh thần trong “Đạo Mẫu''
Trong các đền phủ của Đạo Mẫu , luôn có
rất nhiều ban thờ các vị thần thánh , và trước tiên ta phải kể đến vị thần tối
cao nhất là NGỌC HOÀNG , tuy nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC
HOÀNG mà chỉ thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu ,còn khi thỉnh đồng hay hầu đồng , người ta chỉ
thỉnh các vị thánh từ dưới đây:
I. Tam Tòa Thánh Mẫu:
Nếu không
kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của
“đạo Mẫu” ,khi hầu đồng người ta phải
thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác , tuy nhiên có một
điều là khi thỉnh mẫu người hầu đồng không bao giờ mở khăn phủ diện mà chỉ đảo
bóng rồi xa giá ,đó là quy định không ai
được làm trái , và hầu như thế người ta gọi là "hầu tráng mạn" hay
các cụ đồng cao tuổi gọi là "Trải qua xem rạng", sau giá mẫu , từ
hàng Trần Triều trở đi mới đựợc mở khăn hầu đồng , cũng theo sách cổ thì vì ba
giá Mẫu lại hóa thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam , nên
coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu. Ba giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:
1. Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên : Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa hay
chính là Công Chúa Liễu Hạnh .Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi nơi nhưng quần thể
di tích lớn nhất là Phủ Dày , Vụ Bản ,Nam Định ( Mở hội ngày 3/3 ÂL)tương
truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính , Phủ Công Đồng , Phủ
Bóng (Đền Cây Đa Bóng),ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá ,Phủ Tây Hồ ở Hà
Nội
2. Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn : Đông
Cuông Công Chúa.Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn rừng núi. Đền
thờ chính là Đền Đông Cuông ,Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3. Mẫu Đệ Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ
.Tương truyền là vị Thánh Mẫu , con Vua Bát Hải Động Đình ,cai quản các sông
suối , biển , các mạch nước trên đất Nam Việt .Người ta thường lập đền thờ bà ở
các cửa sông , cửa biển để cầu biển lặng sóng yên
II. Chư Vị Trần Triều:
Trong dân
gian ta có câu
"Tháng
tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ"
Mẹ ở đây
là chỉ Mẫu Liễu Hạnh ,còn Cha chính là Đức Thánh Trần Hưng Đạo , một vị cũng
được hầu trong Đạo Mẫu , cùng với một số giá gọi là hàng Trần Triều .Tuy nhiên
theo một số cụ già đồng cựu cho biết thì bên Đạo Mẫu và bên Trần Triều rất kị
nhau , vì thế phải là người đồng nào có căn mạng thì khi hầu đồng mới thỉnh và
hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu , còn không thì thông thường người ta
thường không thỉnh về hàng Trần Triều.
Chư vị Trần Triều gồm:
1. Đức
Thánh Ông Trần Triều: Hưng Đạo Đại Vương , (ông là một trong số 17 vị tướng tài
ba nhất trên thế giới )người ta tôn làm Đức Thánh Trần , giúp dân sát quỷ trừ
ma , trừ dịch bệnh,thế nên ở đâu có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo ông tất
đựoc linh ứng, khi hầu đồng về giá này ,người ta mặc áo bào đỏ thêu rồng ,tay
cầm thanh đao, ngoài ra theo một tục cổ , khi hầu về giá Đức Thánh Ông Trần
Triều , người hầu đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ .Đền
thờ ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc , Chí Linh
,Hải Dương với hội mở ngày 20/8 ÂL ngoài ra còn có đền Bảo Lộc ,Tức Mặc ,Thiên
Trường ,Nam Định
2. Đệ Nhất
Vương Cô
: cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương , khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu
rồng , đội khăn đóng , vấn khăn đỏ phủ lên,tuy nhiên có ít người hầu giá này mà
cũng chỉ tráng bóng , người ta khi hầu về Trần Triều , chỉ hay hầu về Đức Thánh
Trần và Đệ Nhị Vương Cô
3. Đệ Nhị
Vương Cô:
cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương ,khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng
, đội khăn đóng , vấn khăn xanh phủ lên ,có kiếm cờ giắt sau lưng , hai tay
cũng cầm kiếm và cờ ,theo quan niệm , cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà ,
người hầu về giá này thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi
là tiến lửa hay ăn lửa để tróc tà
Trong
hát văn , ca ngợi hai vị Vương Cô(Các bà cụ hầu bóng về hàng Trần Triều thường
tôn xưng Nhị Vị Vương Cô là "Kim Chi Đôi Nước").
III. Tam Vị Chúa Mường:
Trên Toà
Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói,12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng , chỉ thỉnh
ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường , ba vị Chúa này là những người phụ
nữ nhân đức , cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được người
đời nhớ ơn và lập đền thờ :
1, Chúa Đệ
Nhất Thượng Thiên
: Chúa Thượng ,bà là người giúp vua trị quốc an dân , hơn nữa theo quan niệm ,
Chúa Đệ Nhất là người nắm giữ sổ Tam Tòa , trông coi mọi việc nên được tôn làm
Chúa Thượng ,ngoài ra thì những người có tài cúng lễ đều là do bà dạy và ban
lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy đồng, khi về đồng bà mặc áo gấm hoặc lụa
đỏ thêu hoa thêu phượng , và chỉ cầm quạt khai quang,khám xét bản đền,chứng tâm
cho lòng thành của gia chủ đên thơ bà tại tam đảo ? tây thiên
2,
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyết Hồ): Chúa Bói, bà là người có tài
xem bói , tương truyền mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà bấm
đốt tay xem xét , những người xem bói đều phải lập đàn tôn nhang Bà Chúa Đệ Nhị
Nguyệt Hồ gọi là mở đàn Chúa Bói,khi về đồng bà mặc áo xanh, múa mồi.Đền thờ bà
là Đền Nguyệt Hồ ,Phố Kép ,Bố Hạ , Bắc Giang
3, Chúa Đệ
Tam Lâm Thao:
Chúa Chữa , bà còn đựoc gọi là Chúa Ót, bà chúa mồ côi cha mẹ từ bé và bị mù
nhưng bà lại có tài bốc thuốc nam cứu dân ,khi về đồng bà mặc áo trắng , đội
khăn choàng trắng và múa mồi.Đền thờ bà là Đền Lâm Thao,Cao Mại,Việt Trì, Phú
Thọ
IV.Ngũ Vị Tôn Ông-Công Đồng Quan Lớn
Là các vị
quan lớn trong Tứ Phủ , cai quan bốn phương và trung tâm ,đều là các vị hoàng
tử danh tướng , có công với quốc gia .Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính
là gồm 5 vị quan lớn , nhưng ở một số nơi(như Hải Phòng) khi hầu đồng người ta
thỉnh 6 vị sau
1. Quan Đệ
Nhất
:Tương truyền là Tôn Quan Đại Thần ,sắc phong tước Công Hầu , ngôi Thượng Thiên
,khi ngự đồng mặc áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp
2.
Quan Đệ Nhị :Quan Thanh Tra Giám Sát,sắc phong Thái Hoàng ,tương truyền
là người cai quản sơn lâm thượng ngàn , thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà
Bá, Thủy Thần làm mưa gió ,khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng .Đền Quan được ca
ngợi là đẹp nhất trời Nam chính là đền Quan Giám , Lạng Sơn với ngày hội chính
là 10/11 ÂL
3. Quan Đệ
Tam
: Quan Tam Phủ , Bơ Phủ Vương Quan ,sắc phong Thái Tử Đệ Tam , con Vua Bát Hải
Động Đình ,là người nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung ,cai quản Sơn Thoải Đại
Giang ,các con sông trên khắp nước Nam .Cũng theo tương truyền thì ông giáng
trần cứu dân , trở thành vị tướng thủy quân tài ba ,khi ngự đồng mặc áo trắng
thêu rồng , tay cầm song kiếm tung hoành giữa trận tiền , theo truyền thuyết ,
trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu , ông hy sinh , bị giặc chém mất
đầu , chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu , vì thế mới có hai đền
quan hai bên bờ sông Lục Đầu,Hưng Yên là Đền Lảnh Giang _nơi thờ mình và Đền
Xích Đằng_nơi thờ đầu với ngày hội chính là 24/6 ÂL
4. Quan Đệ
Tứ
:Quan Khâm Sai,sắc phong Thái Tử Thiên Cung , là người quản cai Tam Giới Tứ Phủ
,ông cai quản chuyện mười phương trên trời dưới đất , kiêm chi cả đạo phật
thiền gia , khi ngự đồng mặc áo vàng thêu rồng , cũng chỉ làm lễ và chứng điệp
sớ (Tuy nhiên khá ít người khi hầu đồng về giá này )
5. Quan Đệ
Ngũ
:Quan Tuần Tranh ,sắc phong Công Hầu ,là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18
cai quản miền duyên hải sông Tranh , giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do
bị oan khuất nên bị đày về vùng Kì Cùng ,Lạng Sơn ,theo quan niệm dân gian ,
quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời , theo sắc vua phong thì
ông kiêm chi Tam Giới,khi thượng đồng ban dấu cứu dân trừ tà, khi hiển ứng linh
từ thì nổi trận phong vân , thần cơ vang dậy khắp mọi miền, được nhân dân thờ
phụng ở khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh
tại Ninh Giang , Hưng Yên là nơi quê nhà ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng ,
Lạng Sơn là nơi ông bị đày bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa (đã đi vào ca
dao ), khi ngự đồng mặc áo lam thêu rồng cầm long đao , về giúp dân tróc quỷ
trừ tinh, tế độ sinh nhân .Ngày mở hội ông là ngày 25/5 ÂL _là ngày ông bị đi
đày
6.
Quan Điều Thất: Là hàng Quan thứ 7 , giá Quan này chỉ một số nơi mới
thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng , Hưng Yên , Bắc Ninh )ông Điều Thất cũng là
con vua Bát Hải Động Đình ,giáng thế giúp dân, khi ngự đồng mặc áo đỏ điều thêu
rồng
V.Tứ Phủ Chầu Bà
Cũng
như các vị Chúa Mường , các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ cũng là những người phụ nữ
nhân đức hay các nữ tướng có công với dân với nước nên khi từ trần được nhân
dân thờ phụng và được tôn thành các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ , được Vua Mẫu giao
cho cai quản sông núi và mọi việc nhân gian.Hàng Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy
nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau , thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và
thứ 5.Các vị Chầu Bà gồm :
1; Chầu Đệ
Nhất Thượng Thiên
:được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng (Vì Tòa Thánh Mẫu không mở
khăn ngự đồng ), là vị Chầu tối thượng ,đứng đầu hàng Chầu , ngự tại Ngọc Điện
, Thượng Giới ,cũng có khi bà rong chơi Phủ Tía , Lầu Hồng ,vui vẻ ngự trong
Đền Rồng sớm hôm Tuy nhiên cũng khá ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ
Nhất
2; Chầu Đệ
Nhị Thượng Ngàn
:được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị ,bà vốn là Công Chúa Thiên Thai , giáng
sinh Hạ Giới , quyền cai thượng ngàn , quyền cai tam thập lục châu .Khi ngự
đồng chầu mặc áo xanh thêu hoa ,đầu vấn khăn xanh ,cài trâm hoa ,tay cầm mồi
tượng trưng cho bó đuốc đi rừng ,hơn nữa khi hầu về giá này còn có một tục rất
đặc biệt là nghi thức Trình Trầu hay Đội Trầu :các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã
tôn nhang bản mệnh,vào ngày hầu đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới) ,
ngồi phủ khăn đỏ đầu đội mâm trầu cau để"trước trình Phật Thánh sau trình
Vua Cha,trình lên Tứ Vị Vua Bà ,trình đồng Tiên Thánh , trình tòa Sơn Trang ,
trình lên Thập Vị Quan Hoàng ,Tiên Cô ,Thánh Cậu chứng mâm giầu trình "
,khi trình người ngồi lễ phải đặt lên mâm trầu cau 1200 đ hoặc 12000 đ (tùy mỗi
nơi )tượng trưng dâng lên 12 giá chính của hàng Chầu Bà là những vị giúp mình
được đội giầu.Đền thờ Chầu Đệ Nhị chính là Đền Đông Cuông , Tuần Quán , Yên Bái
3; Chầu Đệ Tam Thoải
Cung
:được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam , là Lân Nữ Công Chúa , Ngọc Hồ Thần Nữ ,
vốn là con vua Thủy Tề ,ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn Thoải Cung,Tam Phủ .Bà
được coi là người cai quản các sông suối biển hồ mạch nước trên đất Nam Việt ,
bà độ cho thuyền bè trên sông trên biển được thuận buồm xuôi gió.Câu chuyện về
vị Xích Lân Long Nữ này rất buồn :Bà vốn con vua Thủy Tề Bát Hải Động Đình ,lên
nhân gian kết loan phòng cùng nho sĩ Kính Xuyên,Kính Xuyên đi vắng bà ở nhà
khâu áo ,chẳng may kim đâm vào tay ,bà lấy mảnh vải trắng thấm máu , đứa tì nữ
Thảo Mai nhặt lấy,khi Kính Xuyên về nó vu oan cho bà là ở nhà cắt máu ăn thề tư
thông với kẻ khác ,Kính Xuyên ko nghe bà thanh minh ,một mực đuổi bà đi ,bà
đành phải tìm đường về thủy phủ ,trên đường đi bà ngồi khóc bên vệ đường thì
gặp văn sĩ Hữu Nghị , ông hỏi bà kể hết sự tình ,rồi bà lấy máu ,viết thư kể
hết nỗi oan và từ biệt Kính Xuyên rồi nhờ Hữu Nghị đưa giúp,về phần mình bà ra
bờ biển Đông đến chỗ có cây ngô đồng ,bà rút cây kim thoa trên đầu gõ vào cây ,
tức thì dưới thủy phủ có quan quân xe lọng lên rước bà về , về phần Kính Xuyên
sau khi xem thư , ngộ ra mọi việc , chạy ra bờ biển thì xe loan đã từ từ đưa bà
về thủy phủ ,tất cả chỉ còn lại hình bóng mờ ảo
4;
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai : Bà được phong danh là Chiêu Dung Công Chúa ,
giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân , ngự đồng ảnh bóng khắp miền gần xa,
hơn nữa Chầu cũng là người có quyền tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh là
cũng là người quyền cai bản mệnh gia trung ,khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu
rồng một tay cầm kiếm một tay cầm cờ để đi cứu dân .Đền thờ bà là Đền Khâm Sai
hay Phủ Bà Đệ Tứ( còn gọi làđền Cây Thị )ở Quý Hương , An Thái ,Vụ Bản ,Nam
Định
5;
Chầu Năm Suối Lân : Bà là vị Chầu trên Sơn Trang Thượng Ngàn ,trấn cửa
rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng ,bà có phép thần thông biến lá thành
thuyền ,cứ trăng thanh , hổ báo Chầu hiện về .Chầu ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo
lam thêu hoa cỏ ,đầu vấn khăn chàm tím.Đền Chầu là đền Suối Lân ,ngay bên cầu
Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn ,bên cạnh đền có con suối quanh năm xanh ngắt chính là
Suối Lân
6;
Chầu Lục Cung Nương :Bà là Lê Triều Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn
,cũng như Chầu Năm ,bà trấn cửa rừng Chín Tư ,theo tương truyền Chầu Lục cũng
là người có phép thần thông và rất đành hanh ,thường rong chơi có khi chơi núi
Giùm,Ỷ La ,chầu có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động ,tà ma phách
tán hồn xiêu ,người trần gian ai ko biết ,làm điều sai trái chầu liền qưở ngay
và hành cho bị điên, lúc đó phải sắm nón xanh hài xảo để sám hối đền Chầu. Khi
ngự đồng chầu thường mặc trang phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân .Đền Chầu
lập tại rừng Chín Tư , Hữu Lũng ,Lạng Sơn ,gọi là đền Lũng với ngày mở hội là
20/9 ÂL
7;
Chầu Bảy Kim Giao :Bà cũng là một vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn ,theo
tương truyền bà cũng là vị Chầu Bà của dân tộc Mọi ,bà giúp người dân tộc Mọi
biết làm ăn buôn bán nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ .Khi về đồng Chầu mặc
áo gấm tím .Đền Chầu là Đền Kim Giao ,Mỏ Bạch ,Thái Nguyên
8;
Chầu Tám Bát Nàn :Bà tên thật là Vũ Thục Nương ,quê ở Tiên La ,Đông
Hưng ,Thái Bình .Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà Trưng ,phất cờ khởi nghĩa tại
quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn
(8 nạn ) nên nhân dân suy tôn làm Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch
đi của từ Bát Nạn ),sau này năm 43(SCN) bà hi sinh tại thị trấn Đồng Mỏ ,Lạng
Sơn.Vậy nên hiện giờ có 2 đền thờ bà là Đền Tiên La ,Đông Hưng ,Thái Bình là
nơi quê nhà và Đền Đồng Mỏ ,Lạng Sơn là nơi bà hi sinh .Khi ngự đồng bà mặc áo
vàng ,đội khăn đóng ,sau lưng giắt kiếm cờ ,hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông
pha một mình phá mấy vòng vây Ngày mở hội bà là ngày 17/3 ÂL
9;
Chầu Chín Cửu Tỉnh :Bà là Chầu Cửu (Theo âm Hán :Cửu là chín ,Tỉnh là
giếng nên Cửu Tỉnh dịch là Chín Giếng )cai quản giếng âm dương điều hòa định
thái,khi thanh nhàn bà ngự trên chiếc xe rồng dạo chơi.Khi về đồng chầu mặc áo
