Chân thành Cảm ơn cháu Vương Văn Thắng Bí thư chi bộ -Trưởng phòng Hạ tầng kinh tế huyện HOàng Su phì đã gửi Bài này và Tặng sách : Giao thông huyện Hoàng Su Phì 67 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1955 - 2022)
Trước khi vào xem bài " Ngày 13/8/2023; Cháu Trần Chí Nhân Phó VP Huyện ủy Hoàng Su Phì thông tin: May quá, cháu tìm đc rồi. Quyết định số 156-QĐ/HU ngày 06/7/2000 của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc tách chi bộ cơ sở, thành lập Chi bộ Giao thông trực thuộc Huyện ủy. Cái QĐ này nó nằm trong cái PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA CHI ỦY GIAO THÔNG NHIỆM KỲ I 2001 - 2003 mà chú là Bí thư chi bộ đã ký ban hành ạ.Như vậy chặng đường chông gai nhất của HSP (Thời kì Xây dưng) về phát triển giao thông từ khi chuyển huyện từ Nam Sơn về là 1988-2000 và 2000 cơ bản đã hoàn thành mở đường từ Trung tâm huyện về Trung Tâm xã (nền đường đất) còn từ 2000 trở đi là là phát triển và nâng cấp mở rộng khi này có Chương trình 135 (1999-2004)và sau đó CT 30A (sau năm 2005) và có thêm DA Chia sẻ ...
Thời kì chú làm được rất nhiều việc rất đáng khâm phục ạ. Trong Lịch sử Đảng bộ Hà Giang có nói đến chú có nhiều đóng góp (trong cuốn Hà Giang 110 năm trưởng thành và phát triển ạ).
Công lớn nhất là huy động đc sức dân. Còn doanh nghiệp làm là vì có tiền, khi đó công lao lại thuộc Nhà nước vì nhà nước cho tiền. Vì vậy trong phần kết luận và bài học kinh nghiệm cháu cũng đánh giá phân tích kỹ vấn đề này ”Bài học về phát huy nội lực, huy động sức dân”. Hôm tới tổ chức hội thảo chú cố gắng lên dự ạ.
Hôm nào hội thảo báo trước chú khoảng 1 tuần chú lên trước còn đi chơi vài xã nhé" . Cảm ơn thịnh tình của cháu nhé?
LỜI GIỚI THIỆU
Hoàng Su Phì là huyện
vùng cao biên giới phía tây của tỉnh Hà Giang, là địa bàn chiến lược về Quốc
phòng và an ninh của tỉnh Hà Giang nói riêng và đất nước nói chung. Đây là nơi
cư trú lâu đời của hơn 66.000 người thuộc trên 13 dân tộc như Dao, Tày, Mông, Nùng,
La Chí, Cờ Lao... Do đặc điểm về vị trí địa lý tương đối cách biệt, địa hình chủ
yếu là đồi núi dốc, khí hậu khắc nghiệt nên trong suốt chiều dài lịch sử đấu
tranh để tồn tại và phát triển, nhân dân các dân tộc trong huyện đã luôn đoàn kết
gắn bó, khắc phục những khó khăn bất lợi về điều kiện tự nhiên để xây dựng và ổn
định cuộc sống, đồng thời chung sức đồng lòng để bảo vệ vững chắc từng tấc đất
biên cương của Tổ quốc.
Sau khi cùng với cả
nước giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm
lược, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ và chính quyền huyện Hoàng Su Phì, nhân dân các dân tộc trong huyện đã
bắt tay vào công cuộc kiến thiết quê hương đất nước để khôi phục kinh tế và chi
viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ cứu nước. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
phát triển của đất nước và địa phương, ngay từ những ngày đầu hòa bình được lập
lại, cùng với sự ra đời của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và cấp huyện, năm
1955 Phòng Giao thông - tiền thân của Phòng Kinh tế và Hạ tầng đã được thành lập
và tiếp đó là Phòng Xây dựng được thành lập vào năm 1958 để thực hiện chức năng
nhiệm vụ tham mưu, giúp việc cho Ủy ban hành chính huyện trong lĩnh vực giao
thông và xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng của huyện. Trải qua 67 năm phấn đấu
và trưởng thành, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng, Phòng
Kinh tế và Hạ tầng tiếp tục được giao nhiều trọng trách nhiệm vụ mới, tham mưu
giúp việc cho Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên
các lĩnh vực giao
thông, xây dựng, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, điện
nông thôn, phát triển đô thị, kiến trúc, quy hoạch xây dựng, vật liệu xây dựng,
nhà ở và công sở, hạ tầng kỹ thuật đô thị, khoa học kỹ thuật.
Trong điều kiện, hoàn
cảnh của một địa phương vùng cao biên giới với nhiều giai đoạn cách mạng khác
nhau, các thế hệ cán bộ lãnh đạo, công chức của Phòng Kinh tế & Hạ tầng
luôn thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó, khắc phục khó khăn, linh hoạt sáng tạo
cụ thể hóa các mục tiêu nhiệm vụ được giao phụ trách, đặc biệt là lĩnh vực phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng phúc lợi công cộng từ huyện đến các xã, đẩy mạnh
hoạt động thương mại, dịch vụ, phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ. Từ đó
góp phần quan trọng trong việc tạo dựng bộ mặt mới của huyện Hoàng Su Phì ngày
một khang trang, hiện đại như ngày nay.
Nhận thức được ý nghĩa truyền
thống và để lưu giữ, kế thừa, phát huy những thành tựu đầy tự hào qua 67 năm xây
dựng và phát triển, Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì biên
soạn và xuất bản cuốn “Truyền thống Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su
Phì 67 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển (1955 - 2022)". Qua đó
nhằm ôn lại những thành tích to lớn và tự hào của Phòng Kinh tế & Hạ tầng
huyện Hoàng Su Phì qua các thời kỳ. Đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, động
viên đội ngũ cán bộ công chức của đơn vị quyết tâm phấn đấu để hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao.
Trong quá trình sưu tầm và biên
soạn, Chi bộ Phòng Kinh tế
& Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì luôn
nhận được sự quan tâm tạo điều kiện và giúp đỡ của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân huyện, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các đồng chí lãnh đạo huyện,
các đồng chí lãnh đạo và cán bộ tiền nhiệm của huyện và đơn vị qua các thời kỳ.
Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng
huyện Hoàng Su Phì xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và những ý kiến quý báu của
các đồng chí đã giúp hoàn thành cuốn truyền thống này.
Do khó khăn trong công tác lưu trữ, bảo quản tư
liệu qua các thời kỳ nên nguồn tư liệu không được đầy đủ, điều kiện sưu
tầm và biên soạn còn hạn chế, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo tiền nhiệm nay đã
già yếu, trí nhớ có phần suy giảm nên một số nội dung được phản ánh trong cuốn
sách không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót về nội dung. Chi bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su
Phì rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các đồng chí và bạn
đọc để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hoàng Su Phì, tháng 8 năm 2022
BÍ THƯ
CHI BỘ
TRƯỞNG PHÒNG KINH TẾ & HẠ TẦNG
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI
CỦA HUYỆN HOÀNG SU PHÌ
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý, địa hình
Hoàng Su Phì là
huyện vùng cao núi đất phía tây tỉnh Hà Giang, toàn huyện có tổng diện tích
64.250,96 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 19.567, ha, đất
lâm nghiệp 33.192,4 ha, đất phi nông nghiệp 2.085,33 ha, đất chưa sử dụng
10.276 ha. Về địa giới hành
chính, huyện Hoàng Su Phì được chia thành 23 xã và 1 thị trấn với 199 thôn bản,
trong đó có 4 xã biên giới với tổng chiều dài đường biên là 41,421 km. Địa hình của huyện Hoàng Su Phì có kết cấu phức tạp, nhiều đỉnh núi cao, độ
dốc lớn, bị chia cắt mạnh bởi nhiều khe suối đầu nguồn sông Chảy. Do toàn bộ địa
hình của huyện Hoàng Su Phì nằm trên khối núi Tây Côn Lĩnh, thổ nhưỡng chủ yếu là đất pha cát có độ kết cấu yếu, dễ
sạt lở nên rất khó khăn cho việc lưu thông hàng hóa, xây dựng
phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi công cộng như điện lưới,
đường giao thông, trường học, trạm xá, trụ sở các cơ quan đơn vị và các xã, các
thôn bản. Mặt khác cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động sản xuất phát
triển kinh tế xã hội của huyện.
2. Khí hậu, thời tiết
Điều kiện khí hậu của huyện
Hoàng Su Phì thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa và được chia thành 2 mùa rõ rệt:
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10
hàng năm, mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau và thường xảy
ra hạn hán kéo dài. Vào cuối tháng 12, đầu tháng giêng âm lịch hàng năm thường
xảy ra rét đậm rét hại nhất là ở khu vực các xã Hồ Thầu, Nam Sơn, Nậm Ty, Túng
Sán, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
II.
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Tình hình kinh tế
Hoàng Su Phì là một trong 74 huyện nghèo giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 353/QĐ-TTg ngày
15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó có tới 21/24 xã, thị trấn của huyện thuộc diện đặc biệt khó khăn.
Do vị trí địa lý của huyện nằm cách xa trung tâm hành chính của tỉnh và các
thành phố lớn, nghèo tài nguyên khoáng sản nên công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
của huyện không phát triển. Lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu
kinh tế của huyện và
mang nặng tính tự cấp, tự túc. Sản
xuất nông nghiệp ở huyện Hoàng Su Phì chủ yếu là trồng
lúa, hoa màu kết hợp với chăn nuôi gia cầm, gia súc, đặc biệt cây chè là cây công nghiệp chính của
huyện và là một trong những khu vực sản xuất, chế biến chè nổi tiếng của tỉnh.
Năm 2021 diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện
có 19.567 ha, chiếm tỷ lệ 27,96% trong tổng số 63.238,06 ha đất tự nhiên của
toàn huyện. Trong đó có 3.720,6 ha ruộng bậc thang trồng lúa nước, sản lượng
lương thực của huyện Hoàng Su Phì đạt 40.449 tấn. Ngoài ra, huyện Hoàng Su Phì
còn gieo trồng một số loại cây có giá trị cao khác, đem lại thu nhập cao như đậu
tương, chè san tuyết, thảo quả, dược liệu và phát triển chăn nuôi gia súc, gia
cầm chất lượng cao để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Hiệu quả từ việc
lấy phát triển nông nghiệp làm trọng tâm đã góp phần ổn định kinh tế và nâng
cao thu nhập cho nhân dân của huyện Hoàng Su Phì. Năm 2021, GDP toàn huyện đạt
trên 1.000 tỷ đồng, bình quân lương thực đầu người đạt 590 kg/người, thu nhập
bình quân đầu người đạt 27 triệu đồng. Kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận
nghèo, hộ gia đình làm nông, lâm nghiệp có mức sống trung bình năm 2021 của huyện
Hoàng Su Phì cho thấy tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,28% trong tổng số 14.642 hộ gia
đình trong toàn huyện.
Qua khảo sát đánh giá cho thấy mặc dù nền kinh tế của
huyện Hoàng Su Phì đã có bước phát triển tích cực trong nhiều năm trở lại đây
nhưng chưa đồng đều và không bền vững, vì chủ yếu tập trung ở lĩnh vực nông lâm
nghiệp vốn phụ thuộc khá nhiều vào thiên nhiên. Một số nghề thủ công truyền thống như rèn dao, cuốc, xẻng, đúc lưỡi cày, trồng bông dệt vải... được đồng bào
duy trì nhưng chủ yếu để phục
vụ sản xuất và sinh hoạt.
2. Về
văn hóa - xã hội
Những năm đầu cách mạng, huyện
Hoàng Su Phì bao gồm các vùng đất khu vực phía tây tỉnh Hà Giang. Ngày
01/4/1965, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 49-CP về việc chia huyện Hoàng
Su Phì thành 2 huyện và lấy tên là huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Sau nhiều lần
chia tách và sáp nhập về địa giới hành chính đến nay huyện Hoàng Su Phì có tổng
số 23 xã và 1 thị trấn với 199 thôn, tổ dân phố. Các xã, thị trấn thuộc
huyện Hoàng Su Phì gồm: Nậm Ty, Thông Nguyên, Nậm Khòa, Hồ Thầu, Nam Sơn, Bản
Luốc, Sán Sả Hồ, Pờ Ly Ngài, Nàng Đôn, Chiến Phố, Bản Phùng, Bản Máy, Thèn Chu Phìn,
Thàng Tín, Pố Lồ, Đản Ván, Tụ Nhân, Túng Sán, Tân Tiến, Bản Nhùng, Tả Sử
Choóng, Ngàm Đăng Vài, Nậm Dịch và thị trấn Vinh Quang.
Về tình hình dân số, theo số liệu thống kê, đến ngày 15/6/2022 toàn huyện Hoàng Su Phì
có 14.252 hộ, 69.423 khẩu, với hơn 13 dân tộc chủ yếu, trong đó dân tộc Nùng
chiếm đa số[1].
Sự đa dạng về thành phần dân tộc cùng với điều kiện
về vị trí địa lý tương đối cách biệt, địa hình phức tạp và chia thành nhiều tiểu
vùng khác nhau đã dẫn đến sự đa dạng về văn hóa truyền thống, mỗi cộng đồng dân tộc đều có những phong tục
tập quán khác nhau và mang màu sắc riêng rẽ. Đó là những tập quán, tri thức
kinh nghiệm canh tác, sản xuất nông nghiệp, tín ngưỡng cổ truyền, ngôn ngữ, chữ
viết, văn hóa dân gian truyền thống... Mặc dù mỗi dân tộc có những bản sắc
văn hóa riêng rẽ nhưng đều thể hiện sự hòa đồng và có sự giao tiếp về văn hóa
giữa các dân tộc với nhau ở một chừng mực nào đó để cùng tồn tại và phát triển,
góp phần tạo nên sự đa dạng của
văn hóa truyền thống của huyện Hoàng Su Phì.
Về y tế: Những năm
trước cách mạng, thực dân Pháp và bè lũ tay sai thực hiện
chính sách ngu dân, khuyến khích người dân trồng, buôn bán và hút thuốc phiện,
cả huyện không có một cơ sở y tế nào nên mỗi khi ốm đau bệnh tật người dân chỉ
dùng thuốc nam để chữa trị tại nhà hoặc tổ chức cúng bói để trừ tà chữa bệnh
trong khi đời sống kinh tế lại rất khó khăn. Vì vậy tuổi thọ của người dân khi
đó rất thấp, người dân trên địa bàn huyện luôn đắm chìm trong nghèo đói bệnh tật.
Từ sau khi huyện Hoàng Su Phì được giải phóng, giành
chính quyền về tay nhân dân, nhất là từ khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi
mới, công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được Đảng, Nhà nước và các
cấp chính quyền quan tâm thực hiện. Hệ thống bệnh viện, trạm y tế được đầu tư
xây dựng từ huyện đến các xã ngày một khang trang và được trang bị các thiết bị
y tế hiện đại, đội ngũ y sỹ, bác sỹ ngày càng được bổ sung và nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, các hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, hộ gia đình chính
sách được Nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Vì vậy đến nay mỗi khi đau ốm bệnh
tật người dân đã đến khám và điều trị, chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế.
Tình trạng bói toán chữa bệnh đã giảm hẳn trong nhân dân.
3. Tình
hình Quốc phòng - An ninh
Do đặc điểm địa hình và vị trí của
huyện Hoàng Su Phì có đường biên giới tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc và nằm
trên tuyến đường huyết mạch nối liền tỉnh Hà Giang với tỉnh Lào Cai nên trước
đây, dưới chế độ dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thực dân Pháp đã củng cố,
xây dựng hệ thống đồn bốt, thành lập các đơn vị quân sự để phục cụ quá trình
cai trị và đàn áp nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện.
Ngày 19/8/1945 Cách mạng Tháng tám thành công, ngày
02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa đất nước ta bước sang một
kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân
chủ và đi lên chủ nghĩa xã hội. Là địa bàn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Hà
Giang, địa bàn cách biệt, chung đường biên giới với Trung Quốc nên việc giải
phóng huyện Hoàng Su Phì chậm hơn so với các địa phương khác trong tỉnh. Đến
ngày 13/11/1945 huyện Hoàng Su Phì được giải phóng khỏi ách thống trị của thực
dân Pháp.
Mặc dù đã giành được chính quyền
nhưng trong những ngày đầu cách mạng, cùng với cả nước nhân dân các dân tộc
trong huyện phải đối mặt với vô vàn khó khăn cả về kinh tế, văn hóa, chính trị
và quốc phòng - an ninh do sự quay trở lại xâm lược nước ta của thực
dân Pháp. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đến năm 1960 huyện
Hoàng Su Phì Là một trong địa bàn chịu sự hoành hành của thổ phỉ và bọn thổ ty,
quan lại cũ. Với truyền thống cách mạng, nhân dân các dân tộc
trong huyện đã một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ và theo chính quyền cách mạng,
phát huy tinh thần đoàn kết cao độ để cùng với cả nước đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược và hoàn thành công cuộc tiễu Phỉ để bảo vệ quê hương. Tiếp đó, trong
giai đoạn từ năm 1979 đến năm 1986 Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc
trong huyện lại tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới với nhiều cam
go phức tạp, cùng với các lực lượng vũ trang bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới
thiêng liêng của Tổ quốc. Từ năm 1990 trở lại đây, sau khi tình hình khu vực
biên giới ổn định trở lại, nhân dân các dân tộc trong huyện lại chung sức đồng
lòng, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới của Đảng để xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, bảo vệ vững chắc
từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
3. Khái
quát về Giao thông Vận tải, Xây dựng, Thủ công nghiệp và Thương mại, dịch vụ của
huyện Hoàng Su Phì trước năm 1955
Trong thời gian trước năm 1955 do hoạt động Giao thông Vận
tải và Xây dựng của tỉnh Hà Giang chưa phát triển nên huyện Hoàng Su Phì chưa
thành lập được cơ quan tham mưu giúp việc mà mỗi huyện chỉ có một đồng chí ủy
viên ủy ban Kháng chiến Hành chính phụ trách đường dân sinh. Trong giai đoạn
trước năm 1955 nhiệm vụ này do đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Ủy viên ủy ban Kháng
chiến Hành chính huyện phụ trách. Nhiệm vụ chủ yếu là tham mưu cho Ủy ban Kháng
chiến Hành chính xây dựng kế hoạch, huy động dân công mở mới, tu sửa và bảo dưỡng
các tuyến đường dân sinh giữa các xã trong huyện và tuyến đường ngựa thồ từ
trung tâm huyện lỵ đến ngã ba Tân Quang thuộc địa bàn huyện quản lý và quản lý
hoạt động vận tải bằng ngựa thồ; huy động dân công khai thác vật liệu để xây dựng,
tu sửa trụ sở trụ sở các cơ quan của huyện, xã và các trường học trong huyện.
Do điều kiện khó khăn chung của tỉnh và huyện khi đó
không có kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực Giao thông và xây dựng
nên nguồn lực chủ yếu dựa vào sức dân. Bình quân mỗi năm toàn huyện huy động
dân công tham gia đóng góp trên 20.000 ngày công để mở đường dân sinh, làm cầu
cống, khai thác vật liệu để xây dựng, tu sửa trụ sở, trường lớp học.
Đánh giá thực trạng tình hình lĩnh vực giao thông, xây dựng
của huyện Hoàng Su Phì trước năm 1955 như sau:
* Lĩnh vực giao thông vận tải:
Trong giai đoạn này huyện Hoàng Su Phì không có đường
ô tô, toàn bộ các tuyến đường trong huyện đều là đường dân sinh, trong đó tuyến
đường đất huyết mạch là đường ngựa thồ được mở từ thời Pháp thuộc có quy mô nền
đường từ 1,5 đến 02 mét xuất phát từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi qua
các xã Tân Lập, Nậm Ty (khi đó thuộc xã Thông Nguyên của huyện Bắc Quang) Nậm Dịch,
Ngàm Đăng Vài, Tân Tiến, sau đó qua trung tâm huyện Hoàng Su Phì và địa bàn các
xã Bản Díu, Thèn Phàng đến xã Cốc Pài với tổng chiều dài hơn 100km, trong đó đoạn
từ trung tâm huyện Hoàng Su Phì đến xã Tân Quang có chiều dài 64 km. Ngoài tuyến
đường chính nối liền trung tâm huyện lỵ với Quốc lộ 2 ở ngã ba xã Tân Quang huyện
Bắc Quang, tại các xã đều có các tuyến đường dân sinh đi bộ hoặc ngựa thồ. Tuy
nhiên do điều kiện về địa hình đồi núi dốc và thường xuyên xảy ra mưa lũ nên
các tuyến đường dân sinh của huyện Hoàng Su Phì thường xuyên bị sạt lở hư hỏng.
Nghị quyết số 1713 ngày 16/9/1957 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang về kiểm
điểm tình hình đường dân sinh và thảo luận biện pháp sửa chữa giữa ủy ban hành
chính tỉnh với các Ty Giao thông, Tài chính và các ủy viên phụ trách đường dân
sinh các huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang cho thấy trong tổng số chiều dài 60 km của
tuyến đường ngựa thồ từ xã Tân Quang huyện Bắc Quang đến xã Vinh Quang huyện
Hoàng Su Phì thì có tới hơn 30 đoạn bị sạt lở, nhiều đoạn nền đường chỉ còn từ
40 - 5cm, một số cây cầu bằng gỗ có khẩu độ lớn không đảm bảo an toàn cho người
và ngựa.
Do thời gian di chuyển bằng ngựa từ trung tâm huyện
lỵ Hoàng Su Phì đến ngã ba Tân Quang kéo dài 02 ngày, vì vậy để phục vụ việc vận
chuyển hàng hóa bằng ngựa khi đó, trên tuyến đường này đã hình thành và duy trì
03 trạm ngựa tại khu vực ngã ba Tân Quang, khu vực Nậm Ty và khu vực huyện lỵ
Hoàng Su Phì, trong đó huyện Hoàng Su Phì quản lý 02 trạm là trạm Nàn Ma (thuộc xã Nàn Ma huyện Xín Mần ngày nay)
và trạm Vinh Quang đóng tại ven suối phía dưới Trường Phổ thông dân tộc Nội trú
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông huyện ngày nay. Các trạm ngựa này do các
hộ gia đình xây dựng và kinh doanh, huyện đóng vai trò điều tiết trong quá
trình vận chuyển hàng hóa, nhất là những mặt hàng thiết yếu do Nhà nước quản
lý. Quy mô mỗi trạm gồm có khu chuồng ngựa, khu nhà ăn uống và nhà nghỉ trọ để
cung cấp dịch vụ ăn uống, chăm sóc, nuôi dưỡng ngựa cho các chủ ngựa trong quá
trình vận chuyển các mặt hàng nông lâm sản từ huyện ra Tân Quang và vận chuyển
các mặt hàng thiết yếu như dầu, muối, gạo, thực phẩm, bánh kẹo, vải vóc, nông cụ
vào huyện để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Bình quân mỗi
chủ ngựa thường có một đàn từ 5 - 7 con, đông nhất là 10 con. Ngoài việc vận
chuyển bằng ngựa, nhiều người còn vận chuyển hàng hóa bằng sức người, tuy nhiên
số lượng hàng hóa không nhiều.
* Lĩnh vực xây dựng:
Do điều kiện của huyện cũng như tỉnh Hà Giang khi đó
còn nhiều khó khăn nên lĩnh vực xây dựng của huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn
này không phát triển. Toàn bộ hệ thống trụ sở các cơ quan, các trường học từ
huyện đến xã đều là nhà tranh, tre, nứa, lá do nhân dân và cán bộ các cơ quan,
đơn vị tự khai thác vật liệu và xây dựng. Vì vậy thời gian sử dụng của các công
trình không dài, nhanh xuống cấp và thường xuyên phải tu sửa. Bên cạnh đó huyện
cũng đẩy mạnh công tác vận động nhân dân tham gia đóng góp ngày công để khai
thác vật liệu, san ủi mặt bằng để xây dựng hệ thống kho bãi cho các hợp tác xã
để chứa thóc. Từ đó góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình thực hiện
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện thời gian này.
* Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:
Do đặc điểm về từ nhiên cũng như vị trí địa lý của
huyện không thuận lợi, nghèo tài nguyên
khoáng sản nên lĩnh vực công nghiệp của huyện thời gian này không phát triển, cả
huyện không có cơ sở công nghiệp nào. Về tiểu thủ công nghiệp, tại các xã chủ yếu
duy trì các ngành nghề truyền thống như nghề rèn, đúc để sản xuất nông cụ cầm
tay, lưỡi cày, đinh móng ngựa, dao, liềm và sản xuất đồ dùng sinh hoạt, nghề trồng
bông, trồng lanh dệt vải, làm giấy rơm... song hầu hết là có quy mô nhỏ, chủ yếu
phục vụ gia đình theo hình thức tự cung tự cấp.
* Lĩnh vực thương mại, dịch vụ:
Từ năm 1955, thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tỉnh Hà Giang cũng
như huyện Hoàng Su Phì đã đặc biệt quan tâm phát triển lĩnh vực thương mại - dịch vụ để cung cấp các mặt hàng thiết yếu
như dầu hỏa, muối ăn, thực phẩm, đồ dùng sinh hoạt, vải may mặc cho nhân dân, đồng
thời giúp các hộ gia đình tiêu thụ các mặt hàng nông lâm sản như chè, đậu
tương, dược liệu... Sau khi Ty Công thương Hà Giang mở một cửa hàng mậu dịch Quốc
doanh tại xã Vinh Quang vào năm 1956 do đồng chí Hoàng Xuân Hạc làm Cửa hàng
trưởng và thành lập các quầy lưu động trực thuộc Ty Công Thương Hà Giang thì hoạt
động lưu thông hàng hóa tiếp tục được đẩy mạnh. Mặt khác, huyện cũng khuyến
khích thành lập các hợp tác xã mua bán để đáp ứng kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng
và tiêu thụ hàng hóa trong nhân dân, từ đó góp phần ổn định giá cả, chống nạn đầu
cơ, tích trữ, ép giá, tăng giá.
Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng với sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp Ủy, chính quyền, lĩnh vực giao
thông, xây dựng, thủy lợi, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ của huyện
Hoàng Su Phì trong giai đoạn này đã đạt được một số kết quả bước dầu, góp phần
quan trọng trong việc cải tạo và khôi phục nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của huyện
Hoàng Su Phì cũng như của tỉnh Hà Giang nói chung. Quan trọng hơn, hoạt động
này đã góp phần cung ứng kịp thời các mặt hàng thiết yếu, qua đó giải quyết nhu
cầu cấp thiết trong cuộc sống lao động và sinh hoạt của nhân dân. Từ đó giúp cộng đồng nhân dân các dân tộc trong huyện thêm tin tưởng
vào chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng, nêu cao ý thức giác ngộ cách mạng,
sẵn sàng đi theo Đảng, theo cách mạng để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Đây chính là điều kiện thuận lợi giúp cho các cơ quan tiền thân của Phòng Kinh
tế và Hạ tầng sau khi được thành lập đã thực hiện tốt vai trò trách nhiệm được
giao, góp phần viết nên những trang sử vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của huyện.
Chương
II
CÁC CƠ QUAN TIỀN THÂN CỦA PHÒNG KINH TẾ & HẠ TẦNG HUYỆN HOÀNG SU PHÌ
ĐƯỢC THÀNH LẬP, THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG, PHỤC VỤ CÔNG CUỘC
CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (GIAI ĐOẠN 1955 - 1975)
1.
Các cơ quan Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng được thành lập, thực hiện nhiệm vụ
phát triển kết cấu hạ tầng và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (giai đoạn 1955 -
1965)
Ngày 07/5/1954 chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc đã mở ra một chương mới
của cách mạng Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của tình hình lúc này
là đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, ở miền Bắc, ngay sau khi hòa
bình lập lại, nhân dân miền Bắc tập trung thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế,
hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho chiến trường miền Nam chống Mỹ cứu nước. Ở
miền Nam, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc
địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Đối với huyện Hoàng Su Phì thời
gian này, ngoài việc cùng với cả nước đẩy mạnh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
của Đảng là xây dựng, phát triển kinh tế và chi viện cho miền Nam kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược thì một nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc trong huyện được song trùng tiến hành thực hiện, đó là
tiếp tục thực hiện công cuộc tiễu trừ thổ phỉ để bảo vệ cuộc sống lao động, học
tập và sản xuất của nhân dân.
Trong
bối cảnh của địa phương vùng cao còn rất nhiều khó khăn do vừa ra khỏi cuộc
kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp, trong khi đó tình hình an ninh chính trị
vẫn tiềm ẩn nhiều phức tạp bởi một số tên đầu sỏ ngoan cố là tay sai đắc lực của
Pháp trước đây vẫn lẩn trốn, chưa chịu ra đầu hàng và chực chờ cơ hội ngóc đầu
dậy để thực hiện các hành vi chống đối cách mạng, gây khó khăn cho việc vận động
nhân dân tham gia xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Nhất là vụ
việc toán phỉ Cháng Sào Khún âm mưu bắt và giết hụt đồng chí Hoàng Xuân Hạc - Cửa
hàng trưởng Cửa hàng mậu dịch Quốc doanh Hoàng Su Phì xảy ra vào tháng 8/1956 tại
xã Nậm Dịch đã gây hoang mang trong nhân dân. Bên cạnh đó sau ngày miền Bắc
hoàn toàn giải phóng toàn huyện Hoàng Su Phì vẫn còn 13 xã chủ yếu ở khu vực
huyện Xín Mần ngày nay chưa có chính quyền nhân dân mà vẫn nằm dưới sự khống chế
của các thế lực thổ ty, bang tá.
Mặc dù vậy, sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội của huyện
Hoàng Su Phì trong giai đoạn này cũng có nhiều thuận lợi cơ bản, đó là những thắng lợi to lớn của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đã động viên, khích lệ nhân dân các dân tộc
trong huyện thêm tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh và luôn khát khao được cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, chung sức đồng
lòng xây dựng đời sống kinh tế - văn hóa xã hội. Đảng, Chính phủ và các cấp
chính quyền tiếp tục dành nhiều sự quan tâm cho sự nghiệp sự nghiệp xây dựng và
phát triển của huyện, nhất là lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng như đường giao
thông, trụ sở làm việc, trường học, trạm xá.
Bám
sát những yêu cầu nhiệm vụ của đất nước và địa phương trong tình hình mới, đồng
thời để tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo, xây dựng Chủ nghĩa xã
hội trên địa bàn huyện, năm 1955 Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì được thành
lập gồm 03 cán bộ do đồng chí Vàng Dỉ Thàng -
Ủy viên Ủy ban hành chính huyện phụ trách lĩnh vực đường dân sinh giữ chức
vụ Trưởng Phòng cùng 02 cán bộ là đồng chí Vương Tiến Ba và đồng chí Vượng là
cán bộ được Ty Giao thông Hà Giang cử vào công tác tại huyện. Nhiệm vụ chủ yếu
của Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này là trực tiếp quản
lý tuyến đường ngựa thồ từ xã Tân Quang đến xã Cốc Pài (trung tâm huyện Xín Mần
ngày nay), tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện xây dựng và triển khai các kế
hoạch duy trì phát triển hệ thống đường dân sinh của huyện; phân bổ chỉ tiêu kế
hoạch huy động dân công hằng năm cho các xã để mở mới, duy tu, bảo dưỡng các
tuyến đường dân sinh trong huyện.
Tiếp
đó, đến năm 1958 Phòng Xây dựng huyện được thành lập với 03 cán bộ do đồng chí Lù
Văn Sạch giữ chức vụ Trưởng Phòng để thực hiện nhiệm vụ tham mưu xây dựng kế hoạch
huy động dân công để xây dựng tu sửa hệ thống trụ sở làm việc các cơ quan hành
chính từ huyện đến các xã, xây dựng các trường lớp học, trạm y tế xã, cửa hàng,
kho bãi của huyện.
Ngày mới thành lập các cơ quan Phòng Giao thông,
Phòng Xây dựng của huyện không có trụ
sở riêng mà cùng làm việc trong khu trụ sở của Ủy ban Hành chính huyện, mỗi cơ
quan được phân từ một đến 2 gian trong các căn nhà gỗ, mái lợp cỏ tranh tre tại
xã Vinh Quang - tức thị trấn Vinh Quang ngày nay. Trang thiết bị của các Phòng
ngày đó hầu như chưa có gì, toàn bộ tài liệu văn bản đều soạn bằng tay, sau đó
chuyển cho bộ phận văn thư của Văn phòng Ủy ban hành chính huyện để đánh máy bằng
máy chữ. Mỗi khi xuống cơ sở để triển khai nhiệm vụ hoặc khảo sát, kiểm tra
công trình đều phải đi bộ qua nhiều đèo dốc, suối sâu mùa mưa thì nước chảy xiết,
mùa đông thì lạnh cắt da thịt, trong khi đó ở nhiều xã các toán phỉ vẫn lén lút
hoạt động chống đối cách mạng nên nguy hiểm luôn rình rập. Mặc dù vậy, các cán
bộ của các đơn vị khi đó đều nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách để hoàn thành tốt
nhiệm vụ mà Huyện ủy, Ủy ban hành chính đã tin tưởng giao phó, đó là đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ
tầng như mở đường giao thông, xây dựng trụ sở làm việc và hệ thống kho bãi của
huyện và các xã, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý điều hành các hoạt
động của Đảng và chính quyền từ huyện đến xã cũng như quá trình sản xuất nông
nghiệp của huyện, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của
huyện trong giai đoạn này là củng cố cơ sở vật chất, xây dựng các hợp tác xã để
cải tạo quan hệ sản xuất ở nông thôn, đưa các hộ gia đình vào con đường làm ăn
tập thể xã hội chủ nghĩa.
Một trong những kỳ tích mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc
huyện Hoàng Su Phì và Ban Giao thông huyện đạt được
trong thời gian này đó là phong trào mở đường giao thông. Năm 1957 Ủy ban hành
chính tỉnh Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số 1713 ngày 16/9/1957 về cuộc họp
giữa Ủy ban hành chính tỉnh với Ty Giao thông, Ty Tài chính tỉnh và đồng chí
Vàng Dỉ Thàng - Ủy viên Ủy ban hành chính, Trưởng Phòng Giao thông huyện Hoàng
Su Phì về việc kiểm điểm tình hình và bàn biện pháp sửa chữa tuyến đường dân
sinh từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi Hoàng Su Phì. Tiếp đó, năm 1959 Ủy
ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 76-TC/CB ngày 06/8/1959 về
việc thành lập Ban chỉ huy công trường Đường Hoàng Su Phì, đồng thời tiến hành
các hoạt động khảo sát để chuẩn bị cho việc thi công mở tuyến đường ô tô từ ngã
ba Tân Quang huyện Bắc Quang đi huyện Hoàng Su Phì.
Sau khi Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Nghị quyết số
204/GTVT ngày 24/02/1961 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang về việc bàn kế hoạch
làm đường ô tô Bắc Quang đi Hoàng Su Phì và Chỉ thị số 440-CT ngày 13/4/1961 của
Ủy ban hành chính tỉnh về việc tăng cường lãnh đạo công trình làm đường Bắc
Quang - Hoàng Su Phì. Nhận thức được tầm quan trọng của đường giao thông trong
phát triển đường giao thông trong việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, an
ninh, quốc phòng đối với địa phương có vị trí trọng điểm như Hoàng Su Phì,
Phòng Giao thông huyện đã tích cực tham mưu cho Đảng bộ, Ủy ban hành chính huyện
triển khai thực hiện kế hoạch mở đường của tỉnh. Cũng trong thời gian này để động
viên quân dân hai miền Nam - Bắc thi đua lao động sản xuất và chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược, ngày 1/9/1960, tỉnh Hà Giang đã kết nghĩa với tỉnh Lâm Đồng.
Để ghi nhớ sự kiện này, tuyến đường Bắc Quang
- Hoàng Su Phì đã được lấy tên là Đường Lâm Đồng.
Do điều kiện khó khăn về mọi mặt, việc thi
công tuyến đường chủ yếu bằng sức người của 2 huyện Bắc Quang và Hoàng Su Phì.
Để huy động nguồn nhân lực, Phòng Giao thông huyện đã tham mưu cho Ủy ban hành
chính huyện huy động dân công mỗi xã từ 10 đến 15 người tham gia đào đất, phá mở
đường. Với sự nỗ lực cố gắng ngày đêm bám trụ trên công trường của lực lượng
dân công và các đơn vị của tỉnh, chỉ sau 06 tháng thi công đến cuối năm 1961
tuyến đường đã hoàn thành và thông xe được 17 km từ Tân Quang đến Cổng trời 1.
Đầu năm 1962 tỉnh đã điều động 02 đơn vị công nhân là B1 và B2, trong đó B1 có 11 A (mỗi A tương
đương với một tiểu đội) chủ yếu là nữ và đơn vị B2 có 20 A chủ yếu là là nam giới
đảm nhận nhiệm vụ phá đá làm cầu. Để đảm bảo công tác lãnh đạo của Đảng, Huyện ủy
Hoàng Su Phì cũng thành lập một Chi bộ của Ban chỉ huy Công trường do đồng chí
Hoàng Văn Ét là cán bộ Huyện ủy Hoàng Su Phì làm Bí thư Chi bộ. Đến tháng
12/1963 thì tuyến đường được thông xe đến trung tâm xã Nậm Dịch.
Sau khi
huyện Hoàng Su Phì được tỉnh phê duyệt kinh phí mở đường từ xã Nậm Dịch đi xã
Vinh Quang, phát huy thành tích với khí thế thi đua sau 03 năm mở đường (1961 -
1963), Phòng Giao thông huyện đã tham mưu xây dựng kế hoạch phát động phong
trào thi đua “Vì miền Nam ruột thịt” với tinh thần nước rút để hoàn thành tuyến
đường trong năm 1964. Nhờ đó chỉ sau 01 năm tuyến đường dài 16 km từ xã Nậm Dịch
đến xã Vinh Quang đã được thông xe.
Như vậy,
chỉ sau hơn 04 năm, từ tháng 4/1961 đến tháng 12/1964 với nhiều đợt thi đua “Vì
miền Nam ruột thịt”, “Vì Lâm Đồng thân yêu”, “Chắc tay Choòng, hay tay súng”
v.v. từ nguồn kinh phí hỗ trợ của tỉnh chi cho mua sắm công cụ lao động, vật tư
thiết bị và tiền ăn với tổng số 618.300 đồng, nhân dân các dân tộc huyện Hoàng
Su Phì đã đóng góp 20.000 lượt người trong đó có 1.800 cụ phụ lão với tổng số
745.000 ngày công để đào 58.000m2 đất và 102.000m2 đá,
góp sức cùng với toàn tỉnh hoàn thành tuyến đường ô tô đầu tiên của huyện từ Bắc
Quang đi Hoàng Su Phì mang tên tỉnh Lâm Đồng kết nghĩa, có tổng chiều dài 60 km
với 59 cây cầu, mặt đường rộng 4,5m. Từ đó tạo
thành mạng lưới giao thông đồng bộ, kết nối giữa các vùng miền, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Hoàng Su Phì
nói riêng.
Ngày
10/01/1965 lễ thông xe được tổ chức long trọng tại trung tâm huyện lỵ Hoàng Su
Phì với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, lãnh đạo Khu, lãnh đạo
tỉnh và hai huyện Bắc Quang, Hoàng Su Phì cùng đông đảo nhân dân trên địa bàn.
Với thành tích này, đầu năm 1965, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc
huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương
lao động Hạng ba, các xã Bản Nhùng, Hồ Thầu, Đản Ván được Chính phủ tặng Bằng
khen. Trong thành tích chung đó có sự đóng góp vô cùng lớn lao của đội ngũ cán
bộ Phòng Giao thông huyện Hoàng Su Phì.
Cùng với
việc hoàn thành mở tuyến đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì, trong các năm 1960 -
1965 Phòng Giao thông Xây dựng huyện cũng đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền
huyện xây dựng kế hoạch, khảo sát thực địa và phối hợp với các xã huy động dân
công để mở mới và bảo dưỡng các tuyến đường dân sinh liên xã, liên thôn, tạo
thành mạng lưới giao thông nối liền giữa các xã và các thôn bản. Bình quân mỗi
năm toàn huyện huy động được trên 20.000 ngày công để tu sửa trên 300 km đường
dân sinh, mở mới từ 10 - 15 km đường ngựa thồ, sửa chữa hàng chục cây cầu gỗ và
cầu treo qua suối để đảm bảo thông suốt qua các mùa, đáp ứng được nhu cầu vận
chuyền hàng hóa bằng sức ngựa của nhân dân. Một số cây cầu treo qua vượt sông
Chảy và các con suối cũng được đầu tư xây dựng trong thời gian này, tiêu biểu
là cây cầu qua sông Chảy km 9 Ngàm Đăng Vài - Bản Luốc, cầu Bản Cậy - Na Hu, cầu Cốc Pài
- Chế Là, cầu Thèn Phàng - Cốc Pài, cầu Tụ Nhân - Bản Díu…
Ghi nhận những thành tích của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì trong sự nghiệp phát triển giao
thông trong giai đoạn này, năm 1962 đồng chí Vương Tiến Ba - Phó trưởng Phòng Giao thông Xây dựng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương kháng chiến Hạng ba, năm 1963 các xã Nam Sơn, Nấm Dẩn, Sán Sả Hồ đã vinh dự được nhận cờ thi đua
"Xã làm đường khá nhất" của UBND tỉnh Hà Giang[2],
xã Nam Sơn đã được Bộ Giao thông tặng thưởng xe trâu bằng lốp ô tô và một con
trâu mộng. Bên cạnh đó năm 1963 xã Nam Sơn vinh dự được huyện chọn làm điểm để
phát động phong trào học tập kinh nghiệm về mở đường giao thông nông thôn cho
các xã trong huyện.
Cùng với
mở đường giao thông, một thành tích mà huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn này
đó là năm 1962 Phòng Giao thông huyện đã phối
hợp với xã Nam Sơn huy động 540 ngày công để khai thác, vận chuyển 46 cây gỗ lớn
với khối lượng hơn 50m3 từ thôn Lê Hồng Phong ra Nậm Dịch để xây dựng
kho lương thực của huyện. Với cách làm sáng tạo là dùng mìn phá đá, khơi thông
dòng suối từ thôn Lê Hồng Phong ra Sông Chảy với tổng chiều dài hơn 7 km để vận
chuyển gỗ đảm bảo an toàn, tiết kiệm được sức lực cho nhân dân, đồng thời đây
cũng là tuyến đường thủy được bà con trong xã Nam Sơn thường xuyên vận chuyển
tre, nứa, lâm sản cung cấp cho khu vực lân cận, đưa xã Nam Sơn là xã đầu tiên của
huyện Hoàng Su Phì biết sử dụng đường giao thông đường thủy để vận chuyển hàng
hóa lâm sản, từ đó mô hình này được Phòng Giao thông nhân rộng ra các xã khác trong huyện. Mặc khác, Phòng Giao thông huyện cũng
hướng dẫn mở rộng việc sử dụng các loại xe quệt, xe cút kít để vận chuyển hàng
hóa, phân bón ra ruộng đồng ở những xã có điều kiện, kết hợp với trâu, ngựa thồ,
từ đó góp phần giải phóng đôi vai người nông dân một khối lượng hàng hóa chiếm
tới 64,4% khối lượng vận chuyển.
Trong giai đoạn này Phòng Giao thông huyện cũng tích
cực phối hợp với cơ quan Thuế vụ và Công ty lương thực Hà Giang trong việc tu sửa
đường xá để thu mua và lưu thông, vận chuyển lương thực theo chỉ tiêu kế hoạch
được giao. Đặc biệt là trong năm 1959 thực hiện Nghị quyết số 770 ngày
29/5/1959 của Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang, Phòng Giao thông huyện đã tham
mưu cho Ủy ban hành chính huyện xây dựng kế hoạch và huy động 260 con ngựa thồ
của các hộ gia đình trong huyện, phối hợp với Ủy ban hành chính các xã Nậm Dịch,
Vinh Quang huy động dân công tổ chức chỗ ăn nghỉ và chuẩn bị cỏ để vận chuyển
lương thực thu mua từ huyện ra xã Tân Quang. Chỉ trong 4 tháng từ ngày 05/6 đến
ngày 05/10/1959 với sự phối hợp hỗ trợ của hai huyện Vị Xuyên và Bắc Quang đã
hoàn thành việc vận chuyển 547 tấn lương thực từ các kho tại xã Vinh Quang và
xã Nậm Dịch ra xã Tân Quang huyện Bắc Quang, đảm bảo an toàn và bàn giao đầy đủ
cho tỉnh, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần quan trọng vào việc cung cấp kịp
thời lương thực để phục vụ quân và dân chiến trường miền Nam ăn no đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược. Đây cũng là một trong những thành tích đầy tự hào của Đảng bộ,
Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì, trong đó có sự đóng góp
không nhỏ của đội ngũ cán bộ Phòng Giao thông huyện.
Lĩnh vực xây dựng của huyện trong giai đoạn này cũng
đạt nhiều tiến bộ. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng[3],
từ năm 1961, Cấp ủy, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì tập trung triển khai thực
hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất giai đoạn 1961 - 1965, trong đó tập trung thực
hiện thắng lợi Nghị quyết số 79-CP ngày 01/6/1963 của Hội đồng Chính phủ về cuộc
vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất
nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc” đã được Đảng bộ và Chính quyền huyện
cụ thể hóa bằng việc củng cố các hợp tác xã, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
cho sản xuất nông nghiệp. Bám sát mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng mà Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà
Giang lần thứ III và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ I đã
đề ra, mặc dù đội ngũ cán bộ của Phòng Xây dựng huyện khi đó còn rất thiếu về
biên chế, yếu về chuyên môn do chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ trong khi
nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản hầu như không có mà chủ yếu dựa vào sức
dân. Song với tinh thần nhiệt huyết và ý chí cách mạng, các đồng chí đã tích cực
bám sát tình hình thực tiễn, tham mưu đề xuất những kế hoạch, giải pháp phát
triển kết cấu hạ tầng cơ sở, từng bước định hình khu vực các cơ quan của huyện
tại trung tâm huyện lỵ. Huy động dân công khai thác vật liệu tại chỗ để san lấp
mặt bằng, xây dựng, tu sửa hệ thống trụ sở làm việc các cơ quan hành chính từ
huyện đến các xã, xây dựng các trường lớp học, trạm y tế xã, cửa hàng, kho bãi...
Đến cuối năm 1963 toàn bộ các xã trong huyện đã có
nhà trụ sở, nhà lớp học và trạm y tế bằng tre, gỗ, lá. Riêng xã Vinh Quang
ngoài trụ sở của các cơ quan huyện, trạm thu mua chè thì có thêm các cửa hàng mậu
dịch Quốc doanh, hiệu sách. Hệ thống kho thóc với 12 kho được xây dựng tại
trung tâm huyện lỵ và thôn Bản Cậy (xã Tụ Nhân), thôn Nậm Dịch, thôn Nậm Song,
Nậm Ai (nay thuộc xã Nam Sơn), thôn Nậm Cài (xã Tiên Nguyên) và tại các xã Hồ
Thầu, Bản Luốc, Cốc Pài, Bản Díu, Trung Thịnh, Chí Cà với sức chứa trên 900 tấn,
đảm bảo tốt công tác phục vụ thu thuế nông nghiệp và thu mua từ các hợp tác xã
mỗi năm từ 800 - 880 tấn.
Năm 1957 Phòng Xây dựng huyện đã phối hợp với Ủy ban
hành chính xã Vinh Quang tiến hành khảo sát địa điểm và tham mưu cho Ủy ban
hành chính huyện huy động dân công san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu và thi
công xây dựng trạm xá của huyện với 17 giường bệnh, đến năm 1964 tiếp tục xây dựng
mở rộng quy mô lên 20 giường cùng các công trình như nhà lưu trú, nhà ăn cho
nhân viên y tế. Năm 1959 tiến hành khảo sát và xây dựng Trường Bổ túc văn hóa của
huyện ở 2 bờ suối tại khu vực sân vận động huyện ngày nay
gồm 6 dãy nhà tạm bằng tre, gỗ, mái lợp cỏ tranh. Đến năm 1965 tiếp tục tham
mưu huy động dân công để xây dựng Trường Thanh niên dân tộc tại thôn Bản Qua xã Tân
Tiến gồm 03 dãy nhà trình tường mái lợp cỏ tranh. Đây cũng là những
ngôi trường tập trung có quy mô lớn nhất của huyện Hoàng Su Phì khi đó.
Trong các năm 1961, 1962 địa giới hành
chính các xã trong huyện có sự điều chỉnh. Trước yêu cầu
nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng mới của địa phương, để đáp ứng yêu cầu xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội cũng như quản lý địa bàn của mỗi địa phương, ngày 15/12/1961, Chính phủ
ban hành Quyết định số 211-CP, theo đó xã Nậm Dịch được thành 3 xã (xã Nam Sơn,
xã Cháng Nà, xã Nậm Dịch); xã Tân Tiến được chia thành 5 xã (xã Túng Sán, xã
Tân Tiến, xã Ngàm Đăng Vài, xã Tả Sử Choóng, xã Bản Nhùng); xã Trung Thịnh được
chia thành thành 6 xã (xã Việt Thái, xã Nàng Đôn, xã Trung Thịnh, xã Ngán
Chiên, xã Thu Tà, xã Pờ Ly Ngài); xã Chế Là được chia thành 4 xã (xã Cốc Rế, xã
Tả Nhìu, xã Chế Là, xã Nấm Dần); xã Cốc Pài được chia thành 3 xã (xã Cốc Pài,
xã Nàn Ma, xã Bản Ngò). Tiếp đó ngày 30/4/1962, Hội đồng
Chính phủ ra Quyết định số 50-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính của huyện
Hoàng Su Phì, trong đó chia xã Bản Máy thành 05 xã mới (Bản Máy, Thàng Tín, Bản
Pắng, Bản Phùng, Nàn Xỉn); chia xã Chí Cà thành 02 xã mới (xã Chí Cà và
xã Pà Vầy Sủ). Sau khi chia tách toàn huyện có tổng số 39 xã, tăng 25 xã so với
thời điểm năm 1961.
Việc chia tách xã đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cho Phòng Xây dựng huyện khi
đó là khẩn trương tham mưu xây dựng kế hoạch và xác định vị trí, địa điểm và
huy động dân công san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu và đóng góp ngày công để
xây dựng trụ sở cho các xã. Sau gần 2 năm (tháng 01/1961 đến tháng 8/1962) toàn
huyện đã huy động được 24.650 ngày công, san ủi hơn 20.000m3 đất đá,
khai thác hơn 1.000m3 vật liệu tại chỗ (gỗ, tre, nứa) để xây dựng và
đưa vào sử dụng 25 nhà trụ sở của các xã mới được thành lập. Từ đó tạo điều kiện
thuận lợi trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng của các Cấp ủy đảng, Chính quyền.
Mặc dù các công trình xây dựng của huyện khi đó hết
sức đơn sơ là nhà trình tường hoặc tranh, tre, nứa, lá được xây dựng từ chính bàn tay, khối óc của
nhân dân các dân tộc trong huyện và sự tư vấn hỗ trợ về chuyên môn của các cán
bộ Phòng Xây dựng huyện, song về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về nơi làm việc
và học tập cũng như đảm bảo công tác lãnh đạo, chỉ đạo của bộ máy các Cấp ủy,
chính quyền. Qua đó thể hiện tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, đồng thời góp
phần tạo dựng bộ mặt mới cho huyện Hoàng Su Phì ngày một khang trang hơn so với
trước.
Lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của
huyện trong giai đoạn này cũng có bước phát triển. Giai đoạn này ở cấp huyện
không có cơ quan chuyên trách mà lĩnh vực này do một đồng chí Ủy viên Ủy ban
hành chính huyện phụ trách. Đảng bộ và Chính quyền huyện đã lãnh đạo, chỉ đạo
triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 124-NQ/TW ngày 30/8/1960 của Bộ Chính trị
về vấn đề đẩy mạnh việc cải tạo và phát triển thủ công nghiệp theo Chủ nghĩa xã
hội. Cùng với việc phát triển các lò rèn, lò đúc để sản xuất nông cụ như lưỡi
cày, dao, liềm, cuốc, xẻng, móng ngựa, trồng lanh, trồng bông dệt vải ... để phục
vụ yêu cầu lao động sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nhất là ở các xã có nghề
thủ công tương đối phát triển như xã Nậm Dịch, Tụ Nhân, Bản Luốc. Mặt khác, các
ngành, đoàn thể của huyện đã tích cực vận động các hộ gia đình tham gia vào các
hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, từng bước đưa người nông dân
vào con đường làm ăn tập thể, cùng nhau góp sức cải tiến nông cụ, nâng cao năng
suất, chất lượng nghề trồng bông, trồng lanh dệt vải sợi... để phục vụ sản xuất
và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân.
