(Nhà báo Hoàng Anh Sướng)
THẾ GIỚI TÂM LINH QUẢ LÀ RỘNG LỚN VỚI BIẾT BAO ĐIỀU HUYỀN BÍ NÍU KÉO CHÚNG TA TIẾP TỤC TÌM HIỂU, KHÁM PHÁ VÀ GIẢI MÃ?
Hôm nay, ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch, là ngày giỗ chị gái lớn của em – chị Hoàng Thị Nga. Em dậy từ sáng sớm, đi mua những bông hoa đẹp nhất để dâng lên chị. Em ngồi thiền, tụng kinh và hồi hướng công đức cho chị. Có điều, nếu như không gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Minh Ng., em sẽ hoàn toàn không biết rằng: em đã từng có một người chị tên Nga. Càng không biết rằng, tuy chỉ tồn tại trên cõi đời này vỏn vẹn mấy tháng trời và cuộc ra đi vĩnh viễn ấy đã 70 năm nhưng chị vẫn luôn dõi theo em, phù hộ cho em, nâng đỡ, che chở cho em mỗi khi em gặp sóng gió, vấp ngã. Chính cuộc gặp gỡ, trò chuyện với chị qua nhà ngoại cảm Minh Ng. đã cho em một niềm tin tuyệt đối: chết không phải là hết. Hai thế giới Âm – Dương tưởng là cách biệt nhưng hóa ra thật gần.
Xin mời các anh chị đọc phần viết về chị Hoàng Thị Nga của em trích trong tập phóng sự “Nhân quả và Phật pháp nhiệm màu” tập 3 đã phát hành năm 2021.
NHỮNG CUỘC GẶP GỠ KỲ LẠ HÉ LỘ VỀ NHỮNG CÁI CHẾT TRẺ
CỦA GIA ĐÌNH TÔI
Không biết bao nhiêu cuộc kiếm tìm như thế đã diễn ra. Chỉ biết từ khi tôi là một đứa trẻ lên 5 theo chân cha và mọi người đi tìm mộ cụ cho đến lúc tôi là một chàng trai 20 tuổi vai u thịt bắp, trực tiếp cầm thuốn thuốn từng xăng-ti-mét đất mà mộ cụ tôi vẫn nằm ẩn khuất đâu đó giữa cánh đồng Tử La mênh mông. Thêm một cuộc kiếm tìm là thêm một lần thất vọng. Cha tôi già sọp đi nhanh chóng. Khuôn mặt lúc nào cũng u uẩn. Năm 2003, cha tôi mắc bệnh trọng mất. Lời trăn trối cuối cùng ông nói với tôi trước khi ra đi, vẫn là chuyện tìm mộ cụ tổ: “Con hãy thay cha tìm mộ cụ. Dù vất vả, khó khăn đến mấy, cũng phải tìm. Nếu không, ở nơi suối vàng, cha không dám gặp cụ. Con hứa với cha đi!”. Thương cha, thấu hiểu nỗi niềm của cha, tôi gật đầu nhận lời, nước mắt chứa chan. Nhưng cha ơi! Cánh đồng mênh mông thế, mộ cụ ỏn sót thế, biết ở đâu mà tìm? Có khác gì mò kim đáy bể hả cha?
Công việc làm báo cuốn tôi đi. Thỉnh thoảng, nhớ đến cha, nhớ đến lời trăn trối cuối cùng ấy, tôi lại thấy băn khoăn, day dứt. Cũng mấy lần tôi tổ chức cho mọi người tìm kiếm. Nhưng cũng giống như trăm cuộc tìm kiếm trước, tất cả chỉ là vô vọng.