hồng ,cầm quạt khai quang .Đền Chầu ngự cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn Thanh Hóa
10;
Chầu Mười Mỏ Ba : Bà là Nữ Tướng trấn giữ ải Chi Lăng ,giúp vua Lê Thái
Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng ,sau lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba
,được triều đình phong công,trẻ già nhớ ơn ,đến cuối thu chầu mãn hạn về thiên
nhưng hàng đêm khi canh ba giờ Tí Chầu hiện ra ,cưỡi trên mình ngựa hiên ngang
oai hùng và lưng đeo kiếm bạc cung vang ,cờ lệnh do vua ban.Khi ngự đồng Chầu
mặc áo vàng ,đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều ,chân quấn xà cạp ,tay cầm kiếm ,tay
cầm cờ hoặc mồi .Đền Chầu là Đền Mỏ Ba ,lập ngay sát ải Chi Lăng ,Lạng Sơn
11;
Chầu Bé Thượng Ngàn :Đây là tên gọi chung các vị Chầu Bà người Thổ
Mường ,hầu hàng thứ 11 ,được coi là các vị Chầu Bé đành hanh nhưng tài phép
,cai quản Tòa Sơn Trang ,có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu cận ,khi về đồng mặc
quầy(váy)& áo (dân tộc )đầu chít khăn thổ cẩm ,chân quấn xà cạp ,vai
đeo gùi tay cầm mồi soi đường .Có rất nhiều vị Chầu Bé ở các Đền khác nhau ,
nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau:
a;
Chầu Bé Bắc Lệ
b;
Chầu Bé Đông Cuông
c;
Chầu Bé Đồng Đăng
d;
Chầu Bé Tam Cờ
12; Chầu
Bé Thoải Cung
:Bà cũng là chầu Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ ko phải trên Thượng như các Chầu
Bé ở hàng thứ 11 ,nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12.Tuy nhiên cũng có rất
ít người hầu về giá này
Như
đã nói ở trên, ngoài 12 vị Chầu Bà chính ,một số nơi , đôi lúc người ta thỉnh
thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5 đó là:
*;Chúa Thác Bờ : đôi khi vào hàng Chầu Bà , người ta
thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc ko thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn
Chúa Thác .Chúa Thác Bờ là bà Chúa người Mường (Nhưng ko thuộc hàng Tam Vị Chúa
Mường ),giáng tại Hoà Bình .Tương truyền Chúa Thác vốn là tiên nữ giáng sinh
tại nơi thắng tích ,dạy người Mường biết trồng trọt ,đánh bắt cá dưới sông Đà
.Khi thanh nhàn Chúa thường bẻ lái dạo chơi khắp chốn ,vượt sông Đà dạo khắp
suối khe ,rong chơi Hang Miếng ,Suối Rút ,Chợ Bờ,Hang Pía ,Chợ Phương Lâm ,Kim
Bôi ,Chầm Mâm ,Yên Lịch và dấu tích còn ghi lại rõ nhất là ở Động Tiên ngay
giữa dòng sông Đà .Khi về đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng ,
có khi lại mặc váy đen áo trắng đai xanh ,bên hông có xà tích bạc ,túi dao quai
,một tay cầm mồi , một tay cầm mái chèo bẻ lái giữa dòng sông Đà cuồn cuộn sóng
dữ .Đền thờ Chúa Thác là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi ,Hoà Bình gần với công trình
thuỷ điện Thác Bà và Hoà Bình ,đường đi rất khó khăn , phải đi bằng ca-nô mới
đến được
*; Chúa Bà Năm Phương :Giá này
thường đựoc hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân .Chúa
được tôn là Chúa Bà Năm Phương Ngũ Phương Bản Cảnh vốn là Bạch Hoa Công Chúa
,sau bị trích giáng vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang , Gia Viên,đi về tại cây đa
mười ba gốc ,tương truyền Chúa bà là người cai quản bản cảnh ngũ phương trong
trời đất .Khi ngự đồng có khi Chúa mặc cả bộ trắng cũng có khi chỉ phủ chiếc
khăn phủ diện đỏ làm khăn choàng ,về khám xét bản đền chứng tâm cho gia chủ rồi
cầm tiền tung lên để khai quang trong ngày đầu năm .Người ta thương dâng Chúa
bộ nón hài và đĩa hoa trắng (bạch hoa) ,trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe
trắng dâng Chúa Bà .Đền Chúa bà là Đền Cấm , Phố Cấm ,Lê Lợi ,Hải Phòng , tuy
nhiên nơi tập trung đông nhất là Vườn Hoa Chéo ,Hải Phòng
VI.Tứ Phủ Ông Hoàng -Hội Đồng Quan Hoàng
Trong
dòng tranh dân gian Hàng Trống có một bức tranh vô cùng nổi tiếng trong loại
tranh thờ đó là "Ông Hoàng cầm quân".Bức tranh đã miêu tả một vị
thánh đại diện cho một hàng trong Tứ Phủ đó là các Ông Hoàng hay Quan
Hoàng.Cũng như hàng Quan Lớn ,các Ông Hoàng cũng đều là những hoàng tử hay danh
tướng có tài giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng
Hàng Ông Hoàng gồm:
1, Ông
Hoàng Cả
:Vốn là con Đức Vua Cha ,giáng trần mang vẻ lịch sự tốt tươi ,độ cho dân chúng
ấm no ,khi thì ông rong chơi thượng giới cưỡi con Xích Long .Khi ngự đồng ông
mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đầu đội khăn xếp,có phủ vỉ lép màu
đỏ
2, Ông Hoàng Đôi :còn gọi là Quan Triệu
Tường ,ông là danh tướng họ Nguyễn , thời phù Lê dẹp Mạc ,có công lớn với nhà
Lê ,tương truyền ông đem quân lên ngàn làm cho đùng đùng súng nổ dậy vang đất
trời .Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn
xếp ,có phủ vỉ lép xanh ,tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc .Đền thờ
ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa
3,
Ông Hoàng Bơ :Vốn là con vua Bát Hải Động Đình ,hay biến hiện lên mặt
nước lạ lùng với chân dung đẹp khác thường ,thường phù trợ cho người làm ăn
buôn bán và những ngư dân đánh cá ,khi thanh nhàn ông thương ngồi trên thuyền
rồng dạo chơi uống rượu đánh cờ ngâm thơ nghe đàn thả hồn cùng gió trăng .Khi
ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ ,đai vàng ,đầu đội
khăn xếp có phủ vỉ lép trắng .tay cầm đôi hèo hoa ,cũng có khi một tay cầm quạt
,một tay cầm mái chèo thong thả chèo thuyền dạo chơi .Đền thờ ông thường được
lập ở các cửa sông
4,
Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc :ông vốn là thương gia bên Trung Quốc , từ nước
Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo khổ lên đựoc suy tôn làm
Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt
Nam .Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa .Đền thờ ông là Đền Quan trên Bắc
Giang
5,
Ông Hoàng Bảy Bảo Hà :Ông vốn là con vua Thượng Đế Ngọc Hoàng , giáng
vào nhà họ Nguyễn người Tày Nùng làm người con thứ 7 .Ông là người có công giúp
vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp dân chúng khai hoang lập ấp ,nên
sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà Trái Hút người ta lập đền thờ
ông.Theo tương truyền, ko chỉ là vị tướng giỏi tunh hoành trên đất Lào Cai mà
Ông Bảy còn là người nổi tiếng phong lưu , ông hút thuốc phiện (vậy nên mới gọi
đất ông ngự là Trái Hút Bảo Hà ),đánh tổ tôm tam cúc ,uống trà mạn Long Tỉnh
,ăn chơi đủ mùi , khi đi rong chơi có 12 cô tiên nàng theo hầu dâng ông đủ các
thứ như bánh kẹo thuốc lá trà tàu ,ngựa xám ,hèo hoa ,lại có cô múa hát theo
sau .Vậy nên những người đựoc ăn lộc ông như là đựoc lộc tự nhiên có lộc đánh
bài thì đều dâng tạ ông một bộ bàn đèn làm bằng giấy .Khi ngự đồng ông mặc áo
lam thêu rồng kết thành hình chữ thọ đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam ,tay
cầm đôi hèo hoa phi ngựa đi chấm đồng , nếu người nào được ông ném cây hèo vào
người thì coi như người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ ,khi ông
ngồi ngự có điệu hát dâng trà ,rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi
đánh tổ tôm ,tam cúc .Đền thờ ông là Đền Bảo Hà ,bên bến phà Trái Hút ,thị xã
Lào Cai ,Yên bái ,quanh năm tấp nập du khách đến lễ bái không chỉ cầu được lộc
cờ bạc mà còn cầu lộc làm ăn buôn bán
6, Ông
Hoàng Mười Nghệ An :còn gọi là Ông Mười Củi ,vốn là thần tiên trong chốn Đào
Nguyên ,giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê không chỉ giỏi cầm
quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú từ trong Nam Đàn Nghệ
Tĩnh đều nghe nức danh Quan Hoàng Mười ông thường đi dạo trên lưng ngựa với bầu
rượu túi thơ .Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ
,đầu đội khăn xếp có vỉ lép vàng trên đầu ông ,các đệ tử thường lấy tờ tiền
10.000 cài vào que hương tượng trưng cho việc dâng ông lá cờ ,có khi ông ngự
đồng cầm lá cờ lệnh ngũ sắc chỉ huy quan quân , cũng có khi ông cầm đôi hèo đi
chấm đồng , hoặc ông cầm chiếc quật tàu làm sách , nén hương làm bút đi bách bộ
đề thơ ,khi ông ngồi ngự động thì có điệu hát mời đọi chè xanh ,mời miếng cau
đậu trầu vàng là các đặc sản xứ Nghệ quê ông ,lại còn có điệu hò xứ Nghệ nghe
rất êm ái mượt mà ,đúng với "đất lề quê thói "Nghệ An ,những người
nào muốn xuất ngoại , làm ăn buôn bán hoặc học hành thành công đều đến cửa ông
để xin lộc .Đền ông là Đền Chợ Củi ,qua cầu Bến Thủy ,bên dòng sông Lam ,Nghệ
An ; Đền nằm trên địa phận huyện Nghi Xuân-Hà Tĩnh.
VII.Tứ Phủ Tiên Cô
Tứ
Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu ,Chúa
Mường ,Chầu Bà .Các Tiên Cô đều là những cô gái đoan trang ,gương liệt nữ ,cũng
có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân suy tôn và lập đền thờ phụng .Tứ
Phủ Tiên Cô gồm:
1. Cô Nhất
Thượng Thiên
: Cô là Tiên Nữ trên Ngọc Điện ,hầu Vua Mẫu ,thường giúp trần gian có lời kêu
cầu tấu thỉnh với các Tòa các giá trong Tứ Phủ ,cũng có khi cô giáng trần làm
phép hóa ra thuốc trị bách bệnh ,khi thanh nhàn Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ
Hà Nội, Bắc Ninh ,Hải Phòng cho đến Quảng Bình ,Quảng Trị ... ,từ nội thành
ngoại thị ,kinh đô cô đi về ,cô bắt đồng người má phấn lưng ong.Khi ngự đồng cô
mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng ,đội khăn đóng phủ vỉ lép đỏ ,cài hoa ,tay cầm
đôi quạt ngà quạt mát cho thế gian .Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định
2. Cô Đôi
Thượng Ngàn:Hiệu
cô là Công Chúa Sơn Tinh,cô ngự cảnh Bồng Lai, Thiên Thai .Cô rất xinh đẹp ,về
đồng đánh phấn soi gương , lược ngà chải chuốt ,khăn voan quấn đầu,da cô hây
hây tựa tuyết ngà đông ,tóc già già biếc má xinh phấn hồng ,chân đi đưa nhởn
đưa nhang , bước nào ra bước tiên nàng hái hoa .Cô là vị Tiên Cô hầu Vua hầu
Mẫu ba tòa,cô đại tài ,tiếng tăm lừng lẫy được Vua Bà yêu thương ,đệ tử cô có
vô số hằng hà , lộc Sơn Lâm Cô lấy để lấp biển Đông mà vẫn tràn đầy ,nhưng có
một điều ,nếu ai đã được cô ban lộc thì đừng hững hờ muốn quên , nếu quên thì
cô để cho quên rồi sau này lại bắt đền làm đôi .Lúc thanh nhàn cô rong chơi
Quán Sở Tần Lầu rồi lại ngự xa giá lên chầu Thượng Đế Vua Cha ,hoặc có khi cô
ngồi trên ngàn tay đàn miệng hát ca ngâm hoặc niệm Phật Quan Âm.Cô rất hay thử
lòng người thế gian , cô đã từng làm chau mày quân tử xót xa anh hùng .Khi ngự
đồng cô mặc áo lá xanh ,đầu vấn khăn kết thành hình hoa,có vấn vỉ lép xanh ,tay
cầm mồi .Đền Cô là ngôi đền nhỏ nằm ngay gần Đền Đông Cuông ,trước cửa Đền Cô
có giếng nước quanh năm trong vắt
2*.Cô Đôi
Cam Đường
:Cô là người tiên nữ giáng sinh ở đất Đình Bảng ,Bắc Ninh ,gia đình đời nối đời
buôn bán vải tơ,cô rất xinh đẹp ,dáng thanh thanh mắt tựa sao sa , thơm thơm
tóc phượng già già hây hây má phấn da ngà lưng ong ,có má lúm đồng tiền sáng
trong ngọc bích , nở nụ cười làm cho liễu nguyệt hờn ghen.Cô bán vải từ đường
Quan Lộ ,Chợ Dầu,Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa ,vải sồi ,lĩnh tía ,chàm xanh
,nâu non , vải rồng ,hoa trơn .Dù đường xa lắc mà lòng cô không ngại , chỉ muốn
giúp người đời có vải hộ thân làm cho niềm tin đồn đại xa gần , khiến cô đi tới
đâu thì hoa cười chim hót , các bạn nàng nhẹ gót thênh thênh .Sau khi cô trở về
trời để lại nhớ thương cho nhân dân .Khi ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh ,chít
khăn mỏ quạ ,đội nón quai thao (nón ba tầm ),trên vai là chiếc đòn gánh cong
với hai đầu là đôi túi đẫy dịu dàng đựng vải .Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại
hiển thánh tại thị xã Cam Đường ,Lào Cai nên nhân dân tại đó nhớ ơn đã lập đến
cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.
3. Cô Bơ Hàn Sơn :Hay còn gọi là Cô Bơ
Bông .Cô vốn là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn ,rất xinh đẹp ,cổ kiêu
ba ngấn , tóc mượt , mắt phượng lồng gương , da ngà điểm tuyết ,má hồng hồng
thu nguyệt tô son ,thanh xuân vừa độ trăng tròn được bậc thần nữ phong cô nhan
sắc vẻ khuynh thành,có hương xông gấm vóc áo quần ,lại đàn hát cũng hay nên
được Đức Vương Mẫu có lòng quảng đại phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa
Thủy Cung ,cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô
thiếu nữ đất Hàn Sơn .Câu chuyện về cô Bơ Bông như sau: Cô giáng trần ,khi Mẫu
đang ngự trên long sàng , phút mộng thần chiêm bao thấy Cô Bơ dâng hạt châu
trước long sàng , sau này vào ngày cô giáng sinh thì trên trời nổi áng mây xanh
,Thủy Cung nhã nhạc tập tành để cô Ba Nàng giáng sinh , thì Mẫu trông thấy cô
nhan sắc giống như trong giấc điệp trước đây , sau này cô có công trong việc
phù Lê dẹp Mạc , triều đình hứa sẽ phong công nhưng cô cứ đợi chờ như hoa đào
còn đợi gió đông nhưng không kịp, đã đến ngày định nhật chí kì , Vua Thủy Tề đã
cho xe loan đón rước cô về Thoải Cung ,thế là cô đã ko đợi được người quân tử
để trao mối duyên hồng .Theo tương truyền ,cô Bơ còn là người bẻ lái con thuyền
hạnh phúc ,đưa người thoát ách cơ hàn , chở người qua bến lầm than đọa đày ,non
xuân sắc cũng một tay cô tô vẽ thành như nét thần tiên ,cô về làm hoa nở hây
hây , cô đi làm cho ngọn cỏ cành cây thẫn thờ .Cô là người thông tri dưới bể
trên trời ,bắt đồng không kể trẻ già ,ai muốn khẩn cầu đều dâng cô nón trắng
hài cườm .Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết , đầu đội khăn đóng ,vấn
khăn ngang ba màu ,tay cầm đôi mái chèo ,chèo từ bến Cô Tô có Đền Hàn Sơn rồi
vân du khắp nơi ,khi đến bản đền cô sai thị nữ bắc cầu thoi để rước cô vào ,khi
chèo thuyền nơi ghềnh đá cheo leo , nơi phong ba bão táp cô khoác chiếc áo
choàng trắng mỏng tung bay trong ngọn nam phong , cũng có khi cô cầm dải lụa đi
đo đất đo mây .Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông hay đền Cô Bơ Bông ở Hà Trung
,Thanh Hóa ,ngay cửa sông ,con đường vào rất khó khăn , mở hội ngày 12/6 ÂL
4.Cô
Tư Ỷ La : Có người nói cô Tư làTiên Nữ theo hầu Chầu Đệ Tứ Khâm Sai
nhưng theo tài liệu cổ chính xác nhất thì cô Tư theo hầu Mẫu Thượng , cô xinh
đẹp dịu dàng , được Mẫu hết mực yêu quý , khi thanh nhàn cô thường dạo chơi
cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa lá . Cô được thờ trên đền
Ỷ La , Tuyên Quang .
5.Cô
Năm Suối Lân: Cô là Tiên Nàng người dân tộc theo hầu cận Chầu Năm Suối
Lân , cô ở trên Thượng Ngàn , có tính đành hanh , ai mà phạm lỗi thì cô phạt có
khi là dở khóc dở cười , có khi cô cho đi lạc trong rừng , ai biết tâm thành lễ
bái , cô ban tài tiếp lộc Sơn Lâm Sơn Trang , cô là người cai quản con Suối Lân
, bốn mùa xanh ngắt , nhưng ai ko biết mà xuống tắm sẽ bị cô phạt cho sốt nóng
mê sảng .Khi ngự đồng cô hay mặc áo xanh hoặc áo lam , đầu vấn khăn hình củ ấu
và tay cầm đôi mồi lửa .Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm ,bên bờ sông
Hóa
6. Cô Sáu
Sơn Trang
: Cô là Tiên Nàng hầu cận sát bên Mẫu Thượng Trang Châu , cũng có nơi nói cô là
người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung , nhưng mọi tài
liệu đêù thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người , khi cô lên
ngàn hái thuốc thì cầm thú reo ca , voi quỳ hổ phục bên đường cô đi , cô rất
khôn ngoan nhưng cũng rất đành hanh , cô đặc biệt ghét người ăn nói quanh co ,
ăn không nói có .Khigiáng đồng cô mặc quả áo lam ngắn vạt dài tay , chít khăn
xanh , trâm cài lược dắt , tay cầm bó mồi
7. Cô Bảy
Kim Giao
:Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên , Mỏ Bạch , Thái Nguyên ,
cũng là người dân tộc Mọi , cô hiển ứng , đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn
tiên ngôi hòa ca .Khi về đồng cô mặc áo lụa tím .