Về công tác tổ chức cán bộ của các phòng, ban trong
giai đoạn này cũng thường xuyên được kiện toàn và củng cố. Sau khi Ủy ban hành
chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 76-TC/CB ngày 06/8/1959 về việc
thành lập Ban chỉ huy công trường Đường Hoàng Su Phì, đồng chí Vàng Dỉ Thàng - Trưởng
Phòng Giao thông được chỉ định làm Trưởng ban. Năm
1960 đồng chí Vương Tiến Ba được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Giao
thông. Đến năm 1961
Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang ban hành Quyết định số 17-TC/CB ngày 15/5/1961
về việc thống nhất 02 Ban chỉ huy công trường Bắc Quang - Hoàng Su Phì và chỉ định
đồng chí Vàng Chín Lẻng làm Trưởng Ban, đồng chí Vàng Dỉ Thàng được rút về
Phòng Giao thông huyện, Ủy ban hành chính huyện đã cử đồng chí Nguyễn Đức Hà - Ủy
viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện giữ chức vụ Phó Ban chỉ huy công trường.
Sau khi huyện Hoàng Su Phì có sự điều chỉnh về địa giới hành chính theo
Quyết định số 211-CP ngày 15/12/1961 và Quyết định
số 50-CP ngày 30/4/1962 của Hội đồng Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính của
huyện Hoàng Su Phì, nâng tổng số các xã của huyện từ 14 xã lên 39 xã, do yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
khi đó đòi hỏi một lượng lớn cán bộ cần bổ sung cho các xã mới trong huyện được
thành lập nên tháng 5/1963 Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã điều động đồng chí
Vàng Dỉ Thàng - Trưởng Phòng Giao thông đi tăng cường xây dựng cơ sở tại xã Tả
Sử Choóng, đồng chí Vương Tiến Ba được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng.
Năm 1964 Phòng Xây dựng được tỉnh bổ sung thêm một cán bộ phụ trách kỹ
thuật, nâng tổng số cán bộ của Phòng lên 04 người. Năm 1965 Phòng Giao thông được
đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải và được giao phụ trách hai lĩnh vực là
quản lý, phát triển hệ thống giao thông cầu đường và trạm vận tải ngựa thồ gồm
60 con đặt tại khu vực ven suối phía dưới khu vực Trường phổ thông dân tộc Nội
trú Trung học cơ sở - Trung học phổ thông huyện ngày nay, đồng thời được bổ
sung thêm một cán bộ, nâng tổng biên chế của Phòng lên 05 người.
2. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, chống
chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ (giai đoạn 1965 - 1975)
Bước sang năm
1965, trước sự phát triển về dân cư, đồng thời để tạo thuận cho sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả, phù hợp
với điều kiện thực tiễn của địa phương, từ đó phát huy được tiềm năng, lợi thế
của từng vùng, huyện Hoàng Su Phì tiếp tục được chia tách thành hai huyện là
Hoàng Su Phì và Xín Mần theo Quyết định số 49-CP Ngày 01/4/1965 của Hội đồng
Chính phủ. Theo đó huyện Hoàng Su Phì, gồm 21 xã là Nam Sơn, Nậm Dịch, Hồ Thầu,
Bản Luốc, Ngàm Đăng Vài, Tả Sử Choóng, Bản Nhùng, Tân Tiến, Túng Sán, Vinh
Quang, Pố Lồ, Tụ Nhân, Thèn Chu Phìn, Chiến Phố, Đản Ván, Trung Thịnh, Thàng
Tín, Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài, Sán Xả Hồ, Bản Péo với tổng số 3.393 hộ, 23.016 nhân
khẩu. Huyện Xín Mần có 18 xã là Bản Máy, Bản Pắng, Bản Phùng, Nàn Xỉn, Bản Díu,
Thèn Phàng, Xín Mần, Cốc Pài, Nàn Ma, Bản Ngò, Nấm Dẩn, Chế Là, Cốc Rế, Chí Cà,
Pà Vầy Sủ, Thu Tà, Ngán Chiên, Tả Nhìu với tổng số 3.060 hộ, 23.745 nhân khẩu.
Sau khi chia tách huyện, để giúp cho các cơ quan của huyện
mới Xín Mần sớm đi vào hoạt động, thực hiện sự chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền
02 huyện, đội ngũ cán bộ của Phòng Xây dựng huyện đã phối hợp với các ngành của
tỉnh tham mưu xây dựng các phương án, kế hoạch và giải pháp quy hoạch, xây dựng
trụ sở mới của Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan của huyện mới Xín Mần
tại xã Cốc Pài. Đồng thời tham mưu kế hoạch và huy động dân công của hai huyện
tham gia san lấp mặt bằng, khai thác vật liệu để xây dựng trụ sở làm việc của
các cơ quan huyện mới Xín Mần. Đến cuối năm 1965 toàn bộ trụ sở các cơ quan của
huyện Xín Mần đã được xây dựng xong và đi vào sử dụng. Mặt khác, trong điều kiện
đội ngũ cán bộ của Phòng Giao thông, Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì khi đó
còn rất thiếu nhưng với tinh thần đoàn kết tương trợ, chia sẻ khó khăn, thực hiện
sự điều động của Cấp ủy, Chính quyền, một số cán bộ của các cơ quan đã được điều
động vào công tác tại huyện Xín Mần để gánh vác trọng trách nhiệm vụ tại huyện
mới.
Trong giai đoạn từ năm 1964 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta có nhiều diễn biến phức tạp. Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ, ngày
05/8/1964 đế quốc Mỹ bắt đầu ném bom đánh phá miền Bắc Hội nghị lần thứ XII của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) họp từ ngày 27/12/1965 đã khẳng định:
Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc, đồng thời nhận định
rõ nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Bắc là … “Vừa sản xuất, vừa chiến đấu…
Trong bất cứ tình huống nào chúng ta cũng phải khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp…”[4].
Trong tình hình cả nước có chiến tranh, nhất là sau khi đế
quốc Mỹ tiến hành ném bom đánh phá Hà Giang vào tháng 8/1965, căn cứ Nghị quyết
Hội nghị lần thứ XII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) và Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ III[5], với chức năng, nhiêm vụ
được giao, đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của của Phòng Giao thông Vận tải, Phòng
Xây dựng đã tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn,
tích cực tham mưu và triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Để chủ động
phòng tránh máy bay địch bắn phá, Phòng Xây dựng huyện đã tham mưu và triển
khai kế hoạch phân tán, ngụy trang hệ thống các kho lương thực, dầu muối, các cửa
hàng mậu dịch tại các xã Vinh Quang, Nậm Dịch, Tụ Nhân, Hồ Thầu, Bản Luốc và
các trường học, trạm xá, trạm y tế, thay đổi thời gian họp chợ, phối hợp với lực
lượng Quân sự, Công an và Phòng Thông tin Văn hóa vận động nhân dân đào hầm trú
ẩn để phòng tránh thiệt hại về người và của trong trường hợp xảy ra chiến sự.
Song song với việc đề cao cảnh
giác, chủ động phòng chống nguy cơ chiến tranh lan rộng, Phòng Giao thông Vận tải,
Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì cũng tích cực tham mưu đẩy mạnh phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn để phục vụ sản xuất phát triển kinh tế. Nhất là từ năm
1966 cùng với việc mở rộng phát triển sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp tại
các xã trong toàn huyện tiếp tục được mở rộng lên 100 hợp tác xã với tổng số
3.013 hộ tham gia, chiếm 82,97 tổng số hộ trong toàn huyện, trong đó có 13 xã
căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp. Đến cuối năm 1967 toàn bộ các hợp
tác xã trong huyện đã xây dựng được các kho chứa thóc, mỗi hợp tác xã xây được
từ 2 - 3 bể ngâm thóc giống.
Bước sang năm 1967 là thời điểm tỉnh Hà Giang tập trung mạnh
mẽ cho việc thực hiện cuộc vận động “Cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ
thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc”
theo tinh thần Nghị quyết số 79-CP ngày 01/6/1963 của Hội đồng Chính phủ. Trong
đó trọng tâm là việc mở rộng quan hệ sản xuất, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
Xã hội chủ nghĩa nên tại các hợp tác xã đã dấy lên phong trào thi đua làm đường
giao thông, xây dựng và củng cố hệ thống kho bãi. Bên cạnh đó, từ những năm
1960 việc sử dụng mìn để phá đá trong xây dựng nhằm tăng năng suất lao động đã
được sử dụng rộng rãi. Vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình xây dựng
các công trình của huyện.
Trong 03 năm (1969 - 1971) Phòng
Xây dựng đã phối hợp với Phòng Thủy lợi huyện tiến hành khảo
sát, tham mưu cho Ủy ban hành chính huyện huy động dân công tham gia đóng góp
165.311 ngày công để đào đắp 106.107 m3 đất đá, sử dụng hết 35,65 tấn
xi măng và 1,274 tấn thuốc nổ phá đá để tu sửa 2.885 tuyến mương, xây dựng và
đào mới 29 tuyến trong đó có 02 công trình trung thủy nông tại các xã Tân Tiến,
Pờ Ly Ngài. Nâng diện tích ruộng được cung cấp nước tưới từ 367,7 ha năm 1968
lên 1.547,5 ha năm 1971, chiếm 86% tổng diện tích gieo cấy của huyện[6]. Đến
năm 1975 do huyện đẩy mạnh khai hoang phục hóa nên diện tích gieo cấy của huyện
tăng từ 2.019 ha năm 1969 lên 2.128,4 ha năm 1975. Để đảm bảo công tác thủy lợi
tưới tiêu, Phòng Xây dựng tiếp tục phối hợp với Phòng Thủy
lợi khảo sát xây dựng mới 03 tuyến mương, tu sửa 2.930 tuyến, đảm bảo cung cấp
nước tưới cho trên 87% diện tích ruộng của toàn huyện.
Về lĩnh vực Giao thông vận tải, do địa hình của huyện có
độ dốc lớn, thổ nhưỡng có kết cấu yếu, khí hậu khắc nghiệt nên các tuyến đường
thường xuyên bị sạt lở, nhất là trong đợt mưa lũ lớn nhất trong hơn 100 năm trở
lại diễn ra từ ngày 12 đến ngày 16/8/1971 khiến cho hơn 300 km đường dân sinh,
14 cầu, cống, 475 km kênh mương và hơn 200 ha ruộng bị sạt lở, 33 công trình
nhà trụ sở, trạm y tế, nhà lớp học tại các xã bị hư hại, gây thiệt hại nặng nề
về hạ tầng nông thôn của huyện. Vì vậy hàng năm Phòng Giao thông Vận tải huyện
đã chủ động tham mưu xây dựng kế hoạch, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện có hiệu
quả công tác mở mới và duy tu bảo dưỡng, nhất là sau mùa mưa lũ để đảm bảo các
tuyến đường được thông suốt qua 4 mùa.
Chỉ riêng 02 năm (1970 - 1971) toàn huyện đã huy động được
37.360 ngày công để mở mới 20,3 km đường dân sinh, tu sửa 615 km với khối lượng
đất đá đào đắp 22.868 m3, tu sửa 06 cầu treo và 02 cầu gỗ với tổng
chiều dài 212m, làm mới 02 cây cầu kiên cố và 04 cầu gỗ với tổng chiều dài
133m. Bên cạnh đó, Phòng Giao thông Vận tải cũng tích cực phối hợp với các cơ
quan, đơn vị chuyên môn thuộc Ty Giao thông Vận tải Hà Giang quản lý bảo dưỡng
tốt tuyến đường ô tô huyết mạch từ Tân Quang đi Hoàng Su Phì đảm bảo được thông
suốt qua các mùa để vận chuyển, cung ứng hàng hóa phục vụ đời sống lao động, học
tập và sản xuất của đồng bào các dân tộc trong huyện, đồng thời góp phần tiêu
thụ các mặt hàng nông lâm sản của huyện như chè, đậu tương, gia súc, dược liệu…
góp phần quan trọng trong việc kích thích sản xuất của huyện phát triển.
Về hoạt động xây dựng trong thời gian này chủ yếu tập
trung xây dựng và sửa chữa các công trình trụ sở của các cơ quan huyện và các
xã cũng như các công trình lớp học, trạm y tế… Do đặc điểm về địa hình và khí hậu
của huyện rất khắc nghiệt, trong khi các công trình phúc lợi công cộng chủ yếu
được xây dựng từ vật liệu bằng gỗ, tranh, tre, nứa, lá, một số công trình là
nhà trình tường nên mau hỏng, hay sạt lở. Vì vậy hàng năm Phòng Xây dựng huyện
đã chủ động tham mưu xây dựng kế hoạch và giao chỉ tiêu về huy động dân công,
bình quân mỗi năm từ 10.000 đến 15.000 ngày công để khai thác vật liệu, tu sửa
bảo dưỡng, kịp thời phục vụ yêu cầu làm việc của các cơ quan trong bộ máy Cấp ủy,
chính quyền của huyện và các xã.
Lĩnh vực thủ công nghiệp của huyện trong giai đoạn các
năm 1965 - 1975 cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Các xã, các hợp tác xã tiếp
tục đẩy mạnh cải tạo, phát triển ngành nghề thủ công truyền thống để cung cấp
các sản phẩm nông cụ, dụng cụ sinh hoạt để phục vụ nhu cầu lao động sản xuất
trong các hợp tác xã và đời sống nhân dân. Nếu như năm 1969 đã thành lập được
17 tổ thủ công (rèn, đúc, nghề mộc), năm 1971 có 22 tổ thì đến năm 1975 đã phát
triển được 25 tổ. Năm 1969 đã sản xuất được 1.825 lưỡi cày, 1.780 lưỡi cuốc,
năm 1971 sản xuất được 3.225 lưỡi cày, 2.016 lưỡi cuốc, đến năm 1975 đã sản xuất
được 2.270 lưỡi cày, 2.364 lưỡi cuốc, 275 sản phẩm đồ mộc và hàng chục nghìn
nông cụ các loại khác, nhờ đó đã kịp thời đáp ứng nhu cầu lao động và sinh hoạt
của nhân dân.
Trong giai đoạn này, các cơ quan, phòng, ban của huyện
cũng được củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và cán bộ. Tháng 5/1965 đồng chí
Phúc Văn Toản - Cán bộ kỹ thuật Công trường đường giao thông Hà Giang - Đồng
Văn được điều động vào huyện Hoàng Su Phì công tác và được bổ nhiệm giữ chức vụ
Phó trưởng Phòng Xây dựng. Tháng 5 năm 1975 đồng chí Phúc Văn Toản được điều động
sang Phòng Giao thông Vận tải và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng, đồng
chí Nguyễn Văn Chí được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Xây dựng. Tháng
9/1974 đồng chí Lù Văn Sạch chuyển công tác sang đơn vị khác, đồng chí Nông Văn
Thượng - Phó Phòng Kế hoạch huyện được điều động về Phòng Xây dựng và được bổ
nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng. Đến cuối năm 1975 Phòng Xây dựng có tổng số 05
cán bộ, Phòng Giao thông Vận tải có 06 cán bộ.
Về công tác Đảng, trong giai đoạn này các cơ quan Phòng
Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng có tổng số 02 đảng viên là đồng chí Phúc Văn
Toản và đồng chí Nông Văn Thượng, sinh hoạt chung với Chi bộ Kế hoạch - Công
nghiệp trực thuộc Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì.
Bước sang năm 1975, cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta có nhiều chuyển biến theo hướng thuận lợi.
Tháng 3/1975, Chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc tiến công giải phóng miền
Nam. Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Cùng nhân dân cả nước,
nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì chuyển sang một trang sử mới trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là những điều kiện
thuận lợi hết sức cơ bản đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội
của huyện Hoàng Su Phì, động viên đội ngũ cán bộ làm công tác Giao thông, Xây dựng
của huyện tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn để hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong điều kiện, hoàn cảnh cách mạng mới.
Chương III
TIẾP TỤC THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XHCN, THAM GIA CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN
GIỚI (GIAI ĐOẠN 1975 - 1990)
1. Tiếp tục đẩy
mạnh phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những
năm đầu thống nhất đất nước (giai đoạn 1975 - 1978)
Sau đại thắng mùa
xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất. Thắng lợi
này đã tạo đà để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bắt tay vào công cuộc hàn
gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện đất nước đã giành được độc lập, thống nhất trọn vẹn.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (khóa V) kỳ họp thứ II ngày 27/12/1975 về việc giải thể các Khu tự trị, hợp
nhất các tỉnh. Tháng 4/1976 hai tỉnh Hà Giang - Tuyên Quang
được sáp nhập và lấy tên là tỉnh Hà Tuyên. Sau khi sáp nhập, Trung ương và Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân và các ngành của tỉnh đã ưu tiên tập trung các nguồn lực để
hỗ trợ cho các huyện vùng cao biên giới phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm Quốc
phòng an ninh. Tuy nhiên quá trình xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội khi đó gặp không ít
khó khăn. Trong bối cảnh đất nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, hạ tầng kinh tế xã hội bị tàn phá nặng nề, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, trình độ
khoa học kỹ thuật thấp kém lạc hậu thì huyện Hoàng Su Phì còn có những khó khăn
riêng. Là huyện vùng cao, địa bàn cách biệt, khí hậu
khắc nghiệt, năng suất chất lượng cây trồng vật nuôi thấp khiến hầu hết các hộ gia đình thiếu lương thực nhất là
trong giai đoạn giáp hạt. Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ sản xuất rất nghèo nàn. Toàn huyện chỉ có duy nhất một tuyến đường
ô tô từ ngã ba Tân Quang huyện Bắc Quang vào huyện và chỉ có 3/21 xã có đường ô
tô còn lại là đường dân sinh ngựa thồ. Trừ một số nhà kho lương thực, thực phẩm
là nhà xây cấp IV còn lại hầu hết các công trình phúc lợi công cộng như trụ sở,
trạm xá, trường học đều là nhà tạm.
Mặc dù nhu cầu về nguồn vốn phục vụ cho hoạt động đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn nhưng hầu như không có mà chủ yếu huy động
từ sức dân. Trong khi đó từ năm 1972 hoạt động của các hợp tác xã trên địa bàn huyện
phát sinh nhiều hạn chế khuyết điểm khiến nhiều người bỏ bê không tham gia các hoạt động
của hợp tác xã mà chủ yếu dành thời gian ra ngoài làm để làm ăn riêng. Trong 3
năm (1973 - 1975) toàn huyện đã có hơn 500 hộ gia đình viết đơn xin ra các hợp
tác xã khiến cho việc huy động dân công để xây dựng các công trình phúc lợi
công cộng gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác do đội ngũ
cán bộ vừa thiếu về lực lượng, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ trong khi đồng
lương rất thấp không đủ chi dùng trong cuộc sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến lập
trường, tư tưởng cán bộ cũng như quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao của các
cơ quan, đơn vị.
Trong thời gian này, các cơ quan Phòng Giao thông Vận
tải, Phòng Xây dựng cũng có nhiều biến động về công tác tổ chức cán bộ. Tháng
01/1978 đồng chí Vương Tiến Ba - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải bị lâm bệnh và
từ trần trong khi đang làm nhiệm vụ mở tuyến đường Định canh định cư Nậm Dịch -
Hồ Thầu, Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên đã điều động 02 cán bộ thuộc Đội khảo
sát công trình cầu đường vào tăng cường cho Phòng Giao thông Vận tải huyện, trong
đó có đồng chí Chúng Bắc Thông được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng. Về đội
ngũ cán bộ của các đơn vị, đến cuối năm 1979 Phòng Giao thông Vận tải có 06 cán
bộ, Phòng Xây dựng có 05 cán bộ.
Mặc dù quá trình thực hiện nhiệm
vụ gặp rất nhiều khó khăn, song trong giai đoạn các năm 1975 - 1978 đội ngũ
lãnh đạo và cán bộ Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng của huyện đã có nhiều
cố gắng, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong 04 năm đã
huy động dân công được 68.157 ngày công để mở mới được 43 km đường dân sinh
trong đó có 15 km đường tuần tra biên giới và tu sửa 854 km đường dân sinh; phối
hợp với Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên duy tu bảo dưỡng tuyến đường ô tô từ Bắc
Quang đi các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần đảm bảo thông suốt qua các mùa để vận
chuyển cung ứng, tiêu thụ hàng hóa và đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân hai
huyện.
Một trong những thành tích nổi bật
trong lĩnh vực Giao thông và Xây dựng của huyện trong giai đoạn này là chỉ
trong gần 02 năm, từ tháng 11/1977 đến tháng 7/1978 Phòng Giao thông Vận tải và
Phòng Xây dựng đã chủ động phối hợp tham mưu huy động dân công từ các xã trong
huyện đóng góp 81.580 ngày công để tham gia phá đá, đào đắp hàng trăm nghìn mét
khối đất đá mở mới tuyến đường ô tô có tên là Đường Định canh Định cư với chiều
dài 8 km từ trung tâm xã Nậm Dịch đi xã Hồ Thầu. Tháng 7/1978 thì tuyến đường
được hoàn thành và đưa vào sử dụng, qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
vận chuyển hàng hóa, vật tư, phân bón phục vụ canh tác và đáp ứng được nhu cầu
đi lại của nhân dân các xã Nậm Khòa, Nam Sơn và Hồ Thầu.
Từ năm 1976 Công ty vận tải Thủy
- Bộ thuộc Ty Giao thông Vận tải Hà Tuyên đã mở tuyến xe khách từ Tuyên Quang
đi các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần với tần suất mỗi tuần một chuyến, từ năm
1978 tiếp tục mở tuyến xe khách từ Hà Giang đi huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần với
tần suất 3 ngày/chuyến. Do không có mặt bằng nên bến xe của huyện khi đó sử dụng
mặt đường khu vực ngã ba phía trước trụ sở Ủy ban nhân dân huyện làm địa điểm dừng
đỗ đón trả khách. Thực hiện nhiệm vụ chung của ngành, Phòng Giao thông Vận tải
đã chủ động phối hợp với Công ty vận tải Thủy - Bộ của tỉnh trong việc bán vé tại
bến và cử cán bộ thực hiện quyết toán mỗi tháng một lần tại 02 bến chính tại thị
xã Tuyên Quang và thị xã Hà Giang. Mặc dù hoạt động vận tải bằng ô tô khi đó
còn yếu kém cả về chất lượng phương tiện, đường sá và tần suất hoạt động, song
bước đầu đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu đi lại và vận
chuyển hàng hóa trong nhân dân thời kỳ này.
Về hoạt động xây dựng, Phòng Xây dựng đã tham mưu
huy động dân công để khai thác vật liệu, san lấp mặt bằng để xây dựng được 04
trường học và 03 trạm xá tại các xã với tổng số ngày công huy động được là 11.032
công. Năm 1976 triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng nhà kho lương thực kiên cố
tại trung tâm huyện với diện tích 396 m2.
Trong thời gian từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978
quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc trở nên phức tạp. Ở khu vực các xã biên giới Bản Máy, Thàng
Tín, phía Trung Quốc thường
xuyên tiến hành các hoạt động khiêu khích vũ trang, thám báo, biệt kích, xâm
canh, xâm cư, di dời cột mốc. Điều đó cho thấy dấu hiệu của cuộc xâm lược đang
tới gần. Đứng trước tình hình đó, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban
nhân dân huyện, Phòng Giao thông Vận tải và Phòng Xây dựng huyện đã chủ động
xây dựng kế hoạch và phương án sẵn sàng chiến đấu trong phạm vi lĩnh vực ngành
được phân công phụ trách. Trong hơn một năm đến trước thời điểm xảy ra cuộc chiến
đấu bảo vệ biên giới của dân tộc, toàn huyện đã huy động được hơn 12.000 lượt
dân công và dân quân, tự vệ lên tuyến biên giới để xây dựng được hàng trăm công
sự chiến đấu, mở 23 km đường giao thông lên các điểm chốt và khu vực biên giới,
xây dựng mới 02 cầu treo qua Sông Chảy tại khu vực các xã Trung Thịnh, Bản Luốc
để sẵn sàng phục vụ tải đạn, lương thực, thực phẩm lên chốt phục vụ quân và dân
ta sẵn sàng chiến đấu giáng trả những hoạt động xâm chiếm của Trung Quốc.
2. Tham gia phục vụ cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới và
phát triển kết cấu hạ tầng trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới của
đất nước (giai đoạn 1979 - 1990)
Ngày 17/02/1979,
phía Trung Quốc đã nổ súng tấn công ta trên toàn tuyến biên giới. Tại khu vực
huyện Hoàng Su Phì chúng tập trung tấn công chủ yếu vào
các xã Thàng Tín, Pố Lồ, Thèn
Chu Phìn và xã Bản Máy khi đó thuộc huyện Xín Mần. Trước tình hình đó, ngày 12/4/1979, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ra Nghị quyết về 4 nhiệm vụ cấp
bách trước mắt là: Chặn bằng được địch ở tuyến đầu biên giới, tiếp tục rà soát
lại các phương án và kế hoạch tác chiến cụ thể để đánh bại các cuộc tấn công bằng
bộ binh, pháo binh, thiết giáp, không quân của địch nếu chúng tiến quân vào địa
bàn. Nắm chắc địa bàn, kịp thời trấn áp những vụ bạo loạn phản cách mạng, những
hành động phá hoại bằng gián điệp, biệt kích. Chừng trị những phần tử phản động,
xuyên tạc chính sách, dùng chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân. Động
viên nhân dân thi đua lao động sản xuất, bảo đảm vừa chiến đấu vừa sản xuất tạo
ra hậu cần tại chỗ. Chăm sóc tốt vụ Đông - Xuân, tiến hành làm vụ mùa thắng lợi.
Quyết tâm làm hết diện tích theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã giao, bảo đảm
đúng thời vụ, đúng kỹ thuật. Từ đảng viên đến quần chúng phải nhận thức rõ âm
mưu lâu dài của địch... Tăng cường bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chống mọi tư tưởng sợ địch, vô ý thức, vô kỷ luật,
bỏ vị trí chiến đấu.
Sau khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới nổ ra, huyện Hoàng Su Phì là một
trong 9 huyện tuyến I của tỉnh thực hiện nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.