Cho đến một hôm, chị gái thứ hai của tôi, sinh sống ở Hà Đông, điện thoại bảo: “Cậu ơi! Hôm qua, chị vừa đi gọi hồn bố. Đúng lắm cậu ạ. Tất cả mọi chuyện trong gia đình mình, kể cả những chuyện thâm cung bí sử, đều trúng hết. Bố đang muốn gặp cậu đấy. Có một nhà ngoại cảm rất nổi tiếng ở Hải Dương tên là Nguyễn Thị Minh Ng. Anh bạn chị công tác ở Sở công an Hà Nội hay đón chị ấy lên. Hiện nay, chị ấy vẫn đang ở nhà anh ấy. Sáng mai cậu bố trí thời gian vào đi. Đưa cả mẹ vào nhé. Chắc bố có chuyện gì quan trọng muốn nói với cậu. Hơn nữa, gặp chị Ng., biết đâu, cậu lại có đề tài hay để viết phóng sự”. Trời! Lạ quá! Tim tôi bỗng đập thình thịch. Thấy hồi hộp xen lẫn háo hức. Từ bé đến lớn, tôi chưa từng đi xem gọi hồn bao giờ. Chỉ duy nhất một lần chứng kiến hồn trinh nữ Kim Oanh, vốn là cô gái Hà thành, vì thất tình đâm đầu xuống giếng đình làng tôi tự vẫn, nhập vào chị Hiền, người cùng xóm tôi, đúng hôm chị xuất ngũ về nhà. Tôi hỏi chị gái: “Thế thủ tục chuẩn bị những gì?”. Chị tôi bảo: “Sáng mai, trước khi rời nhà, cậu lên phòng thờ thắp hương gia tiên, thỉnh mời vong linh các cụ. Cậu muốn gặp ai thì khấn mời tên người đó. Cậu cũng đọc rõ địa chỉ nhà anh bạn chị để các cụ còn biết đường tìm đến”.
7h sáng hôm sau, mẹ con tôi đã có mặt ở nhà anh bạn chị tôi trong Hà Đông. Vậy mà đã có đến 30 người trầu chực ở đó từ bao giờ. Nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Minh Ng. ngồi giữa phòng khách. Mọi người ngồi vây xung quanh. Ai đến sớm, đăng ký trước thì gọi trước. Tôi đến muộn nên đành phải chờ. Ngồi quan sát, thấy nhà ngoại cảm Minh Ng. có một cơ chế làm việc hết sức đặc biệt. Không bàn thờ, không hương khói, không khấn nguyện, không gieo quẻ âm dương. Người đi gọi hồn ngồi trước mặt chị. Chẳng cần hỏi tên tuổi, địa chỉ, quê quán, chị nhìn vào khoảng không phía sau lưng người đó chừng vài phút rồi bảo: “Hôm nay, có cụ A, ông B, chị C… đi theo anh đấy. Anh muốn nói chuyện với ai trước?”. Nhiều trường hợp, chị còn miêu tả rõ hình dáng, tướng mạo, mặt mũi, đầu tóc của người đã mất cho người nhà dễ nhận. Và, khi người đi gọi hồn trình bày mong muốn gặp cụ A. trước, chỉ trong tích tắc, vong linh người đó nhập vào chị Ng. ngay. Lúc đó, chị Ng. không còn là chị Ng. nữa. Nói chính xác, lúc đó chỉ là thân xác chị Ng. còn giọng nói, tính tình, phong thái, cảm xúc là của người cõi khác. Vong linh người Nghệ An sẽ nói giọng Nghệ An. Vong linh người Huế sẽ nói giọng người Huế. Vong linh người Sài Gòn sẽ nói giọng Sài Gòn… Có vong linh lên còn nói tiếng Tàu. Phong cách người nào ra người đó. Đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em, người thô tục, kẻ đoan trang, người hiền hậu, kẻ ác độc… Lạ quá! Kinh ngạc quá! Với kẻ lần đầu tiên đi gọi hồn là tôi, thực sự bị choáng. Choáng hơn nữa khi những câu chuyện bí mật, riêng tư, thậm chí thuộc dạng “thâm cung bí sử” của những người còn sống, người âm đều biết hết, biết tường tận. Anh A. có vợ con đàng hoàng mà vẫn lén lút bồ bịch, có con riêng với một cô nạ dòng tận Sơn La. Cháu C. hôm bốc mộ bà nội, thấy cái nhẫn 2 chỉ trong quan tài đã lén lút giấu vào túi quần mang đi bán lấy tiền hút chích. Chị D. thời sinh viên yêu đương trác táng, nạo phá thai nhiều lần, có lần còn vùi thai nhi 6 tháng tuổi ở luống khoai lang sau ký túc xá nên sau này, lấy chồng đến 10 năm vẫn không thể có con, mặc dầu đã đi chạy chữa khắp các bệnh viện trong Nam, ngoài Bắc… Quan sát sự tương tác qua lại giữa người đi gọi hồn và vong linh, đặc biệt là những giọt nước mắt hối hận, những lời sám hối của người sống, không chỉ riêng tôi mà tất cả những người có mặt ở đó đều tin rằng: linh hồn là có thật, đều tin rằng: chết không phải là hết, đều tin rằng: những việc chúng ta làm, có thể giấu giếm được người đang sống chứ không thể che mắt được người âm.