8. Cô Tám
Đồi Chè
: Cô Tám ko phải là người theo hầu Chầu Tám Bát Nàn , mà cô có tích sử riêng,
cô là người thiếu nữ hái chè đất Hà Trung , cũng một lòng giúp vua , tuy sau
này chưa được đền đáp nhưng cô cũng được dân lập đền thờ là đền Phong Mục , Hà
Trung , Thanh Hóa , chỉ cách đền cô Bơ Bông có một con sông.Khi ngự đồng cô mặc
áo xanh quầy ( váy ) xanh ,đầu kết khăn xanh , cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái
chè
9. Cô Chín Sòng Sơn :Còn gọi là cô Chín
Giếng , một tiên cô tài phép , theo hầu Mẫu Sòng , lại có tài xem bói,1000 quẻ
cô bói ra thì ko sai một quẻ nào,Cô có phép thần thông quảng đại , ai mà phạm
tội cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách , rồi cô hành cho dở điên
dở dại , sau Vua truyền dân lập đền cô ở xứ Thanh , ngay trước đền là chín chiếc
giếng tự nhiên do cô cai quản .Còn có truyền thuyết về cô : Cô là Tiên Nữ hầu
Mẫu trong đền Sòng , quản cai chín giếng , cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời
Nam , sau về đến đất Thanh Hóa cảnh lạ vô biên , cô hài lòng liền hội họp thần
nữ năm ba bạn cát , lấy gỗ cây sung làm nhà ,còn cây si thì cô mắc võng , nhân
dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa , cách đền
Sòng Sơn khoảng 30km.Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai , có
khi cô máu quạt tiến Mẫu , múa cờ tiến Vua , cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa ,
rồi lại múa cánh tiên .Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật : Nón đỏ hài hoa vòng
hồng để dâng cô đều được cô chứng minh .Ở một số địa phương đêỳ thờ cô và tôn
với các danh khác như Cô Chín Rồng , Cô Chín Suối nhưng chính đều là Cô Chín
Sòng được thờ phụng
9*. Cô
Chín Tít Mù
: Khác với Cô Chín Giếng ở đồng bằng , cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn , có
tài trị bệnh bằng nước suối , tuy nhiên rất ít người hầu về giá này , Đền cô
lập ở trên đường lên Chầu Mười Mỏ Ba , ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng , ai
kêu cầu cô về in bóng trên nước suối đầu quấn khăn tía , có người dâng cô nón
đỏ có người dâng nón xanh để xin thuốc chữa bách bệnh
10. Cô
Mười Mỏ Ba:Cô
theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba , giúp vua đánh giặc Ngô ,khi ngự về cô mặc áo vàng
cầm cung kiếm cưỡi trên mình ngựa theo chầu bà xông pha trận mạc , sau này cô
cũng được thờ tại đền Chầu Mười
11. Cô Bé
Thượng Ngàn
:Cũng như Chầu Bé , các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang , hầu
Mẫu Thượng Ngàn ,có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ , các cô về
mặc quần áo thổ cẩm ,chân quấn xà cạp , đeo kiềng bạc, tay cầm ô ,vai đeo gùi
.Các cô bé gồm:
a, Cô Bé
Thượng Ngàn ( Thị Xã Lạng Sơn )
b, Cô Bé
Suối Ngang ( Hữu Lũng)
c, Cô Bé
Đèo Kẻng ( Thất Khê )
d, Cô Bé
Đông Cuông ( Yên Bái )
e, Cô Bé
Tân An( Lào Cai ) gần đền Ông Hoàng Bẩy.
f, Cô Bé
Cây Xanh ( Bắc Giang )
g, Cô Bé
Nguyệt Hồ ( Bắc Giang )
h, Cô Bé
Minh Lương ( Tuyên Quang)
i, Cô Bé
Cây Xanh (Tuyên Quang)
k, Cô Bé
Thác Bờ ( Hòa Bình )
12. Cô Bé
Thoải Phủ : Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ , chỉ tráng bóng chứ ko mở khăn , đứng
hàng 12 trong các cô.
VIII.Tứ Phủ Thánh Cậu
Là
các vị cậu chết trẻ , tinh nghịch ,thường phù hộ cho các gai đình buôn bán cũng
như những người muốn cầu học hành .Tứ Phủ Thánh Cậu gồm
1. Cậu
Hoàng Cả
2. Cậu
Hoàng Đôi
3. Cậu
Hoàng Bơ
4. Cậu Bé
a, Cậu Bé
Đồi Ngang ( Cậu Hoàng Quận )
b, Cậu Bé
Đồi Non
Ngoài ra
ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền , trong đó thường
hay ngự đồng như : Cậu Bé Phủ Bóng , Cậu Bé Đông Cuông ....
Các cậu về thương mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá , đầu vấn khăn , hai bên
tay thường có hoa cài , chân quấn xà cạp , đi giày thêu .Các cậu về thường làm
lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân,
Lảnh Giang Linh từ: Ngày
xưa(vào thời vua hùng thứ 18), ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh -
trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà
đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi. Một đêm trăng thanh, gió
mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà
nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động
lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi
nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy,
đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an
táng cho ông. Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang
lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng
luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà
ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển
động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải
trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời
gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ,
sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng
sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh
Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ,
nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là
linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra
bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất
theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa
Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi,
cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét
nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới
dòng sông có người ngâm vịnh:
"Sinh là tướng, hoá là thần,
Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời.
Khi nào giặc dã khắp nơi,
Bọn ta mới trở thành người thế
gian."
Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy
Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán
cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào
kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà
vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân
rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện
còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền
sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa
đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông.
Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là
Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu
rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn
Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới
sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt. Nghe tin thắng trận,
Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công
lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận,
chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý,
ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân
chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến
khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông
mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.
Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình,
bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời
quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ,
nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về
trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng
Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần
hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.
Cùng trên mảnh đất thiêng này có câu chuyện về mối tình
Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ ngàn xưa còn vọng đến hôm nay. Thủa ấy, ở thôn Đằng
Châu có một nhà nghèo gặp cơn hỏa hoạn. Hai cha con chỉ còn một manh khố ngắn
dùng chung để khi có việc ra ngoài. Lúc người cha qua đời, Chử Đồng Tử đã dành
chiếc khố cuối cùng khâm liệm cha. Từ đó ngày ngày chàng thường phải ngâm mình
dưới nước. Một Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc.
Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy
Tân thứ 7 (1913).
hôm, Tiên Dung con gái vua Hùng đi du ngoạn, cảm nhận cảnh sông nước nên thơ,
công chúa cho dừng thuyền lại bên bãi cát. Chử Đồng Tử đang mò cá dưới sông,
nhìn thấy thuyền rồng, cờ rong lọng tía mà kinh sợ, vội vàng vùi mình dưới cát.
Ngay lúc đó Tiên Dung sai các thị nữ quây màn để tắm đúng vào nơi mà Chử Đồng
Tử ẩn nấp. Nước xối từ trên người nàng, trôi dần cát ở dưới chân, lộ Chử Đồng
Tử trong màn quây. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả hai người cho là duyên trời đã
định, cùng nhau về triều xin phép vua cha cho kết duyên thành vợ chồng. Chử
Đồng Tử, Tiên Dung đã về trời nhưng tình yêu, lòng hiếu thảo còn ở lại mãi với
trần gian.
Trần Danh Lâm (1705-1777) khi về thăm Lảnh Giang đã có bài thơ:
"Con gái vua Hùng, tướng vua Hùng,
Đền này truyền việc lại nhà thờ chung.
Sự nghiệp nhân duyên thì rất đẹp,
Tình đời chẳng đẹp đáng thau
không."
Phần thứ Hai: Trả nợ Tào
Quan là gì ?
Thế
nào là trả nợ Tào quan, tại sao chúng ta phải trả nợ tào quan. Tào quan là
những ai? ở đâu? Trả nợ tào Quan để làm gì?
Trong
Pháp Sự khoa nghi có một khoa cúng tên là Điền Hoàn Thiên Khố hay còn gọi
là ‘‘khoa Tào Quan’’ - khoa Trả nợ tiền
kiếp - khoa trả nợ Tào Quan, Hoặc- đạo giáo điền hoàn ngũ đẩu lộc khố thụ sanh
kinh dữ tiền
Điền Hoàn nghĩa là hoàn trả đủ vào chỗ còn thiếu; Thiên
Khố có nghĩa là kho nhà Trời. Điền Hoàn thiên khố là trả nợ vào kho nhà trời.
Đặc biệt trong khoa này dùng một loại tiền
riêng có tên là tiền Tào quan (Có 4 loại). Tiền này và Thọ Sinh Kinh dùng để
cúng. Ngoài ra khi trả nợ còn phải trả bằng kinh sách thật , phan lọng, cây,
chuông mõ v.v..
Cái nợ này vốn sinh ra ở tiền kiếp do
chúng ta buôn đầy bán vơi, tạo ra vô số nghiệp chướng. Hàng năm Táo Quân được
Ngọc Hoàng phái xuống các gia đình theo dõi và ghi chép lại và ngày 23 âm lịch
hàng tháng thông báo cho Nam Tào mà trừ đi dương thọ của người đó, ngoài ra
biên gửi xuống Âm Phủ cho đại vương Diêm Vương
để thêm tình tiết tăng nặng khi thụ hình tại âm phủ; hoặc có thể căn cứ
vào đó mà theo “Luật Nhân - quả” để tính kiếp nạn mà tội hồn sẽ phải chịu đựng
trong kiếp sau.
Trả nợ tào quan để hóa giải những hung
tai đang mắc phải về vấn để làm ăn buôn bán, cũng là dịp để con người ta nhìn
lại chặng đường mình đi qua để thanh tâm quả dục, để hoàn thiện hơn.
Tào Quan là các vị trông giữ các bạ
tịch của các sinh linh nơi Địa Phủ . Trong một vòng Giáp Tý hay còn gọi là “Lục
Thập Hoa Giáp” thì có từng vị cai quản riêng, và mỗi vị lại có một cái kho
riêng. Tiền nạp vào đây sẽ được sử dụng cho các việc công sự.
Sau khi làm lễ Điền hoàn thì thường tụng Kinh Dược Sư - Phổ môn - Thủy
Sám.
Bên Đạo giáo thì tụng kinh
Bắc Đẩu Diên mệnh và kinh Táo Quân
Mọi người chắc đã nghe nhiều đến lễ trả nợ Tào quan, khi làm ăn xui
xẻo, năm hạn, thất bát, vướng phải nợ nần, bị kiện do tranh đoạt hay tố tụng...
các “Thầy/Cô đồng” thường cho con nhang,
đệ tử làm lễ “Trả nợ Tào quan”.
Hiện nay tại các Đền, Chùa... thường hay làm
những đàn lễ lớn để trả nợ Tào quan: ngoài những đồ lễ như Hương, hoa, đèn,
nến, xôi, rượu, thịt.....thì những thứ không thể thiếu trong đàn lễ là một số
loại Kinh như Kinh Thọ Sinh, Kinh diệt tội, Kinh Kim cang thọ mạng, Kinh nhân
quả... và Tiền Tào Quan.
Liệu lễ xong một đàn lễ như
vậy ta có trả hết nợ Tào quan hay không?
Việc trả nợ cũng phải đến kỳ đến
vận mới được trả, không phải cứ muốn trả là lúc nào làm cũng được. Không phải
lễ xong là được các Ngài chứng và xóa nợ cho, chưa đến hạn được trả nợ thì Lễ
cũng sẽ được xếp vào kho để đấy, nợ vẫn hoàn nợ... Nếu nghiệp nặng do chính bản
thân trong quá khứ đã tạo ra hoặc do gia tiền tiền tổ tác thành, ví dụ như:
trong quá khứ đã từng giết người, cướp của... đến kiếp này dù có bày ra việc
cúng lễ trả nợ Tào Quan với một mâm lễ đầy đủ... sách Kinh, tiền Tào Quan...thì
cũng vẫn không được các Ngài xóa bỏ tội trạng . Nếu có thì hóa ra các Ngài ở
cõi Âm tòa cũng nhận hối lộ hay sao???....
Nợ nần theo Tâm linh cũng có nhiều mức,
người nặng, người nhẹ khác nhau. Có người phải trả nợ Thiên Phủ, có người phải
trả nợ Thủy Phủ, có người phải trả nợ Tam,Tứ Phủ, người trả nợ Địa Phủ... tùy
theo những nghiệp đã kiến tạo trong quá khứ.
Do vậy chúng ta đừng chấp vào Lễ nghi nhiều quá, quan
trọng là phải thức Đạo, phải biết Hành thập thiện nghiệp, phải biết Tu... để
trả nghiệp, vượt lên số phận...
Theo quan niệm dân gian, mỗi người sống trên dương thế thì tiền kiếp của người
ta có không ít lỗi lầm, trong đó có việc đong đầy bán vơi, vì thế nợ nần tiền
kiếp là điều không thể không có. Căn cứ theo Lục thập hoa giáp mà có các Ty
Quan cai quản việc nợ nần này.
Phần nợ chính để trả nợ thường là: Kinh
Thọ Sinh và Tiền Tào Quan.Thiếu những thứ này thì không thể làm lễ trả nợ được.
Người có nợ không thể tự trả nợ mà phải
nhờ đến những hàng đã thọ thông tứ phủ như: Điện chủ thanh đồng. Pháp sư, hòa
thượng. Hàng Bật sô trờ lên. Bời vì trong khi làm lễ phải dùng đế một số khế ấn
mà người chưa được thụ giới không được phép làm.
Trả nợ tào quan là một nghi thức đơn
giản nhưng không thể làm tùy tiện được. Những người không đủ công đức mà tùy
tiện làm sẽ bị báo ứng nhãn tiền, hậu quả là không thể lường.
CÁCH LẬP ĐÀN NHƯ SAU:
Đàn trả nợ Tào quan nều lập riêng hoặc
làm ở Tư gia thì lập thành một đàn có 3 tầng.
Phần nền treo Bức "Liên trì Hải
hội". Hai bên treo: trái giám môn; phải, giám đàn. bên ngoài treo Bảng
thang, bảng trà.
Tầng trên cùng có 3 bài vị:
+ Ờ giữa: TRUNG THIÊN TINH CHÚA BẮC CỰC
TỬ VI TRƯỜNG SINH ĐẠI ĐẾ NGỌC BỆ HẠ.
+Bên trái: NAM TAO LỤC TY DUYÊN THỌ
TINH QUÂN VỊ TIỀN.
+Bên Phải: BẮC ĐẨU CỬU HOÀNG GIẢI ÁCH TINH QUÂN VỊ TIỀN.
Nếu có điều kiện thì dán thêm nhị thập bát tú phía dưới.
Tầng giữa:
+Ở giữa: U MINH GIÁO CHỦ BẢN TÔN ĐỊA
TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT HỒNG LIÊN TỌA HẠ.
+ Bên trái: BẢN CẢNH THÀNH HOÀNG CHƯ VỊ
ĐẠI VƯƠNG VỊ TIỀN.
+ Bên phải: ĐƯƠNG CAI THÁI TUẾ CHÍ ĐỨC TÔN THẦN VỊ TIỀN.
Tầng cuối: gồm 3 bài vị sau:
+ Giữa: MINH PHỦ THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG
NGỌC BỆ HẠ
+ Trái: CHƯỞNG BẠ CHƯỞNG TỊCH CHƯỚNG ÁN TÀO QUAN ÁN HẠ
+ Phải: THIÊN KHỐ LỤC THẬP HOA GIÁP TY
QUÂN ÁN HẠ.
Phần phẩm lễ:
Hương, hoa, đèn, nến, xôi, rượu, thịt .
v.v..
Mâm lễ vật trả nợ: Kinh âm, kinh dương,
tiền thiên khố...
Kinh Thọ sinh, kinh Trường thọ diệt tội bào hộ Đồng tử Đà ra ni, kinh Nhân quả,
kinh Kim cang thọ mạng, Kinh Phật đảnh tôn thắng.Ngoài ra còn có:
Lồng chim Chậu cá mâm gạo tiền mâm Đường muối Mâm sớ văn. mâm cúng thí thực (để
riêng).
Hướng tốt cho lập đàn là Hướng Bắc.
Các ngày chuyên dùng cho Trả nợ tào
quan là ngày Thiên xá.
Ngày 1 tháng 2 vía Nhất Điện Tần Quảng
vương
Ngày 1 tháng 3 vía Nhị Điện Sở Giang
vương.
Ngày 8 tháng 2 vìa Tam Điện Tống Đế
Vương.
Ngày 18 tháng 2 Vía Tứ Điện Ngũ Quan
Vương.
Ngày 8 tháng Giếng Vía Ngũ Diện Diêm La
Vương.
Ngày 8 tháng 3 Vía Lục Điện Biến Thành
Vương.
Ngày 27 tháng 3 vía Thất Điện Thái Sơn
Vương.
Ngày 1 tháng 4 vía Bát Điện Bình Đẳng
Vương.
Ngày 8 tháng 4 vía Cửu Điện Đô thị
Vương.
Ngày 17 tháng 4 vía Thập Điện Chuyển
luân vương.
Ngày 18 tháng 4 vía Tử Vi Đại đế.
Ngày 4 tháng 6 Chư Phật giáng lâm.
Ngày 30 tháng 7 Vía Địa Tạng Vương Bồ
tát.
Ngày 8 tháng 10 Hải Hội Phật.
Ngoài ra còn có thể làm theo các đại lễ cầu an hoặc ngày
1 ngày Rằm tại các chùa.
Phần nghi lễ
Nếu dùng đại đàn thì thứ tự như sau:
Chiều hôm trước:
Thiết đàn. Biểu kinh. Sám hối Đại bi,
Thập chú, bạch y. Tụng dược sư hoạc Thủy Sám. Chỉ tĩnh
Sáng hôm sau:
Kinh Đầu tràng Thiêt Dĩ. Pháp tấu Thỉnh
Phật Tào Quan Đội sớ. Tụng kinh. Trai ngọ.
Chiều: Phóng sinh Thí thực. Tạ Quá Tiễn đàn. Thụ lộc.
Nếu làm tiểu đàn:
Thỉnh Phật Tào quan. Thí thực Phóng
sinh. Tạ, tiễn đàn.
Các loại văn sớ dùng trong
lễ Tào quan:
Điệp tấu Quan Phát tấu Tấu thiên phủ
tấu Địa phủ Tấu thủy Phủ Tấu Nhạc Phủ. Tấu Dương 1 tấu Dương 2 tấu Âm
Kinh đầu tràng Biểu kinh Dược sư Biểu
kinh Độ dương. Sám Hối. Lễ Phật.
Giám Môn Giám Đàn Bảng thang Bảng trà. Kinh Thọ sinh Điệp Âm Công cứ Âm Công cứ
Dương Điền Hoàn Phật tào Quan Cô Hồn Phóng sinh.
TRẢ NỢ TÀO QUAN
Nơi địa phủ có Ngân Hàng
Địa Phủ, trả nợ Tào Quan chính là việc trả nợ Ngân Hàng Địa Phủ.
Ngân Hàng Địa Phủ có cả
thảy 36 kho. Người có trách nhiệm cai quản Ngân Hàng Địa Phủ là Ngài "
Thượng Án Giám Sát Ngân Hàng Địa Phủ Tào Quan".
Theo quy định của Thiên giới(Thiên
Quy)những người sau khi mãn số quy tiên, thì vong linh sẽ thoát ra khỏi cơ thể
đi vào cõi Tâm Linh là Thế Giới Vô Hình riêng biệt.
Các Vong linh được tu tập
trong cõi này. Theo đó được Ngân Hàng Địa Phủ cấp phát sách vở (Kinh) và tiền
để ăn uống, sinh hoạt,mua bán,trao đổi...vv.
Số tiền và sách vở nói trên được cấp phát tạm thời hoặc gọi là cho vay theo như
quy định ở Lục Thập Hoa Giáp( áp dụng cho cả nam và nữ ).