Khi đó tình hình chiến sự ngày càng ác liệt đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống
của nhân dân nhất là các xã biên giới như Pố Lồ, Thàng Tín, Thèn Chu Phìn, công
cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội bị đình trệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng
huyện đã khẩn trương xây dựng các phương án, kế hoạch chuyển hướng hoạt động từ
thời bình sang thời chiến với nhiệm vụ trọng tâm là phục vụ chiến đấu và sẵn
sàng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.
Thực hiện phương án chiến đấu của huyện đã được xác định tại Nghị quyết ngày 12/4/1979 của Ban Thường vụ Huyện ủy về 4 nhiệm vụ cấp bách trước mắt, trong 02 năm
(1980 - 1981) Phòng Giao thông Vận tải và Phòng Xây dựng huyện đã tham mưu huy
động được 2.400 lượt dân công, dân quân tự vệ cùng với lực lượng Quân sự làm đường
quốc phòng, xây dựng trận địa chiến đấu, xây dựng các khu tạm lánh và hầm hào
khu vực huyện lỵ, tiến hành rào lấp biên giới. Đến cuối năm 1981 đã rào lấp được
1.725m đường biên giới, đào 4.700m giao thông hào, 176 hầm tránh pháo, 340 công
sự chiến đấu để kịp thời phục vụ các lực lượng vũ trang sẵn sàng đập tan các cuộc
đột kích của phía đối diện.
Trước tình hình cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
ngày càng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Thực
hiện chủ trương của tỉnh và của huyện về việc chuyển huyện về địa bàn xã Nam
Sơn nhằm thuận tiện cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân
dân huyện và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời để bảo
toàn lực lượng nhằm đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động phá hoại về nhiều mặt
của địch, từ đầu năm 1984 Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải và các cơ
quan chuyên môn của tỉnh, của huyện đã tiến hành khảo sát, lựa chọn vị trí, địa
điểm để lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật và tham mưu huy động dân công và các phương
tiện máy móc, thiết bị để xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc sơ
tán các cơ quan của huyện từ xã Vinh Quang vào xã Nam Sơn. Đồng thời xây dựng
phương án vận chuyển di rời các cơ quan của huyện vào trụ sở mới. Đến cuối tháng 02/1985, toàn bộ các Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện
và các phòng, ban, cơ quan chuyên môn của huyện đã được chuyển về xã Nam Sơn đảm bảo an toàn tuyệt đối cả về người
và tài sản, tài liệu. Mặt khác, các cơ quan Phòng Xây
dựng, Phòng Giao thông Vận tải cũng nhanh chóng ổn định
cuộc sống, làm việc và công tác để thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn được giao.
Trong hoàn cảnh
cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới diễn ra trực tiếp trên địa bàn huyện, song song
với việc thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, tập thể lãnh đạo và cán bộ các
cơ quan Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải tiếp
tục bám địa bàn để thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa sản xuất, từng bước
hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ được giao của ngành. Thực hiện phương châm Nhà
nước và nhân dân cùng làm, trong các năm 1983 - 1986 huyện Hoàng Su Phì đã được
Trung ương và tỉnh hỗ trợ trên 10 triệu đồng và hơn 10 tấn gạo, Phòng Xây dựng,
Phòng Giao thông Vận tải đã tham mưu huy động được hơn 2 triệu ngày công trong
nhân dân để xây dựng các cơ quan của huyện
tại xã Nam Sơn; mở mới 28 km đường ô tô, trong đó có 16 km lên các trận địa khu
vực biên giới và tuyến đường ô tô từ km 55 tỉnh lộ 177 đi trung tâm xã Tân Tiến
với chiều dài 12 km; mở mới 156 km đường dân sinh; tu sửa 16 cầu treo, xây dựng
trụ sở mới cho các xã Tả Sử Choóng, Tân Tiến, Túng Sán, Pờ Ly Ngài, Thàng Tín.
Hoàn thành việc xây dựng và đưa vào sử dụng công trình cấp nước sinh hoạt tại
xã Vinh Quang và xã Pố Lồ. Mặt khác, Phòng Giao thông Vận tải huyện đã chủ động
phối hợp với Huyện đội tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện giao chỉ tiêu kế hoạch
cho các xã huy động dân công hỏa tuyến để tải lương thực, thực phẩm và đạn dược
thuốc men lên chốt phục vụ bộ đội chiến đấu.
Có thể nói, những kết quả đạt
được trên lĩnh vực giao thông, xây dựng của huyện trong những năm 1980 -
1986 đã thể hiện những cố gắng rất lớn của
Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trong huyện Hoàng Su Phì mà đi đầu
trong đó là Phòng Xây dựng, Phòng Giao thông Vận tải huyện. Trong hoàn cảnh cuộc
chiến đấu diễn ra ngày càng phức tạp nhưng đội ngũ lãnh đạo và cán bộ của các
Phòng đã luôn cố gắng khắc phục mọi khó khăn nguy hiểm để làm tròn trách nhiệm
mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân giao phó.
Trước thực tiễn của công
cuộc xây dựng đất nước, tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu Toàn quốc
lần thứ VI của Đảng được tổ chức đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, khởi đầu cho những
chuyển biến sâu sắc, mang tính quyết định, ảnh hưởng tích cực và toàn diện đến
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung cũng như
của huyện Hoàng Su Phì nói riêng, từng bước đưa nước ta vượt qua cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, tiến lên theo con đường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Mặt khác, từ năm 1989,
tình hình khu vực biên giới đã dần ổn định trở lại, quan hệ giữa hai nước Việt
Nam và Trung Quốc từng bước được bình thường hóa, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều
sự quan tâm hỗ trợ cho các địa phương vùng cao để tập trung khôi phục phát triển
kinh tế và hàn gắn vết thương của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới. Điều đó cũng
có tác động tích cực đối với lĩnh vực giao thông và xây dựng của huyện.
Sau khi tình hình an ninh khu vực
biên giới Việt - Trung có những chuyển biến theo hướng tích cực, để thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị và giao lưu văn hóa trong tình
hình mới, đầu năm 1989 các cơ quan của huyện được di chuyển từ xã Nam Sơn về xã
Vinh Quang. Trong điều kiện khó khăn chung của địa phương vùng cao, Phòng Xây dựng
huyện đã từng bước khắc phục khó khăn, tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền cụ thể
hóa Nghị quyết số 50-HĐBT ngày 17/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng về tiếp tục đẩy
mạnh công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện với tầm nhìn lâu dài nhằm
hướng tới xây dựng xã Vinh Quang thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa
của huyện. Trong đó đặc biệt chú trọng sử dụng có hiệu quả những cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện có cũng như tài sản, trang thiết bị được vận chuyển về từ xã Nam
Sơn, ưu tiên tập trung vào những công trình phúc lợi công cộng như trụ sở làm
việc, trường học, bệnh viện, cửa hàng cung ứng vật tư, thương nghiệp quốc
doanh, nhà chợ... để kịp thời phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý điều hành của
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của huyện cũng như công tác lưu thông hàng hóa để phục vụ sản xuất và đời sống.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao, Phòng Xây dựng, Phòng Giao
thông Vận tải đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện tham mưu huy động
dân công và các phương tiện máy móc, thiết bị để cải tạo, củng cố cơ sở hạ tầng
và triển khai phương án vận chuyển di rời các cơ quan của huyện từ xã Nam Sơn về
xã Vinh Quang. Trong điều kiện còn rất khó khăn của huyện khi đó Phòng Xây dựng
huyện đã tham mưu huy động các nguồn lực tại địa phương cùng với sự hỗ trợ của
Trung ương và của tỉnh để xây dựng lắp đặt các công trình nhà trụ sở của Hội đồng
nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện, Huyện ủy và các cơ quan chuyên môn của huyện.
Các công trình khi đó hầu hết là nhà tạm bằng gỗ, mái lợp ngói hoặc cột bê
tông, kèo sắt, vách bưng bằng ván, cót ép hoặc tấm phibro xi măng, song đã đáp ứng
được nhu cầu làm việc của các cơ quan huyện khi đó. Đến cuối tháng năm 1989, các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện
và các phòng, ban, cơ quan chuyên môn của huyện đã được chuyển về xã Vinh Quang đảm bảo an
toàn tuyệt đối cả về người và tài sản, tài liệu.
Cùng với các
cơ quan của huyện, Phòng Xây dựng và Phòng Giao thông Vận
tải cũng được di rời trụ sở đến khu vực hiện nay và nhanh
chóng ổn định chỗ làm việc để thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Bên cạnh đó, Phòng Giao thông
Vận tải cũng tham mưu xây dựng kế hoạch, xin kinh phí của tỉnh đầu tư mở rộng
tuyến đường khu vực trung tâm huyện lỵ từ 3,5m lên 7,5m để đáp ứng nhu cầu đi lại
của nhân dân.
Trong giai đoạn các năm 1980 - 1990 công tác tổ chức và cán bộ của các
phòng Giao thông Vận tải, Xây dựng có nhiều biến động do quá trình tách và sáp
nhập giữa các đơn vị. Tháng 01/1982 Bến xe khách huyện Hoàng Su Phì được thành
lập theo Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy Hoàng Su Phì ngày 21/11/1981 do
đồng chí Ngô Lê Lợi làm Bến Trưởng và 01 cán bộ phụ trách bán vé là đồng chí
Hoàng Công Thành. Tháng 6/1981 Ban công nghiệp huyện Hoàng Su Phì được giải thể,
Phòng Giao thông được giao thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về
lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp và trạm phát điện diezen cung cấp điện
cho khu vực trung tâm huyện (đặt tại khu vực Hội trường tổ dân phố 4 hiện nay),
đồng thời được đổi tên thành Phòng Giao thông - Công nghiệp. Tháng 7/1984 lĩnh
vực công nghiệp, thủ công nghiệp và trạm phát điện diezen được giao cho Phòng
Xây dựng quản lý. Sau khi chia tách, Phòng Xây dựng được đổi tên thành Phòng
Xây dựng - Công nghiệp và Phòng Giao thông - Công nghiệp được đổi tên thành
Phòng Giao thông Vận tải.
Tháng 4/1988 Phòng Xây dựng huyện được sáp nhập với Phòng Giao thông Vận
tải và được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng. Tháng 6/1989 huyện
thành lập Ban quản lý các công trình xây dựng để trực tiếp quản lý các công
trình xây dựng và Ban Công nghiệp huyện được giải thể thì Phòng Giao thông Vận
tải - Xây dựng được đổi tên thành Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng để
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực Giao thông, Công nghiệp và
Xây dựng.
Cùng với việc kiện toàn về tổ
chức bộ máy, công tác cán bộ của các cơ
quan cũng được điều động và bổ sung để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tháng 11/1981
đồng chí Chúng Bắc Thông chuyển công tác về huyện Vị Xuyên, đồng chí Đỗ Đức Có
được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng Giao thông Vận tải, tháng 6/1982 đồng
chí Phúc Văn Toản được nghỉ chế độ thì Phòng Giao thông Vận tải khuyết chức
danh Phó Phòng. Tháng 7/1982 đồng chí Đỗ Đức Có - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải
chuyển vùng công tác về Ban quản lý đường bộ tỉnh Hà Tây, đồng chí Ngô Lê Lợi
được giao phụ trách Phòng thay đồng chí Đỗ Đức Có, đến tháng 11/1984 đồng chí
Hoàng Văn Nam - Phó Văn phòng Huyện ủy được điều động về Phòng Giao thông Vận tải
và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng, tháng 9/1986 đồng chí Ngô Lê Lợi được
bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng Giao thông Vận tải.
Đối với Phòng Xây dựng - Công nghiệp, tháng
10/1981 đồng chí Nguyễn Văn Chí chuyển vùng công tác, đồng chí Bùi Xuân Thu được bổ nhiệm giữ chức vụ
Phó trưởng Phòng. Tháng 6/1984 đồng chí Bùi Xuân Thu xin thôi việc và
chuyển về tỉnh Nam Định, đồng chí Nguyễn Thanh Xuân được chỉ định giữ chức vụ
Phó trưởng Phòng Xây dựng. Năm 1986 đồng chí Nông Văn Thượng được nghỉ chế độ, đồng
chí Nguyễn Thanh Xuân được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền trưởng Phòng Xây dựng.
Sau khi Phòng Xây dựng huyện được sáp nhập với Phòng Giao thông Vận tải
và được đổi tên thành Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng vào tháng 4/1988, đồng
chí Hoàng Văn Nam - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải được điều động về Ban thanh
tra Nhà nước huyện, đồng chí Nguyễn Thanh Xuân được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng
Phòng, đồng chí Ngô Lê Lợi giữ chức vụ Phó trưởng Phòng, đến tháng 5/1989 đồng
chí Nguyễn Thanh Xuân chuyển về Ban Quản lý các công trình xây dựng và được bổ
nhiệm giữ chức vụ Giám đốc thì đồng chí Ngô Lê Lợi được bổ nhiệm giữ chức vụ
Trưởng Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng.
Năm 1985 đồng chí Hoàng Công Thành - cán bộ phụ trách Bến xe khách xin
thôi việc và chuyển vào huyện Xín Mần, đồng chí Nguyễn Xuân Hiệp được giao phụ
trách Bến xe khách, đến năm 1989 Sở Giao thông Vận tải đã điều động đồng chí
Nguyễn Khắc Hưng tăng cường vào huyện phụ trách Bến xe, đến năm 1993 đồng chí
Nguyễn Khắc Hưng được rút về tỉnh.
Cùng với việc kiện toàn về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, để đảm bảo
công tác lãnh đạo toàn diện của Đảng, tháng 6/1985 Chi bộ Giao thông - Bưu điện
được thành lập là chi bộ ghép gồm 03 đảng viên, trong đó có 02 đảng viên của
Bưu điện huyện và 01 đảng viên của Phòng Giao thông Vận tải, đồng chí Sin Văn
Phù được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Đến năm 1991 đồng chí Sin Văn Phù
được nghỉ chế độ, đồng chí Lương Thanh Nhan được chỉ định giữ chức vụ Bí thư
Chi bộ.
Có thể nói, giai đoạn các năm 1980 - 1990 là
thời điểm trước khi cả nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta
phát động, sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoàng Su
Phì cũng như cả nước gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước vốn đã gặp rất nhiều khó
khăn do ảnh hưởng của 30 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cuộc
chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và biên giới phía Tây Nam, đồng thời chịu sự
bao vây, cấm vận về kinh tế của các nước phương Tây, thêm vào đó, do những hạn
chế yếu kém của thời kinh tế tập trung bao cấp mà đặc biệt là cuộc tổng
điều chỉnh giá - lương - tiền vào năm 1985 đã ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Đối với huyện Hoàng Su Phì ngoài khó khăn
chung của đất nước còn có những khó khăn riêng do đặc thù của địa phương vùng
cao, kinh tế chậm phát triển, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp
và bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới diễn ra ngay trên địa
bàn. Ngân sách hoạt động chủ yếu do Trung ương cân đối, nguồn vốn đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng rất hạn hẹp, trong khi đó về tổ chức bộ máy trải qua nhiều giai
đoạn tách và sáp nhập, đội ngũ cán bộ vừa thiếu về lực lượng và hầu hết chưa được
đào tạo cơ bản về chuyên môn đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện nhiệm
vụ được giao của ngành. Song với tinh thần vượt khó, tập thể cán bộ Phòng Giao
thông Vận tải, Phòng Xây dựng huyện Hoàng Su Phì phát huy truyền thống của các
thế hệ đi trước, từng bước vượt qua khó khăn, kiên trì bám trụ, vừa công tác vừa
tự rèn giũa, đúc kết kinh nghiệm và trau rồi kiến thức nhằm nâng cao trình độ để
phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Từ đó tạo tiền đề vững chẵc để sự nghiệp Giao
thông - Xây dựng của huyện ngày càng phát triển, sẵn sàng bước vào thực hiện
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Chương IV
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG PHỤC
VỤ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT
NƯỚC (GIAI ĐOẠN 1990 - 2010)
1. Đẩy mạnh phát triển
kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm đầu công cuộc
đổi mới (giai đoạn 1990 - 2000)
Từ năm 1991
tình hình chính trị và kinh tế của đất nước ta cũng như tỉnh Hà Giang có nhiều
chuyển biến. Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, tình hình kinh tế của đất nước từng bước được hồi phục và phát triển,
đời sống của nhân dân được cải thiện về mọi mặt đã góp phần ổn định tình hình
chính trị - xã hội. Tiếp nối và kế thừa những thành quả của những năm đầu công
cuộc đổi mới, từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng được tổ chức. Trước thời cơ và vận hội mới, với bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa, Đại hội đề ra Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Với tinh thần
đó, ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII đã quyết định chia tách
tỉnh Hà Tuyên thành 02 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Theo đó, tỉnh Hà Giang được
tái lập theo địa giới hành chính trước đây gồm 09 huyện và thị xã Hà Giang (nay
là thành phố Hà Giang). Đảng bộ, chính quyền tỉnh Hà Giang chính thức được tái
lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1991. Trong khi đó ở khu vực biên giới cuộc
chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc kết thúc bằng Hiệp định tạm thời giữa Chính
phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa được ký kết tại Bắc Kinh - Trung Quốc ngày 07/11/1991. Quan hệ bình
thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập trở lại. Sau khi tỉnh Hà Giang được tái lập tỉnh, Đảng và
Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm, hỗ trợ cho tỉnh Hà Giang nói chung và huyện
Hoàng Su Phì nói riêng để phục hồi và phát triển kinh tế sau cuộc chiến đấu bảo
vệ biên giới. Đây là những thuận lợi cơ bản để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
các dân tộc trong huyện Hoàng Su Phì tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa
phương.
Trong tiến trình của những năm đầu bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội
đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XV (vòng 1) được tổ chức trong 2
ngày 15 - 16/3/1991, vòng 2 được tổ chức vào ngày 26/11/1991 với sự tham gia của
134 đại biểu đại diện cho 868 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Vương Phát
Hữu được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.
Đại hội đã đề ra 7 mục tiêu cơ bản đến năm 2000: (1): Tiếp tục hoàn thiện
việc giao đất, giao rừng cho tập thể và các hộ gia đình, ngăn chặn tệ phá rừng bừa bãi; (2): Tổ chức thực hiện tốt việc mở rộng quan hệ thị trường trong nước và vùng
biên giới với Trung Quốc, mở rộng giao lưu hàng hóa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho
nhân dân; (3): Ổn định đời sống
xã hội, tiếp tục thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (mũi nhọn là hàng xuất
khẩu), chỉ đạo tốt việc sản xuất lương thực, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
lương thực cho nhân dân; (4): Tập trung chỉ đạo việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của
Nhà nước, bảo đảm tiến
độ và hiệu quả; (5): Quan tâm chăm lo hơn nữa đời sống sức khỏe cho nhân
dân, từng bước nâng cao trình độ dân trí, hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số, ổn định
dân cư; (6): Tiếp tục mở rộng dân chủ Xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng; (7): Giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Đối với ngành Giao
thông Vận tải, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đã xác định:
“Giao thông Vận tải là khâu quan trọng
nhất của kết cấu hạ tầng’’ và “Giao
thông Vận tải phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh
tế quốc dân... trước mắt chủ yếu là đầu tư khôi phục và bảo dưỡng đường xá, cầu
cống, động viên khả năng của Nhà nước và nhân dân mở mang giao thông nông thôn,
đặc biệt ở miền núi’’[7].
Chính vì vậy, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế đất
nước theo kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã chủ trương
phải ưu tiên đầu tư phát triển lĩnh vực Giao thông Vận tải để tạo tiền đề và
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII (năm 1991) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành Giao thông Vận tải, đó
là: “...Khắc phục tình trạng xuống cấp
của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến
giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường
thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa, nâng cấp các tuyến đường bộ ở
các tỉnh biên giới, miền núi, các tuyến đường đến trung tâm các huyện vùng sâu,
vùng xa...”[8].
Về lĩnh vực xây dựng,
trong điều kiện khó khăn của đất nước khi đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VII (năm 1991) cũng xác định: “... có chính sách và biện pháp thích hợp
khai thác mọi nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội, bao gồm đầu tư tập trung của
ngân sách Nhà nước, của các địa phương, của cơ sở và của các tầng lớp nhân
dân...”[9].
Như vậy với Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, từ năm 1986 lĩnh vực đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng theo
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm đã triển khai thực hiện trên phạm vi
cả nước, trong đó có huyện Hoàng Su Phì. Có thể nói kể từ sau Đại
hội lần thứ VII của Đảng, dưới sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực
Giao thông Vận tải và Xây dựng cùng với những sự kiện chính trị
quan trọng, những đổi thay to lớn của đất nước và địa phương đã tạo ra những thời
cơ và vận hội mới cho huyện Hoàng Su Phì trên con đường xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới của Đảng.
Đối với huyện Hoàng
Su Phì, giai đoạn trước năm 1990 kết cấu hạ tầng của huyện còn rất yếu kém. Toàn
huyện chỉ có 7/27 xã có đường ô tô, song toàn bộ đều là đường ô tô nền đất đi lại rất khó khăn, còn lại đều là các tuyến đường dân sinh và đường cho ngựa
thồ hàng với tổng chiều dài là 335 km, trong
đó có 263 km đường dân sinh từ trung huyện về trung tâm xã nền rộng chỉ từ 1,5m
đến 2m, một bên là núi, một bên là vực sâu, thường xảy
ra lũ ống, lũ quét vào mùa mưa, nên việc đi lại
rất khó khăn và nguy hiểm. Toàn
huyện có 11 cây cầu, trong đó có 5 cầu treo xây dựng trong giai đoạn 1976 -
1978 khẩu độ từ 35 - 40m và có 5 cầu gỗ khẩu độ từ 3 - 8m. Về vận tải, toàn huyện
chỉ có 04 xe ô tô UAZ của các cơ quan Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, Công an
và Ban chỉ huy Quân sự huyện, 02 xe tải Zil 130 của Lâm trường Hoàng Su Phì và
Ban chỉ huy Quân sự huyện để vận chuyển hàng hóa, nhu yếu phẩm và đưa đón đại
biểu từ xã lên huyện và ngược lại mỗi khi tổ chức các kỳ cuộc. Tại các xã,
phương tiện vận tải chính là ngựa thồ với trên 1.000 con của 27 đoàn ngựa thồ
thuộc 27 xã, mỗi xã có một đoàn từ 35 - 40 con do một đồng chí lãnh đạo Ủy ban
nhân dân xã trực tiếp phụ trách. Mỗi con ngựa làm nhiệm vụ vận chuyển hàng được
Nhà nước thanh toán một kg thóc hoặc 2 kg ngô/ngày thông qua ngành lương thực
huyện chi trả. Ngoài ra, bình quân mỗi hộ còn có từ một đến hai con ngựa để phục
vụ vận chuyển hàng hóa của gia đình.
Về lĩnh vực xây dựng, toàn huyện chỉ có một
công trình duy nhất là nhà kho thóc của Cửa hàng lương thực là được xây kiên cố
bằng đá phiến, còn lại tất cả các công trình dân sinh phúc lợi từ huyện đến các
xã đều là nhà tạm bằng gỗ hoặc cột bê tông, vách bưng bằng cót ép hoặc phibro
xi măng, mái lợp ngói. Từ những khó khăn đó, Trung ương và tỉnh đã nhận thấy
yêu cầu bức thiết của huyện Hoàng Su Phì cũng như tỉnh Hà Giang trong giai đoạn
này là phải nhanh chóng hỗ trợ, phát triển kết cấu hạ tầng để tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.
Với những mặt thuận lợi của đất nước sau
04 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế đã từng bước phục hồi và phát triển,
ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 135/QĐ-TTg về phê duyệt
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt
là Chương trình 135) với mục tiêu tổng
quát: Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở
các xã đặc biệt khó khăn, miền
núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển
chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó các dự án hỗ
trợ phát triển hạ tầng như Dự án HPM thuộc Quỹ
Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) hỗ trợ giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ
tầng thiết yếu; Dự án Đa mục tiêu; Dự án hỗ trợ cho Giáo dục cùng nhiều chương
trình dự án khác được triển khai đồng bộ trên địa bàn huyện để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như điện, đường
giao thông, bệnh viện, trạm xá, trường học, trụ sở các cơ quan từ huyện đến xã. Nếu như trong giai đoạn
các năm 1990 - 1996 tổng trị đầu tư cho xây dựng cơ bản của huyện (chưa kể đầu tư trong lĩnh vực giao thông)
đạt 4,5 tỷ đồng thì đến năm 2000 đạt 13,11 tỷ đồng. Ngoài ra, với phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm, toàn huyện còn huy động công ích với tổng số
ngày công quy ra tiền đạt 3,3 tỷ đồng để xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng. Từ đó từng bước làm đổi thay về cơ bản bộ mặt
của huyện Hoàng Su Phì.
Với chức năng nhiệm vụ được giao, Phòng
Giao thông Vận tải - Xây dựng đã tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tăng
cường phát huy nội lực, huy động mọi nguồn lực và sự đóng góp của nhân dân để đầu
tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng với phương châm Nhà nước và nhân
dân cùng làm theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Mặt khác, Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng huyện đã chủ động thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đầu tư xây dựng, phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành và các cơ quan liên
quan của tỉnh, các công ty tư vấn
được Ủy ban nhân dân huyện ký kết hợp đồng tư vấn giám sát để theo dõi, giám sát tiến độ, chất lượng thi công các công
trình được triển khai trên địa bàn huyện.
Trong các năm 1990
- 1993, tổ chức bộ máy và cán bộ của Phòng Giao thông Vận
tải - Xây dựng tiếp tục có sự
thay đổi. Tháng 11/1991 Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng được giải thể và
tách thành 02 bộ phận, trong đó bộ phận Giao thông Vận tải được chuyển cho Hạt
giao thông đường bộ thuộc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Hà Giang quản lý, bộ phận
xây dựng được tách và chuyển về Ban quản lý các công trình xây dựng của huyện
quản lý, đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng và đồng chí Lộc Đức Tơn
- Cán bộ của Phòng được điều động về Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện làm Chuyên
viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp.