Chờ mãi đến tận 4h chiều mới đến lượt tôi. Vừa ngồi xuống trước mặt chị Ng., chị đã kêu: “Trời! Sao các cụ nhà em kéo theo em đông thế. Em là con Cha con Mẹ chứ không phải là con người thường đâu”. Tôi chưa kịp hiểu ý chị nói gì thì chị đã bảo: “Bà cô tổ nhà em thiêng lắm. Bà đang đòi lên nói chuyện với em bây giờ”. Tôi toát mồ hôi hột. Người bỗng dưng lạnh ngắt. Nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch. Hồi hộp, căng thẳng quá. Tôi hít một hơi thật sâu rồi cúi đầu chờ đợi. Mới được vài giây, chợt nghe tiếng ai đó ngồi bên nhắc: “Kìa! Bà cô tổ nhà anh lên rồi. Anh chào bà đi”. Tôi ngẩng mặt lên. Giật mình. Chị Ng. trông khác quá. Không còn là người phụ nữ thôn quê chất phác, đen giòn, thô ráp. Trông chị giống như bức tượng đức Thánh Mẫu ở Miếu thờ làng tôi. Mặt hồng hào, má, môi bừng đỏ, mắt sáng. Toàn thân toát ra một năng lượng nhân từ, bình an. Nhìn tôi trìu mến, bà mỉm cười, cất tiếng hỏi, giọng thanh thoát, khoan thai, khác hẳn cái giọng nặng chình chịnh, ngọng nghịu của chị Ng.: “Con biết ta là ai không?”. Tôi chắp hai bàn tay thành búp sen trước ngực, ấp úng: “Dạ! Con.. con chào bà cô tổ ạ”. Bà cười hiền: “Con không biết ta. Nhưng ta thì biết con quá rõ. Bởi chính ta đã mang con về cho gia đình họ Hoàng. Chính ta đã che chở, bao bọc, nâng đỡ con từ lúc đỏ hỏn cho đến tận ngày hôm nay. Con còn nhớ năm 13 tuổi, con suýt chết đuối trên sông Đáy khi đi tập bơi cùng đám bạn không? Con còn nhớ buổi chiều tối rằm Trung thu năm 1996, thằng Tiến bạn con đèo con xe máy từ Hà Đông về quê, đến thị trấn Kim Bài đâm vào chiếc xe ô tô đi ngược chiều, con bay lên không trung như chiếc lá rồi rơi huỵch xuống đường mà không hề xây xước gì không? Rồi những chuyến con theo chân các chiến sĩ thuộc phòng cảnh sát phòng chống tội phạm ma túy sở công an Thanh Hóa đi phá án những điểm nóng buôn bán ma túy ở Mường Lát, Thọ Xuân, Quan Hóa. Súng đạn bắn như mưa như thế mà con không hề hấn gì. Ai cũng khen con tài, dũng cảm. Không đâu con. Họ nhầm đấy. Không có ta và các cụ nhà ta đi theo che chắn, nâng đỡ thì con làm gì còn sống đến ngày hôm nay để ngồi đây mà trò chuyện với ta”. Trời! Những chuyện bà cô tổ tôi vừa nhắc đúng quá, chính xác quá, chính xác đến cả thời gian, địa điểm. Kỳ lạ thật! Sao bà lại biết hết, biết tường tận những chuyện ấy nhỉ? Người tôi run bắn lên. Nước mắt ứa ra. Cổ họng nghẹn lại. Kính cẩn chắp tay, tôi nói: “Con biết ơn bà đã luôn theo con, yêu thương con, bảo vệ con. Vậy bà có thể cho con biết, bà là ai không ạ để con còn biết đường thờ cúng?!”