Nếu việc tu tập của vong
linh đắc quả thì vong tiếp tục đi vào cảnh giới cao hơn, không phải tái sanh
vào cõi Nhân làm người, thì số tiền cấp phát nói trên coi như được xóa nợ.
Nếu việc tu tập của vong
linh còn chưa tiến bộ, chưa thể đắc đạo thì theo Định nghiệp và Nhân quả báo
ứng, chuyển nghiệp vào cõi Nhân để tái sanh làm người. Ở kiếp người thì số cấp
phát tạm thời như đã nói trên(Tiền, Kinh sách)con người phải trả lại. Cho nên
hầu như người nào cũng có nợ Tào Quan.
Nhưng cũng tùy trường hợp
nợ phải trả và không phải trả.
Ví dụ :
- Người thuộc con nhà Tứ Phủ(trình đồng), Người tu hành(theo đạo Phật hoặc đạo
khác), vì vẫn còn tiếp tục tu tập nên không phải trả nợ Tào Quan.
- Người Nợ mã Tứ Phủ, người
Tiễn Căn và các trường hợp khác, đều phải trả nợ vì tu tập không thành. Với
những người này nếu không trả nợ Tào Quan thì thường bị hao tài tốn của, công
danh bất thành, làm việc gì liên quan đến tiền bạc cũng bị thất bát, thâm
hụt...
Người kiếp này(hiện tại) nợ
Tào Quan mà không trả sẽ xảy ra hai trường hợp:
1. Sau khi chết: vong được
tu tập và lại được Ngân Hàng Địa Phủ cấp phát kinh sách, tiền bạc. Nếu tu tập
đắc quả lên cõi cao hơn thì được xóa nợ.
2. Sau khi chết: vong được
tu tập và lại được Ngân Hàng Địa Phủ cấp phát kinh sách, tiền bạc. Nếu tu tập
không xong mà phải quay lại cõi Nhân tái sanh làm người,thì do nợ Tào Quan quá
nhiều nên sẽ phải bị phá sản hoặc nhà tan,nghiệp đổ.
Sách “LỤC THẬP HOA GIÁP” quy
định trả nợ Tào Quan:
Trả nợ
Tào Quan là trả nợ trong kiếp trước (Nam
nữ cùng tuổi như nhau) .
Chép theo sách cổ , tặng các bạn tham khảo.
1. Giáp Tý : Tiền Tào Quan 2 vạn 3 -
Kinh 30 quyển. Nộp tại kho số 3 - Tào Quan tính danh tư quân. Số thọ 75 tuổi.
2. Ất Sửu : Tiền Tào Quan 38 vạn +
Kinh 54 quyển. Nộp tại kho 30 - Tào Quan Cát điền tư quân. Thọ 80 tuổi.
3. Bính Dần : Tiền Tào Quan 6 vạn +
Kinh 74 quyển. Nộp tại kho 13 - Tào Quan tính Mã tư quân. Thọ 78 tuổi.
4. Đinh Mão : Tiền Tào Quan 2 vạn 3
nghìn + 11 quyển kinh. Nộp tại kho 11 -
Tào Quan tính hứa tư quân.
5. Mậu Thìn: Tiền Tào Quan 2 vạn +
kinh 30 quyển. Nộp tại kho 11 - Tào Quan tính danh tư quân. Thọ 79 tuổi.
6. Kỷ Tỵ : Tiền Tào Quan 7 vạn 3
nghìn + kinh 28 quyển. Nộp tại kho 3 - Tào Quan tính Cao tư quân.
7. Canh Ngọ : Tiền Tào Quan 10 vạn +
kinh 12 quyển. Nộp tại kho số 9 - Tào Quan tính Lý tư quân. Hình nhân 3 Tướng.
Thọ 85 tuổi.
8/ Tân Mùi : Tiền Tào Quan 10 vạn 3
+ kinh 17 quyển. Nộp tại kho 10 - Tào Quan tính thường an tư quân. Hình nhân 2
Tướng nữ. Thọ 90 tuổi.
9. Nhâm Thân : Tiền Tào Quan 4 vạn 2
+ kinh 11 cuốn. Nộp tại kho 16 - Tào Quan tính phả tư quân. Thọ 74 hoặc 89
tuổi.
10. Quý Dậu : Tiền Tào Quan 5 vạn 2
+ kinh 5 quyển+ 3 cây cột chùa bằng giấy. Nộp tại kho số 1 - Tào Quan tính
Thành tư quân.
11. GIÁP TUẤT : Tiền tào quan 5 vạn
+ Kinh 6 cuốn + 3 bộ xà Chùa . Nộp tại kho 10 Tào quan tính Quyền tư quân- Thọ
91 tuổi .,
12.ẤT HỢI : Tiền Tào quan 4 vạn 8 +
Kinh 130 cuốn . Nộp tại kho số 5 Tào quan tính Duyệt tư quân . Thọ 69 hoặc 79
tuổi .
13. BÍNH TÝ : Tiền tào quan 2 vạn 4
+ Kinh 27 cuốn + 3 bộ nóc Chùa . Nộp tại kho số 9 Tào quan tính Vương tư quân .
Thọ 79 tuổi .
14. ĐINH SỬU : Tiền Tào quan 2 vạn 2
+ 25 cuốn Kinh + Trả 2 Hình nhân Tướng . Nộp tại kho số 2 Tào quan tính Quyền
tư quân . Thọ 80 tuổi .
15. MẬU DẦN : Tiền Tào quan 6 vạn +
21 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 1 Tào quan tính Na tư quân. Thọ 80 tuổi .
16. KỶ MÃO : Tiền Tào quan 8 vạn +
01 cuốn Kinh + 02 Hình nhân Tướng . Nộp tại kho số 2 Tào quan tính Gia tư quân
. Thọ 80 tuổi .
17. CANH THÌN : Tiền Tào quan 5 vạn
7 + 37 cuốn Kinh . Nộp tại kho nào cũng được . Thọ 60 tuổi .
18. TÂN TỴ : Tiền Tào quan 5 vạn 7 +
70 cuốn Kinh + 03 Kinh Tam bảo ( Kinh thật ) . Nộp tại kho số 2 hoặc 11 Tào
quan tính Cao tư quân . Thọ 65 tuổi .
19. NHÂM NGỌ : Tiền Tào quan 11 vạn
+ 30 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 24 Tào quan tính Đào tư quân . Thọ 90 tuổi .
20. QUÝ MÙI : Tiền Tào quan 5 vạn 2
+ 21 cuốn Kinh . Nộp tại kho 42 Tào quan tính Tiên tư quân . Thọ 80 tuổi .
21. GIÁP THÂN : Tiền Tào quan 70 vạn
+ 30 cuốn Kinh . Nộp tại kho 56 Tào quan tính Phạm tư quân . Thọ 80 tuổi .
22. ẤT DẬU : Tiền Tào quan 40 vạn +
24 cuốn Kinh + 18 Hình nhân Tướng . Nộp tại kho số 2 Tào quan tính An tư quân .
Thọ 73 tuổi .
23. BÍNH TUẤT : Tiền Tào quan 8 vạn
+ 25 cuốn Kinh + 10 Hình nhân Tứơng + Lập đàn giải oan ( cát kết ) . Nộp tại
kho số 6 Tào quan tính Cô tư quân. Thọ 90 tuổi 24. ĐINH HỢI : Tiền Tào quan 3 vạn 9 + 13 cuốn Kinh + 13 Hình nhân
Tướng . Nộp tại kho số 13 Tào quan tính Bối tư quân . Thọ 90 tuổi .
25. MẬU TÝ : Tiền Tào quan 1 vạn 3 +
20 cuốn Kinh + Hoàn Tam bảo 3 cột Chùa + 01 Hình nhân Tướng . Nộp tại kho số 6
Tào quan tính Hộ tư quân. Thọ 88 tuổi .
26. KỶ SỬU : Tiền Tào quăn vạn + 25
cuốn Kinh . Nộp tại kho số 7 Tào quan tính Đồng tư quân . Thọ 83 đến 87 tuổi .
27. CANH DẦN : Tiền Tào quan 5 vạn 1
+ 60 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 5 Tào quan tính Trạch tư quân . Thọ 80 tuổi .
28. TÂN MÃO : Tiền Tào quan 8 vạn +
16 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 4 Tào quan tính Trương tư quân . Thọ 90 tuổi .
29. NHÂM THÌN : Tiền tào quan 5 vạn
4 + 30 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 3 Tào quan tính Tiêu tư quân . Thọ 78 tuổi .
30. QUÝ TỴ : Tiền Tào quan 2 vạn 9 +
43 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 5 Tào quan tính Cấn tư quân . Thọ 86 tuổi .
31. GIÁP NGỌ : Tiền Tào quan 4 vạn +
43 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 1Tào quan tính Ngọ tư quân . Thọ 90 tuổi .
32. ẤT MÙI : Tiền Tào quan 3 vạn +
10 cuốn Kinh + 10 cây cột Chùa . Nộp tại kho số 2 Tào quan tính Hoàng tư quân .
Thọ 80 tuổi .
33. BÍNH THÂN : Tiền Tào quan 3 vạn
3 . Nộp tại kho số 17 Tào quan tính Phó tư quân . Thọ 75 tuổi .
34. ĐINH DẬU : Tiền Tào quan 10 vạn
+ 33 cuốn Kinh . Nộp tại kho 12 Tào quan tính Tính tư quân . Thọ 87 tuổi .
35. MẬU TUẤT : Tiền Tào quan 2 vạn +
13 cuốn Kinh = 3 cột Chùa . Nộp tại kho 36 Tào quan tính Dục tư quân . Thọ 72
tuổi .
36. KỶ HỢI : Tiền Tào quan 5 vạn 1 .
Nộp tại kho 13 Tào quan tính Bốc tư quân . Thọ 90 tuổi .
37. CANH TÝ :Tiền Tào quan 12 vạn +
16 cuốn Kinh . Nộp tại kho số ... Tào quan tính Lý tư quân . Thọ 80 tuổi .
38. TÂN SỬU :Tiền Tào quan 10 vạn +
45 cuốn Kinh + 12 Hình nhân người thường . Nộp tại kho số 18 Tào quan tính Cáo
tư quân . Thọ 84 tuổi .
39. NHÂM DẦN : Tiền Tào quan 2 vạn 7
+ 21 cuốn Kinh + 3 cột Chùa . Nộp tại kho số 10 Tào quan tính Diệu tư quân .
Thọ 80 tuổi .
40. QUÝ MÃO : Tiền Tào quan 2 vạn 7
+ 11 cuốn Kinh + 3 cột Chùa . Nộp tại kho 10 Tào quan tính Huyền tư quân . Thọ
75 tuổi .
41.GIÁP THÌN : Tiền Tào quan 3 vạn 9
. Nộp tại kho 19 Tào quan tính Trọng tư quân + Phóng sinh chim , cá . Thọ 80
tuổi .
42. ẤT TỴ : Tiền Tào quan 9 vạn + 30
cuốn Kinh + cúng 1 phướn to cho tam bảo bằng vải . Nộp tại kho số số ... Tào
quan tính Tiêu tư quân . Thọ 90 tuổi .
43. BÍNH NGỌ : Tiền Tào quan 3 vạn 3
+ 30 cuốn Kinh + 10 Hình nhân Tướng . Nộp tại kho 20 Tào quan tính Tái tư quân
. Thọ 78 tuổi .
44. ĐINH MÙI : Tiền tào quan 9 vạn 1
+ 34 cuốn Kinh . Nộp tại kho 32 Tào quan tính Cư tư quân + Sám hối và phóng
sinh chim cá . Thọ 92 tuổi .
45. MẬU THÂN : Tiền tào quan 8 vạn +
26 cuốn Kinh + 10 Hình nhân Tướng + Phóng sinh chim cá vô hạn . Nộp tại kho số
28 Tào quan tính Thuận tư quân . Thọ 91 tuổi .
46. KỶ DẬU : Tiền Tào quan 9 vạn +
20 cuốn Kinh + 3 Trụ Chùa + 1 Pháp khí . Nộp tại kho số 28 tào quan tính Hoằng
tư quân . Thọ 89 tuổi .
47. CANH TUẤT : Tiền Tào quan 10 vạn
+ 35 cuốn Kinh . Nộp tại kho 24 tào quan tính Tế tư quân . Thọ 77 tuổi .
48.TÂN HỢI :Tiền Tào quan 1 vạn 2 +
24 cuốn Kinh + 1 Phướn vải . Nộp tại kho số 10 tào quan tính Mạnh tư quân . Thọ
91 tuổi .
49.NHÂM TÝ : Tiền Tào quan 11 vạn +
13 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 3 Tào quan tính Mạnh tư quân . Thọ 80 tuổi .
50.QUÝ SỬU : Tiền Tào quan 2 vạn 7 +
11 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 18 tào quan tính Danh tư quân . Thọ 91 tuổi .
51.GIÁP DẦN : Tiền tào quan 7 vạn +
20 cuốn Kinh + 10 Hình nhân Tướng + Phóng sinh chim , cá càng nhiều càng tốt .
Nộp tại kho số 13 tào quan tính Đỗ tư quân . Thọ 85 tuổi .
52.ẤT MÃO : Tiền Tào quan 8 vạn + 27
cuốn Kinh + Giải oan Đàn cát đoạn + Phóng sinh chim cá + Hoàn 3 trụ Chùa . Nộp
tại kho 18 Tào quan tính Liễu tư quân . Thọ 83 tuổi .
53. BÍNH THÌN : Tiền Tào quan 3 vạn
6 + 27 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 35 Tào quan tính Quý tư quân . Thọ 85 tuổi .
54. ĐINH TỴ : Tiền Tào quan 7 vạn +
19 cuốn Kinh + 3 Hình nhân Tướng + 3 trụ Chùa + Lập Đàn sám hối , giải oan Cát
kết . Nộp tại kho 10 Tào quan tính Trình tư quân . Thọ 89 tuổi .
55.MẬU NGỌ :Tiền Tào quan 9 vạn + 20
cuốn . Nộp tại kho số 29 Tào quan tính Hoàng tư quân . Thọ 91 tuổi .
56.KỶ MÙI : Tiền Tào quan 4 vạn 3 +
25 cuốn Kinh + Giải oan Tiền kiếp + Cúng Tam bảo 1 bộ Pháp khí . Nộp tại kho số
5 Tào quan tính Bốc tư quân . Thọ 84 tuổi .
57.CANH THÂN : Tiền Tào quan 6 vạn 1
+ 11 cuốn Kinh + 2 Hình nhân Tướng nữ . Nộp tại kho số 40 tào quan tính Triệu
tư quân . Thọ 90 tuổi .
58.TÂN DẬU : Tiền Tào quan 3 vạn 1 +
35 cuốn Kinh + 2 hình Tướng + 3 Trụ Chùa + Sám hối Tiền kiếp . Nộp tại kho số
25 Tào quan tính Vương tư quân . Thọ 83 tuổi .
59.NHÂM TUẤT : Tiền Tào quan 10 vạn
2 + 25 cuốn Kinh . Nộp tại kho 40 Tào quan tính Hình tư quân . Thọ 90 tuổi .
60 .QUÝ HỢI :Tiền Tào quan 10 vạn 5
+ 28 cuốn Kinh . Nộp tại kho số 43 Tào quan tính Cừu tư quân . Thọ 92 tuổi .
SỚ LỄ TRẢ NỢ TÀO QUAN :
Nam Mô A Di Đà Phật ..
-Kính lạy : Ngài Di Lặc Phật Vương .
- Nam mô Phật - Nam
mô Pháp - Nam
mô Tăng .
- Nam
mô Huyền khung cao Thượng Đế - Ngọc Hoàng hựu tội tích phước Đại Thiên tôn .
- Nam
mô Diêu trì Kim Mẫu vô cực Đại từ tôn . Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật
- Đức U Minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ tát .
- Đại Thánh nam Tào , lục tự duyên thọ tinh Quân .
- Đại Thánh Bắc đẩu cửu hoàn giải ách tinh Quân .
- Nam
mô Hương Vân cái Bồ tát Ma ha tát .
- Nam
mô Thập phương tam thế . Nhất thiết thường trụ Tam bảo chư Bồ tát Thiên Long
Bát bộ đẳng chúng .
- Nam
mô kính lạy các Ngài Phán Quan sở trực .
- Hoàng Thiên Hậu Thổ Chư
vị tôn Thần .
- Các ngài Ngũ Phương , Ngũ Đế , Ngũ Nhạc Thánh Đế , Nhị Thập Tứ
Khí Thần Quan , Địa mạch Thần Quan , Thanh Long , Bạch Hổ , chư vị Thổ Thần
cùng quyến thuộc .
- Các ngài Kim niên Đương cai Thái Tuế chí đức tôn Thần , Bản Cảnh
Thành Hoàng tôn Thần và các vị Thần minh cai quản trong khu vực này .
Hôm nay là ngày tháng năm
Tín chủ của chúng con là
:............
Ngụ tại :
................................
Nhân tiết Xuân về , Tín chủ
của chúng con sắm sanh lễ vật , sưả sang hương đăng , trần thiết trà quả dâng
lên trước Án . Xin lập Đàn cầu đảo TRẢ NỢ TÀO QUAN, Cầu xin bình yên Bản mệnh ,
cầu Phúc , cầu Lộc , cầu Tài .
* Trầm thủy thuyền Lâm ,
hương phúc ức .
• Triên đàn tuệ uyển cựu
tài bồi
• Giời đao tiêu tựu túng
sơn hình
• Nhiệt hướng tâm lô trường
cúng dạng
* Nam mô Hương Vân Cái Bồ
Tát ma ha tát ( 3 lần ) .
Đại chúng dĩ lập .
* Nhất thiết cúng kính lễ thường trụ Tam bảo .
Như Lai diệu sắc thân .
Thế Gian vô dư đẳng
Vô tỷ bất tư nghì.
Thị cố kim kính lễ .
Như Lai sắc vô tận
Trí tuệ diệc phục nhiên
Nhất thiết thường trụ pháp
Thị cố ngã quy y .
*Thiết dĩ khải thiết hồng
nghi , khải cảm thông ư pháp giới , bằng tư pháp thủy . Tiên sái Đàn tràng ,
giáo hữu tịnh uế Chân ngôn cẩn đương trì tụng :
Bạch Ngọc uyển trung hàm tố
Nguyệt
Lục đương tri thượng Tán
trân châu
Kim tương nhất chích sái
Đàn tràng
Cấu uế Tinh Đàn tất thanh
tịnh ,
Án bắc đế tra thiên Thần la
na địa tra sa hạ ( 7 lần ) .
Nam mô lu cấu địa Bồ tát ma
ha tát ( 3 lần )
* Thiết dĩ Đàn tràng khiết tịnh , Pháp dự
tuyên dương . Khải thượng đạt ư phàm tình
tất tiên bảo bằng ư bảo triện , phần hương đạt tín Chân ngôn cẩn đương
trì tụng :
Ngũ phận pháp thân hương phúc ức
Hương huân trí huệ thậm
thâm môn
Thành tâm hiến cúng chư
Linh quan
Ngã dĩ chúng sinh đồng thụ
dụng
Nam mô tam mãn đa một đà
lẫm án phạ nhật la vật , Nhi sa hạ ( 7 lần ) .