Đến tháng 4/1993, Phòng Giao thông -
Công nghiệp - Xây dựng huyện Hoàng Su Phì được tái thành lập theo Quyết định số
188/QĐ-UBND ngày 12/4/1993 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc thành lập
Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng ở mỗi huyện, thị xã. Cùng với đó, Ủy
ban nhân dân huyện đã ban hành Quyết định số 75/QĐ-UB ngày 24/5/1993 về việc bố
trí cán bộ của Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng. Theo đó đồng chí Ngô
Lê Lợi và đồng chí Lộc Đức Tơn - Chuyên viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp
thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện, đồng chí Vương Kim Thành - cán bộ Phòng
Thương nghiệp mới giải thể và đồng chí Nguyễn Thị Phương - nhân viên Công ty
chè Hồ Thầu được điều động về Phòng. Đồng chí Ngô Lê Lợi được bổ nhiệm giữ chức
vụ Trưởng Phòng phụ trách chung và trực tiếp phụ trách quản lý lĩnh vực Giao
thông - Vận tải, đồng chí Lộc Đức Tơn là cán bộ trực tiếp làm công tác Xây dựng
- Nhà đất, đồng chí Vương Kim Thành là cán bộ trực tiếp phụ trách công tác Công
nghiệp - Thương nghiệp, đồng chí Nguyễn Thị Phương là cán bộ kế toán. Sau khi
tái thành lập, Phòng Giao thông - Công nghiệp
- Xây dựng huyện có tổng số 04 biên chế. Đến năm 1997 biên chế của Phòng
được bổ sung thêm đồng chí Trần Quốc Huy có trình độ đại học chuyên ngành Giao
thông, tháng 12/1998 Phòng tiếp tục được bổ sung thêm đồng chí Lại Trần Hà có
trình độ trung cấp cơ khí, nâng tổng biên chế của Phòng lên tổng số 06 cán bộ.
Tháng
..../2000 đồng chí Trần Quốc Huy được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng.
Để đảm bảo công tác
lãnh đạo toàn diện của Đảng, sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng
huyện được tái thành lập, 02 đảng viên của Phòng là đồng chí Ngô Lê Lợi và đồng
chí Vương Kim Thành tiếp tục sinh hoạt tại Chi bộ Giao thông - Bưu điện, Bí thư
chi bộ khi đó là đồng chí Lương Thanh Nhan - Trưởng Phòng Bưu điện huyện. Tháng
12/1993 đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng
huyện được chỉ định tham gia Ban Chi ủy Chi bộ Giao thông - Bưu điện và giữ chức
vụ Phó Bí thư Chi bộ. Tháng 8/1997, Phòng
Giao thông - Xây dựng có thêm một cán bộ được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng,
nâng số đảng viên trong cơ quan lên 3 đồng chí.
Năm 2000 Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt được thành lập,
trong đó có 01 đảng viên được sinh hoạt ghép với Chi bộ Giao thông - Bưu điện.
Xét thấy đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng, đồng thời nhằm tăng cường
vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng, tháng 7/2000 Chi bộ Giao thông được thành
lập theo Quyết định số 156-QĐ/HU ngày 06/7/2000 của Ban Thường vụ Huyện ủy về
việc tách chi bộ cơ sở, thành lập Chi bộ Giao thông trực thuộc Huyện ủy. Theo
đó 06 đảng viên là công chức, công nhân viên chức các cơ quan Phòng Giao thông
- Xây dựng (04 đồng chí), Đội Vệ sinh môi trường & Cấp nước sinh hoạt (01 đồng
chí) và Chi nhánh điện (01 đồng chí) được tách ra từ Chi bộ Giao thông - Bưu điện
để thành lập Chi bộ Giao thông. Đồng chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông -
Công nghiệp - Xây dựng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Ngày 12/9/2000
Chi bộ Giao thông tổ chức Đại hội lần thứ nhất với sự tham dự của 06 đảng viên,
đồng chí Ngô Lê Lợi tiếp tục được đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi
bộ.
Chi bộ Giao thông được thành lập và tiếp tục phát triển đã đánh dấu
bước trưởng thành về tổ chức, giúp đội ngũ cán bộ của Phòng thêm vững vàng về
tư tưởng, đạo đức và chính trị, không ngừng nỗ lực phấn đấu để vươn lên hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì.
Về công tác chuyên
môn, sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện được tái thành lập,
để đảm bảo yêu cầu về trụ sở làm việc, tháng 7/1993
Ủy ban nhân dân tỉnh đã thu hồi đất và giao 507m2 mặt bằng của Bến
xe khách và đất vườn tạp, đồng thời hỗ trợ kinh phí xây dựng trụ sở mới của
Phòng, đến đầu năm 1994 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng công trình quy mô 5
gian mái bằng tại vị trí hiện nay. Nhờ đó, môi trường và điều kiện làm việc của
đội ngũ cán bộ Phòng Giao thông - Công nghiệp
- Xây dựng huyện có nhiều thuận lợi hơn.
Năm 1991 Đại hội Đảng
bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ
XV được tổ chức từ ngày
15 đến 16 tháng 3/1991, Đại hội đã bàn bạc, thảo luận về công tác giao thông và xác định vai trò quan trọng của việc
mở đường giao thông để phát triển kinh tế xã hội và phục vụ công tác sẵn sàng chiến đấu. Đồng
chí Ngô Lê Lợi - Trưởng Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện đã trình
bày tham luận trước Đại hội về “Chiến lược phát triển giao thông thời kỳ 1991 -
1995 và những năm tiếp theo”. Đây cũng là kỳ đại hội đầu tiên Ban Chấp hành Đảng
bộ huyện đã đề cập và ra nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển giao thông
miền núi của huyện, trong đó nêu rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát
triển giao thông nông thôn của huyện theo từng năm và thí điểm mô hình mở
đường giao thông dân sinh theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm trong
đó dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ dụng cụ xà beng, cuốc xẻng và vật liệu nổ.
Bước sang quý II năm 1991, Ủy ban nhân
dân huyện đã xây dựng kế hoạch để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XV ban
Chấp hành Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì về mở
đường giao thông, trong đó lấy xã Tiên Nguyên làm điểm,
do xã Tiên Nguyên khi đó là địa phương có tiềm năng lớn về cây chè, cây lương
thực và lâm nghiệp, trong khi đó tỉnh có chủ trương cho xã được khai thác song,
mây để bán cho các hợp tác xã mây tre đan của tỉnh nhưng do không có đường vận
chuyển nên rất khó khăn cho khai thác vận chuyển ra khỏi địa bàn.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện cùng với sự quyết tâm của Cấp ủy, Chính
quyền xã Tiên Nguyên, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã tham
mưu cho UBND huyện ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Ngô Lê Lợi
làm Trưởng Ban, đồng chí Hoàng Diễu Kình - Bí thư Chi bộ xã Tiên Nguyên là Phó
Ban chỉ đạo, các thành viên gồm một đồng chí cán bộ kỹ thuật của Phòng,
cùng một số ngành của huyện và đại diện Chính quyền xã Tiên Nguyên. Cùng với
đó, Phòng Giao thông - Công
nghiệp - Xây dựng đã tiến
hành khảo sát, thiết kế kỹ thuật và lập dự toán kinh phí hỗ trợ, tham mưu kế hoạch
và quyết định huy động dân công nghĩa vụ của xã Tiên Nguyên gồm 22.500 lượt dân
công, nếu quy ra tiền khi đó tương đương với 172 triệu đồng, bên cạnh đó, huyện
cũng chỉ đạo Xí nghiệp chè Hoàng Su Phì phối hợp triển khai cơ chế hỗ trợ tiêu
thụ sản phẩm chè của xã để trích lãi bằng tiền mặt từ bán chè vàng cho lực lượng
dân công trên công trường bằng 50 triệu đồng. Tỉnh hỗ trợ 186 triệu đồng bằng
tiền mặt cho Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng mua vật liệu nổ, dụng cụ lao động
và hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho lực lượng dân công.
Ngày 15/9/1991 Ủy ban nhân dân huyện đã tổ
chức lễ khởi công, sau khi
Phòng Giao thông Vận tải - Xây dựng được tách và chuyển cho Hạt giao thông đường
bộ thuộc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Hà Giang quản lý vào tháng 11/1991, hoạt động mở đường tiếp tục được giao cho bộ phận
chuyên viên Giao thông Vận tải và Công
nghiệp thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân dân huyện trực tiếp tham mưu cho Ủy ban
nhân dân huyện chỉ đạo thực hiện. Sau 05 tháng thi công, đến ngày
15/2/1992 tuyến đường đã được mở xong với chiều dài 21,2 km nối liền trung tâm
xã Tiên Nguyên đến xã Thông Nguyên, mặt đường rộng từ 2 đến 2,5 m đảm bảo cho
người, ngựa và xe 2 bánh đi lại thuận tiện.
Từ thắng lợi của việc mở tuyến đường dân sinh Tiên
Nguyên theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, ngày 16/ 11/1992,
Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp bàn kế hoạch huy động nhân dân của 14 xã nội
địa và xã biên giới của huyện mở tuyến đường dân sinh từ trung tâm xã Chiến Phố
đi xã Thàng Tín. Thực hiện sự chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện, đồng chí
Ngô Lê Lợi - Chuyên viên Giao thông Vận tải và Công nghiệp thuộc Văn phòng Ủy
ban nhân dân huyện đã trực tiếp tham mưu xây dựng kế hoạch mở đường, thành lập
Ban chỉ huy công trường, giao nhiệm vụ mở đường cho các xã. Ngày 5/12/1992 công
trình được khởi công với 3.000 dân công của 14 xã. Sau hơn hai tháng thi công,
đến cuối tháng 02/1993 tuyến đường đã hoàn thành với chiều dài 18km từ trung
tâm xã Chiến Phố đến trung tâm xã Thàng Tín, mặt đường rộng bình quân 2m, có chỗ
rộng 3m.
Cùng với việc đáp ứng yêu cầu đi lại của
nhân dân, các tuyến đường được mở theo phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm trong đó dân làm là chính đã mang một ý nghĩa chính trị rất lớn, khẳng
định quan điểm chỉ đạo đúng đắn, sát với thực tiễn và cách làm sáng tạo của Cấp
ủy, Chính quyền huyện, đưa huyện Hoàng Su Phì trở thành huyện điển hình tiên tiến
trong công tác phát triển đường dân sinh nông thôn miền núi của tỉnh Hà
Giang và được tỉnh lấy làm điểm để nhân rộng ra huyện Bắc Quang, huyện Vị
Xuyên, sau đó nhân rộng ra toàn tỉnh.
Sau khi Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng huyện
Hoàng Su Phì được tái thành lập vào tháng 4/1993 thì lĩnh vực Giao thông và Xây
dựng của huyện tiếp tục có nhiều thuận lợi. Đảm bảo công tác quản lý, điều hành
trong lĩnh vực Giao thông - Xây dựng của huyện được thường xuyên và xuyên suốt.
Từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động Giao thông Vận tải cũng như sự phát triển
chung về kinh tế - xã hội của huyện thời gian này cho thấy, việc
phát triển hệ thống đường
dân sinh tuy giành được nhiều thắng lợi
nhưng do quy mô đường mở
rất nhỏ, chỉ rộng
từ 1,5 đến 3 m và chỉ sử dụng cho người, ngựa và xe 2 bánh,
còn ô tô không đi lại được. Yêu cầu đặt ra là thúc đẩy sự nghiệp xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội của huyện đi lên thì phải phát triển, nâng cấp hệ thống
đường ô tô. Do vậy, rất cần sự đầu tư của Nhà nước để đầu tư để mở đường giao
thông cho ô tô có thể đi được.
Phát huy những thành tích to lớn trong công tác mở đường dân sinh những năm
1990 - 1993, trong các ngày 13 đến ngày 14/4/1994, tại hội
nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì giữa nhiệm kì lần thứ XV đã
ban hành nghị quyết về công tác giao thông. Để triển khai thực hiện có hiệu
quả Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng
huyện được giao nhiệm vụ tham mưu xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống đường
giao thông từ trung tâm huyện đi trung tâm các xã. Trong đó công trình mở rộng
nên đường tuyến giao thông nội thị và mở mới tuyến đường ô tô Vinh Quang đi Bản
Máy là ưu tiên số một để vừa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vừa phục vụ
nhiệm vụ bảo vệ biên giới. Do vậy chủ trương tuyến đường này đã được Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Hà Giang nhất trí và cho chủ trương thi công.
Tháng 3/1994 công trình nâng cấp tuyến đường
nội thị khu vực xã Vinh Quang với chiều dài 1,8 km được khởi công, đến cuối năm
1994 thì hoàn thành. Tiếp đó, ngày 01/4/1995 công trình mở mới tuyến đường ô tô
Vinh Quang đi Bản Máy được khởi công với sự tham gia thi công của lực lượng dân
công 12 xã và Xí nghiệp giao thông Cầu Đường Hoàng Su Phì - doanh nghiệp tư
nhân đầu tiên tiên phong trong lĩnh vực xây dựng các công trình giao
thông, thủy lợi, xây dựng của huyện.
Sau hơn 7 tháng thi công với tổng kinh
phí 2,9 tỷ đồng, đến ngày 15/11/1995 thì hoàn thành và thông xe kỹ thuật toàn
tuyến với chiều dài 34 km trong đó có 03 cầu bê tông với tổng chiều dài 15m, nối
liền trung tâm huyện đến trung tâm xã Bản Máy. Tiếp theo đó, trong 05 năm (1996
- 2000) Phòng Giao thông - Công
nghiệp - Xây dựng đã khảo sát và tham mưu lập kế
hoạch triển khai mở các tuyến đường Thông Nguyên - Xuân Minh dài 7,3 km; tuyến
Nậm Dịch - Hồ Thầu; tuyến Vinh Quang - Pố
Lồ - Thàng Tín và Pố Lồ - Thèn Chu Phìn dài 24,6 km; tuyến Thông Nguyên - Tiên
Nguyên dài 16 km; tuyến Nam Sơn - Nậm Khòa dài 15,4 km; tuyến Vinh Quang - Đản
Ván tổng chiều dài 11
km; tuyến Tân Tiến - Túng Sán dài 9,5 km;
tuyến km 39 Nậm Ty - Bản Péo dài 5,5 km; tuyến Vinh Quang - Bản Luốc dài 9,2 km.
Cùng với đó năm 1996 Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng cũng tham mưu cho Ủy ban nhân
dân huyện đề nghị tỉnh bố trí nguồn vốn để mở và nâng cấp và trải nhựa các
trục đường giao thông nội huyện với chiều dài là 1,6 km; nâng cấp trải nhựa tuyến
đường km 18 tỉnh lộ 177 đi Thông Nguyên dài 12 km.
Nhờ sự quan tâm to lớn của Trung ương, của
tỉnh và những nỗ lực cố gắng của Cấp ủy, Chính quyền và nhân dân các dân tộc
trong huyện, đến hết năm 2000, toàn bộ các xã trong huyện Hoàng Su Phì đã có đường
ô tô đến các trung tâm xã, trong đó chỉ tính riêng trong giai đoạn các năm 1996
- 2000 đã mở mới và nâng cấp được 237 km. Với những thành tích phát triển
giao thông của huyện Hoàng Su phì trong giai đoạn này, tại Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XII nhiệm kỳ 1996 - 2000 được tổ chức trong các
ngày từ 25 - 28/4/1996, đoàn đại biểu của Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã vinh dự
được tham gia phát biểu tham luận về công tác huy động nhân dân phát triển giao
thông miền núi.
Một vinh dự to lớn nữa đối với huyện
Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Giao thông - Công nghiệp
- Xây dựng nói riêng đó là vào tháng 4/1997, đồng
chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tướng Chính phủ và đồng chí Vũ Ngọc Kỳ - Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bí thư Tỉnh ủy và đồng
chí Triệu Đức Thanh - Phó Bí thư Tỉnh ủy Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang
đã đến thăm huyện Hoàng Su Phì và dự lễ khánh thành tuyến đường giao thông
từ trung tâm huyện đi trung tâm các xã biên giới Pố Lồ - Thèn Chu Phìn - Thàng
Tín và tuyến đường từ xã Vinh Quang đi xã Đản Ván. Đồng chí Phó Thủ tướng Chính
phủ đã khen ngợi và đánh giá cao công tác phát triển giao thông của huyện Hoàng
Su Phì những năm đó.
Ghi nhận những cố gắng to lớn của huyện
Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng nói riêng,
trong 4 năm liền (1995 - 1998) Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện
Hoàng Su Phì đã vinh dự được Bộ giao thông Vận tải trao tặng 04 cờ thi đua
xuất sắc, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng và các xã Tiên Nguyên,
Thông Nguyên, Sán Sả Hồ được tặng Bằng khen về thành tích phát triển giao thông
miền núi. Riêng xã Tiên Nguyên được Bộ giao thông Vận tải trao tặng danh hiệu là
xã điển hình về phong trào phát triển giao thông miền núi. Có thể nói đây là một kì
tích trong lĩnh vực giao thông của huyện Hoàng Su Phì giai đoạn này, trong đó
có sự đóng góp to lớn của Phòng Giao thông - Công nghiệp
- Xây dựng huyện.
Mặc dù có nhiều thành tích vượt bậc, song
hầu hết các tuyến đường của huyện khi đó đều là đường đất, dễ bị sạt lở nhất là
vào mùa mưa, điều đó cũng đặt ra yêu cầu nhiệm vụ cho Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng
huyện những nhiệm vụ, trọng trách mới trong việc tham mưu và thực hiện kế hoạch
nâng cấp đường giao thông trong những năm tiếp theo.
Về lĩnh vực xây dựng
trong giai đoạn này đã nhận được sự quan tâm đầu tư mạnh mẽ của các Cấp ủy,
chính quyền, tập trung cho việc phát triển các công trình phúc lợi công cộng. Với
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng đã chủ động phối hợp với Phòng lao động tham
mưu cho Ủy ban nhân dân huyện chỉ tiêu kế hoạch huy động dân công và lao động
công ích để khai thác vật liệu tại chỗ chỗ như cát, đá, sỏi, san ủi mặt bằng và
thi công các công trình phúc lợi công cộng. Trong 10 năm (1990 - 2000) toàn huyện
đã huy động được 596.827 ngày công. Đi đầu trong công tác này là các xã Thông
Nguyên, Chiến Phố, Tụ Nhân, Hồ Thầu.
Năm 1991 huyện Hoàng Su Phì đã được tỉnh đầu tư triển khai
san ủi mặt bằng của trụ sở Công an huyện, năm 1993 triển khai san ủi mặt bằng xây dựng công trình Trung tâm Y tế (nay là bệnh viện đa khoa khu vực Hoàng Su Phì) và trụ sở Huyện ủy
quy mô 02 tầng, đến năm 1994 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đây là công trình có quy mô lớn nhất
của huyện thời gian này. Tiếp đó, trong giai đoạn các năm 1993 - 1995 nhiều
công trình xây dựng tiếp tục được đầu tư xây dựng, tiêu biểu là công trình nhà
trụ sở HĐND - UBND huyện quy mô 02 tầng, nhà làm việc Trung tâm y tế huyện và
các cơ quan Phòng Tài chính, Kho bạc Nhà nước huyện, Trường Phổ thông dân tộc Nội
trú, trụ sở Phòng Giao thông - Xây dựng. Cùng với đó, các công trình Nhà máy thủy điện tại các xã Hồ Thầu,
Vinh Quang được triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng đã nâng sản lượng điện
lên 732.600 Kw/h, tăng gấp 3 lần so với năm 1996. Đặc biệt, từ năm 1998,
Chương trình 125 của Chính phủ
được triển khai thực
hiện thì lĩnh vực xây dựng cơ bản của huyện có nhiều đột phá. Năm 2000 mức đầu
tư cho xây dựng cơ bản đạt 13,11 tỷ đồng, tăng 8,61 tỷ so với năm 1996, các
công trình xây dựng chủ yếu tập trung vào xây dựng trường học, trạm xá, thủy lợi,
nước sạch, trụ sở xã, các điểm trường, nhà văn hóa kiêm trụ sở thôn... Chỉ tính
riêng trong giai đoạn 1998 - 2000 đã có 122 công trình thuộc Chương trình 135
được thi công, trong đó có 87 công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng. Ngoài
ra còn có 04 trung tâm cụm xã được đầu tư xây dựng với tổng kinh phí 16,42 tỷ đồng.
Sau khi đường điện
lưới Quốc gia được kéo vào huyện, Phòng Giao thông Xây dựng đã chủ động tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện kế hoạch
phát triển lưới điện, đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng của của tỉnh
tiến hành khảo sát, xây dựng và lắp đặt các trạm hạ thế và đường điện tại các
xã. Đến năm 1998 toàn huyện đã có 7 trạm hạ thế điện tại các xã Tụ Nhân, Tân Tiến,
Nậm Ty, Nậm Dịch, Chiến Phố và Vinh Quang. Năm 2000 sản lượng điện phát ra của
huyện đạt 360.477 KWh.
Về lĩnh vực Công
nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp của huyện trong giai đoạn này cũng có sự phát triển
mạnh. Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng
huyện tích cực tham mưu
xây dựng các cơ chế hỗ trợ và linh hoạt vận dụng triển khai thực hiện các chính
sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các hộ gia đình đầu tư xây dựng các cơ
sở chế biến chè, cải tiến về phương tiện, thiết bị và nhà xưởng để chuyển hướng
từ sản xuất chè vàng có giá trị thấp sang sản xuất chè xanh có giá trị kinh tế
cao hơn. Nhất là việc hỗ trợ các hộ gia đình vùng chè thuộc các xã Nậm Ty,
Thông Nguyên, Hồ Thầu, Nam Sơn mua sắm, lắp đặt máy chế biến chè mini, cùng với
đó là việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, chủ động tiếp cận thị trường để giải
quyết đầu ra cho sản phẩm. Nếu như trước năm 1990 toàn huyện chỉ có một xưởng chè
tại xã Thông Nguyên có dây chuyền chế biến chè vàng kết hợp chế biến chè xanh với
sản lượng không đáng kể, trong các năm 1991 - 1995 tiếp tục khôi phục xưởng chè
Nậm Ty và xây dựng, đưa vào sử dụng xưởng chế biến chè Hồ Thầu, hỗ trợ và hướng
dẫn sử dụng cho các hộ gia đình mua sắm và sử dụng máy sao sấy chè mini, năm
1996 toàn huyện có 02 xưởng chế biến chè xanh và 124 máy sao sấy chè mini, sản
xuất được 80,5 tấn chè xanh, đến năm 2000 có 05 xưởng chế biến chè xanh và 267
máy sao sấy chè mini, sản lượng chè xanh đạt 250 tấn.
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của huyện, Phòng Giao thông - Công nghiệp - Xây dựng cũng tích cực tham mưu khuyến khích
duy trì và phát triển các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp tại các xã. Năm
2000 toàn huyện có 61 lò rèn, đúc mỗi năm sản xuất được 66.572 sản phẩm các loại
như lưỡi cày, nông cụ cầm tay, dao, liềm...; 21 cơ sở sản xuất ngói trong đó có
14 cơ sở sản xuất ngói xi măng và 07 lò sản xuất ngói máng, bình quân mỗi năm sản
xuất được 372.500 viên; 06 cơ sở chế biến gỗ mỗi năm chế biến được 2.250 sản phẩm
các loại. Trong các năm 1996 - 2000 giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp bình
quân mỗi năm của toàn huyện đạt 93,1 triệu đồng.
2. Tiếp tục củng cố, kiện toàn về tổ chức bộ máy và thực
hiện nhiệm vụ phát triển kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội, giữ vững an ninh quốc phòng của huyện (giai đoạn 2001 - 2010)
Trong giai đoạn các
năm 2001 - 2010 cơ cấu tổ chức và bộ máy của Phòng nhiều lần được điều chỉnh và
thay đổi tên gọi cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của mỗi thời điểm khác nhau. Năm
2004 Phòng được giao chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường
và được đổi tên thành Phòng Công nghiệp - Giao
thông xây dựng và Môi trường. Tháng 3/2005 các cơ quan chuyên môn của huyện tiếp
tục được kiện toàn và thành lập theo Quyết định số 87/QĐ-UBND ngày 29/9/2004 của
Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc quy định định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh Hà Giang. Theo đó chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường
được chuyển giao cho Phòng Tài nguyên
& Môi trường, Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được
đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế. Ngày 28/4/2008 Phòng Hạ tầng Kinh tế tiếp
tục được đổi tên thành Phòng Công thương theo Quyết định số 2033/QĐ-UBND ngày 24/8/2008
của UBND tỉnh Hà Giang.
Sau khi được kiện
toàn về tổ chức bộ máy, Phòng Công thương huyện Hoàng Su Phì là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân huyện Hoàng Su Phì, có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực: công nghiệp; tiểu thủ công nghiệp;
thương mại - dịch vụ; điện nông thôn; xây dựng; phát triển đô thị; kiến trúc,
quy hoạch xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công sở; hạ tầng kỹ thuật đô thị
(gồm cấp, thoát nước; vệ sinh môi trường đô thị; công viên, cây xanh; chiếu
sáng; rác thải; bến, bãi đỗ xe đô thị); giao thông trên địa bàn huyện.
Về công tác cán bộ, sau
khi Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được
kiện toàn về tổ chức bộ máy và được đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế vào
tháng 3/2005 thì đồng chí Ngô Lê Lợi được huyện điều động về Phòng Tài nguyên
& Môi trường, đồng chí Trần Quốc Huy được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Phòng
Hạ tầng Kinh tế, tháng 6/2005 đồng chí Vương Kim Thành - Cán bộ tăng cường xã Bản
Luốc được rút về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 11/2009
đồng chí Vương Kim Thành được điều động đi tăng cường tại thị trấn Vinh Quang, đồng
chí Hoàng Văn Pao - Phó Bí thư Đảng ủy xã Thông Nguyên được rút về Phòng và được
bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 12/2009 đồng chí Lại Trần Hà - Cán
bộ của Phòng tăng cường tại xã Sán Xả Hồ
được rút về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng.
Cùng với việc kiện
toàn về tổ chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đã được
đơn vị quan tâm để xây dựng, củng cố đội ngũ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững
vàng về lý luận và lập trường tư tưởng, đạo đức, chính trị, từ đó giúp đơn vị
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Giai đoạn các năm 2001 - 2010 trong đội ngũ
cán bộ công chức của Phòng đã có 06 đồng chí được cử đi học các lớp đại học
chuyên ngành để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và theo học các lớp lý
luận chính trị. Năm 2010 trong tổng số 08 biên chế của Phòng Công thương huyện có
06 đồng chí trình độ chuyên môn đại học, 02 đồng chí trình độ trung cấp. Về lý
luận chính trị có 02 đồng chí trình độ cao cấp, 03 đồng chí trình độ sơ cấp.
Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể của Phòng trong giai đoạn này được
các cấp ủy Đảng đặc biệt quan tâm. Chi bộ
thường xuyên chú trọng công tác xây dựng, quán triệt và thực hiện các nghị quyết của Đảng,
không ngừng đổi mới công tác sinh hoạt chi bộ, đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Chủ tich Hồ Chí Minh trong đội ngũ cán bộ và đảng viên. Các đảng viên trong Chi bộ và cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc luôn
thể hiện lối sống trong sáng, không vi phạm lối sống đạo đức. Nêu cao tinh
thần đoàn kết nội bộ, giúp nhau cùng tiến bộ, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao. Thường xuyên học hỏi giúp đỡ lẫn nhau và học tập để
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, gắn với việc cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng vào thực tiễn công tác chuyên môn. Từ đó đã giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của Chi bộ và quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan, đơn
vị trực thuộc luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch được
giao.
Trong các năm 2001 - 2003 và các năm 2006, 2008 Chi bộ đã
được Ban Thường vụ Huyện ủy xét tăng danh hiệu chi bộ Trong sạch vững mạnh; UBND
tỉnh tặng danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc cho Phòng Công nghiệp - Giao
thông - Xây dựng các năm 2001, 2002, 2003 và Phòng Hạ tầng Kinh tế năm 2008. Nhiều
cán bộ, công chức của Phòng cũng đã được Bộ Giao thông Vận tải, Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh Hà Giang và các cấp, ngành tặng bằng khen, giấy khen các loại, 01
đồng chí đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh và 01 đồng chí đạt danh hiệu
Chiến sỹ thi đua cấp huyện.
Sau khi Phòng Công nghiệp - Giao thông xây dựng và Môi trường được
kiện toàn về tổ chức bộ máy và được đổi tên thành Phòng Hạ tầng Kinh tế vào
tháng 3/2005 thì Chi bộ Giao thông được đổi tên thành Chi bộ Phòng Hạ tầng Kinh
tế. Tháng 5/2008 Chi bộ Phòng Hạ tầng Kinh tế tiếp tục được đổi tên thành Chi bộ
Phòng Công thương.
Về công tác xây dựng Đảng, ngày 20/6/2003 Chi bộ Giao thông tổ chức đại hội
lần thứ II nhiệm kỳ 2003 - 2005 với sự tham dự của 06 đảng viên, đồng chí Ngô
Lê Lợi tiếp tục được bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Đến tháng 3/2005 Chi bộ
Phòng Phòng Hạ tầng kinh tế tổ chức Đại hội lần thứ III nhiệm kỳ 2005 - 2010, đồng
chí Trần Quốc Huy đã được Đại hội bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Vương
Kim Thành giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ. Sau Đại hội, đồng chí Ngô Lê Lợi được
điều động công tác về Phòng Tài nguyên & Môi trường.
Sau 05 năm kể từ khi được thành lập, đến 30/5/2005 Chi bộ Giao thông có tổng
số 09 đảng viên, trong đó đảng viên là cán bộ, công chức của Phòng có 06 đồng
chí, đảng viên cơ quan Chi nhánh điện có 03 đồng chí, đảng viên Đội Vệ sinh môi
trường & Cấp nước sinh hoạt có 02 đồng chí. Trong các năm 2005, 2007 các đảng
viên là cán bộ, công nhân, viên chức các cơ quan Chi nhánh điện và Đội Vệ sinh
môi trường & Cấp nước sinh hoạt được tách để thành lập các chi bộ mới theo
quyết định của Ban Thường vụ Huyện ủy. Đến tháng 4/2010 Chi bộ Phòng Công
thương có 06 đảng viên chiếm tỷ lệ 66,6% trong tổng số cán bộ, công chức của
Phòng. Về trình độ chuyên môn của đội ngũ đảng viên có 04 đồng chí trình độ đại
học, 02 đồng chí trình độ trung cấp. Về trình độ chính trị có 02 đồng chí trình
độ cao cấp và 02 đồng chí trình độ sơ cấp.
Do yêu cầu về công tác cán bộ, tháng 6 đồng chí Vương Kim Thành được Ban
Thường vụ Huyện ủy chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Trần Quốc Huy
giữ chức vụ Phó Bí thư Chi bộ. Tháng 11/2009 đồng chí Vương Kim Thành được Ban
Thường vụ Huyện ủy điều động đi tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, đồng
chí Trần Quốc Huy - Trưởng Phòng Công thương được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ
định giữ chức Bí thư Chi bộ. Tại đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ IV tổ
chức vào ngày 08/4/2010, đồng chí Trần Quốc Huy tiếp tục được bầu giữ chức vụ
Bí thư Chi bộ.
Các tổ chức đoàn thể như
Công đoàn, đoàn thanh niên được Chi bộ và cơ quan chuyên môn quan tâm tạo điều
kiện về hoạt động, thường xuyên định hướng cho cán bộ và đoàn viên thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị của Đảng, kịp thời động viên thăm hỏi những cán bộ có hoàn cảnh
khó khăn và cán bộ mới được chuyển về công tác. Các đoàn viên Công đoàn và Chi
đoàn thanh niên luôn giữ vai trò nòng cốt trong việc phát động, hưởng ứng và
duy trì các phong trào thi đua và các hoạt động văn hóa, thể thao do các cấp,
ngành phát động. Từ đó kịp thời động viên các cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động luôn có ý thức vươn lên, thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và nhiệm vụ chuyên môn được giao.
Trong giai đoạn các
năm 2000 - 2010, cùng với việc kiện toàn cơ cấu tổ chức và bộ máy và nhiều lần thay đổi
về tên gọi của đơn vị, Đơn vị cũng nhiều lần được điều chỉnh, bổ sung chức năng
nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và chuyên môn ở từng thời
điểm khác nhau. Bên cạnh đó, trong giai đoạn từ
năm 2000 Đảng, Nhà nước cũng như tỉnh Hà Giang tiếp tục quan tâm hỗ trợ, triển
khai các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương vùng
cao, trong đó có huyện Hoàng Su Phì.
Tiêu biểu là Chương trình 135 giai đoạn 2 của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010;
Dự án xóa đói, giảm nghèo gọi tắt là Dự án Chia sẻ
giai đoạn 2003 - 2008, Nghị quyết 30a của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo cùng nhiều chương trình, dự án khác về xây dựng kết cấu
hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội khu vực miền núi được triển khai đồng bộ
trên địa bàn huyện. Năm 2001, Tỉnh ủy Hà Giang đã ban hành Nghị quyết số
03-NQ/TU ngày 06/8/2001 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phân cấp, giao quyền
một số nội dung cho cấp huyện, thị xã. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi
cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - Quốc
phòng của huyện, đồng thời đặt ra yêu cầu nhiệm vụ và trọng trách mới đối với Phòng
Công thương huyện. Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng các cấp, tập thể cán bộ,
công chức của Phòng luôn nỗ lực cố gắng, nêu cao tinh thần đoàn kết chung sức đồng
lòng, phát huy sức mạnh và trí tuệ để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển của huyện Hoàng Su Phì, từng bước hoàn thành xuất sắc mọi trọng trách nhiệm vụ được giao.
Về lĩnh vực giao thông,
Phòng đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện tranh thủ được nguồn vốn của
Trung ương và của tỉnh để nâng cấp, bê tông hoá được 13 tuyến đường đi các xã với
tổng chiều dài 120 km. Huy động nội lực trong nhân dân mở mới được 168,32 km đường
loại B; mở đường 1,5 - 2,5 m được 227,15 km. Đến cuối năm 2010 toàn huyện có có
48% số xã có đường nhựa và đường bê tông đến trung tâm xã; 100% thôn bản có đường
giao thông xe cơ giới đến trung tâm thôn, trong đó có trên 50% số thôn có đường
ô tô đi được đến trung tâm thôn. Công tác duy tu bảo dưỡng, đảm bảo giao thông
được triển khai thực hiện, đặc biệt là tuyến tỉnh lộ 177 và các tuyến đường từ
huyện đi các xã đảm bảo thông suốt, kịp thời phục vụ cho nhân dân đi lại được
thuận lợi và vận chuyển hàng hoá, vật liệu phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Công tác xây dựng cơ bản cũng
có nhiều cố gắng, cùng với sự quan tâm đầu tư hỗ trợ của Nhà nước và của tỉnh,
Phòng đã tham mưu các chương trình, kế hoạch huy động nội lực với phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm, phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện và
các xã, thị trấn vận động các hộ gia đình hiến đất và đóng góp công sức để tham
gia xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Từ đó đã tạo bước đột phá về
phát triển kết cấu hạ tầng của huyện. Tại trung tâm huyện lỵ đã đầu tư xây dựng
và đưa vào sử dụng công trình trụ sở Huyện ủy, trụ sở Khối dân, trụ sở Hội đồng
nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện, Nhà thiếu nhi, Sân vận động trung tâm huyện,
Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đến năm 2010
toàn bộ các xã, trị trấn trong huyện đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình trụ sở
xã 02 tầng; 24/25 xã thị trấn có trạm xá 02 tầng; 21 trường tiểu học; 08 trường mầm non và
trường trung học cơ sở có nhà lớp học 02 tầng. Xây
dựng 53 nhà lưu trú, điểm trường tại các thôn quy mô cấp IV; 56 thôn có
nhà văn hoá kiêm trụ sở
thôn được xây dựng kiên cố, chiếm 28% trong tổng số 198 thôn trong toàn huyện.
Để tiếp tục phát huy nội lực cũng như tranh thủ tối đa
các nguồn lực của Trung ương, của tỉnh và các tổ chức, cá nhân, Phòng đã tham
mưu cho Đảng bộ, Chính quyền huyện xây dựng và triển khai phương án phân cấp quản
lý, cấp giấy phép xây dựng các công trình xây dựng cho UBND các xã, thị trấn. Đồng
thời xây dựng các cơ chế riêng của huyện như hỗ trợ 55 triệu đồng cho mỗi nhà
công vụ xã có quy mô xây 5 gian cấp 4; hỗ trợ 17 triệu đồng cho mỗi nhà gỗ toóc
xi 5 gian (vận dụng cho làm nhà của các Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp, nhà lưu
trú học sinh nội trú dân nuôi); hỗ
trợ san ủi mặt bằng với định mức 5 triệu đồng/mặt bằng với 200 m2 trở
lên; hỗ trợ 2 tấn xi măng/công trình vệ sinh đối với các hộ gia đình trong các làng
văn hoá du lịch. Nhờ đó, đến cuối năm 2010 toàn huyện đã có 25/25 xã thị trấn
có nhà công vụ; 11/25 hợp tác xã dịch vụ tổng hợp có trụ sở làm việc; san ủi được
6 mặt bằng với 1.200 m2; xây dựng được 45 công trình vệ sinh trong
các làng văn hoá du lịch cộng đồng để phục vụ khách du lịch.
Sau khi lĩnh vực thương mại, dịch vụ được chuyển giao
về Phòng Công thương quản lý, Phòng đã tích cực đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến
đầu tư, tham mưu xây dựng và triển khai các cơ chế khuyến khích phát triển về
thương mại, dịch vụ. Đến tháng 6/2010 toàn huyện có 07 đơn vị kinh doanh tập
thể, 379 hộ kinh doanh cá thể, 36 hợp tác xã. Ngoài ra còn có 18 chợ nông thôn
hoạt động ổn định, tổng doanh thu hàng năm đạt trên 50 tỷ đồng. Thị trường hàng
hóa bán lẻ, hoạt động trên địa bàn huyện cũng có mức tăng trưởng khá, năm 2010
tăng 122% so với năm 2005.
Một trong những thành tích
nổi bật của Phòng trong thời gian này đó là trong năm 2007 Phòng Công thương đã
tích cực phối hợp với Trung tâm Văn hóa thông tin Thể thao tham mưu cho Ủy ban
nhân dân huyện kế hoạch phối hợp với Sở Thương mại & Du lịch và Công ty du
lịch Khám phá Khánh Hòa tổ
chức thành công hội chợ xúc tiến du lịch tại Thông Nguyên từ ngày 19 -
21/10/2007 với 54 gian hàng. Đây cũng là Hội chợ du lịch đầu tiên của tỉnh Hà
Giang được tổ chức. Từ đó đã góp phần quảng bá mạnh mẽ những hình ảnh và tiềm
năng du lịch của huyện với đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước, giúp cho
lĩnh vực du lịch của huyện có nhiều khởi sắc trong những năm sau này.
Hoạt động Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp cũng có nhiều chuyển biến rõ
nét. Phòng đã tích cực tham mưu cho Đảng bộ và Chính quyền huyện xây dựng phương án về phát triển làng nghề giai
đoạn 2005 - 2010. Tổ chức khôi phục và phát triển được 2 làng nghề dệt thổ cẩm
tại xã Thông Nguyên và xã Hồ Thầu. Phát triển và mở rộng thương hiệu sản xuất
rượu thóc Nàng Đôn; phát triển các lò rèn, lò đúc, sản xuất ngói máng phục vụ
nhu cầu tiêu dùng tại chỗ cho nhân dân. Đưa vào hoạt động 02 dây chuyền chế
biến chè xanh chất lượng cao tại xã Thông Nguyên, Nậm Ty. Sản lượng chè chế
biến hàng năm của toàn huyện đạt trên 2.000 tấn. Bên cạnh đó, từ các nguồn vốn
đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II và các chương trình đầu tư khác đã kéo
điện cho 23 thôn, lắp đặt được 62 trạm hạ thế tại các xã, các thôn và cụm dân
cư, nâng tỷ lệ hộ được sử dụng điện lưới quốc gia của huyện lên 75%. Các ngành
công nghiệp khác như chế biến chè, chế biến dong giềng, sản xuất đồ mộc dân
dụng, khai thác vật liệu xây dựng cũng được Phòng tham mưu ban hành cơ chế
khuyến khích phát triển, góp phần quan trọng trong việc sản xuất, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm các mặt hàng nông lâm sản để nâng cao thu nhập cho nhân dân, đồng
thời đáp ứng yêu cầu sản xuất và phát triển cũng như đời sống sinh hoạt của
nhân dân các dân tộc trong huyện.
Chương V
TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG PHỤC
VỤ CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (GIAI ĐOẠN
2010 - 2021)
1. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ đắc lực
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn và xóa đói giảm nghèo trên
địa bàn huyện (giai đoạn 2010 - 2015)
Sau hơn 20
năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là sau 04 năm Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới, đưa nước ta hội nhập tích cực,
sâu rộng với khu vực và thế giới, đến năm 2010 tình hình kinh tế - xã hội của
đất nước có bước phát triển mạnh mẽ. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010
tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó lĩnh vực Công nghiệp và xây dựng tăng
7,7%, lĩnh vực dịch vụ tăng 7,52%. Công tác ứng dụng khoa học công nghệ trong nông
nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, giao thông, xây dựng có nhiều tiến bộ hơn so
với trước.
Kinh tế phát
triển, Đảng và Nhà nước đã tăng mức đầu tư cho lĩnh vực giao
thông, xây dựng cơ bản, chỉ tính riêng đầu tư cho khoa học công nghệ từ ngân sách Nhà nước đạt khoảng 2% tổng chi
ngân sách. Đây là những thuận lợi mang tính cơ bản đối với quá
trình thực hiện nhiệm vụ của huyện Hoàng Su Phì nói chung và Phòng Công thương nói riêng. Bên cạnh đó, từ năm 2010,
Trung ương Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách cùng các
giải pháp và nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội và Quốc phòng - an
ninh. Đặc biệt là tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI diễn ra từ
ngày 12 đến ngày 19/11/2011, Đảng ta đã Đề ra Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân
chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền
đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Với 03 đột
phá chiến lược gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách
hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn
kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 -
2020 của Đảng đã xác định các định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đến năm 2020 đó là:
(1): Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. (2): Phát triển
mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh. (3): Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững. (4): Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có
giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh. (5): Phát triển nhanh kết cấu
hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. (6): Phát triển hài hoà, bền vững các
vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới. (7): Phát triển toàn diện các lĩnh vực
văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. (8): Phát triển mạnh sự nghiệp
y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. (9): Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và
đào tạo. (10): Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững. (11): Bảo vệ và cải thiện chất
lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng,
chống thiên tai. (12): Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội của Đảng các cấp, ngày
08/4/2010 Đại hội Chi bộ Phòng Công thương lần thứ IV nhiệm kỳ 2010 - 2015 được
tổ chức với sự tham dự của 06 đảng viên. Với chủ đề: “Đoàn kết - Đổi mới, chất lượng - hiệu quả - phát triển - bền vững”,
Đại hội đã xác định các mục tiêu chủ yếu đến năm 2015:
1. Giá trị thu nhập ngành Thương mại - dịch vụ chiếm 35% công nghiệp - xây dựng chiếm
30%.
2. Phấn đấu đường
nhựa, đường bê tông đến trung tâm xã đạt 100%. Đường ô tô đến trung tâm thôn
bản đạt 100%.
3. 100% Nhà
văn hóa thôn bản được xây dựng kiên cố.
4. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
mỗi xã, thị trấn từ 3 thôn trở lên. Tiếp tục thực hiện quy hoạch mở rộng thị
trấn Vinh Quang; thị tứ Thông Nguyên, Nậm Dịch, Bản Máy và quy hoạch khu trung
tâm hành chính các xã.
5. 100% số thôn bản có điện lưới
Quốc gia. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện lưới Quốc gia đạt từ 90% trở lên.
6. Phấn đấu 100%
Đảng viên trong Chi bộ có trình độ Đại học.
7. 100% cán bộ đảng
viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chi bộ và các đoàn thể đạt trong sạch vững
mạnh.
8. Kết nạp đảng
viên mới mỗi năm từ 1- 2 đồng chí.
Ngay sau Đại hội, đội ngũ đảng viên và cán bộ công chức Phòng
Công thương đã từng bước cụ thể hóa Nghị
quyết của Đảng các cấp vào thực tiễn công tác của đơn vị. Đặc biệt là trên các lĩnh
vực Giao thông, Xây dựng, Thương mại, Dịch vụ và Khoa học công nghệ. Dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, tập thể lãnh đạo
và cán bộ công chức của Phòng đã tích cực phối hợp với các cơ quan, chuyên môn
của huyện, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn triển khai công tác quy hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển trung
tâm xã, cụm xã và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ
và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Tham mưu triển khai đẩy mạnh xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, từng vùng theo
các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn. Tham mưu đề xuất xây dựng
và triển khai các cơ chế phù hợp nhằm tạo môi trường thuận lợi gắn với xúc tiến
quảng bá, mời gọi đầu tư vào các hoạt động chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông lâm
nghiệp cho nhân dân. Triển khai thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho
người nghèo và các đối tượng chính sách; bố trí hợp lý dân cư, bảo đảm an toàn
ở những vùng sạt lở núi, ven suối.
Từ năm 2011, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 và được triển
khai đồng bộ trên phạm vi cả nước trong đó có huyện Hoàng Su Phì và được Ban
Thường vụ Huyện ủy cụ thể hóa bằng Nghị quyết chuyên đề về xây
dựng Nông thôn mới gắn với quy tụ dân cư giai đoạn 2010 - 2015. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân huyện cũng
ban hành Nghị quyết số 07/NQ-HĐND18 ngày 08/01/2015 về việc phê chuẩn Đề án
thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016
- 2020, đồng thời được Ủy ban nhân dân huyện cụ thể hóa bằng các kế hoạch hàng
năm, đảm bảo phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn của huyện cũng như
mỗi xã, thị trấn.
Là một trong
những cơ quan thành viên của Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng Nông thôn mới
của huyện, Phòng Công thương huyện Hoàng Su Phì đã xác định nhiệm vụ hàng đầu
của Phòng trong giai đoạn này là gắn việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được
giao của ngành với việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông
thôn mới trên địa bàn huyện; tham mưu xây dựng và triển khai các chương trình,
kế hoạch và hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện thắng lợi 05 tiêu chí nông
thôn mới được giao phụ trách gồm: Tiêu chí 1: Quy hoạch; tiêu chí 2: Giao
thông; tiêu chí 4: Điện; tiêu chí 7: Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn; tiêu
chí 9: Nhà ở dân cư.
Trước những
yêu cầu và nhiệm vụ mới, đồng thời để đáp ứng yêu cầu về công tác luân chuyển,
điều động và đề bạt cán bộ lãnh đạo quản lý của huyện, công tác tổ chức bộ máy
và cán bộ của Phòng trong thời gian này tiếp tục được kiện toàn. Tháng 9/2010
đồng chí Hoàng Văn Pao - Phó trưởng Phòng được điều động công tác về Phòng Tài
nguyên & Môi trường. Tháng 7/2011 đồng chí Lại Trần Hà được điều động công
tác về Trung tâm Tư vấn và Xúc tiến đầu tư tỉnh Hà Giang. Tháng 12/2011 đồng
chí Vương Văn Thắng được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng 4/2013
đồng chí Vương Thị Nga được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó trưởng Phòng. Tháng
11/2015 đồng chí Trần Quốc Huy - Trưởng Phòng Công thương được điều động đi
tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, Ủy ban nhân dân huyện đã bổ nhiệm
đồng chí Vương Văn Thắng giữ chức vụ Trưởng Phòng.
Về tổ chức
bộ máy, thực hiện Thông tư liên
tịch số 22/2015/TTLT-BCT-BNV ngày 30/6/2015 của Bộ Công thương, Bộ Nội vụ
về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về công thương thuộc ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, tháng
3/2015 Phòng Công thương được kiện toàn và đổi tên thành Phòng Kinh tế & Hạ
tầng theo Quyết định số 389/QĐ-UBND ngày 12/3/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Giang về việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Hà Giang. Theo đó, Phòng Kinh tế
và Hạ tầng là cơ
quan chuyên môn cấp huyện, chịu sự chỉ đạo và quản lý về
tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công
tác của UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của các
Sở Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Giang.
Cùng với kiện
toàn và đổi tên, Phòng Kinh tế & Hạ tầng cũng được tỉnh và huyện quan tâm
bổ sung biên chế. Đến cuối năm 2015 tổng số cán bộ công chức của Phòng có 08
đồng chí, trong đó có 02 đồng chí giữ chức vụ lãnh đạo và 06 công chức làm công
tác chuyên môn nghiệp vụ thuộc các lĩnh vực Công
thương; Khoa học và công nghệ; Xây dựng và Giao thông vận tải.
Song song với việc kiện toàn về tổ
chức bộ máy và biên chế, Chi bộ và các tổ chức đoàn thể của Phòng cũng được
kiện toàn và củng cố để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng cũng như
triển khai thực hiện các phong trào thi đua và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và
công tác xã hội của đơn vị. Tháng 11/2015 đồng chí Trần Quốc Huy - Bí thư Chi
bộ được điều động đi tăng cường tại Đảng ủy thị trấn Vinh Quang, đồng chí Vương
Văn Thắng được chỉ định giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Tại Đại hội Chi bộ Phòng
Công thương lần thứ V được tổ chức vào ngày 19/4/2015, đồng chí Vương Văn Thắng
tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư Chi bộ. Cũng từ năm 2010
các đồng chí Bí thư Chi bộ Trưởng Phòng Công Thương và sau đó là Phòng Kinh tế
& Hạ tầng đều được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, đó là một vinh dự,
trọng trách không nhỏ đối với đội ngũ đảng viên trong Chi bộ, từ đó giúp cho
Chi bộ cũng như Phòng Công thương được đóng góp nhiều hơn các ý kiến cũng như
tham gia tích cực hơn trong việc triển khai cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng vào thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện, đồng
thời là một trong những điều kiện tiên quyết để đảm bảo công tác lãnh đạo của Đảng
được thường xuyên và toàn diện trên mọi lĩnh vực của đơn vị.
Đội ngũ đảng viên
của Chi bộ luôn phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất, thực hiện tốt nguyên
tắc lãnh đạo “Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách”, gương mẫu trong việc thực hiện
nhiệm vụ được giao, coi trọng đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để xây dựng
Chi bộ ngày một vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ được giao. Chi bộ đã cụ thể hóa
thực hiện Đề án số 01-ĐA/TU, ngày 19/8/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đối với hoạt động của hệ thống chính trị
và chỉ thị 09 -CT/TU, ngày 08/11/2011 về "Đổi mới tác phong, lề lối làm việc
của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội; của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức trong thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh"; Đề cương
"nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và
nâng cao chất lượng đảng viên Đảng bộ Tỉnh Hà Giang giai đoạn 2011 - 2015"
đến mọi đảng viên và công chức để tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Hàng năm, Chi bộ và cơ quan Phòng Công thương
thường xuyên xây dựng và bổ sung quy chế hoạt động, thực hiện phân công nhiệm vụ
cho từng đồng chí cán bộ, đảng viên, đồng thời chấn chỉnh lề lối, tác phong làm
việc theo hướng chất lượng, hiệu quả. Chi bộ và Phòng Công thương cũng luôn
khuyến khích động viên đội ngũ đảng viên và cán bộ, công chức đẩy mạnh thực hiện
các phong trào thi đua do các cấp, ngành phát động, góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao của đơn vị. Đánh giá trên các lĩnh vực công tác của Phòng Công
thương trong 5 năm (2011 - 2015) cho thấy hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch được
giao cũng như các mục tiêu nhiệm vụ đã được xác định tại Nghị quyết Đại hội Chi
bộ Phòng Công thương lần thứ V đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Trên lĩnh vực Giao thông - Xây
dựng: Phòng Công thương đã tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện tranh thủ tối
đa các chương trình, dự án và các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh để
phát triển mạnh hệ thống giao thông và các công trình phúc lợi công
cộng từ
huyện đến các xã, thôn. Thường xuyên được quan tâm
đầu tư, nâng cấp, tu sửa, gắn với tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản, phát huy nội lực trong nhân dân theo phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đến thời
điểm 30/6/2015 toàn huyện đã có 22/25 xã có đường bê tông, đường
nhựa đến trung tâm xã tăng 12 xã so với năm 2010;
169/199 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn (mặt đường rộng 4,8m), tăng 50 thôn so với năm 2010. 100% số xã trong huyện có trụ sở làm việc 2 - 3 tầng, 177/199
thôn, tổ dân phố có nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, tăng 87 nhà văn hóa so
với năm 2010; 100% trạm y tế xây kiên cố. Bên cạnh đó, Phòng
cũng xây dựng phương án chủ động ứng phó với thiên tai, tích cực phối hợp với
Hạt 3 Giao thông để duy tu bảo dưỡng tuyến tỉnh lộ 177 và ứng cứu kịp thời khi có sự cố; hướng dẫn, đôn đốc các xã
bảo dưỡng tu sửa các tuyến đường từ huyện đi các xã và liên xã, đảm bảo thông
suốt, kịp thời phục vụ cho nhân dân đi lại được thuận lợi và vận chuyển hàng
hoá, vật liệu phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội của
huyện.