. “Ta là Hoàng Thị Mão”. Trời! Tôi lại giật thót mình như có luồng điện chạy dọc sống lưng. Da gà hai tay nổi lên, tóc dựng ngược. Từ nhỏ, tôi đã được nghe cha tôi kể về bà. Bà là em ruột ông nội tôi, mất lúc 6 tháng tuổi do mắc bệnh đậu mùa. Cụ nội tôi đã đặt bà vào chiếc rương gỗ nhỏ cùng 9 đồng tiền trinh, chôn trên gò Khoang, trước cửa chùa. Ngày ấy, do mộ đắp đất sơ sài, giữa hàng trăm ngôi mộ khác, lại chẳng có bia đá nên sau này nấm mộ bị thất lạc, con cháu không biết đích xác nấm mộ nào là của bà? Hàng năm, mồng 4 Tết, đi tảo mộ, cha tôi vẫn bày lễ, thắp hương giữa gò, khấn vọng bà. Mồng 5 tháng 5 âm lịch, ngày bà mất, mẹ tôi vẫn làm cơm cúng. Thật chẳng tin nổi, có ngày, người đã mất ngót 100 năm khi mới 6 tháng tuổi, lại đang ngồi trò chuyện cùng tôi, hơn thế, lại biết hết mọi chuyện về tôi. Bà bảo, bà đi hầu các Ngài nhưng vẫn luôn dõi theo tôi, phù hộ cho tôi. “Mỗi người sinh ra ở đời đều có một sứ mệnh. Sứ mệnh của con kiếp này là truyền bá đạo. Không lâu nữa, con sẽ phải gánh vác sứ mệnh này. Các Ngài sẽ dẫn đường chỉ lối con đi”. Câu nói ấy của bà khiến tôi sững người. Lạ nhỉ! Mình đang làm nghề báo, chuyên viết phóng sự điều tra, suốt ngày lang bạt kỳ hồ. Đâu có phải ông thầy tu mà bà cô tổ lại bảo mình đi truyền bá đạo? Kỳ quá! Nhưng cho đến bây giờ, khi đang ngồi viết những dòng chữ này kể chuyện hầu quý vị, tôi thấy, lời tiên tri ấy của bà cô tổ đã linh ứng.
Dặn dò tôi một hồi, bà cô tổ quay sang mẹ tôi, bảo: “Con có nhớ con Nga, con gái đầu của con không? Nó đang ngồi khóc thút thít ngoài sân kia kìa. Rõ khổ! Nó đi theo con từ sáng đấy. Nhưng tủi thân, không muốn gặp. Để ta gọi nó vào đây nói chuyện với con nhé”. Tôi ngỡ ngàng nhìn mẹ tôi. Mặt bà tái dại. Trán vã mồ hôi. Nước mắt lưng tròng. Lạ nhỉ! Cha mẹ tôi sinh được 7 người con. Làm gì có ai tên là Nga? Cũng chẳng thấy cha mẹ tôi nhắc đến cái tên ấy bao giờ. Đang băn khoăn suy nghĩ, tôi chợt nghe tiếng chị Ng. khóc òa. Ngẩng mặt lên nhìn chị, tôi giật mình. Không phải khuôn mặt hồng hào, đôi mắt sáng với thần thái uy nghi như tượng Đức Thánh Mẫu mà tôi vẫn thường chiêm bái ở miếu làng. Cũng không phải chị Ng. với dáng vẻ phốp pháp, chân quê. Trước mắt tôi, đích thị là một đứa trẻ đang tủi thân, dỗi hờn, khóc nức khóc nở, nước mắt nước mũi giàn giụa. Tôi hiểu, bà cô tổ tôi đã đi và cô bé tên Nga đã nhập vào nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Minh Ng.