* Nam mô hương cúng dàng Bồ
tát ma ha tát .
* Thiết dĩ hoa đàn băng
khiết , bảo chiện yên phù .
Dục nghinh hiền thám , dĩ
lai lâm , trượng gia trì ư bí mật . Ngã Phật giáo tạng trung hữu phổ triệu
thinh chân ngôn cẩn đương trì tụng :
Dĩ thử Chân ngôn thân triệu
thỉnh
Từ tốn Thánh chúng tất văn
chi
Nhất biến gia trì triệu
thập phương
Văn tập Đạo tràng phổ cúng
dàng .
* Thượng lai phụng thỉnh
chân ngôn tuyên dương dĩ kính . Tín chủ kiền thành , thượng hương nghinh thỉnh
.
Hương hoa thỉnh , nhất tâm
phụng thỉnh . Thập phương tam thế . Nhất thiết thường trụ Tam bảo chư Bồ tát
Thiên Long Bát bộ đẳng chúng .
Duy nguyện bất vi bản thệ
lẫn mẫn hữu . Tinh thỉnh giáng đàn tràng chứng minh công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh Tòng Phật
sở giáo , hưng thế tùy duyên .
Cung duy : Địa phủ Đền Hoàn
túc trái , Phán Quan cập chư Quan tù hạ .
Duy nguyện hỗ vân kỳ , nhi
diện kình , phò bảo giá dĩ ngưu giáng phó Pháp duyên chứng minh công đức ,
* Nhất tâm phụng thỉnh Thái
tuế sở trực , bản mệnh Thần quân Giáp Tý Đoài tư Quân. Nhâm Tý mãnh tư quân ,
Kỷ Sửu Đinh tư quân , Tân Sửu cát tư quân , Quý Sửu thân tư quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực
giáng phó pháp duyên công đức .
* Nhất tâm phụng thỉnh Thái Tuế sở trực , bảm mệnh Thần quân , Bính Dần tư mã
quân , Mậu Dần la tư quân , Canh Dần trạch tư quân , Nhâm Dần ái tư quân , Giáp
Dần trạch tư quân Ất mão liễu tư quân , Đinh Mão hứa tư quân , Kỷ Mão tống tư
quân , Tân mão trước tư quân , Quý mão hiền tư quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực
giáng phó pháp duyên công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh Thái tuế sở trực , bản mệnh Thần quân Giáp Thìn trùng tư
quân . Bính Thìn hiến tư quân , Mậu Thìn mã tư quân , Canh Thìn sáng tư quân ,
Nhâm Thìn triệu tư quân , Ất Tỵ Việt tư quân . Đinh Tỵ dương tư quân , Kỷ Tỵ tào
tư quân , Tân Tỵ cao tư quân , Quý Tỵ lương tư quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực
giáng phó pháp duyên công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh Thái tuế sở trực , bản mệnh Thần quân Giáp Ngọ Ngọ tư quân
, Mậu Ngọ hoàng tư quân , Canh Ngọ lý tư quân , Nhâm Ngọ khổng tư quân , Ất Mùi
hoàng tư quân , Đinh Mùi châu tư quân , Kỷ Mùi học tư quân , Tân Mùi thường tư
quân , Quý Mùi tống tư quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực
giáng phó pháp duyên công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh Thái tuế sở trực , bản mệnh Thần quân Giáp Thân nữ tư quân
, Bính Thân phó tư quân , Mậu Thấn tống tư quân , Canh Thân tống tư quân , Nhâm
Thân âm tư quân , Ất dậu am tư quân , Đinh Dậu thượng tư quân , Kỷ dậu hoàng tư
quân , Tân Dậu nhâm tư quân , Quý dậu thành tư quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực giáng phó pháp
duyên công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh Thái tuế sở trực , bản mệnh Thần quân Giáp Tuất quyền tư
Thần quân , Bính Tuất cổ tư thần quân , Mậu Tuất tấn tư Thần quân , Canh Tuất
tể tư Thần quân , Nhâm Tuất cổ tư Thần quân . Ất Hợi thành tư Thần quân , Đinh
Hợi phó tư Thần quân , Tân Hợi thạch tư Thần quân , Quý Hợi tống tư Thần quân .
Duy nguyện bằng tam bảo lực giáng phó pháp duyên công đức .
Nhất tâm phụng thỉnh . Tư Mệnh hộ uý đẳng Thần niệm Nguyệt ,Nhật , Thời tứ Trực
công Tào sứ giả , Đương Cảnh Thành Hoàng , Sã lệnh , Thổ Đại Thần kỳ , Thổ cập
bộ tòng đẳng chúng .
Duy nguyện thừa Tam bảo lực
, giáng phó pháp duyên công đức . Hương hoa thỉnh .
Thượng lai nghinh thỉnh kỷ một quang lâm , giáo hữu an tọa chân ngôn . Cẩn
đương trì tụng .
Phật Thánh tòng không lai
giáng hạ
Khoát Nhật tâm nguyện thính
gia đà .
Tùy phương ứng hiện quang minh
Nguyện giáng hương duyện an vị tọa .
Án tra ma la sa hạ ( 7 lần
)
* Nam mô hương cúng dàng Bồ
tát ma ha tát .
( Bấm ấn giờ ) .
Gia trì biến thực nam tư
nghì
Biến thử thực tám cam lộ
vương
Nhất tài nhật thực lương vô
biên
Nhất thiết hiền Thánh gia sung túc .
Tự nhiên trù thực ( Tý ) .
Vô lương diệc vô biên ( Ngọ ) .
Tùy niệm gia sung túc ( Mão )
Liệt vị Linh quang phổ đồng cúng dàng .
( Niệm chú biến thực cam lồ cúng dàng ) .
* Thượng lai biến thực chân ngôn , tuyên dương dĩ chúng đẳng kiền
thành , thượng hương phụng hiến .
Án phạ phật ma ha ( Hương hoa đăng trà quả thực phụng hiến )
Án tác phạ đát tha nga đa phạ ( 3 lần ) . Hổ lý lần , nhĩ đa ( 5
lần ) ba la ( 7 lần ) vị lân ( 8 lần ) .Thỉnh khoa dĩ tất cụ hữu sớ văn cẩn
đương tuyên đọc Lễ tất.
TIỀN TÀO QUAN NGÂN KHỐ
: (có 4 loại ở cuối sách: mẫu 1 tờ
)
Cách tính tiền kiếp theo THÁNG SINH (xem
để biết)
Những
gì ta đã tạo từ kiếp trước, ta sẽ thọ lãnh trong kiếp này hay kiếp sau nữa. Tuy
nhiên, đức thắng số, hành thiện tích đức, vận mệnh của đời người sẽ được thay
đổi. Tất cả đều tự tâm mà hóa giải.
Thọ
thai tháng 4 sinh tháng giêng: kiếp trước có tu hành và có cứu người, cho nên
kiếp này đặng lộc thực đầy đủ, của tiền nhiều, điền viên rộng, có chức phận
sang trọng, sống lâu, đi xứ khá hơn. Trong mình có tật kín, vợ chồng buổi đầu
không thành và con đầu lòng khó bảo dưỡng.
Thọ
thai tháng 5 sinh tháng 2: kiếp trước hay bố thí và in kinh cúng dường,
kiếp này làm lành sẽ được sang trọng, có phần đi xa xứ lập nên sự nghiệp, điền
viên. Có tính cứng mạnh mà không độc ác hay thương già cả, nghèo nàn. Số khắc
cha mẹ, không nhờ anh em, khó nuôi con, hay tiết kiệm, hay dạy người.
Thọ
thai tháng 6 sinh tháng 3: kiếp trước tánh ưa bài bạc là căn nghiệp, kiếp
này tánh hay phản phúc người ơn, khó làm con của cha mẹ, khó làm cha mẹ của con
mình, làm việc gì trước có sau không, ăn mặc hẹp thiếu, tâm tính thông minh,
đến già mới khá.
Thọ
thai tháng 7 sinh tháng 4: kiếp trước thông minh khôn khéo, kiếp này đặng
phát tài thịnh vượng, lập nên sự nghiệp, điền viên khá, vợ chồng buổi đầu không
thành và con đầu lòng khó bảo dưỡng.
Thọ
thai tháng 8 sinh tháng 5: kiếp trước ỷ thế khinh người, kiếp này hay say
rượu, khắc cha mẹ, anh em, vợ con xa cách, sau khi lớn dần ăn mặc đủ, làm ăn
khá. Nếu có làm lành thì điền viên khá.
Thọ
thai tháng 9 sinh tháng 6: kiếp trước tánh kiên cường, sau biết làm lành.
Kiếp này khắc cha mẹ, anh em, vợ chồng và con. Trong mình có tiểu tật, có làm
lành sẽ sống lâu, phát tài, có chức phận và minh mẫn.
Thọ
thai tháng 10 sinh tháng 7: kiếp trước tánh hay bàn luận điều lành, hay bố
thí cho người nghèo, kiếp này đi đến đâu cũng được người kính trọng. Thuở trẻ
làm ăn bình thường, lớn tuổi làm ăn phát đạt, có chức phận, vợ chồng buổi đầu
không thành và con đầu lòng khó bảo dưỡng. Có tật đau lưng hoặc đau chân.
Thọ
thai tháng 11 sinh tháng 8: kiếp trước có tu niệm lành, nhỏ ác, lớn thiện, kiếp này
nhỏ phải chịu cực khổ, khắc 3 đời chồng vợ, ít con, đi nhiều nơi, không nhờ anh
em. Khi đến 36 tuổi về sau làm ăn phát đạt lập nên sự nghiệp, có chức phận. Cha
mẹ sống lâu.
Thọ
thai tháng 12 sinh tháng 9: kiếp trước có tánh vui vẻ, trung tính, rộng
rãi, kiếp này được nhiều người yêu mến. Ăn mặc đầy đủ, anh em có làm quan,
không ở đặng gần nhau, số dời chổ ở 3 lần, còn làm chẳng lành thì dời chỗ 5 lần
mới đặng bình yên, khắc cha mẹ.
Thọ
thai tháng giêng sinh tháng 10: kiếp trước tánh can đảm, tự tác, tự thị,
độc tài, không phục người, kiếp này phải chịu cô độc một mình, đi lưu lạc xa
phương tận khổ, đến 50 tuổi lập nghiệp mới đặng phát đạt, diện mạo tốt.
Thọ
thai tháng 2 sinh tháng 11: kiếp trước có tánh kiêu ngạo, kiếp này hay đau
tim và ngũ tạng. Khắc cha mẹ, anh em, khó nuôi con. Số này phải làm lành thật
nhiều đặng giải oan cho đến 44 tuổi thì làm ăn phát đạt. Có điền viên, sự
nghiệp, cho chức phận, phải nên sửa tánh cho thật tốt.
Thọ thai tháng
3 sinh tháng 12: kiếp trước khẩu Phật tâm xà, kiếp này phải chịu ăn mặc
thiếu thốn, hay bị đau mắt, cô thế một mình. Phải làm lành thật nhiều giải oan
khiên, lành có dư thì Trời Phật cho chuyển họa ví phước thì tự đặng lập sự
nghiệp trở nên lúc cảnh già bằng không ăn năn thì chịu khổ tới già.
Thơ về: Tiền kiếp (Nam
Nữ xem chung)
SINH THÁNG GIÊNG
(Sinh tháng Giêng, thọ thai tháng Tư)
Kiếp trước bố thí của tiền,
Kiếp này sung sướng sang giàu vinh hoa.
Xưa kia kiếp ở Kinh Châu,
Lấy vợ xa xứ mới nên gia đình.
SINH THÁNG HAI
(Sinh tháng Hai, thọ thai tháng Năm)
Tiền kiếp quê ở Tây Xuyên,
Lòng thành hỷ xả, dâng hương Phật đài.
Kiếp này đặng hưởng lộc tài,
Làm lành làm phúc, giàu sang thọ trường.
SINH THÁNG BA
(Sinh tháng Ba, thọ thai tháng Sáu)
Kiếp trước vốn ở Tân Châu,
Tính hay bỏn sẻn, bạc bài sai ngoa,
Kiếp này phải chịu gian nan,
Khá nên tích đức mới yên tuổi già.
SINH THÁNG TƯ
(Sinh tháng Tư, thọ thai tháng Bảy)
Kiếp xưa trưởng giả rất giàu,
Kiếp này vui vẻ thông minh ai bì.
Ngoài ba mươi tuổi làm nên,
Cơ đồ hưng vượng vinh hoa một đời.
SINH THÁNG NĂM
(Sinh tháng Năm, thọ thai tháng Tám)
Tiền kiếp quê ở Lãnh Nam,
Là người ỷ thế làm nên sang giàu.
Kiếp này mắc tật chân tay,
Về sau mới đặng vinh quang thọ trường.
SINH THÁNG SÁU
(Sinh tháng Sáu, thọ thai tháng Chín)
Kiếp trước cúng Phật dâng hương,
Cho nên sung sướng giàu sang kiếp này.
Nếu làm âm đức cho nhiều,
Để dành hậu vận, chung thân thọ trường.
SINH THÁNG BẢY
(Sinh tháng Bảy, thọ thai tháng Mười)
Hoài Nam,
kiếp trước chẳng lành,
Chẳng hay bố thí làm nhân giúp người.
Kiếp này mắc bịnh liên miên,
Khá nên tích đức để dành hậu lai.
SINH THÁNG TÁM
(Sinh tháng Tám, thọ thai tháng Mười Một)
Kiếp trước có căn tu hành,
Hay xem kinh kệ lại thương kẻ nghèo.
Nên nay tài lộc trời ban,
Ba mươi tuổi đã vinh sang ai bì.
SINH THÁNG CHÍN
(Sinh tháng Chín, thọ thai tháng Chạp)
Ưng Châu, kiếp trước bất tài,
Mượn kinh, vay nợ chẳng hề trả ai.
Kiếp này lận đận gian nan,
Nên đi xa xứ mới nên cửa nhà.
SINH THÁNG MƯỜI
(Sinh tháng Mười, thọ thai tháng Giêng)
Sơn Đông, kiếp trước oai quyền,
Kiếp này lẫm liệt danh vang ai bì.
Chờ cho gặp hội Long vân,
Về sau cũng được yên thân thanh nhàn.
SINH THÁNG MƯỜI MỘT
(Sinh tháng Mười Một, thọ thai tháng Hai)
Vũ Lăng, kiếp trước không tài,
Tính thì trầm tỉnh lại hay nghi ngờ.
Kiếp này trần bảng tân toan,
Trở về vận cuối mới mong thanh nhàn.
SINH THÁNG CHẠP
(Sinh tháng Chạp, thọ thai tháng Ba)
Tiền kiếp ăn ở hiền lành,
Kiếp này làm cả, làm đầu hương thôn.
Bạn bè họ mạc mến yêu,
Về sau quyền quí chẳng ai dám bì.
Phần thứ Ba: Cắt Duyên âm là gì
Lý giải về "tình duyên kiếp trước !
Tiền
duyên khác duyên âm
Các chuyên gia nghiên cứu về tâm linh cho rằng,
tiền duyên là những mối nhân duyên của một người trần tục với người ở thế giới
khác từ những kiếp trước đây. Nó được chia thành hai loại: Thứ nhất là tình
duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những kiếp trước còn
ảnh hưởng đến bây giờ, thường gọi là tiền duyên. Còn tình duyên hiện tại giữa
người trần và những người ở thế giới khác (thường là với các vong hoặc tà) nên
có thể gọi là: duyên âm.
Giải thích về vấn đề này,
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, tác giả cuốn sách "khoa học và vấn đề tâm
linh" cho rằng, linh hồn tồn tại bất tử sau khi chết. Nhiều nhà nghiên cứu
đều cho rằng, cấu tạo con người gồm 7 phần: Cơ
thể thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác
là hữu hình được y học chính thống giảng dạy (năng lượng đặc). Sáu phần còn lại
là năng lượng độ đặc khác nhau (vía) là năng lượng không đặc như thể xác. Khi
chết chỉ là phần thể xác mất đi. Sáu phần còn lại mãi và giữ được nhân cách của
con người - linh hồn. GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, một công trình điều tra
của Viện Gallup (Mỹ) trên 12.000 người đã từng cận tử và chết lâm sàng cho hay,
trong lịch sử tồn tại của loài người trên quả đất đã có khoảng 70 tỷ người đi
qua cửa tử, tức là nhiều gấp 10 lần dân số thế giới hiện nay. Sau khi chết con
người từ cõi trần vào cõi trung giới vô hình. Cõi này gồm 7 cảnh giới khác nhau
từ nhẹ đến nặng. Tùy theo nhân cách tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người
khi sống mà sau khi chết họ ở cảnh giới tương ứng. Đa số vong linh có hình dáng
như khi sống nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử giống như cõi
trần nên họ hay trở về cõi trần.
Đặc biệt, TS vật lý Hamoud (Anh), người chuyên nghiên cứu và đã có 10
năm tu luyện ở Viện Lạt - ma, Tây tạng cho hay, đối với một số người chết yểu,
bất đắc kỳ tử, vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở
trên đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi
âm.
Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi
chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn,
thường hay tìm cách trở về cõi trần theo "người cũ" hoặc một ai đó.
Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo
những khoái cảm của những cặp trai gái...
Hầu hết ai cũng có tiền duyên
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, theo Phật giáo, chúng ta có kiếp luân
hồi. Khi được chuyển kiếp người ta vẫn lưu giữ những ký ức về kiếp trước. Theo
nghiên cứu của những người đã trải nghiệm cận tử (chết đi sống lại) của Viện
Gallup, địa vị xã hội không quan trọng sau khi chết. Chỉ có tình cảm với người
khác là khó quên nhất.
Khi sống, hầu hết con người ta ai cũng có tình cảm khác giới. Ngoài tình cảm vợ
chồng thì còn có những mối tình nam nữ. Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không
thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau... Vì
thế, ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội, đối xử quá tệ bạc thì sẽ
trở thành hận tình.
Mỗi chúng ta đã sống ở trần tục này bao nhiêu kiếp? Trong tất cả các kiếp ấy
chúng ta đã gặp bao nhiêu mối tình sâu nặng mà mãi mãi không bao giờ quên được?
Tình yêu có sức mạnh vô biên, sức mạnh ấy đưa những linh hồn này đi tìm người
mà mình yêu hiện đang sống ở trần tục để giúp đỡ hoặc cản trở, phá hoại (ghen)
để người trần tục không thể lấy chồng hoặc lấy vợ được. Nếu người trần tục vẫn
lấy chồng hoặc lấy vợ được thì tìm cách phá hoại hạnh phúc của đôi vợ chồng
này.
Từ trước đến nay người trần tục chỉ nghĩ rằng, những người không lấy được vợ
hoặc chồng hay rất khó khăn trong việc tìm vợ tìm chồng thì mới có tiền duyên.
Theo một vài nghiên cứu thì hầu như ai cũng có tiền duyên. Chỉ có điều, những
tiền duyên đó đã ảnh hưởng tới cuộc sống tình cảm vợ chồng hiện nay đến mức
nào.
Quan niệm "ông bà tổ tiên phù hộ"
ThS Vũ Đức Huynh, tác giả của hơn chục cuốn sách
về tâm linh và cổ học phương Đông cho biết, người chết chưa phải là hết mà vẫn
còn phần hồn. Người và vong hồn luôn còn mối quan hệ giao thức sóng do cùng có
nguồn gốc tần số xung động nào đó của các dòng hạt điện sinh học. Vong hồn nào
cũng còn mối quan hệ giao thức với thân nhân tiền kiếp. Dân gian có quan niệm
"ông bà tổ tiên phù hộ" chính là bắt nguồn từ điều này.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp bị ép buộc về cõi
vong - chết bất đắc kỳ tử... còn nhiều ký ức về cõi trần luyến tiếc tình ái,
của cải công danh... hoặc là các vong hồn còn muốn trở lại cõi trần, nơi các
vong vẫn còn nhiều "duyên nợ" nên lang thang trở lại cõi trần và tìm
mọi cơ hội để thể hiện thực hiện ký ức hoặc duyên nợ đó. Cách thể hiện thường
là hình dáng ánh sáng lạnh hoặc bằng cách nhập vào người. Cũng có trường hợp,
vong hồn được tái sinh sớm nên còn nhiều ký ức và tìm đến người xưa.
ThS Vũ Đức Huynh cho rằng, "thất tình, lục dục", là bảy thứ tình cảm
và sáu thứ dục vọng ở con người trong đó có ba thứ dục vọng là nhu cầu sống của
bản thân là: Ăn uống, tình dục và ngủ - nghỉ ngơi. Ở cõi vong chỉ có tình và
dục ảo. Nó là ký ức "ghi xương khắc cốt" nằm trong cấu tố thần thức
của vong hồn. Gọi là ảo bởi vì cấu trúc của các thực thể là ở dạng thức hạt
điện sinh học mạng lưới lỏng lẻo nhẹ nên không thể thực hiện các động tác thể
hiện các động thái tình và dục được.
ThS Vũ Đức Huynh cũng cho biết, cắt tiền duyên chính là làm phép để cho vong
hồn tỉnh ngộ mà rời cõi trần quay về cõi vong để tu luyện lên các bậc cao hơn.
Ai có Duyên
âm ?
Duyên Âm là gì ? Duyên Âm có hay không ?
Khẳng định Duyên Âm là hoàn toàn có thật NHƯNG phải có đủ cơ sở chuẩn xác
để nhận định chứ không đơn giản là những giấc mơ, ám ảnh hay liên tưởng lung
tung.
Phải phân biệt cho rõ giữa Duyên Âm và Vong theo. Duyên âm thì xét ở 2 khía
cạnh là Tiền duyên và Duyên âm đang xảy ra hiện tại.
Tiền Duyên : là tình duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những
kiếp trước còn ảnh hưởng đến bây giờ. Ở những kiếp trước "họ" và bạn
có những mối lương duyên nào đó rất sâu đậm nhưng không đến được với nhau rồi
sau khi mất nếu "họ" chưa siêu thoát được sẽ ôm niềm thương ấy mà
lang thang tìm bạn, khi gặp được rồi sẽ theo bạn đến cùng.
Còn Duyên Âm : là tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác
(thường là với các vong hoặc tà). Thường là một số người chết yểu, bất đắc kỳ
tử, chết oan vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở trên
đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi âm.
Hay những người lúc còn sống có dục tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong
linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách
trở về cõi trần theo "người cũ" hoặc một ai đó. Hoặc là dù vô tình
hay cố ý bạn bị rơi vào mắt xanh của họ nên họ theo và đeo bám bạn.
Duyên âm thường
chỉ xảy ra ở nữ giới, nam giới vẫn bị nhưng ít hơn.
Vong theo : là những vong linh còn
điều gì chưa thoả mãn hay lưu luyến nên theo những người hợp vía để tồn tại lại
chốn dương gian. Theo hại người cũng có, mà giúp người cũng có.
Dấu hiệu nhận biết : Tính tình thay đổi lạ lùng theo chiều hướng xấu, ngơ ngơ, thơ thẩn như 1
người khác hoàn toàn. Xuất hiện trong những giấc mơ là những hình ảnh
"người nào đó" lặp lại nhiều lần, bên tai thỉnh thoảng nghe những câu
nói mơ hồ, sợ hãi khi đứng trước những đấng thiêng liêng hay đau đớn lạnh lẽo
khi nghe kinh kệ......Nặng nhất là có ý định tự tử, tìm cái chết theo 1 sự xúi
giục vô hình và những người chậm lấy vợ/chồng; có người lấy vợ/chồng lại chậm
có con (đều phải xem xét kĩ các trường hợp)
Giải Pháp : Cắt duyên âm, trục vong : thường thì nhờ những vị Thầy cao tay, uy tín
hay các vị Sư Thầy.
Việc nợ Tiền duyên có muôn hình vạn trạng. Người còn bị nợ tiền duyên
phải biết chính xác việc mình còn nợ nần như thế nào thì trả mới được đúng.
Sau đây là một số ví dụ về nợ tiền duyên:
Ví dụ 1: Một người Nữ yêu một người Nam đến có thai. Nhưng hai gia đình
không đồng ý cho cưới, bản thân người Nam cũng biến mất. Người nữ vì xấu hổ, uất hận, chán chường
mà tự tử chết. Như vậy trong trường hợp này, người Nam kia đã có Nợ ân tình.
Kiếp sau phải bị quả báo nhân duyên. Nếu câu chuyện này xảy ra từ tiền kiếp thì
kiếp này người Nam bị nợ tiền duyên.
Ví dụ 2: Một người Nam lấy hai người vợ. Chỉ yêu chiều người vợ Thứ mà
hắt hủi, xa lánh người vợ Cả. Người vợ cả vì chưa có con nên cũng không biết
làm gì cho đỡ buồn phiền. Càng ngày nỗi buồn phiền tủi hận càng tăng lên. Đến
một ngày nào đó vì quẫn trí mà tìm đến cái chết. Trong trường hợp này thì người
Nam đã có Nợ ân tình và cũng phải chịu quả báo nhân duyên. Nếu câu chuyện này
xảy ra trong tiền kiếp thì kiếp hiện tại người Nam bị nợ tiền duyên.
Ví dụ 3: Một cô gái xinh đẹp vì hám tiền bạc vật chất, yêu một lúc cả 5
người đàn ông giàu có . Với ai cô cũng hứa hẹn tương lai hôn nhân, nhiệt tình
hiến dâng thể xác. Trong số 5 người đàn ông đó, có 3 người si tình đắm đuối,
còn 2 người thì mục đích chính chỉ là vui chơi.Một ngày kia cô gái cùng đống
tài sản của các anh si tình biến mất tăm tích.Ba người này hụt hấng, chán nản,
buồn phiền, đau khổ. Rồi vì những lý do nào đó mà họ lần lượt ra đi "thiên
thu vĩnh biệt" khi mái đầu còn xanh, ôm trong lòng mối hận tình khôn
nguôi.Trong trường hợp này thì cô gái xinh đẹp kia đã có Nợ ân tình với 3 người
và phải chịu quả báo nhân duyên. Nếu câu chuyện này xảy ra trong tiền kiếp thì kiếp
hiện tại(đã tái sanh làm người)cô gái xinh đẹp đó bị nợ tiền duyên. Nếu trả nợ
tiền duyên thì phải dùng tới 3 hình nhân để thế mạng, thế duyên....vv.
Đây mới chỉ nói đến yếu tố con người,
yếu tố vật chất trả nợ đi kèm cũng không thiếu phần kỳ lạ. Có những vong yêu
cầu phải trả 1 mẫu ruộng, 1 ao bèo, một con lợn nái và mười con lợn con, một
con chó. Có vong thì chỉ đòi đủ 3 đĩnh vàng ròng, một mâm cơm có rượu ngon.
...vv.
Như vậy Nợ tiền duyên đã rõ, còn Quả báo tiền duyên thì sẽ như thế nào?
Những người bị một trong bốn tình huống sau đây được coi là quả báo tiền duyên:
1.Trục trặc trong tiền hôn nhân: Liên quan đến các vấn đề tìm hiểu, kết bạn để
đi đến hôn nhân hay gặp nhiều sự khó khăn trở ngại, không thuận lợi.Vô duyên.
2.Không thành duyên phận: Hôn nhân đã định đến ngày giờ để cưới mà không thành
phải hủy bỏ. Hoặc hôn nhân tưởng như đã trong tầm tay, đến lúc quyết định thì
lại hỏng, không thể cưới nhau được.
3.Không có con hoặc rất khó có con : Trường hợp hai người lấy nhau đã
lâu không có con mà không liên quan đến bệnh tật, sức khỏe của hai người.
4.Không có hôn nhân lâu dài: Sau một thời gian chung sống, lựa chọn cuối cùng
là bỏ nhau.
Như vậy ai bị vào 1 trong 4 trường hợp nêu trên, đầu tiên nên nghĩ đến
việc có Nợ nần ân tình kiếp trước tức là nợ tiền duyên.
Vậy trả nợ tiền duyên như thế nào và những ai làm được việc này?
Như trên đã nói, phải tùy tình trạng nợ duyên đó như thế nào mà làm hình nhân
thế mạng, thế duyên để trả nợ duyên. Có khi chỉ cần 1 hình nhân là đủ, nhưng
cũng có thể phải cần đến 3-4 hình nhân thế mạng, thế duyên mới đủ.
Lễ trả nợ tiền duyên được thực hiện tại các đền thờ Thánh Mẫu ở trong
các Chùa, Các Đền, Điện, Phủ khác ngoài Chùa. Người có thể làm việc này là các
Pháp Sư, Đồng Thầy Tứ Phủ, Thầy cúng Tứ Phủ.
(Không làm lễ trả nợ tiến
duyên nơi Tam Bảo vì việc này không thuộc phạm vi giải quyết của Chư vị Phật,
Chư vị Bồ Tát).
Mặc dù trong số các vị Bồ Tát, có Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là người duy
nhất hóa giải được nợ tiền duyên. Nhưng việc này phải được thực hiện tại tư gia
của những người có Căn Quả được hưởng lộc do Đức Quán thế Âm ban cho và có thờ
Đức Quán Thế Âm. Thường những người này là những người: Có khả năng gọi Hồn. Có
khả năng tìm mộ. Có khả năng thấu thị. Có Khả năng linh cảm biết trước các sự
việc và một số khả năng đặc biệt khác.
CƯỚI HAI LẦN những điều nên biết
Nhiều người
đi coi số tìm hiểu chuyện hôn nhân trong tương lai hoặc hôn nhân hiện tại, thấy
người Thầy đoán số nói rằng: Số anh, số chị, phải làm đám cưới hai lần thì mới
tránh được tai ương họa hại trong hôn nhân, nếu không thì phải "Hai lần
đò".
Nhiều người
bán tín, bán nghi, không hiểu tại làm sao lại phải làm như vậy.
Vậy bản chất của việc "cưới hai lần" này là như thế nào?
Đây chính là
trường hợp của những người Nợ Tiền Duyên, những người Nợ Cô Thần,Quả Tú hoặc là
cả hai trường hợp đó mà chưa biết cách làm lễ trả; Còn trường hợp cô dâu bị
tuổi Kim Lâu cũng đón dâu 2 lần. Nhưng nhờ Duyên Phận Nhân Quả mà đến vận được
kết hôn (Lập thất).Việc chung sống theo đó đương nhiên không thể nào hạnh phúc
lâu dài, khó tránh khỏi sự rạn nứt tình cảm và tan vỡ hôn nhân...vv.
Chính vì vậy
phải "cưới hai lần" để "giải ân, giải nợ".
Làm đám cưới hai lần sẽ tránh
được Nghiệp Quả(Báo)tiền Duyên. Nghĩa là tránh được sự ly tán, tan vỡ hạnh phúc
gia đình. Đây là việc làm thuận theo hướng dẫn của Thiên Quy. Người cõi Âm dù
còn vướng mắc ân tình với người Dương thế cũng không đi theo quấy quả nữa.
* Có
hai cách để "Cưới hai lần", đó là:
1.
Cách thứ nhất: Dù cho là
người Nam hoặc người Nữ hoặc là cả hai đều bị nợ Tiền Duyên và nợ Cô Thần Quả
Tú, phải làm thế này:
Sau khi nhà Trai đến xin ăn
hỏi, dẫn lễ, dẫn cưới xong thì cô gái sẽ theo luôn đoàn nhà Trai mà về nhà
"chồng tương lai" của mình. Ngủ lại 1 đêm ở đó với người chồng chưa
cưới(động phòng). Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm liền bỏ về nhà cha mẹ đẻ mà
không chào hỏi,tạm biệt ai cả. Không mang theo bất cứ đồ vật hoặc tài sản gì
(ngoại trừ một số tiền đi đường cần thiết). Có thể phải bắt xe ôm, xe ô tô mà
về. Nếu nhà ở gần thì đi bộ về nhà.
(Việc này đương nhiên phải có bàn bạc, thống
nhất từ trước giữa hai bên thông gia)
Đến ngày tổ chức đám cưới, đón Dâu chính thức thì cô Dâu mới về "ở
hẳn" nhà chồng.
2. Cách thứ hai: Dù cho là
người Nam hoặc người Nữ hoặc là cả hai đều bị nợ Tiền Duyên và nợ Cô Thần Quả
Tú, nhưng đã lấy nhau mà chưa làm theo cách thứ nhất ở trên.
Vậy trong thời gian là 3 năm kể từ khi kết hôn phải tổ chức "cưới
lại". Nếu vẫn không hay biết việc này, đến khi có trục trặc xảy ra mà qua
thời gian 3 năm rồi, thì lại phải đợi đến 6 năm (kể từ khi kết hôn) mới tổ chức
cưới lại được. Vì trong Thế giới Tâm Linh tính mốc theo Khóa thời gian. Mỗi
Khóa thời gian là 3 năm, 2 khóa là 6 năm.
Nếu trong thời gian này còn
chưa kịp cưới lại, hôn nhân đã đổ vỡ thì cũng là do Duyên Phận phải như vậy.
Nếu sau khi đổ vỡ hôn nhân mà biết cách đi trả
Nợ Tiền Duyên và giải Cô Thần,Quả Tú thì khi lập thất lần thứ hai không cần
phải "cưới lại".
Nếu chưa làm lễ giải như trên, thì khi kết hôn dù là đã tới lần thứ hai cũng
vẫn phải tổ chức "cưới lại" theo khóa thời gian là 3 năm hoặc 6 năm,
kể từ khi lập gia đình.
Khi đó người nữ (vợ) lại chọn một ngày nào đó mà mới sáng sớm đã bỏ về nhà cha
mẹ đẻ của mình mà không chào hỏi, tạm biệt ai. Khi đi cũng không mang theo đồ
vật hay tài sản gì ( đương nhiên vẫn có sự thỏa thuận từ trước)
Trong trường hợp đã có con thì người vợ đó sẽ mang theo đứa con nào hợp với
tuổi của mình.
Nếu có 1 đứa con thì mang nó
đi theo luôn
Nếu có 2 đứa con thì mang theo
1, còn để lại nhà chồng 1.
Nếu có 3 đứa con thì mang theo
2, để lại nhà chồng 1.
Bỏ về nhà cha mẹ đẻ trong 3
ngày hoặc là 10 ngày.
Sau 3 ngày
hoặc 10 ngày đó, nhà Trai lại biện dẫn lễ lên "xin cưới" như lúc ban đầu. Tuy phần lễ có đơn giản hơn nhưng
vẫn phải đúng trình tự, nghi thức, trang trọng, có đại diện hai họ (nhưng ít
người hơn). Sau đó người nữ(vợ) đó sẽ lại theo đoàn người nhà Trai để về nhà
"chồng" của mình, lại lễ lạy Gia tiên tiền tổ nhà chồng như các thủ
tục thông thường.
Lúc này cần
chú ý : Nếu đã mang con về nhà cha mẹ đẻ thì phải để con ở nhà không cho đi
cùng. Ba hôm sau mới được trở về để đón con đi.
Việc
"cưới hai lần" là việc làm thuận theo Thiên Quy, coi như xóa được
việc Nợ Tiền Duyên và Nợ Cô Thần, Quả Tú.
Cưới
hỏi cho « người âm »
Chuyện
"Cưới hỏi cho người Âm" không có gì xa lạ với những Pháp sư, Thầy
cúng, nhưng có lẽ nó là câu chuyện hoang đường mang màu sắc thần kỳ bí ẩn, khó
tin đối với nhũng người chưa bao giờ có một niềm tin nào ở nơi tâm linh.
Tuy vậy hiều biết về nó giúp chúng ta nhìn nhận về Thế giới Vô Hình một cách
khách quan hơn. Người vốn có niềm tin thì có thể "khẳng định". Người
không tin điều gì về vấn đề Ma Quỷ, cũng không nên "phủ định".Hãy coi
như một bài học về Tâm linh. Mà biết đâu, đến một lúc nào đó chính bản thân
mình hay người thân lại gặp phải tình trạng tương tự thì cũng biết cách để hóa
giải.
Nguyên nhân
tạo nên việc cưới hỏi cho người âm có hai trường hợp:
1. Khi người cõi Âm có yêu cầu và người Dương trần muốn thể theo nguyện vọng
của họ mà làm.
2. Khi có người Âm (Vong ma)đi
theo người Dương trần mà không phải là do nợ Ân tình từ kiếp trước (nợ Tiền
Duyên).
Trong trường hợp thứ nhất:
Người cõi Âm chính là những người thân của gia đình khi mất còn trẻ, chưa có
lập gia đình.
Trong trường hợp thứ hai:
Người dương trần bị một Vong ma nào đó đi theo (Vong có sự quyến luyến tình cảm
với người trần rất là tình cờ ngẫu nhiên, cũng giống như chuyện người trên cõi
trần bị tiếng sét ái tình).Do Vong ma đó có tình cảm riêng tư mà ngăn cản người
trần gian đi đến hôn nhân, khiến cho việc tình cảm của người trần bị trục trặc,
gián đoạn, đổ vỡ, vô duyên...vv. Trong trường hợp này nhiều người lầm tưởng là
bị nợ Tiền Duyên, nhưng đi trả nợ nhiều lần vẫn không thấy thay đổi được tình
trạng "ế ẩm" của mình mà không thể hiểu được còn nguyên nhân gì nữa.
Đây chính là cái gọi bị "Vong ma ám" chứ không phải là nợ Tiền Duyên.
Cả hai trường hợp đã nêu trên
được xác định là nhờ bởi các “Vong linh” của gia đình báo cho biết. Đây là khi
người đi gọi Hồn người thân đã quá cố có hỏi về tình trạng của các thành viên
trong gia đình và có đề cập hỏi đến những nhu cầu khác của Vong. Hoặc hữu duyên
gặp được Pháp sư, Thầy số am hiểu tâm linh, dạn dày kinh nghiệm,khả năng hơn
người chỉ bảo cho mà biết. Ngoài ra là sự kết hợp của cả hai việc: được nghe
Thầy "phán" và đi gọi Hồn vong linh thân nhân của gia đình để kiểm chứng,
xác minh.
Vậy cưới hỏi cho người âm ra
làm sao?
Có một số việc quan trọng phải
làm :
1. Đối với các Vong là Nam thì
phải dùng hình nhân là Nữ. Đối với các Vong Nữ thì phải dùng hình nhân là Nam.
2. Đặt cho hình nhân một cái
tên phù hợp, cho hình nhân đó một số tuổi cũng phù hợp với yêu cầu của vong.
3. Địa chỉ nơi ở của hình nhân
chính là nơi ở hiện tại của người tín chủ(gia chủ)có liên quan đến vấn đề tâm
linh này.
4. Sắm lễ cưới hỏi theo như
vong yêu cầu hoặc theo hướng dẫn của Pháp sư.
Các việc nêu ở trên đều phải nhờ Sư Thầy/ Cô đồng/Pháp sư... mới làm được.
Ngoài ra cần chú ý : Đối với việc trả nợ Tiền Duyên thì "khổ chủ"
thường phải nhổ tóc trên đầu của mình buộc vào chân hương (nén hương sau khi
Pháp sư tuyên chú, hô thần, làm pháp, đặt trên đầu hình nhân) và hà hơi vào
miệng hình nhân này mấy cái, vì đó chính là hình nhân thế mạng, thế duyên của
mình. Nhưng đối với việc Cưới hỏi cho người cõi Âm thì lại không cần phải làm
như thế.
Phần thứ Tư: Tạ đất; Tạ mộ
Việc lễ tạ Mộ phần và lễ tạ thần linh
Thổ địa nơi ở là vấn đề mà ai cũng quan tâm, bởi vì phần âm có yên thì người
dương mới ổn và có an cư thì mới lạc nghiệp.
Ai là người phải Tạ Mộ và Tạ đất/nhà ở
?
Tạ Mộ: Đây là một tục lệ truyền thống của người Việt Nam; có ý nghĩa vô cùng. Nó
thể hiện sự hiếu thuận, đạo tình của con cháu đối với những người thân đã
khuất. Đồng thời, cầu mong các vị “Thần linh” ở các khu mộ/nghĩa trang này phù
hộ cho các “vong linh” người thân quyến thuộc đắc an cư nơi mộ địa và không bị
ngoại quỷ vô danh vọng hành chiếm đoạt mộ phần. “Mặc dù tạ mộ là một phong tục
tập quán, không phải là nghi lễ của đạo Phật nhưng nó thể hiện sự hiếu thuận
biết ơn và nhớ ơn tới ông bà, tổ tiên thì cũng đâu ngoài Phật pháp. Nếu Phật
tử/Con cháu có lòng nghĩ nhớ đến ông bà tổ tiên mà đi viếng mộ thì để bày tỏ
lòng hiếu thuận và biết ơn thì đâu có gì là không đúng, đâu có gì là không
được. Đồng thời, chính việc này cũng giúp giáo hóa lòng người để họ biết hiếu
thuận. Song mọi người cũng cần phân biệt rõ tảo mộ và tạ mộ. Lễ tảo mộ còn có
nghĩa đen là quét mộ, được diễn ra vào ngày mùng 3 tháng Ba âm lịch. Với công
việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Còn
tạ mộ hay còn gọi là lễ Chạp được diễn ra vào những ngày giáp Tết. Các gia đình
thường ra mộ tổ tiên và người thân đã khuất để lễ tạ Thổ thần, đắp thêm đất lên
mộ, sửa sang mộ, rước vong linh gia tiên về đón năm mới. Theo Đại đức Thích
Minh Định thì mọi việc tùy duyên. Nếu họ biết nhớ ơn hiếu thuận thì vẫn có thể
thăm mộ người thân như ông bà, cha mẹ mà cúng, lễ lạy. Song không nhất thiết
phải “mâm cao cỗ đầy”.
Tạ đất/Nhà ở: Việc cúng lễ thần linh Thổ địa/Chúa đất nơi ở , đất ở là vấn đề mà
nhiều người quan tâm, bởi vì phần âm có yên thì người dương mới ổn và có
an cư thì mới lạc nghiệp ; Và để bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với các chư thần,
gia đình cũng thành tâm sửa biện lễ vật để dâng cúng ,lễ tạ.
Thường thì
đầu năm ngay từ mùng một tết cúng Quan Thần linh và Gia tiên và cũng xin sự phù
hộ một năm gia đình mạnh khỏe, làm ăn tấn tới, phát tài phát lộc, con cháu mạnh
khỏe ngoan ngoãn học giỏi; Đến cuối năm
tạ đất ở/nhà ở phải mời thầy giúp cho vấn đề này mới là đúng phép, vì họ
hiểu biết về tâm linh, có chuyên môn và có pháp.
Tuy nhiên
trong những trường hợp mà mộ phần đã được yên ổn (Hoặc đầu năm gia đình có đi
xem bói hay “gọi hồn”) được biết là phần mộ có sự phù trợ thường xuyên cho gia đình, giúp cho trong
cuộc sống gặp được nhiều may mắn, thì cần phải làm lễ tạ phần mộ để bày tỏ lòng
biết ơn đối với “vong linh” và đương nhiên sự tác động hai chiều luôn mang đến
những kết quả tốt đẹp.
Đối với gia
trạch thì do có duyên lành mà gia đình gặp được vị thầy có tâm đức khi lập
bát nhang thờ cúng được đúng, đủ. Gia
chủ lại có tâm có tín, khấn lễ chu đáo theo lệ, nhờ vậy thần linh Thổ địa ban
ân, giúp cho phong thủy yên lành, toàn gia mạnh khỏe, không khí gia đình đầm
ấm, vui tươi. Không có yêu ma xâm hại quấy nhiễu, điềm lành mang đến, điềm dữ
mang đi, kinh doanh đắt hàng đông khách,
giao dịch có tín có uy....Và để bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với gia thần, gia
đình cũng thành tâm sửa biện lễ vật để dâng tạ thần linh Thổ địa.
* Thông thường thì đầu năm cúng, cuối năm tạ. Tức là vào
đầu năm sắm sửa lễ để cúng mộ phần, thần linh Thổ địa nơi gia đình sinh sống.
Cuối năm lại làm như vậy nữa (đối với gia đình khá giả). Để gia giảm đầu năm có
sắp lễ hương hoa xin và cuối năm làm lễ tạ (nếu gia đình còn khó khăn nghèo
khó).
Sau đây là hướng dẫn cách cúng lễ đơn
giản, thông thường áp dụng đối với những gia đình vốn đã có sự yên ổn về nơi ở,
về mộ phần. Do đó có thể tự sắm sửa lễ vật và cúng lễ mà không lo sai phạm.
Những trường hợp gia chung bị động chạm long mạch, đất ở
có “yêu tà”, bát nhang lập chưa đúng….Những trường hợp mồ mả bị động do nhiều
lý do, vong linh không được yên....thì nhất định
phải mời thầy pháp đến giúp cho mọi việc từ gia chung yên ổn đến mồ yên mả đẹp,
rồi mới được làm theo hướng dẫn này.
1.Lễ
Tạ Mộ: Cách sắm lễ và văn khấn tạ mộ
phần (mỗi năm 1 lần)
a)Phần lễ:
-Hương thơm,Hoa tươi ( hoa hồng đỏ; cúc tùy theo); Trầu 3 lá, Cau 3 quả
cành dài đẹp; Trái cây; Xôi trắng 1 mâm bên trên bày Gà luộc nguyên con
( Nhớ là gà giò hoặc là trống thiến) (bánh trưng+ giò);Rượu trắng 0,5 lít +
Chén đựng rượu 5 cái; Bia + 2 bao
thuốc lá + 2 gói chè ( 1 lạng/gói)
2 nến cốc màu đỏ dùng để thắp khi làm lễ
b)Phần mã :
-1 cây vàng hoa đỏ ( 1000 vàng): Cây vàng đại
-5 con ngựa 5 màu ( đỏ, xanh, trắng, vàng, chàm tím) cùng
với 5 bộ mũ, áo, hia ( loại to) cùng với đồ kèm theo ngựa là cờ lệnh, kiếm, roi
(tất cả có trong 1 cái túi). Mỗi ngựa trên lưng có 1 lễ vàng tiền ( gọn trong 1
túi gọi là 1 lễ: một lễ gồm có tiền xu, vàng lá, tiền âm phủ các loại đô la
mã.)
-Có 4 đĩa để tiền vàng riêng như sau : (tùy theo hoặc gia
giảm...)
1 đĩa để 3 đinh vàng lá, 1 đinh xu tiền
1 đĩa có 1 đinh vàng lá, 7 đinh xu tiền
1 đĩa có 9 đinh vàng lá, 1 đinh xu tiền
1 đĩa có 1 đinh xu tiền
-Đối với số mộ có tại nghĩa trang: Đối với vong linh tùy
theo là nam, phụ, lão, ấu, mà có thêm ‘mã’ áo quần tương ứng dâng tiến
cúng vào mùa nào thích hợp : mùa xuân , đông cho phù hợp và cúng “mã” quần
áo + mũ, nón, dầy, dép... phù hợp. Ngoài ra có tiền âm phủ các loại kèm theo,
tiền xu, vàng lá….mỗi thứ ít nhiều (mỗi bộ thường kèm 1 lễ tiền là tốt nhất).
Mỗi năm tạ một lần vào thời gian từ ngày 16 đến
22/12 âm lịch. Còn vào mùa Vu Lan; Dịp giỗ không tạ “mã” quần, áo nữa; tập
trung tạ vào cuối năm!
-Trường hợp các gia đình có nhiều khu mộ (nằm trên nhiều
nghĩa trang, nhiều xứ đồng) thì chỉ làm lễ tạ ở nơi nào có khu mộ đông nhất và
có thể có mộ Tổ của dòng họ là được (khi tạ phải chuẩn bị đủ “mã” cho tất cả
vong linh trong họ; chuẩn bị cả “vải-mã các màu” cho những “vong linh” “ hữu
danh vô thực-hữu thực mà vô danh”
c) Thời gian tạ: trước 23/12 âm lịch (trước Tết cúng Táo Quân)
Văn khấn : Tạ mộ
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT!(3 lần)
Con kính lạy:
- Quan đương xứ thổ địa chính thần
- Thổ địa Ngũ phương Long mạch Tôn thần,
- Tiền thần Chu Tước, Hậu thần Huyền Vũ, Tả thần Thanh
Long, Hữu thần Bạch Hổ
- Liệt vị Tôn thần cai quản ở xứ này.
Con kính
lạy vong linh ..........
Hôm nay
là ngày…tháng…năm…, nhằm tiết …..
Chúng con
là:............... Thành tâm sắm sanh phẩm vật, hương hoa phù tửu lễ nghi,
trình cáo Chư vị Tôn Thần về việc lễ tạ mộ
phần.
Nguyên có
vong linh thân nhân của gia đình chúng con là:……….hiện phần mộ an táng ở nơi
này. Đội ơn Chư vị Tôn thần che chở, ban ân,
vong linh được yên ổn vui tươi nơi chín suối. Lại nhờ có duyên lành, gia đình
chúng con được vong linh thường về ghé thăm, linh ứng giúp chỉ dẫn các công các
việc được đầu xuôi đuôi lọt, nhờ thế toàn gia được an ninh khang thái, từng
bước tiến bộ.
Nay nhằm ngày lành tháng tốt, gia đình chúng con sắm sửa lễ tạ mộ những mong
báo đáp ân thâm, tỏ lòng hiếu kính. Cúi xin Chư
vị Tôn Thần lai giáng án tiền, nhận hưởng lễ vật, chứng minh tâm đức.
Cúi mong
vong linh chấp kỳ lễ bạc, lời kêu tiếng khấn, tờ đơn cánh sớ, tùy phương ứng
biến, độ trì toàn gia, từ trẻ tới già, luôn được vui tươi, mạnh khỏe.
Chúng con dâng biếu vong linh tài mã gồm : ….( đọc tên các đồ mã dâng cho vong-
Những “vong linh ” mà “Hữu danh vô thực –Hữu thực vô danh biếu vải để may sắm
quần áo”)
Âm dương
cách trở, bát nước nén hương, giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
NAM-MÔ
A-DI-ĐÀ PHẬT!(4 lần)
2/Tạ đất-nhà ở ( Nhà thờ Tổ)
Lễ tạ gồm có:
1. Sắm
lễ:
Nghi lễ đối với gia đình có một ban
thờ gồm 3 bát hương thờ : Thổ công , Hội
đồng gia tiên , Bà Cô Tổ dòng họ. (hoặc
có 1 bát hương thờ Thổ công và thờ vọng)
1/Hương thơm
2/Hoa tươi ( hoa hồng đỏ/cúc vàng) 10 bông chia ra hai lọ hai bên
3/Trầu 3 lá, Cau 3 quả cành dài đẹp
4/Trái cây 2 đĩa bày ở hai bên
5/Xôi trắng 2 đĩa to cũng bày hai bên (hoặc 1 bánh trưng)
6/Gà luộc nguyên con bày vào 1 đĩa ( Nhớ là gà giò hoặc là trống thiến). (hoặc
khoanh dò lụa) Hoặc là một cái chân giò lợn ( chân trước) luộc, chân trái hay
phải đều được.
7/Rượu trắng 0,5 lít + Chén đựng rượu 3 cái/5 cái
8/10 lon bia + 6 lon nước ngọt bày ở hai bên ban thờ (tùy theo gia đình)
8/1 bao thuốc lá + 1 gói chè ( 1 lạng/gói)
9/Một số bánh kẹo bày vào một đĩa to.
Vì ở gia đình thường có đèn thờ nên không cần phải dùng nến cốc, nếu không có
đèn thờ thì phải dùng đôi nến khi thắp hương làm lễ.
2/Phần mã thì có :
1/ 6 ông ngựa, trong đó : 5 con ngựa
5 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng, chàm)
cùng với 5 bộ mũ, áo, hia ( loại nhỏ) kèm theo ngựa là cờ lệnh, kiếm, roi. Mỗi
ngựa trên lưng đặt 1 lễ là tối thiểu
(nếu 10 lễ tiền vàng nếu gia chủ có điều kiện).
*Chú ý: 5 ông ngựa 5 màu nhỏ và 1 ông
ngựa Đỏ to hơn 5 con ngựa trên, cũng kèm theo mũ, áo, hia nhưng to hơn
và cờ, roi, kiếm.
2/ 1 cây vàng hoa đỏ (
1000 vàng ): Mua loại “Vàng cúng Thần
Linh”
3/1 đĩa đựng 50 lễ vàng tiền ( dâng gia tiên)/ Tiền vàng này gia giảm tùy theo 10 lễ/20 lễ/..... (/cơ quan/doanh nghiệp không phải làm
lễ vàng tiền này vì đây là tiền vàng tạ
Gia tiên; ở cơ quan chỉ có Thần Tài tiền
cúng Thần Tài có tiền riêng )
Văn khấn: Lẽ tạ nhà đầu năm
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT!
Con kính
lạy:
- Quan
đương xứ thổ địa chính thần (Hoặc: Quan Thổ địa chính thần cai quản ở khu vực:
Tên địa chỉ nhà ở...)
- Thổ địa
Ngũ phương Long mạch Tôn thần,
Hôm nay
là ngày…tháng…năm…, nhằm tiết ….. (Mùa xuân)
Chúng con là:............... Thành tâm sắm sanh phẩm vật,
hương hoa phù tửu lễ nghi, trình cáo Chư vị Tôn Thần về việc lễ tạ thần linh
Thổ Địa .
Gia đình chúng con nhờ có duyên lành mà đến an cư lạc nghiệp nơi này. Đội ơn
thần linh Thổ địa che chở, ban ân, đất này được phong thủy yên lành, khí sung,
mạch vượng, bốn mùa không hạn ách tai bay, tám tiết có điềm lành tiếp ứng.
Trong ngoài ấm êm, toàn gia mạnh khỏe.
Nay nhằm ngày lành tháng tốt, gia đình chúng con sắm sửa
lễ tạ mong báo đáp ân thâm, tỏ lòng tôn kính. Cúi xin Chư vị Tôn Thần lai giáng
án tiền, nhận hưởng lễ vật, chứng minh tâm đức.
Cung kính nghĩ rằng thần linh Thổ địa sẽ tùy duyên ứng
biến phù hộ cho gia đình chúng con được an cư, đạt được những điều mong ước,
cho nhà cao cửa rộng, cho tăng tài tiến lộc, cho nhân vật hưng long.
Âm dữ dương đồng, dốc lòng cầu khấn, cúi xin soi tận, ý
khẩn tâm thành.
Kính thỉnh Bản gia tiên tổ liệt vị chân linh đồng lai hâm hưởng.
Cẩn cáo!
*Lưu ý:
-Tạ mộ vào tháng
12 (nên tạ từ ngày 16 âm đến trước 22 âm) và chọn ngày Giải Thần là tốt nhất
Thần mới lên chứng lễ. Nếu không phải ngày Giải Thần thì chỉ có người học địa
lý mới hỏi được thần và đồ lễ vị thần tại mộ đồng ý nhận những thứ gì.
Nếu không biết cứ chọn ngày Giải Thần
hoặc là ngày có sao:Thiên Giải; Địa
Giải; Thiên địa thì mới được các vị thần
linh ứng phù.
-Tạ đất/nhà ở: tạ vào tháng giêng và tháng 2: thì từ 16 tháng giêng đến hết tháng 2: tạ vào
các ngày có sao các vị thần: : Giải thần, Thiên giải, Nguyệt giải thì mới
nhận được lễ vật. (Từ tháng 3 không làm lễ tạ nữa!)
Phần thứ Năm: Phần Kết
Làm nhiều Thiện Đức để thắng “số
Mệnh”
Ta đã biết cơ bản về “Số
mệnh” con người do đâu? Nghiệp và Nhân quả. Cải số mệnh được không? Muốn cải số
mệnh phải làm sao? Vài trường hợp cải được và không cải được.
Người xưa bảo: “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền điện”
(Ăn uống, cử động đều đã định trước), “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên”
(Mưu tính nơi người mà thành bại do Trời).
Người xưa lại bảo “Đức năng thắng số” (Phúc đức có thể thắng số mệnh) “Nhân lực
thắng Thiên” (Khả năng con người có thể cải số Trời)…
Hai lập luận trên đây tương đối mâu thuẫn,
mà từ lâu chúng ta còn phân vân, không rõ luận thuyết nào đúng hơn, vì mỗi luận
thuyết đều có những sự tích chứng minh.
Như bảo số mệnh do Trời thì có những người số chết đói, chết đuối dù có né
tránh, rốt cuộc vẫn chết đói, chết đuối.
Còn bảo Đức năng thắng số thì cũng có những
trường hợp đáng lẽ phải chết đói, chết yểu, mà nhờ biết tu tỉnh, làm nhiều âm
đức, được thoát chết, sống lâu, lại khá giả chẳng hạn.
Vậy luận thuyết nào đúng hơn?
Số mệnh con người, do đâu?
Con người được hình thành bởi hai phần chính: thể xác do cha mẹ
sinh ra và linh hồn tiếp nhận nơi Tạo hóa, và linh hồn là Tiểu Linh-Quang trong
khối Đại Linh Quang của Tạo hóa. Vậy con người là một Tiểu Thiên địa, hay một
Tiểu Vũ trụ.
Nhưng phải chăng Tạo hóa bất công, khiến con người có kẻ giàu sang, sung sướng,
người lại nghèo hèn, khốn khổ, dù cùng sinh ra trên một dãy đất, trong một gia
đình, hoặc cùng một năm, tháng, ngày, giờ với nhau?
-Chắc hẳn không phải thế.
Các tôn giáo và hầu hết loài người đều tin rằng có Thượng Đế,
Chúa tể Càn Khôn, cầm quyền thưởng phạt muôn loài.
Nhưng theo các nhà nghiên cứu, tuy Thượng Đế là đấng Chí tôn,
quyền năng vô tận, nhưng cạnh Ngài còn có một cái “Luật” mà Lão Tử tạm dùng chữ
“ĐẠO” để gọi, đó là luật Trời, hay Thiên lý, mà Thượng Đế tùng theo, để điều
hành vũ trụ (cũng như một Quốc gia, tuy vị Nguyên thủ là trên cao nhưng vẫn
phải tuân hành Hiến pháp).
Do đó, sở dĩ có kẻ sướng người khổ là do số mệnh an bài, nhưng số mệnh chẳng
phải do “ông Trời” hay các vị Thánh Thần sắp đặt, cho người này giàu, bắt người
kia nghèo mà là do “NGHIỆP” (Karma) của chính con người, tức luật Nhân quả.
Nghiệp và luật Nhân Quả
Không ai có thể biết được con người có từ bao giờ, trải qua bao
nhiêu kiếp, nhưng theo thuyết luân hồi thì hẳn đã quá nhiều! Mỗi kiếp, con
người đã làm bao nhiêu điều lành lẫn điều dữ, phước có, tội có năm này tháng nọ
chất chồng, có khi chưa chịu thưởng phạt đúng mức đã mãn số, lại luân hồi kiếp
mới để “trả đũa” cũ và lại tạo thêm “Nhân” mới.
Bởi thế mà trong lá số Tử Vi của một người, có những sao tốt,
sao xấu lẫn lộn, cung này cung nọ liên quan chằng chịt nhau, biểu hiện cái
“Nghiệp” của người ấy, trông cây gì được quả nấy, như bóng với hình, mà trong
đó Vận hạn là con đường bắt buộc cá nhân phải trải qua để trả Nghiệp cũ (thưởng
lẫn phạt), đồng thời tạo Nghiệp mới.
Nghiệp có lành có dữ thì Vận số có tốt có xấu. Vận tốt thì được thụ hưởng giàu
sang sung sướng, vận xấu thì chịu nghèo hèn, hoạn nạn nhưng cán cân nghiệp
lành, nghiệp dữ không đều, thì vận số cũng không đều nhau, do đó Họa và Phúc
lẫn lộn hoặc nhiều hoặc ít, chẳng hạn tuy giàu sang mà đau ốm, vợ chồng căn
đắng, con cái hư hỏng, hay ngược lại tuy nghèo hèn mà ít nạn tai, vợ chồng hòa
thuận, con cháu hiếu thảo….
Cải số Mệnh được không?
Như đa trình bày ở trên, thì số mệnh đã an bài do nghiệp của
nhiều tiền kiếp, hễ vay ắt phải trả, cho nên số mệnh con người như đã được lồng
vào một cái khung và vận hạn ví như một con đường duy nhất, bắt buộc con người
phải đi qua, một lộ trình vạch sẵn.
Bởi vậy trên nguyên tắc, số Mệnh là số Mệnh, khó mà cải đổi được
cái căn bản, tức cái khung của số mệnh, hay là những “nghiệp lớn”.
Nghĩa là nghiệp cũ phải trả, dù thụ hưởng hay bị hình phạt. Do đó chúng ta thấy
có những người hung ác mà vẫn giàu sang, phè phỡn, còn người hiền lương, tu
niệm, làm phúc lại cứ gặp hoạn nạn, là vì nghiệp cũ chưa “thanh toán” xong, mà
“Nhân” mới chưa kịp có “hiệu lực”.
Tuy nhiên, con người có thể cải được một phần số mệnh vận hạn
của mình, nhưng rất ít, hơn nữa, chẳng phải ai cũng có khả năng hoán cải, dù có
cải cũng chỉ cải được vận số nhỏ, tức các nghiệp nhỏ thôi. Cũng ví như “cái
khung” vẫn y nguyên, mà “cái cảnh” có thể thêm hoặc bớt. Đó là tạo “nhân” (tốt
xấu) mới để bù đắp “quả” (xấu tốt) cũ.
Cải số bằng cách nào?
Có thể tạm chia thành 2 phương thức: “tiêu cực” và “tích cực”
-Về “tiêu cực” thì tương đối đơn giản hơn, có nghĩa ăn ở và hành động thuận
theo số mệnh và Thiên Lý. Không gieo gió thì khỏi gặt bão. Khi gặp vận tốt thì
nương đó tiến lên để thành đạt. Lúc gặp vận xấu thì chớ liều lĩnh, làm bạo,
thấy hao tài thì chớ cho vay mượn, thấy đau ốm thì gìn giữ sức khỏe, thấy nạn
tai thì tránh xe cộ, sông nước, thấy thị phi quan sự thì nên nhẫn nhịn, tránh
phạm pháp…Tuy đến Năm, Tháng, Ngày, Giờ đó, vẫn bị hạn, song có thể nhẹ bớt ít
nhiều.
-Về phương diện “tích
cực” phức tạp hơn, nhưng tựu trung là cố gắng làm nhiều việc “Âm đức” để hóa
giải các nghiệp nặng. Nhưng phải thật thành tâm, đầy thiện ý, hành động một
cách tự nhiên theo lương tâm không tính không vụ lợi, không cầu danh, thì việc
làm tuy nhỏ mà có khi Âm đức lại to.
Chớ không phải ỷ có nhiều tiền, vung tiền của phi nghĩa ra, gọi
là bố thí, làm phước, để được khen ngợi, ca tụng, hoặc giả làm lấy có, lấy lệ,
cúng chùa, lễ Phật, giải sao hạn…tuy là những việc làm có tính cách từ thiện,
cũng hay, cũng là những “Nhân” lành, song chưa thể gọi là “Âm đức” được. Vì Tạo
hóa chí công vô tư, hẳn không vì nhiều tiền mà cho nhiều phúc, còn ít tiền lại
cho ít phúc hay sao?
Một vài phương thức
khác
-Nhờ Đức tin và lòng thành, tức những người tiền căn, hiện kiếp
có sự liên quan, giao cảm với cõi Trung giới hay cõi Âm, nay vận hạn tuy xấu,
gặp hoạn nạn, nhưng ăn ở hiền lương, ngay thật, lại có đức tín và lòng thành
khắc được Thánh Thần và các vong linh quá vãng phù trợ, thấy dữ hóa lành.
-Mồ mả tổ tiên, phúc đức hay tội lỗi của ông bà cha mẹ cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến vận số con người. Ví dụ: vận hạn đang xấu, có ông cha quá
vãng mà an táng nơi đất kết phát thì có ảnh hưởng tốt. Hoặc biết con cái số
phải long đong mà cha mẹ biết làm phúc chứa đức thì con cái được nhờ, sớm thì
hiện tại, chậm thì tương lai.
-Ngoài ra, vấn đề chỗ ở, nhà cửa, bếp núc cũng có ảnh hưởng một
phần vào vận số con người. Chẳng hạn như số mệnh đã tốt mà chỗ ở được vùng đất
tốt, nhà cửa bếp núc day đúng phương hướng với mạng, thì sự tốt tăng thêm. Nếu
vận hạn xấu mà dời chỗ ở cho hạp phong thổ, nhà, bếp day hướng tốt hạp với cung
Mạng của mình thì cũng đỡ được khá nhiều.
Chúng ta đang nằm
trong “quỹ đạo” của Nghiệp, chi phối bởi số mệnh, cho nên số - mệnh vẫn là số
mệnh. Chúng ta tìm hiểu số mệnh để ăn ở, hành động hợp với số mệnh hay Thiên
lý, để lánh dữ tìm lành.
Chúng ta đừng tự phụ bảo rằng cải được số mệnh bằng tài sắc và
mưu trí, đã vô ích mà còn nặng nghiệp hơn đấy!
Nếu chúng ta có một định số kém sáng sủa, chúng ta cũng chớ quá
bi quan, phó mặc Hóa công, tới đâu hay đó, rồi cái gì cũng Số, cái gì cũng
Mệnh! Không làm gì cả, cũng vô ích. Mà chúng ta phải cố công bồi tu Âm đức để
hóa giải Nghiệp cũ (tùy theo cán cân Đức và Số).
Ví dụ phúc đức tạo ra chưa đủ đền bù Nghiệp cũ quá nặng, chúng
ta có thể hãnh diện rằng đã gieo được “Nhân” lành, mà khi Nghiệp cũ trả xong
chắc chắn “Quả” lành sẽ đến. Chính ta mới có thể tự cải số chung ta mà thôi.
Ngoài ta ra không ai cải số giúp ta
được, kể cả các đấng vô hình.
Nghiên cứu tổng thể về con người; người xưa thường nói: “NHẤT MỆNH,
NHÌ VẬN, TAM PHONG THỦY, TỨ ÂM ĐỨC, NGŨ ĐỘC THƯ”
*Mệnh: là số ; mà
số tức là có sự sắp sẵn của “thiên định” (có ảnh hưởng trực tiếp từ Phúc họa
Tiền kiếp di truyền theo luật Nhân-Quả).
Diễn biến từng giai đoạn có thể thay đổi nhưng toàn cục không thay đổi.
Thấy rõ nhất khi nghiên cứu Tử vi-Tử Bình-Tướng số.
*Vận: là những
diễn biến xẩy ra tương ứng với một giai
đoạn nhất định như ngày (Nhật); tháng (Nguyệt);Năm (Niên); đại hạn (10 năm
một). Các môn nghiên cứu: Tử vi-Tử Bình-Dịch học-Tướng số.
*Phong thủy:
Nghiên cứu về những diễn biến xẩy ra trong một ngôi nhà qua sự tác động của Khí
từ ánh sáng , gió,nước, môi trường...Đối với địa mạch của cuộc đất nơi cư trú.
Qua hình thể, phương vị bố trí tại các phòng ốc, cửa ngõ mà luận ngũ hành âm
dương phân định tốt xấu . Các môn nghiên cứu: Địa lí dương trạch học,
*Âm công: Từ hình
thể có sẵn trong tự nhiên qua mạch dẫn tìm về nơi có sơn triều thủy tụ, có
chứng ứng qua Long,Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ mà khoanh vùng mạch huyệt để xây mộ
an táng người chết. Các môn nghiên cứu địa lí âm trạch.
*Độc thư: Là
những người nghiên cứu về khoa học huyền bí thông qua các môn liên quan đến
Mệnh, văn học Đông phương. Có người đem ra ứng dụng để kiếm sống (làm Thầy), có
người chỉ thuần chỉ là người nghiên cứu. Dù là đối tượng nào nhưng tất cả đều
không thể thay đổi được số Mệnh (Truyện kể về Tả Ao Tiên sinh ). chính vì đặc
điểm này mà Độc thư đứng ở hàng cuối cùng qua sự phân cấp.
Người vận dụng phải có kiến thức tổng hợp, biết xem
xét thiên nhiên môi trường, cải tạo nó thành môi trường tối ưu cho con người
sinh sống để phát triển tốt đẹp. Đích cuối cùng của Con người phải là Thiên - Nhân - Địa hợp nhất, con
người đạt đến cái đích thấu hiểu những quy luật của trời đất và sống hoà hợp
với những quy luật ấy. Từ trước đến nay những quy luật của thiên nhiên, của
trời đất vũ trụ vẫn vô tư tồn tại, chỉ có con người duy ý chí mới cho rằng mình
sống không cần phụ thuộc vào nó nên vô tình đã phạm phải những điều gây tai hoạ
cho chính bản thân con người
Ngoài ra còn kết hợp với các phương
pháp cải biến vận mệnh khác :
Làm việc
thiện : Có câu “một việc thiện giải trăm việc ác”. Theo quan
điểm của Đạo Phật, tích đức hành thiện sẽ thay đổi nghiệp quả ác từ đời trước,
tạo nên những nghiệp thiện và nếu làm nhiều có thể báo ứng ngay hiện tại góp
phần cải thiện vận mệnh. Các việc thiện có rất nhiều như giúp người khó khăn,
chữa bệnh, làm đường xá cầu cống, ủng hộ thiên tai, hiến máu nhân đạo,đóng góp
xây dựng tu bổ đền, chùa; phóng sinh...Thực tế cho thấy hạnh phúc lớn lao của
con người chỉ đạt được khi mà hạnh phúc ấy được chia sẽ với những thành viên
khác trong cộng đồng.
Đặt tên/Đổi tên : Danh tính có vai trò rất quan trọng bởi đó là nhân tố thường xuyên tác
động đến bản mệnh. Cái tên gọi mỗi ngày sẽ có tác dụng to lớn đến quá trình cải
tạo vận mệnh.Vì vậy khoa tính danh học đã phát triển, sử dụng Âm Dương, Ngũ
Hành bổ trợ cho vận mệnh. Để biết mệnh của mình thiếu Hành gì phải dùng môn Bát
Tự để xem xét, sau đó đặt lại tên để bổ cứu.(các cháu sinh ra bây giờ bố mẹ cố
gắng tìm Thầy đặt cho một cái tên hợp Phong thủy và Dòng họ).
Y phục và đồ vật đi kèm : Trên cơ sở xem xét bản mệnh thiếu loại ngũ hành gì có thể sử dụng loại
màu sắc quần áo, trang phục, xe cộ,... để có Ngũ Hành phù hợp bổ trợ cho chỗ
thiếu của mệnh. Ví dụ, mệnh thiếu hành Hoả có thể dùng quần áo nhiều màu hồng,
đỏ, xe cũng nên dùng màu đỏ sẽ bổ cứu cho mệnh tốt hơn. Các dụng cụ đồ vật đi kèm
cũng nên dùng Ngũ Hành phù hợp, như mệnh cần hành Kim nên dùng nhiều đồ trang
sức kim loại, vàng bạc. Mệnh cần hành Thổ nên dùng nhiều loại đá quý, ngọc.
Sử dụng phương hướng phù
hợp : Căn cứ Ngũ Hành của bản mệnh, xem xét bản mệnh hợp
với phương vị nào thì nên sinh sống lập nghiệp ở phương vị đó sẽ tốt hơn là
sinh sống lập nghiệp ở phương vị không phù hợp. Ví dụ, mệnh cần hành Hoả thì
nên sinh sống ở phương Nam,
ở nhà hướng Nam, văn phòng
hướng Nam.
Mệnh cần hành Kim thì nên sinh sống ở phương Tây, ở nhà hướng Tây, văn phòng
hướng Tây.
Sử dụng các con số phù hợp : Ngũ Hành của bản mệnh cần bổ cứu hành gì thì sử dụng các con số phù hợp
để bổ trợ. Các con số thường sử dụng như số nhà, số điện thoại, biển số
xe,...Đại diện ngũ hành của các con số như sau : Số 1,2 thuộc Mộc, số 3-4 thuộc
Hoả, số 5-6 thuộc Thổ, số 7,8 thuộc Kim, số 9,0 thuộc Thủy. Và sử dụng con số
Phi tinh để tìm ra số phù hợp với bản Mệnh.
Chọn nghề nghiệp phù hợp : Căn cứ ngũ hành cần thiết cho bản Mệnh mà chọn nghề nghiệp cho phù hợp.
Như mệnh cần hành Thổ nên làm về những ngành nghề thuộc Thổ như sản xuất nông
nghiệp, kiến trúc, xây dựng, bất động sản.
Chọn vợ chồng và bạn bè,
đối tác làm ăn phù hợp : Nên chọn những người có Ngũ Hành
bản mệnh phù hợp và bổ trợ tốt cho ngũ hành của bản thân mình. Đặc biệt là
người vợ, chồng chung sống suốt đời có vai trò vô cùng quan trọng, vì thế cần
phải chọn lựa cẩn thận trước khi tiến đến hôn nhân. Các phương pháp trên sẽ
được khảo luận cụ thể ở các mục tương ứng.
Cuối cùng: Số Mệnh của ta do ta quyết định?
Gần chúng ta có nước Trung Hoa cũng nghiên
cứu phong thủy và các nhân tố thành đạt của con người. Khi nói về
sự thành đạt của một đời người, hay Số Phận, người Trung Quốc xưa thường quan
niệm: "Nhất số, nhì vận, tam phong, tứ mả, ngũ gia, lục vấn"
Số: Tức là số mệnh, là sự sắp
đặt của thiên định do phúc tạo ra từ
tiền kiếp và di truyền theo luật
nhân quả. Số mệnh quyết định toàn cục cuộc đời của một con người. Diễn biến
từng giai đoạn có thể thay đổi nhưng toàn cục thì không. Cũng có trường phái
cho rằng, con người có thể cải số. Nhưng theo thuyết nhà Phật thì đó cũng chỉ
là sự vay tạm tương lai trong quá trình tu tạo của mình.
Vận: Là những diễn biến hên, xui
xẩy ra trong một giai đoạn nhất định như ngày, tháng, năm, đại hạn...
Phong: Tức phong thủy, nghiên
cứu về sự tác động của của môi trường xung quanh nhà cửa, nơi ở tới cuộc sống
của con người. Như sự tác động của gió, nước, ánh sáng, từ trường, điện
trường...
Mả: Tức mồ mả. Nghiên cứu về tác
động của mồ mả tổ tiên tới số phận con người.
Gia: Tức gia đình. Gia đình ảnh
hưởng tới sự hình thành tích cách, văn hóa của con người và do đó cũng ảnh
hưởng tới số phận con người.
Vấn: Tức học vấn. Đứng thứ 6
trong việc ảnh hưởng tới số phận con người.
Hiểu rõ từng yếu tố trên, con người có thể phần
nào chủ động tránh điều xấu và tiếp nhận điều tốt cho mình. Như vậy có thể phần
nào nói rằng "Số phận trong tay chúng ta".
(Ngô
Lê Lợi-KS Quản lí đất đai- nghiên cứu
Phong thủy Dương trạch-Tử vi-Kinh Dịch-Phong thủy Âm trạch).