Năm 2012 Phòng đã tham mưu lập
phương án và xây dựng, đưa vào sử dụng bãi đỗ xe thị trấn Vinh Quang. Bên cạnh đó,
Phòng Công thương cũng tích cực tham mưu kế hoạch và bố trí nguồn lực để phấn
đấu thị trấn Vinh Quang, Thông Nguyên, Nậm Dịch trở thành đô thị miền núi, đến
năm 2015 đã hoàn thành việc quy hoạch và tổ chức lễ công nhận thị trấn Vinh Quang là đô thị loại V theo quyết
định phê duyệt của Tỉnh, các xã Thông Nguyên và Nậm Dịch đã đạt 11/20 tiêu chí
theo quy định đô thị miền núi. 100% số xã trong huyện có trụ sở làm việc
2 - 3 tầng, 177/199 thôn, tổ dân phố có nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, tăng
87 nhà văn hóa so với năm 2010; Hoàn thành quy hoạch và
đưa vào sử dụng bãi đỗ xe thị trấn Vinh Quang.
Lĩnh vực thủy lợi cũng có nhiều cố gắng. Phòng Công
thương đã tích cực tham mưu xây dựng kế hoạch
đầu tư nâng cấp, tu sửa hệ thống kênh, mương dẫn nước, cơ bản đáp ứng yêu cầu về
nước tưới cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Trong 5 năm
đã tiến hành kiên cố hóa được 57 công trình thủy lợi với tổng chiều dài 103,432
km. Khắc phục, tu sửa 68 công trình với chiều dài 48,686 km để kịp thời cung cấp
nước tưới phục vụ đắc lực hoạt động sản xuất nông nghiệp của huyện.
Một thành
tích đáng tự hào của đội ngũ cán bộ, công chức Phòng Công thương trong giai
đoạn này là với nhiệm vụ được giao phụ trách tiêu chí 05 tiêu chí thuộc Chương
trình xây dựng nông thôn mới, Phòng đã tham mưu xây dựng kế
hoạch, xác định các đầu điểm cần ưu tiên để bố trí nguồn vốn với tổng số 181.784
triệu đồng và tập trung hỗ trợ các xã trong việc khảo sát,
thiết kế kỹ thuật và giám sát chất lượng quá trình thi công các công trình
thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới. Trong 5 năm (2010 - 2015) toàn huyện
đã mở
mới nền đường và nâng cấp được 237,8 km đường giao thông đi các
xã và các thôn mặt đường rộng từ 2,5m đến 4,8 m (trong đó, mở mới được 58km, nâng cấp, mở
rộng được 179,8 km); Đổ bê tông đường trục thôn, liên thôn rộng từ 2,5m -
3,5 m được 78 km; đường nhóm hộ, nhánh hộ gia đình rộng 1,0 - 2,0m được 63 km; xây dựng 03 cầu tràn liên hợp, 01 nhà lưu trú
học sinh, 85 hội trường thôn, 02 nhà văn hóa xã, 03 nhà chợ nông thôn, 01 trụ
sở xã; tu sửa 01 nhà làm việc, 02 nhà lưu trú trạm y tế, nhà lưu trú học sinh;
hỗ trợ nhân dân xây dựng được 2.351 bể nước, 2.327 nhà tắm, 3.300 nhà vệ sinh,
di rời 333 chuồng gia súc ra xa nhà.
Hoạt
động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến. Phòng đã tham mưu xây dựng các cơ chế và áp dụng linh hoạt các chính sách
hiện hành để khuyến khích sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, nhất là lĩnh vực chế biến các sản
phẩm nông lâm sản. Mặc khác, Phòng Công thương huyện cũng tích cực kêu gọi
thu hút các tổ chức, cá nhân hỗ trợ triển khai các chương trình, dự án phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện. Nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh và các hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư máy móc, trang thiết bị, dây chuyền
sản xuất chế biến nông lâm sản. Qua đó làm tăng giá trị sản phẩm và kích thích
thị trường tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân. Tiêu biểu là các hợp tác xã chế
biến chè Phìn Hồ trà, hợp tác xã Chiến Hảo, hợp tác xã Hạnh Quang đã đầu tư mua
sắm trang bị các dây chuyền tiên tiến để chế biến chè. Năm 2015 đã phối hợp với Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội và các đơn vị liên quan triển khai thực hiện Dự án
phát triển làng nghề nấu rượu thóc Nàng Đôn, trong đó tập trung hỗ trợ dụng
cụ cho các hộ dân và chuyển giao công nghệ làm men lá, lắp đặt hệ thống chưng cất
rượu gián đoạn tại Hợp tác xã
dịch vụ tổng hợp của huyện.
Năm 2015 toàn
huyện có 5 hợp tác xã chế biến chè (HTX Chiến Hảo, Hạnh
Quang, Phìn Hồ, Thuận An, Hồ Thầu), 20 cơ sở chế biến chè quy mô hộ và nhóm
hộ, 353
máy chế biến chè mini. Nâng tổng
sản lượng
chè chế biến từ 2.000 tấn năm 2010 tăng lên 2.341 tấn vào năm 2015. Ngoài ra trên địa bàn
huyện còn có 01 cơ sở chế biến củ cải, 624 máy cày bừa,
4.048 máy chế biến lương thực, 347 xưởng sản xuất nông cụ, 09 xưởng cơ khí. Đến
năm 2015 đã có 165/199 thôn
trong toàn huyện có điện lưới quốc gia. Tỷ lệ hộ được sử dụng điện đạt 89%, tổng sản lượng điện thương phẩm bán ra đạt 10,1 triệu KW.
Hoạt động Thương mại - Dịch vụ từng bước phát triển
theo hướng tích cực đáp ứng nhu cầu dịch vụ trong nhân dân, Phòng đã phối hợp với
các ngành, Ủy ban nhân dân các xã triển khai thực hiện quy hoạch và đầu tư xây
dựng chợ nông thôn, trong đó đã xây dựng mới 05 nhà chợ bán kiên cố tại 05 xã gồm
Túng Sán, Tân Tiến, Bản Phùng, Thàng Tín, thị trấn Vinh Quang, nâng tổng số chợ
của huyện duy trì hoạt động có hiệu quả là 16 chợ. Tạo điều
kiện thuận lợi cho các hộ đầu tư, buôn bán, kinh doanh trên địa bàn huyện theo
luật định.
Năm 2015 toàn huyện có 39 doanh nghiệp, 45 hợp tác xã và 379 hộ kinh doanh. Tổng mức bán lẻ lưu
chuyển hàng hóa đạt 841,1 tỷ đồng. Doanh thu của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước
và các hợp tác xã đạt 521,084 tỷ đồng. Gắn với đó thực hiện
tốt công tác quản lý thị trường, kịp thời xử lý các hành vi buôn bán hàng giả,
hàng nhái, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại. Trong 5 năm đã phát hiện
xử lý 253 vụ vi phạm các quy định trong kinh doanh, số tiền phạt thu nộp vào
ngân sách Nhà nước 315,15 triệu đồng, tịch
thu tiêu hủy hàng hóa vi phạm trị giá 26 triệu đồng. Nhờ đó, hàng hóa bán tại các hộ kinh doanh tư nhân và tại các chợ ngày càng đa dạng,
phong phú và đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của
nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa
bàn huyện.
Trong giai đoạn các năm 2010 - 2015 Phòng Công thương
cũng tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tổ chức các hoạt động xúc tiến
thương mại thông qua việc phối hợp với Trung tâm Khuyến công - Xúc tiến thương
mại tỉnh tổ chức các hội chợ Văn hóa - Thương mại, Hội chợ Thương mại - Du lịch
theo định kỳ hàng năm tại trung tâm huyện lỵ và xã Thông Nguyên, đặc biệt là để
hưởng ứng Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", với
chức năng nhiệm vụ được giao từ năm 2013 Phòng Công thương đã chủ động tham mưu
đề xuất xây dựng kế hoạch, phối hợp với Sở Công thương tỉnh Hà Giang tổ
chức thành công 08 phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn, tạo được dư luận tốt
trong nhân dân đối với hàng hóa sản xuất trong nước.
Mặt khác, Phòng cũng tích cực tham gia các cuộc triển
lãm, giới thiệu sản phẩm, các mặt hàng nông lâm sản của địa phương tại các kỳ
cuộc do tỉnh và Trung ương tổ chức nhằm đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng nông lâm
sản, các sản phẩm đặc trưng của huyện đến với đông đảo khách hàng trong và
ngoài nước. Trong đó đáng chú ý là đợt tham gia triển lãm giới thiệu sản phẩm
trong dịp Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 (IPU-132) vào
cuối tháng 3 đến đầu tháng tháng 4/2015 tại Hà Nội. Cũng từ các hoạt động này,
nhiều mặt hàng thế mạnh của địa phương như chè xanh, thóc gạo, rượu Nàng Đôn,
dược liệu và các sản phẩm ẩm thực địa phương đã tiếp cận với thị trường và được
đông đảo khách hàng chấp nhận, một số sản phẩm chè xanh của Hợp tác xã chế biến
chè Phìn Hồ đã được xuất khẩu sang Đài Loan và một số nước khu vực Châu Âu.
Hoạt động khoa học, công nghệ
có nhiều chuyển biến tích cực. Với vai trò là cơ quan Thường trực của Hội đồng
Khoa học & Công nghệ của huyện, Phòng đã tham mưu tổ chức thẩm định các đề
tài khoa học cấp huyện và trình các cơ quan chuyên môn của tỉnh thẩm định, nghiệm
thu các đề tài khoa học cấp tỉnh. Đồng thời tiếp nhận và triển khai ứng dụng
các đề tài khoa học đã được các cấp có thẩm quyền thẩm định và công nhận. Nhiều
đề tài đã được triển khai thành
các dự án, mô hình và đem lại hiệu quả cao như Đề tài khôi phục làng nghề dệt
vải truyền thống của người La Chí, xã Bản Phùng; mô hình thâm canh tổng hợp
nhằm tăng năng suất, hiệu quả trong sản xuất lúa ĐS3 với diện tích 10 ha tại
các xã Nam Sơn, Sán Xả Hồ, mô hình trồng
ngô che phủ ni lông với tổng diện tích 14,3 ha tại 21 xã, mô hình nuôi dê sinh
sản tại thôn Nậm Ty xã Nậm Ty; mô hình nuôi cá tầm tại thôn Tân Minh xã Nậm
Ty.v.v. Bên cạnh đó, Phòng cũng chủ động phối hợp
với các cơ quan chuyên môn của huyện như Phòng Văn hóa & Thông tin, Phòng
Tài chính - Kế hoạch, Văn phòng HĐND -
UBND huyện đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ đời sống xã hội và
nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, chất lượng hoạt động
công vụ trong các cơ quan, đơn vị từ huyện đến xã, gắn với thực hiện cải cách
hành chính của bộ phận giao dịch "Một cửa" và trang
thông tin điện tử của huyện. Từ đó từng bước
góp phần nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý điều hành của Cấp ủy, Chính
quyền từ huyện đến các xã, thị trấn.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng
kết cấu hạ tầng, phát triển Công nghiệp,
Thương mại - Dịch vụ và Khoa học công nghệ, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng
phát triển kinh tế xã hội và Chương trình Xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn
huyện (giai đoạn 2015 - 2020)
Năm 2015 là thời điểm diễn ra đại hội Đảng các cấp nhiệm
kỳ 2015 - 2020. Thực hiện Kế hoạch
số 154-KH/HU ngày 17/9/2014 của Ban Thường vụ Huyện ủy và Hướng dẫn số 15-HD/BTC ngày 17/9/2014 của Ban Tổ chức Huyện ủy Hoàng Su Phì về
việc hướng dẫn chuẩn bị nội dung, văn kiện và nhân sự Đại hội đảng bộ các cấp,
nhiệm kỳ 2015 - 2020; Chỉ thị
số 16 - CT/HU, ngày 23/7/2014 của
Ban Thường vụ Huyện ủy về Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà
Giang lần thứ XVI. Tháng 5/2015 Chi bộ
Phòng Công thương đã tổ chức Đại hội lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 với sự
tham dự của 07 đảng viên. Đồng chí Vương Văn Thắng được bầu giữ chức vụ Bí thư
Chi bộ.
Dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ XX và định hướng của các Cấp
ủy Đảng, Đại hội
Chi bộ Phòng Công thương lần thứ V nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra một số mục
tiêu, nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2015 - 2020, đó là: (1): Đến năm
2020, 25/25
xã có đường bê tông/đường
nhựa đến trung tâm xã,
100% số thôn có nhà Văn hóa xây dựng bán kiên cố, đường
ô tô đến 100% số thôn;
(2): Giá trị
sản xuất công nghiệp trên địa bàn đạt 103 tỷ đồng vào năm 2020; (3): Tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 1.710 tỷ đồng;
(4): Tỷ lệ
hộ dân cư dùng điện sinh hoạt chiếm 98% tổng số hộ; (5): Triển khai thực hiện có hiệu quả các Chương
trình trọng tâm của huyện giai đoạn 2015 - 2020 thuộc lĩnh vực ngành phụ trách
(Chương trình phát triển thương mại biên giới và dịch vụ nông thôn; Chương
trình quy tụ dân cư; Chương trình xây dựng nông thôn mới); (6): hàng năm 100% đảng
viên trong Chi bộ hoàn
thành chức trách nhiệm vụ, đến hết năm 2020 kết nạp mới từ 2 - 3 đảng viên.
Ngay
sau Đại hội, Chi bộ và Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã xây dựng Chương trình
hành động, phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí đảng viên và cán bộ chuyên môn.
Chủ động phối hợp với các xã, thị trấn, các cơ quan chuyên môn của huyện nhằm cụ
thể hóa Nghị quyết của Đảng các cấp vào thực tiễn nhiệm vụ của Chi bộ và của
Phòng. Trong hoàn cảnh là địa phương vùng cao biên giới còn nhiều khó khăn cả về
điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã tích cực
tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền huyện xây dựng các chương trình, kế hoạch và đề
xuất triển khai các cơ chế trong các lĩnh vực được phân công phụ trách để đảm bảo
sát với thực tiễn, từng bước khắc phục những khó khăn về nguồn vốn đầu tư, cơ chế vận hành thực hiện dự án, công tác giải phóng mặt
bằng để tăng cường mọi nguồn lực đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng.
Dưới sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Cấp ủy, Chính quyền huyện và các Sở Giao thông vận
tải, Xây dựng, Công thương, Khoa học và Công nghệ tỉnh Hà Giang cùng các Sở,
ngành liên quan của tỉnh, sau 05 năm, hầu
hết các chỉ tiêu kế hoạch được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Chi bộ Phòng Công
thương lần thứ V nhiệm kỳ 2015 - 2020 đều hoàn thành, nhiều chỉ tiêu hoàn thành
vượt mức.
Trên lĩnh vực xây dựng,
Phòng Kinh tế & Hạ tầng đặc biệt quan tâm công tác quản lý xây dựng cơ bản
và giám sát chất lượng các công trình xây dựng để đảm bảo thực hiện theo đúng
quy định của Pháp luật. Thường xuyên phối hợp với các chủ đầu tư tiến hành kiểm
tra, đôn đốc tiến độ, chất lượng thi công các công trình. Trong 5 năm (2015 -
2020) đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng 21 công trình Nhà
văn hóa kiêm trụ sở thôn. Ngoài ra còn hỗ trợ UBND các xã trong công tác hướng
dẫn, lập hồ sơ và triển khai thực hiện các công trình nông thôn mới, các công
trình của các tổ chức các nhân hỗ trợ, các dự án hỗ trợ nhà ở chính sách.
Với chức
năng nhiệm vụ được giao, Phòng Kinh tế & Hạ tầng tiếp tục phối hợp với các
cơ quan, các địa phương triển khai thực hiện tốt công tác cấp phép và quản lý
xây dựng sau cấp phép xây dựng theo quy định, nhất là việc thực hiện quy chế phối
hợp quản lý trật tự xây dựng, cấp phép xây dựng và quản lý đất đai trên địa bàn
thị trấn Vinh Quang. Trong 5 năm đã thẩm định và tham mưu ra quyết định cấp 244
giấy phép cho các công trình xây dựng trên địa bàn huyện, trong đó cấp cho nhà ở
riêng lẻ 239 giấy phép; cấp cho dự án xây dựng 05 giấy phép. Mặt khác, Phòng
cũng thực hiện tốt công tác thẩm tra,
thẩm định các công trình, dự án theo đúng quy định của pháp luật và theo phân cấp
của UBND tỉnh, trong đó đã thẩm định được 266 đầu điểm công trình, bao gồm
công trình nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, các công trình xây dựng nông thôn mới,
công trình nhà nước và nhân dân cùng làm do UBND huyện quyết định đầu tư.
Công tác quy hoạch và
quản lý quy hoạch xây dựng luôn được Phòng triển khai thực hiện có hiệu quả. Việc
quản lý, triển khai thực hiện quy hoạch Đô thị, quy hoạch chi tiết xây dựng và
quy hoạch xây dựng Nông thôn mới theo đúng theo quy định của pháp luật, tạo cơ
sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch xây dựng cơ
bản. Từ đó góp phần tạo điều kiện cho công tác xây dựng, phát triển kết cấu hạ
tầng tại các xã, thị trấn được quy củ, hiệu quả và bền vững.
Lĩnh vực Giao thông vận tải có nhiều tiến bộ. Phòng
Kinh tế & Hạ tầng tiếp tục tham mưu đẩy mạnh việc phân cấp cho các xã thực
hiện công tác duy tu, bảo dưỡng các đường do huyện quản lý với tổng chiều dài
960,1 km. Trong đó đường huyện có tổng chiều dài 238,7 km và đường xã có 721,4
km. Kịp thời tổ chức khắc phục hậu quả lụt bão, bảo đảm giao thông các tuyến đường
do huyện quản lý được thông suốt, không để tình trạng ách tắc về giao thông.
Bên cạnh đó, hàng năm Phòng đã tham mưu cho UBND huyện
ban hành các Kế hoạch phát động phong trào nâng cấp, mở mới các tuyến đường
giao thông nông thôn tại các xã trên địa bàn huyện kết hợp việc đầu tư xây dựng
bằng 100% vốn ngân sách Nhà nước và đầu tư thực hiện theo cơ chế Nhà nước và
nhân dân cùng làm. Kết quả trong 5 năm (2015 - 2020) đã thực hiện nâng cấp, mở
mới được 268 km đường giao thông nông thôn; kết hợp với Chương trình xây dựng
Nông thôn mới đổ được 178 km đường bê tông giao thôn, trong đó loại đường 2,5m
đến 3,5m được 132 km; loại đường 1,0m đến 2,0m được 47 km. Đến cuối năm 2020 toàn
bộ các xã, thị trấn trong huyện đã có đường nhựa hoặc đường bê tông đến trung
tâm; 92% số thôn có đường xe cơ giới đến trung tâm thôn.
Lĩnh vực Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển khá, đảm bảo phục vụ và đáp ứng tốt nhu
cầu tiêu dùng tại chỗ của địa phương cũng như góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm đối với các mặt hàng nông lâm sản của huyện. Đến cuối năm 2020 toàn huyện
có 03 cơ sở sản xuất cơ khí; 03 cơ sở chế biến gỗ; hơn 2.000 máy xay sát hộ gia
đình; 06 hợp tác xã chế biến chè; trên 100 cơ sở chế biến chè quy mô hộ gia
đình, sản lượng chè qua chế biến của toàn huyện đạt trên 2.746,3 tấn/năm trị
giá trên 500 tỷ đồng; Sản xuất rượu thóc của Hợp tác xã rượu thóc Nàng Đôn đạt
bình quân từ 85 nghìn lít/năm trị giá trên 6,3 tỷ đồng; 09 cơ sở sản xuất gạch
không nung (gạch bê tông) hộ kinh doanh, sản lượng bình quân trên năm đạt 3,0
triệu viên.
Hoạt động Thương mại -
Dịch vụ từng bước phát triển theo hướng tích cực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nhân dân. Đến cuối năm 2020 toàn huyện có 31 doanh nghiệp, 24 hợp tác xã
và 1.140 hộ kinh doanh trong lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa theo lũy kế đạt trên 1.854,7 tỷ đồng. Bên cạnh đó hệ thống chợ nông thôn
cũng được quan tâm phát triển mạnh. Toàn huyện có tổng số 25 chợ tăng 05 chợ so
với năm 2015, gắn với đó là việc tăng cường tổ chức các phiên chợ đưa hàng Việt
về nông thôn để tăng cường giao thương, trao đổi hàng hóa trong nhân dân.
Hoạt động xúc tiến
thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều sản
phẩm hàng hóa đặc trưng của huyện đã được Phòng Kinh tế & Hạ tầng lựa chọn
để tổ chức tham gia các gian hàng trưng bày giới thiệu sản phẩm của địa phương
tại các kỳ cuộc hội nghị, hội chợ, các sự kiện trong tỉnh và một số địa
phương như Hà Nội, Sa Pa, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang. Xây dựng được 02
gian hàng giới thiệu sản phẩm tại trung tâm huyện và cổng trời km17 và một số
gian hàng trưng bày trên địa bàn các xã. Gắn với đó là việc đẩy mạnh kết nối
giao thương, tìm kiếm thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa của
huyện. Từ việc đẩy mạnh xây dựng thương hiệu và xúc tiến quảng bá nhiều sản
phẩm của huyện đã có thương hiệu và có thị trường tiêu thụ ổn định như: rượu
thóc Nàng Đôn, các sản phẩm trà, mận máu, mật ong, thảo quả đỏ,...
Lĩnh
vực Khoa học - Công nghệ cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Phòng đã chủ động
tham mưu cho UBND huyện xây dựng kế hoạch thực hiện theo từng giai đoạn, trong
đó lựa chọn các lĩnh vực để thực hiện đột phá về ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất như: Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý Nhà nước;
cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện chương trình thụ tinh nhân
tạo cho đàn bò; trao đổi, liên kết với các đơn vị để tư vấn, chuyển giao công
nghệ trong sản xuất nông nghiệp và cây ăn quả; xây dựng mỗi xã một sản phẩm
theo chương trình OCOP… Kết quả, đã phối hợp triển khai thực hiện 01 đề
tài cấp bộ, 01 đề tài cấp tỉnh, phục tráng, đưa vào thực nghiệm các
giống lúa (DS1, DS2, KN....) và một số loại cây trồng có chất lượng và giá trị
cao. Đến năm 2020 đã có 02 sản phẩm của huyện nằm trong vùng bảo hộ chỉ dẫn
địa lý gồm chè, thịt bò. Truy xuất nguồn gốc sản phẩm và được cấp giấy
chứng nhận bảo hộ 02 sản phẩm là thảo quả, đậu tương. Có 8 sản phẩm
OCOP đã được đánh giá xếp hạng cấp tỉnh và 02 sản phẩm đạt tiêu
chuẩn cấp quốc gia.
Công tác ứng dụng công
nghệ thông tin trong giải quyết công việc hành chính tiếp tục được Phòng Kinh
tế & Hạ tầng phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện và UBND các xã thị
trấn đẩy mạnh thực hiện thông qua việc sử dụng hòm thư công vụ điện tử; chứng
thư số; xử lý văn bản trên hệ thống VNPT - Ioffice; sử dụng dịch vụ điện tử một
cửa liên thông; ứng dụng phòng họp không giấy tờ Ecabinet, sử dụng mạng xã hội
(face book, zalo) để trao đổi thông tin điều hành giữa các cơ quan của huyện,
giữa huyện với xã và trong các xã được thường xuyên hàng ngày, hàng giờ. Từ đó
đã góp phần giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo điều kiện tốt về môi trường
làm việc cho cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
Có thể nói, để đạt
được những kết quả quan trọng như trên không thể không kể đến công tác củng cố,
xây dựng bộ máy và tổ chức cán bộ. Trong thời gian này, đội ngũ cán bộ công
chức, nhất là những vị trí lãnh đạo tiếp tục được điều động, đề bạt và bổ nhiệm
theo đúng quy hoạch để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành cũng như công tác cán
bộ của huyện.
Tháng 5/2016 đồng chí Lò Văn Chinh được bổ nhiệm chức
vụ Phó trưởng Phòng Kinh tế & Hạ tầng. Tháng 11/2016 đồng chí Vương Văn
Thắng được điều động về Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện và
giữ chức vụ Chánh Văn phòng, Ủy ban nhân dân huyện đã điều
động và bổ nhiệm đồng chí Hoàng Đăng Thành - Giám đốc Ban quản lý Dự án các
công trình xây dựng giữ chức vụ Trưởng Phòng thay đồng chí Vương Văn Thắng. Tháng
7/2017 đồng chí Vương Thị Nga chuyển công tác về Ban Kinh tế Xã hội - Hội đồng
nhân dân huyện. Tháng 11/2017 đồng chí Hoàng Đăng Thành lâm bệnh nặng và từ
trần, đến tháng 01/2018 đồng chí Vương Văn Thắng - Chánh Văn phòng HĐND - UBND
huyện được điều động công tác về Phòng và được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng
Phòng. Đến tháng 9/2018 đồng chí Trần Trung Sơn được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó
trưởng Phòng.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được triển khai
theo đúng kế hoạch và phương án đã được cấp trên phê duyệt nhằm từng bước chuẩn
hóa cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến cuối năm
2020 Phòng Kinh tế & Hạ tầng có tổng số 09 cán bộ trong chỉ tiêu biên chế và
02 đồng chí là cán bộ hợp đồng. Về trình độ chuyên môn toàn bộ các cán bộ, công
chức đều có trình độ văn hóa 12/12 và trình độ chuyên môn đại học. Về chính trị
có 02 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị, 03 đồng chí trình độ trung
cấp và 01 đồng chí trình độ sơ cấp.
Song song với
việc kiện toàn về tổ chức bộ máy của cơ quan chuyên môn, Chi bộ Đảng của đơn vị cũng được kiện toàn để đảm bảo công
tác lãnh đạo toàn diện của Đảng. Sau khi đồng chí Vương Văn Thắng được điều
động về Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện vào tháng 11/2016,
Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ định đồng chí Hoàng Đăng Thành giữ chức vụ Bí thư
Chi bộ. Tháng 01/2018 đồng chí Vương Văn Thắng - Chánh Văn phòng HĐND - UBND
huyện được điều động công tác về Phòng Kinh tế & Hạ tầng và được bổ nhiệm giữ
chức vụ Trưởng Phòng, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ định đồng chí Vương Văn
Thắng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ.