Mẹ tôi toàn thân run lên. Bà mím chặt môi cố kìm nén cơn xúc động. Bà lết về phía chị Ng,, giơ hai tay ôm chặt chị vào lòng. Bà òa khóc: “Mẹ xin lỗi con, con ơi! Mẹ cứ nghĩ con mất lúc mấy tháng tuổi thì sẽ sớm đầu thai. Mẹ biết đâu con vẫn ở dưới ấy, vẫn đi theo mẹ”. Chị Ng. càng khóc dữ hơn. Vừa khóc, vừa nói, giọng ngọng líu ngọng lô: “Con thương mẹ. Con nhớ mẹ. Lúc nào con cũng đi theo mẹ và em Sướng. Hôm nay, con định không lên đâu. Nhưng bố con dỗ mãi, con mới lên. Bố con bảo: Thôi đừng trách người dương. Họ vô minh, đâu có biết chết không phải là hết. Linh hồn mãi còn. Giận người dương thì có mà giận suốt ngày”.
Qua cuộc trò chuyện đong đầy nước mắt giữa mẹ tôi và nhà ngoại cảm Minh Ng., bức màn bí mật về cô bé tên Nga dần được hé lộ. Chị Nga là chị gái đầu của tôi. Cha mẹ tôi sinh chị năm 1953. Chị bụ bẫm, trắng trẻo, xinh xắn. Cả nhà ai cũng yêu quý, tranh nhau bế. Được 5 tháng tuổi thì chị mắc bệnh tả. Miệng nôn trôn tháo suốt buổi sáng. Đến trưa thì lả đi. Người èo uột như một dải khoai, chân tay lạnh ngắt. Cậu ruột mẹ tôi, là thầy lang nổi tiếng, đến bắt mạch, lắc đầu thở dài. Cha tôi dứt một sợi tóc, đặt ngang lỗ mũi chị rồi căng mắt nhìn, nín thở. Một phút. Hai phút. Ba phút. Không thấy sợi tóc lay động. Ông òa khóc. Cậu ruột mẹ tôi vơ vội manh chiếu rách, bó chị tôi tròn lại rồi chặt cây tre non, pha ra làm lạt, buộc chặt ba nút. Ông nhét chị vào chiếc túi cói đựng muối cha tôi để ở góc nhà rồi xách thẳng ra thửa ruộng nhà tôi sát chân đê chôn. Ông bảo: “Phải đem chôn gấp cháu ạ kẻo lây ra cả nhà”.
Mẹ tôi đau khổ cùng cực. Chiều nào, bà cũng chạy ra đồng ôm lấy ngôi mộ mà khóc. Chẳng ăn, chẳng ngủ, đầu tóc xõa xượi như người điên. Bà nội tôi an ủi: “Thôi con ạ. Con Nga nó không đủ phước, đủ duyên làm người nhà ta thì nó sẽ đầu thai làm con nhà người khác. Con cứ ra mộ ôm ấp, khóc than như thế, nó quyến luyến không đi đầu thai được đâu”.
Một năm sau cái chết của chị Nga, mẹ tôi sinh được chị gái lớn của tôi bây giờ là Hoàng Thị Oanh rồi đẻ một lèo 7 đứa. Quanh năm suốt tháng bươn bả kiếm sống nuôi 8 miệng ăn, nỗi đau mất chị Nga nguôi ngoai dần. Nấm mồ ỏn sót của chị cũng bị mưa nắng thời gian bào mòn. Chị Nga trách: “Sao ngày ấy bố mẹ không chôn con bằng cài hòm gỗ đựng quần áo ở trong buồng, lại nhét con vào cái bị cói đựng muối khiến cho bố con sau này suốt ngày bị ngứa chân tay”. Tôi và mẹ tôi ớ người ra. Thảo nào khi còn sống, cứ mùa hè đến là cha tôi khổ sở vì bị bệnh ngứa tay chân. Uống thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc Tây đủ thứ mà không khỏi. Chị Nga cười: “Mộ con bây giờ nằm sát chân đê, gần phiến đá to màu xanh. Bữa trước, anh Khang để đống tre nứa đè lên mộ con. Con giận, đẩy cho một cái, ngã lăn bon từ trên đê xuống. Đến bây giờ, anh ấy vẫn không biết vì sao mình bị ngã”. Tôi và mẹ tôi cùng lúc đưa mắt nhìn nhau rồi mỉm cười. Quê tôi nằm giáp làng Chuông nổi tiếng về nghề nón. Người dân quê tôi chuyên sản xuất vành nón để cung cấp cho làng Chuông. Anh Khang, bằng tuổi chị gái lớn của tôi, con ông Quý, chuyên lên Hòa Bình chở tre nứa về quê bán. Anh thường chất đống ở bờ đê, sát thửa ruộng, nơi chị Nga tôi nằm.
Trước khi chia tay, chị Nga có nói một câu khiến mẹ tôi lại òa khóc: “Cháu Tuấn, con cậu Vui, gửi lời hỏi thăm bà. Cháu nó trách bố mẹ không quan tâm gì đến nó, thậm chí, nấm mộ nó cũng để mất. Nó hiện đang ở với con và dì Thu (Chị Thu, người chị thứ 4 của tôi chết năm 19 tuổi vì bệnh ung thư). Cháu nó ngoan. Vẫn thường hay đi theo chú Sướng để bảo vệ chú”. Tuấn là con trai đầu của anh trai tôi, tên Hoàng Nghĩa Vui. Mẹ cháu sinh cháu ở Bệnh viện huyện. Do sinh thiếu tháng, phổi cháu yếu nên phải đưa ra cấp cứu ở Bệnh viện nhi Thụy Điển. Hai ngày sau, cháu mất. Giấy khai sinh cháu chưa kịp làm, tên chưa kịp đặt. Mẹ tôi là người ôm xác cháu từ Bệnh viện trở về. Bà vừa khóc, vừa bảo: “Thương cháu quá, phận mỏng, không đủ duyên ở với bà. Bà đặt tên cháu là Hoàng Minh Tuấn nhé”.
Sau khi linh hồn chị Nga tôi rời khỏi thân xác nhà ngoại cảm Minh Ng, rất nhiều vong linh khác trong dòng tộc nhà tôi đã nhập vào chị, trong đó, có những người tôi không thỉnh mời lúc thắp hương ở nhà, thậm chí, có người tôi chưa từng gặp. Ví như ông nội tôi. Ông mất khi bố tôi mới tròn 2 tuổi. Hay ông Hoàng Nghĩa Sinh, một người trong dòng tộc nhà tôi, hoạt động du kích. Năm 1953, ông bị giặc Pháp bắt. Tra tấn, đánh đập đủ kiểu, ông không khai, chúng bèn kê cổ ông lên bậc thềm đình làng, chặt đầu ông rồi bêu đầu lên cành đa ngoài chợ. Dù đó là những người tôi chưa từng gặp song tất cả những việc tôi làm, thậm chí, những điều tôi nghĩ, họ đều biết. Chẳng hạn như chuyện tôi chuẩn bị lên chức Trưởng đại diện Tạp chí Thế Giới Mới tại Hà Nội. Thời điểm đó, tôi đang làm phóng viên Tạp chí Thế Giới Mới ở Hà Nội. Anh Tổng biên tập trong Sài Gòn có đề nghị tôi làm Trưởng đại diện phía Bắc nhưng tôi từ chối. Tôi bảo anh: “Em vốn là người không màng đến địa vị, công danh. Em chỉ thích viết phóng sự thôi”. Nhưng ngày nào anh cũng điện thoại nài nỉ, thuyết phục. Nể tình anh, tôi bảo: “Thôi được, anh để em suy nghĩ thêm đã”. Điều này, tôi không tâm sự với ai. Vậy mà, khi vong linh ông nội tôi vừa nhập vào chị Nguyệt, câu đầu tiên ông nói là một lời trách yêu: “Cháu của ông sắp lên chức mà còn bí mật thế?” khiến tôi giật mình kinh hãi. Tôi chợt ngộ ra một điều: Hóa ra, người âm không chỉ biết hết những việc ta làm mà những điều ta sắp làm, những điều ta đang suy nghĩ, họ cũng biết.
Người cuối cùng nhập vào chị Nguyệt lên trò chuyện với tôi là cha tôi. Trước mặt tôi lúc đó không phải là nhà ngoại cảm Minh Ng. nữa mà đích thị là cha tôi. Từ dáng ngồi, phong thái, giọng nói đến khẩu khí, đến thói quen hút thuốc lào, đến cái tật hay đằng hắng giọng trước khi nói… khiến tôi òa khóc nức nở. Bao nhiêu thương nhớ, bao nhiêu xót xa khiến tôi chỉ biết bưng mặt khóc, không nói nên lời. Vẫn là tình yêu thương vô bờ bến, vẫn là những lo lắng của người cha dành cho con: “Con ơi! Làm việc vừa thôi! Thức đêm vừa thôi. Con ở một mình, ốm đau, ai là người chăm. Chịu khó nấu cơm ở nhà. Ăn ngoài nhiều, không tốt đâu. Đại tràng của con đang có vấn đề đấy. Mà nhà con dạo này nhiều chuột quá. Dịp Tết vừa rồi, bố phải ở nhà đuổi chuột suốt cho con”. Câu nói ấy của cha càng làm tôi khóc to hơn. Cha ơi! Khi sống, cả đời cha đã lo lắng, hy sinh cho con. Giờ chết rồi, cha vẫn tiếp tục hy sinh, lo lắng. Thương quá cha ơi!
Câu chuyện cuối cùng cha muốn trao đổi với tôi là vấn đề tìm mộ cụ tổ 6 đời, điều mà khi còn sống, ông đã thao thức không yên. Cha tôi bảo: “Bố đã gặp cụ rồi. Cụ không trách móc, hờn giận gì khiến bố cũng bớt ân hận, áy náy. Có điều, việc tìm mộ cụ, không phải hễ muốn là được, phải đủ duyên. Con cứ tích cực làm việc nghĩa, tạo phước. Các cụ sẽ dẫn đường, chỉ lối cho con. Khi nào đủ duyên, ắt sẽ tìm được mộ cụ”.
Cuộc gọi hồn kết thúc lúc 7h tối. Suốt 3 tiếng đồng hồ, biết bao cuộc gặp gỡ, biết bao nhiêu bí mật trong gia tộc mà nếu không có nhà ngoại cảm Minh Ng., tôi vĩnh viễn không bao giờ biết. Đêm đó, về nhà, tôi không tài nào chợp mắt được. Toàn bộ cuộc gọi hồn của buổi chiều hôm ấy, như những thước phim quay chậm, cứ hiện lại trong tâm trí tôi. Niềm tin của tôi vào sự tồn tại của thế giới người âm, thế giới tâm linh ngày càng củng cố vững chắc. Tôi bắt đầu hiểu rằng: Vì sao phong tục tảo mộ ngày mồng 4 Tết lại tồn tại hàng ngàn năm ở quê tôi? Vì sao mồ mả tổ tiên lại quan trọng thế trong đời sống tâm linh người Việt? Số phận của một gia đình, dòng họ thịnh hay suy, giàu hay nghèo, sướng hay khổ, phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả tổ tiên. Nhưng tại sao linh hồn lại có thể tác động đến cuộc sống của những người còn sống? Sự liên hệ, tác động vô hình giữa mồ mả ông bà, tổ tiên đến cuộc sống của con cháu trên trần gian thực sự như thế nào? Còn rất nhiều câu hỏi, rất nhiều bức màn bí ẩn của thế giới tâm linh cần phải tìm hiểu, cần phải khám phá và giải mã.
Còn nữa....
(Nhà báo Hoàng Anh Sướng)