Năm 2020 Chi
bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng có tổng số 07 đảng viên, chiếm tỷ lệ 77,8% trong
tổng số 09 cán bộ công chức của đơn vị, trong đó dân tộc Nùng có 01 đảng viên,
dân tộc Dao 01 đảng viên, dân tộc Cao lan có 01 đảng viên, dân tộc Kinh 01 đảng
viên, dân tộc Tày 03 đảng viên.
Để nâng cao hiệu quả công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, Chi bộ đặc biệt quan tâm công tác bồi dưỡng, giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ đảng viên trong đơn vị. Thường xuyên quán triệt học
tập Nghị quyết TW6, TW7 (khóa XI), Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, quy định 47
của Bộ chính trị về những điều đảng viên không được làm và Chỉ thị số 05-CT/TW
của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức
Hồ Chí Minh”. Thường xuyên gắn nội dung “Học tập và làm theo phong cách,
đạo đức Hồ Chí Minh” vào sinh hoạt chi bộ định kỳ. Không ngừng đổi mới công tác
sinh hoạt chi bộ theo hướng dẫn của Ban Tổ chức Huyện ủy.
Chi bộ chú trọng công tác xây
dựng nghị quyết, thường xuyên quán triệt và triển khai các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng cấp trên. Trong 05 năm (2015 - 2020) Chi bộ và cơ quan Phòng Kinh tế
& Hạ tầng đã chủ động tham mưu với Cấp ủy, Chính quyền địa phương ban hành 02
Nghị quyết chuyên đề, 10 phương án, 14 kế hoạch, 68 văn bản chỉ đạo, 172 quyết
định, 194 báo cáo thuộc các lĩnh vực Giao thông vận tải, Xây dựng, Công thương,
Khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, trong 5 năm Chi bộ cũng đã xây dựng và ban
hành được 05 Nghị quyết chuyên đề, 03 nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, 02
chương trình hành động; Cơ quan Phòng Kinh tế & Hạ tầng ban hành được 26 kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đảm bảo sát với thực tiễn và phù hợp với
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của huyện và các cơ quan, ngành cấp trên. Chủ
động phối hợp với các cơ quan chuyên môn của huyện, các cấp ủy, chính quyền cơ
sở triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tham
gia thực hiện nhiệm vụ của ngành.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ,
các tổ chức đoàn thể của Phòng kinh tế & Hạ tầng như Công đoàn, Đoàn thanh
niên cũng thường xuyên được kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động, giữ vai
trò nòng cốt trong việc phát động và hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước.
Nổi bật là việc phối hợp với Sở Công thương tổ chức các hoạt động giao lưu,
biểu diễn văn hóa văn nghệ phục vụ nhân dân tại xã được phân công phụ trách
giúp đỡ; tham gia các phong trào xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng cơ quan,
đơn vị văn hóa văn minh; tham gia đóng góp quỹ Vì người nghèo, Quỹ chung tay
xây dựng Nông thôn mới, Quỹ mái ấm công đoàn. Bình quân mỗi năm tập thể cán bộ,
công chức, người lao động của Phòng đã tham gia đóng góp ủng hộ từ 10 - 13
triệu đồng.
Phát huy những thành tích to
lớn đã đạt được trong giai đoạn các năm trước đây, ngày 06/5/2020 Chi bộ Phòng
Kinh tế & Hạ tầng đã tổ chức Đại hội Chi bộ lần thứ VI nhiệm kỳ 2020 - 2025
với sự tham dự của 07 đảng viên. Đại hội đã bầu đồng chí
Vương Văn Thắng giữ chức vụ Bí thư Chi bộ, đồng chí Lò Văn Chinh giữ chức vụ
Phó Bí thư Chi bộ.
Với chủ đề: Nâng cao năng lực
lãnh đạo, đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, phát huy sức mạnh tập thể xây dựng Chi bộ Phòng kinh tế và Hạ tầng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu chủ
yếu phấn đấu đến năm 2025: (1): 70% số thôn bản có đường ô tô được cứng hóa đến
trung tâm thôn; (2): 100% thôn bản được kéo điện lưới quốc gia; (3): 99% số hộ
gia đình được sử dụng điện lưới quốc gia; (4): Sản lượng điện thương phẩm đạt
trên 15 triệu KWh; (5): Duy trì, nâng cấp các nhà hội trường thôn xây dựng kiên
cố đạt 100%; (6): Tỷ lệ hộ dân trong đô thị được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh:
95%; (7): Chuyển đổi mô hình quản lý, kinh doanh khai thác chợ từ 1 đến 2 chợ;
(8): 90% đảng viên trong chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; kết nạp đảng
viên mới từ 01 đến 02 đồng chí. Bên cạnh đó, Chi bộ cũng đề ra Định hướng đến
năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 đó là: Đẩy mạnh thu hút đầu tư, mở rộng không
gian, xây dựng thị trấn Vinh Quang đạt đô thị loại IV, trung tâm xã Thông
nguyên đạt đô thị loại V; thu hút đầu tư xây dựng cụm công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp gắn với chợ đầu mối km38 tỉnh lộ 177 xã Nậm Ty. Thu hút đầu tư các
dự án điện năng lượng tái tạo phục vụ vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới.
Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực thi công vụ và đồi sống của nhân
dân. 100% số thôn bản có đường ô tô được cứng hóa đến trung tâm thôn.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Chi
bộ Phòng Kinh tế & Hạ tầng lần thứ
VI và các Nghị quyết của Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, ngay sau đại hội,
Chi bộ và cơ quan Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã nhanh chóng triển khai quán
triệt, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn công tác, đồng thời xây dựng
Chương trình hành động và các kế hoạch, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện
trong các lĩnh vực ngành được phân công phụ trách.
Có thể khẳng định, sau hơn 30 năm (1986 - 2020) thực
hiện nhiệm vụ xây dựng phát
triển kết cấu hạ tầng phục vụ công cuộc đổi
mới của đất nước, nhất là trong giai đoạn cả nước nói chung và huyện Hoàng Su
Phì nói riêng tập trung mọi nguồn lực cho việc thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ,
Chính quyền huyện Hoàng Su Phì, sự chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ trong các lĩnh vực quản lý
nhà nước của các Sở Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Sở Khoa học và
Công nghệ, Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội, kịp
thời vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tham mưu xây dựng các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch các cơ chế, biện
pháp và giải pháp trong lĩnh vực được phân công phụ trách, đảm bảo sát, đúng với
tình hình thực tiễn của địa phương. Qua đó hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước
được hoàn thiện, công nghiệp; thương mại và dịch vụ có bước phát triển mạnh;
các tiến bộ khoa học công nghệ không ngừng được áp dụng vào thực tiễn đã làm
chuyển biến về nhận thức, tư duy lao động sản xuất của nhân dân, góp phần nâng
cao năng suất, chất lượng các sản phẩm nông lâm nghiệp và nâng cao thu nhập cho
nhân dân.
Những cố gắng đó của tập thể cán bộ, công chức Phòng
Kinh tế & Hạ tầng đã góp phần quan trọng trong việc làm thay đổi về cơ bản
diện mạo của huyện Hoàng Su Phì ngày một giàu mạnh, phát triển và văn minh. Với những kết quả đã đạt được, Chi bộ và
Phòng Kinh tế & Hạ tầng luôn tự hào vì đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp
phát triển bền vững của huyện Hoàng Su Phì.
KẾT LUẬN
Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện
Hoàng Su Phì kể từ khi các cơ quan tiền thân là Phòng Giao thông và Phòng Xây dựng được
thành lập vào năm 1955, trải qua 67 năm trưởng
thành và phát triển (1955 - 2020), dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính
quyền các cấp với nhiều giai đoạn cách mạng các thế hệ cán bộ, công chức của
Phòng đã vượt qua mọi khó khăn thử thách của một huyện miền núi vùng sâu, vùng
xa khu vực biên giới, tích cực làm tốt công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền
tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh và phát huy tối đa nội
lực để từng bước đẩy mạnh các hoạt động xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng,
tăng cường áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ thuật vào thực tiễn của
địa phương. Kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và địa phương mà
các cấp ủy, chính quyền tin tưởng giao phó.
Trong
những ngày đầu mới thành lập, điều kiện kinh tế xã hội của huyện Hoàng Su Phì khi
đó vô cùng khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hầu như không
có gì, tỷ lệ người dân mù chữ chiếm tới trên 90% dân số trong khi đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong huyện cực kỳ khó khăn do ảnh
hưởng của chế độ thực dân phong kiến với chính sách “Ngu dân” để dễ bề cai quản,
thêm vào đó giai đoạn này thực dân Pháp và bọn Thổ phỉ đẩy mạnh chống phá phong
trào cách mạng nói chung và sự nghiệp phát triển của huyện Hoàng Su Phì nói
riêng. Nhưng dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền, đội ngũ cán bộ
các thế hệ của Phòng Kinh tế & Hạ tầng đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết một lòng
vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách để từng bước đáp ứng được yêu cầu cấp thiết
của huyện về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Góp phần tạo dựng
lên một diện mạo hoàn toàn mới của huyện Hoàng Su Phì từ một địa phương nghèo
vùng sâu vùng xa của tỉnh Hà Giang đã có bước chuyển mình vững chắc và toàn diện
trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội, đời sống của nhân dân
không ngừng được nâng cao về mọi mặt, cùng với cả nước vững bước đi nên trên
con đường đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trong suốt chặng đường 67 năm phấn đấu, trưởng thành và phát triển, có thể
điểm qua một số dấu mốc quan trọng của Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện đó là:
Từ chỗ cơ sở vật chất, hạ tầng
kỹ thuật hầu như không có gì thì đến năm 1964 huyện đã có đường ô tô nối liền Quốc lộ
2 đến trung tâm huyện lỵ và huyện Xín Mần. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới
đội ngũ cán bộ của Phòng Giao thông Vận tải, Phòng Xây dựng đã tham mưu xây dựng
phương án sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, huy động dân công hỏa tuyến
tập trung xây dựng hệ thống hầm hào, công sự, mở các tuyến đường và tải đạn dược,
lương thực, thực phẩm lên chốt để phục vụ bộ đội chiến đấu.
Từ năm 1991 sau khi tỉnh Hà Giang được tái lập, với tinh thần năng động,
sáng tạo, đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiền thân của Phòng Kinh tế & Hạ tầng
đã tích cực tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền tranh thủ sự quan tâm đầu tư của Đảng,
Nhà nước và tỉnh Hà Giang, đồng thời tăng cường phát huy nội lực với phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển các công trình phúc lợi công cộng
như điện, đường, trường học, trạm xá... đến hết
năm 2000, toàn bộ các xã trong huyện Hoàng Su Phì đã có đường ô tô đến các
trung tâm xã. Đến cuối năm 2010 toàn huyện có 100% xã, thị trấn có đường ô tô đến trung
tâm, trong đó có 48% xã có đường nhựa và đường bê tông; 100% thôn bản có đường
giao thông xe cơ giới đến trung tâm thôn, trong đó có trên 50% số thôn có đường
ô tô đi được đến trung tâm thôn; toàn bộ các xã, trị trấn trong huyện đã được đầu
tư xây dựng và đưa vào sử dụng công trình trụ sở xã 02 tầng; 24/25 xã thị trấn
có trạm xá 02 tầng. Đến năm 2020 toàn bộ các xã, thị trấn trong huyện đã có đường
nhựa hoặc đường bê tông đến trung tâm; 92% số thôn có đường xe cơ giới đến
trung tâm thôn, 198/199 thôn, tổ dân phố có Nhà văn hóa kiêm hội trường.
Lĩnh vực Công nghiệp, Thương mại,
Dịch vụ cũng có nhiều bước tiến vượt bậc. Vượt qua những khó khăn bất lợi của một
địa phương vùng sâu, vùng xa, các thế hệ cán bộ của Phòng đã linh hoạt, sáng tạo,
biến khó khăn thành cơ hội phát triển. Tham mưu đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế
biến, nâng cao chất lượng cho các mặt hàng nông lâm sản, nhất là các sản phẩm
thế mạnh của địa phương như chè shan tuyết, thóc gạo, dược liệu... gắn với đó
là việc tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại để tạo chuỗi giá
trị, từ đó tạo dựng thương hiệu, nâng cao được giá trị các sản phẩm nông lâm
nghiệp của huyện. Nhiều sản phẩm đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Kế thừa
và phát huy những truyền thống tốt đẹp qua 67 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành, Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì đã đúc kết một số bài học kinh nghiệm quý báu để các thế hệ
cán bộ, công chức tiếp tục có những cố gắng nỗ lực, đóng
góp cho sự
phát triển của huyện đó là:
1. Coi trọng việc quán
triệt sâu sắc và kịp thời triển khai cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao
Thực hiện nghiêm
chỉnh và triển khai kịp thời đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà
nước và các chỉ thị, nghị quyết, các chương trình, kế hoạch của Cấp ủy, chính
quyền và ngành cấp trên trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.
Trong quá trình thực hiện phải vận dụng linh hoạt và phù hợp với tình hình đặc
điểm của địa phương và của đơn vị. Làm tốt công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính
quyền xây dựng và ban hành những chương trình, kế hoạch, đề án, phương án cụ thể
nhằm biến các chủ trương, đường lối, chính sách thành hành động cách mạng của Đảng,
chính quyền vào thực tiễn của huyện. Thường xuyên tổ chức cho mọi đảng
viên, cán bộ, công chức của đơn vị được học tập quán triệt sâu sắc các Nghị quyết
của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng linh hoạt vào thực tiễn công tác chuyên môn để
đạt hiệu quả cao.
2. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và các
đoàn thể. Đảm bảo đủ năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao
Phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng củng cố tổ chức Đảng, các đoàn
thể vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi đường
lối chính trị, kinh tế - xã hội của Đảng trong mọi điều kiện và thời kỳ cách mạng.
Không ngừng đổi mới công tác sinh hoạt chi bộ nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Nêu cao vai trò trách nhiệm của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu Chi bộ, cơ quan
chuyên môn và các tổ chức đoàn thể của đơn vị. Không ngừng đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tích cực nhân rộng
các gương điển hình tiên tiến để tạo nên phong trào thi đua sâu rộng trong mỗi
đảng viên và công chức.
3. Thường
xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ngày càng trưởng thành và phát
triển, đảm bảo đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ trong tình
hình mới
Không ngừng chăm lo đào tạo bồi dưỡng, củng cố đội ngũ
cán bộ công chức cả về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị để có đủ năng
lực, lập trường chính trị, tư tưởng vững vàng nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới. Mọi cán bộ công chức phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Chính quyền và các sở, ngành cấp trên cũng như
lãnh đạo đơn vị; thường xuyên trau rồi, nâng cao ý thức đạo đức cách mạng, nắm
vững các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương
trình, kế hoạch và định hướng hoạt động của ngành, của Cấp ủy, Chính quyền và
đơn vị cũng như các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từ đó cụ thể hóa vào thực
tiễn công tác của mỗi cá nhân cũng như quá trình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Không ngừng quan
tâm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là những đồng chí nắm
giữ cương vị quản lý. Tổ chức tốt các hoạt động đào tạo, đào tạo lại và các
chương trình tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là các chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành, các ứng
dụng công nghệ thông tin v.v để trang bị những kiến thức, kỹ năng
mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành. Gắn việc đào tạo bồi dưỡng với việc áp dụng kiến
thức kỹ năng vào thực tiễn công tác để nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực
tiếp cận hoạt động chính trị, xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp và các kỹ
năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tăng cường giáo dục ý thức chính trị, mối đoàn kết và ý
chí cách mạng, nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn không sợ gian khổ hy sinh
cho đội ngũ cán bộ công chức. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ công chức phải có ý thức
học tập nâng cao trình độ, không ngừng cải tiến lề lối, tác phong làm việc một
cách khoa học. Không ngừng học hỏi nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác chuyên môn. Xây dựng tư duy, phương pháp làm việc khoa học,
hiệu quả. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của ngành phải làm tốt
vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương để tổ chức thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ được giao, từng bước đưa hoạt động xây dựng phát triển của huyện
Hoàng Su Phì có bước phát triển mới.
4. Phải
làm tốt công tác tuyên truyền vận động, huy động được mọi nguồn lực trong nhân
dân cho sự nghiệp phát triển của địa phương
Đúc rút những bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng như kinh nghiệm qua 67 năm trưởng thành và
phát triển của Phòng Kinh tế & Hạ tầng huyện Hoàng Su Phì cho thấy vai trò
to lớn của quần chúng nhân dân, bởi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Khi
nhân dân đã hiểu được chủ trương, đường lối của Đảng và đồng lòng thực hiện thì
mặc dù có nhiều khó khăn trở ngại nhưng có sức mạnh của quần chúng nhân dân thì
mọi chủ trương đường lối của Đảng đều trở thành hiện thực. Đặc biệt là trong
lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật thì càng phải có sự vào cuộc của
đông đảo quần chúng nhân dân với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Chú
trọng khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân để họ nhận thức được ý thức
trách nhiệm trong việc tham gia đóng góp nhân lực, vật lực phục vụ cho việc
tăng cường cơ sở vật chất, đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi công cộng. Từ
đó huy động được sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để tham gia vào công cuộc
xây dựng phát triển của địa phương.
5. Tăng cường nguồn
lực cho lĩnh vực xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng, chuyển
giao khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Do đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ của Phòng Kinh tế & Hạ
tầng được giao phụ trách các lĩnh vực quan trọng, mang tính chất động lực đối với
tất cả các ngành kinh tế - xã hội khác, là một trong những yếu tố cấu thành của
sự phát triển của huyện. Vì vậy, để phát triển đòi hỏi phải có sự quan tâm đầu
tư rất lớn về nguồn lực. Thực tế cho thấy trong quá trình phát triển và trưởng
thành của Phòng Kinh tế & Hạ tầng, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước
và chính quyền các cấp luôn quan tâm đầu tư hỗ trợ, bố trí nguồn lực một cách tối
đa trong điều kiện cho phép để Phòng có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao. Đặc biệt là từ khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập, hệ
thống kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng đã được Nhà nước,
chính quyền và các cơ quan, tổ chức quan tâm hỗ trợ, đầu tư xây dựng khang
trang và ngày càng hoàn thiện đã tạo lên một diện mạo mới cho huyện Hoàng Su
Phì. Nhiều sản phẩm nông lâm nghiệp từ khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ đã
được khâu nối tạo thành chuỗi giá trị, nâng cao được giá trị cho các sản phẩm
hàng hóa đặc trưng của huyện, từ đó đem lại thu nhập cho người dân. Mặt khác,
các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ được tăng cường áp dụng vào thực tiễn
đã góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao năng suất và chất lượng, tạo điều
kiện cho người dân. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước và các Cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức cá nhân cần tiếp tục quan tâm đầu tư nguồn lực để xây dựng
phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao khoa học
công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Với truyền thống vẻ
vang và kinh nghiệm được đúc kết qua 67 năm của Phòng Kinh tế & Hạ tầng, đặc
biệt là những bài học quý báu từ khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, có thể khẳng định rằng Phòng
Kinh tế & Hạ tầng sẽ có bước trưởng thành mới trong những chặng đường cách mạng tiếp theo,
tiếp tục thực hiện trọng trách là hạt nhân trong lĩnh vực Công nghiệp; tiểu thủ
công nghiệp; dịch vụ thương mại; giao thông vận tải; khoa học và công nghệ của địa
phương, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân các dân tộc trong huyện và sự tin tưởng mong đợi của Đảng bộ,
chính quyền huyện Hoàng Su Phì.
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ, PHÓ BÍ THƯ CHI BỘ QUA CÁC THỜI KỲ
I. Danh sách các đồng chí Bí thư
Chi bộ qua các thời kỳ
1. Đồng chí Ngô Lê Lợi
(7/2000 - 3/2005).
2. Đồng chí Trần Quốc
Huy (03/2005 - 6/2005; 11/2009 - 10/2015).
3. Đồng chí Vương
Kim Thành (7/2005 - 10/2009).
4. Đồng chí Vương
Văn Thắng (11/2015 - 11/2016; 01/2018 đến nay).
5. Đồng chí Hoàng
Đăng Thành (12/2016 - 12/2017).
II. Danh sách các đồng chí Phó
Bí thư Chi bộ qua các thời kỳ
1. Đồng chí Vương
Kim Thành (03/2005 - 05/2005).
2. Đồng chí Trần Quốc
Huy (8/2005 - 10/2009).
3. Đồng chí Lò Văn
Chinh (05/2020 đến nay).
DANH SÁCH CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO
PHÒNG VÀ CÁC CƠ QUAN TIỀN THÂN QUA CÁC THỜI KỲ
I. Các đồng chí Trưởng Phòng Giao thông Vận tải
1. Đồng chí
Vàng Dỉ Thàng (1955 - 5/1963).
2. Đồng chí
Vương Tiến Ba (6/1963 - 01/1978).
3. Đồng chí
Chúng Bắc Thông (2/1978 - 11/1981).
4. Đồng chí
Đỗ Đức Có (12/1981 - 7/1982).
5. Đồng chí
Ngô Lê Lợi (7/1982 - 10/1984).
6. Đồng chí
Hoàng Văn Nam (11/1984 - 4/1988).
II. Các đồng chí Phó trưởng Phòng Giao thông Vận tải
1. Đồng chí
Vương Tiến Ba (02/1960 - 5/1963).
2. Đồng chí Phúc
Văn Toản (5/1975 - 6/1982).
3. Đồng chí
Ngô Lê Lợi (9/1986 - 4/1988).
III. Các đồng chí Trưởng Phòng Xây dựng
1. Đồng chí
Lù Văn Sạch (1958 - 9/1974).
2. Đồng chí
Nông Văn Thượng (10/1974 - 11/1986).
3. Đồng chí
Nguyễn Thanh Xuân (12/1986 - 4/1988).
IV. Danh sách các đồng chí Phó trưởng Phòng Xây dựng
1. Đồng chí
Phúc Văn Toản (5/1965 - 5/1975).
2. Đồng chí
Nguyễn Văn Chí (6/1975 - 10/10/1981).
3. Đồng chí
Bùi Xuân Thu (11/1981 - 6/1984).
4. Đồng chí
Nguyễn Thanh Xuân (7/1981 - 11/1986).
V. Danh sách các đồng chí Trưởng Phòng sau khi được
sáp nhập và tái thành lập
1. Đồng chí
Ngô Lê Lợi (5/1988 - 11/1991; 4/1993 - 3/2005).
2. Đồng chí
Trần Quốc Huy (3/2005 - 11/2015).
3. Đồng chí
Vương Văn Thắng (11/2015 - 11/2016; 01/2018 đến nay).
4. Đồng chí Hoàng
Đăng Thành (12/2016 - 11/2017).
VI. Danh sách các đồng chí Phó trưởng Phòng sau khi
được sáp nhập và tái thành lập
1. Đồng chí
Trần Quốc Huy (2000 - 2/2005).
2. Đồng chí
Vương Kim Thành (6/2005 - 7/2009).
3. Đồng chí
Hoàng Văn Pao (11/2009 - 9/2010).
4. Đồng chí
Lại Trần Hà (12/2011 - 10/2015).
5. Đồng chí
Vương Văn Thắng (12/2011 - 10/2015).
6. Đồng chí
Vương Thị Nga (4/2013 - 7/2017).
7. Đồng chí
Lò Văn Chinh (5/2016 đến nay).
8. Đồng chí
Trần Trung Sơn (9/2018 - 7/2021).
MỘT SỐ THÀNH TÍCH THI ĐUA TIÊU
BIỂU
I. Huân chương
1. Huân chương kháng chiến
hạng Ba của Chủ tịch nước tặng đồng chí Vương Tiến Ba - Nguyên Trưởng Phòng
Giao thông Vận tải năm 1963.
2. Huân chương lao động hạng
Ba của Chủ tịch nước tặng đồng chí Ngô Lê Lợi - Nguyên Trưởng Phòng Giao thông
- Xây dựng năm 2010.
II. Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
1. Tập thể:
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng tập thể
cán bộ, công chức Phòng Công thương năm 2012.
2.Cá nhân:
Bằng khen của Thủ tướng chính
phủ tặng đồng chí Ngô Lê Lợi - Nguyên Trưởng Phòng Giao thông - Xây dựng năm 2009.
III. Bằng khen của các Bộ, ngành
1. Bằng khen của Bộ Giao thông
Vận tải tặng tập thể Phòng Giao thông Vận tải năm 1964; tặng cán bộ nhân viên
Phòng Giao thông Công nghiệp - Xây dựng năm 1996, 1997.
2. Bằng khen của Bộ Công thương tặng tập thể cán bộ, công chức Phòng Công thương năm 2010.
IV. Khen thưởng của UBND tỉnh Hà Giang
1. Tập thể
UBND tỉnh tặng danh hiệu Tập thể lao động xuất
sắc các năm 2001, 2002, 2003, 2009, 2010, 2011.
2. UBND tỉnh tặng bằng khen
đơn vị có thành tích xuất sắt năm 2009, 2011, 2012.
V. Khen thưởng của Ban Thường vụ Huyện ủy
1. Tập thể
Danh hiệu Chi bộ trong sạch
vững mạnh các năm 2011 - 2013; 2006 - 2008.
[1] Dân tộc Nùng chiếm 38%; Dao 20,2%; Mông
12,6%; Tày 15,3%; La Chí 6,1%; Kinh 4,4%; Hán 1,25%; Cờ Lao 1,6,%; Phù Lá 0,3%;
Cao Lan 0,14%; Mường 0,09%; còn lại là một số dân tộc khác chiếm tỷ lệ 0,07%.
[2] Lịch
sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2017), Xuất bản năm 2020. Tr 79.
[3] Văn kiện Đảng tập 21. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002.
[4]Văn kiện Đảng tập 26. Nxb Chính trị Quốc gia. H. 2002. Trang 619.
[5] Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lần thứ III diễn ra vào
ngày 26/7/1964. Đồng chí Nguyễn Văn Vĩnh được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.
[6] Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XII, nhiệm kỳ 1971 - 1973, ngày
23/11/1971 của BCH Đảng bộ huyện.
[7] Văn kiện Đảng tập 47. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 859.
[8] Văn kiện Đảng tập 50. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 467.
[9] Văn kiện Đảng tập 50. NXB Chính trị Quốc gia. 2007. trang 470, 471.
Trần Chí Nhân -Phó VP Huyện ủy Hoàng Su Phì-Hà Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét